Vượt Luân Hồi Vào Tịnh
Ðộ
Thích Phổ Huân
---o0o---
Chương VI
BỒ ÐỀ TÂM
quyết định sự vãng sanh của hành giả
niệm Phật
Người tỉnh thức bấy giờ quá đổi vui mừng không
sao kể xiết; gặp ai cũng cố khuyên nên niệm Phật, nên lo vãng sanh Cực
Lạc, nên xem thường đời sống giả tạm này, và nên tìm về đời sống vĩnh
hằng tự tại vượt siêu mọi chướng ngại đối đãi của các pháp hữu vi.
Một số
người nghe theo liền thực hành, lại một số dè dặt nghi ngờ sự thật, và
điều làm kẻ tỉnh thức phải lưu tâm, là một số cho rằng pháp tu quá dễ
như vậy, mà đây gọi là Pháp huyền diệu, sâu nhiệm sao!!!
Người tỉnh
thức giựt mình! Nhưng, tri ân ghi nhận điều nghi ngờ này! Vì đã khơi dậy
vào tâm bao duyên xưa quá khứ.
Từ một kẻ
say ngủ, người đã lạc loài trong điên đảo vọng tưởng, trong vọng thức mê
tình, trong cuồng si nghiệp báo, nên chẳng nhận ra quay về phát tâm học
Phật - rồi khi học Phật lại phải nghi ngờ hằng bao kiếp, nên chẳng thể
vói tay đụng vào thật cảnh để kết quả mịt mờ vô định trong biển khổ trầm
luân.
Học Phật mà
vẫn còn vô minh, chuyện vẫn là sự thật! Nếu không, sao ta phải sinh đi
sinh lại, kết duyên rồi buông duyên, nhận quả rồi buông quả!
Pháp Phật
muôn đời chân lý (giải thoát), chỉ người không hiểu sinh ra nông nỗi vậy
thôi! Nhưng đôi khi, vì nghi ngờ giáo pháp lại giúp người mở mắt sáng
ra!
Ở đời, nếu
ai nói gì tin vậy, mà không hỏi vì sao, thế nào, làm sao học hỏi chi
được!
Hỏi tức là
học, và do nghi mới hỏi. Cho nên nghe rằng, nghi nhỏ hiểu nhỏ, nghi lớn
hiểu lớn.
Pháp tu
vượt thoát luân hồi qua danh hiệu Phật quả thật dễ dàng, tuy thế pháp tu
dễ mà ngoài Phật nói ra, lại không một ai biết! Không ai biết vậy có dễ
không!
Chính Phật
biết điều khó này, nên khi nói ra đã phải nhấn mạnh "...Xá Lợi Phất
cùng với các ông đây (vô số Thánh phàm Tăng, và Trời, người) đều
nên tin lời ta và lời của chư Phật thuyết" (...Xá Lợi Phất nhữ
đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết).
Phật tự nói
đã là đầy đủ, lại còn minh chứng thêm rằng, chư Phật ở phương khác cũng
đều nói như Ngài vậy.
Bây giờ
người tỉnh thức nhận ra rằng, vì quá sốt sắng buộc người tin, huống nữa
tin một pháp môn khó tin nhất, nên người ta mới e dè, nghi ngại như vậy.
Việc có
được sáng tõ, là phải biết niệm Phật để làm gì! Khi biết để làm gì,
những nghi ngại so sánh trên đường tu sẽ được giải tỏa.
Niệm Phật
được vãng sanh về Cực Lạc, đó là câu trả lời quá thường tình, không chút
suy nghĩ.
Về Cực Lạc
làm gì ?
Ðể tiếp con
đường tu cho đến thành Phật rồi độ chúng sanh. Ðây là điểm quan yếu nhất
mà người niệm Phật phải biết và cũng chính đây lại chỉnh trang, sửa sai
quan điểm cho rằng niệm Phật chẳng có gì cả, và tệ hơn lại cho pháp môn
này quá dễ, nên không tin, không đáng học.
Hẳn biết,
tất cả phương tiện sinh hoạt trong thế gian đều nhất quán phục vụ cho
con người sinh tồn trong xã hội. Từ đó theo từng khía cạnh phương diện
vấn đề, mà liên hệ sinh ra bao số công việc nhịp nhàng diễn tiến, điều
khiển đời sống con người ngày phát triển hơn. Tuy vậy, chung quy phải
lấy nền tảng tinh thần mang tính thiện để tồn sinh, đó là chân lý hài
hòa đời sống.
Cũng vậy
giáo lý giải thoát mà đức Thế Tôn dạy, lấy nền tảng Giới, Ðịnh, Huệ làm
phương tiện đi đến giải thoát; nhưng lý tưởng giải thoát phải phát xuất
bằng tâm Bồ Ðề tức tâm làm Phật.
Xét cho
cùng, trong Phật pháp, không một pháp môn nào ngoài ba môn học này
(Giới, Ðịnh, Huệ) mà được giải thoát; lại nói cho cùng phải có tâm cầu
thành Phật mới khỏi lạc mất tâm Bồ Ðề.
Thế thì
niệm Phật là một pháp môn trong 84000 pháp môn cũng không ra ngoài chân
lý ấy. Cho nên niệm Phật, mà thiếu Bồ Ðề Tâm không thể đi về cõi Phật.
Và vậy pháp môn niệm Phật này có sâu hay cạn, dễ hay khó, đối với hành
giả niệm Phật cũng phải phát Bồ Ðề Tâm; đây là việc đáng ghi nhất mà
người niệm Phật phải biết. Nói tóm lại người tu các pháp môn khác như
Thiền, Mật, Luật... cũng chẳng thể thiếu Bồ Ðề Tâm mà thành tựu được.
Vậy ra vấn đề nói dễ hay khó, tin hay không tin, sẽ biến mất nơi đây, vì
tất cả hành giả ai là người con Phật phải cùng nhau phát BỒ ÐỀ TÂM để
thành Phật cứu chúng sanh.
Niệm
Phật thế nào gọi là phát Bồ Ðề Tâm?
Trước hết
nên hiểu thêm về Tâm, và thế nào gọi là tâm Bồ Ðề!
Tâm được
giảng theo chuyên môn bác học như môn Duy thức quá tinh vi, khúc chiết,
chẳng hạn gọi là Tâm vương và tâm sở. Tâm vương là tám thứ tâm, gọi là
"Bát thức tâm vương", như: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức,
Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức
Tâm
sở gọi đủ tên là "Tâm sở hữu pháp", Tâm sở này được khám phá, phân định
đến năm mươi mốt (51) thứ, được lập thành sáu nhóm có tên: Biến hành,
Biệt cảnh, Thiện, Bất thiện, Tùy phiền não, Bất định.
Những thứ
này mang hành tướng nghiệp dụng tâm lý tinh thần và thể chất của con
người một cách phức tạp, tinh vi.
Và Tâm
vương lại là nơi sai khiến chúng, nhưng lại có khi bị chúng gây mê! Có
thể hiểu tám thứ Tâm này (Bát Thức Tâm vương), là nơi khởi lên sự liên
hệ chằng chịt, gây ra nguyên nhân dấy tác nghiệp thiện, ác của một chúng
sanh.
Ðại khái
theo nghĩa triết học Duy thức là vậy, tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản,
chỉ có hai phần: Vọng tâm và chơn tâm.
Con người
chúng ta đã say sưa bám theo uẩn thân từ vô số kiếp, nên chẳng thể tỏ rõ
được chân tâm, đành sống với vọng tâm ngũ uẩn. Nhưng chân tâm cũng nhờ
ngũ uẩn thân mà hiện hữu, và sự hiện hữu này lại quá vi tế, quá mầu
nhiệm sâu xa nên khó thể nghĩ bàn, do đó một số người không tin là ngoài
cái thân thô kệch và cái tư tưởng kiến thức (vọng tưởng {tâm} điên đảo)
này lại còn cái gì nữa!. Nhưng lạ lùng thay chính ngay cái biết (thức)
như vậy, dù là cái không tin, họ đã đi gần đến chân tâm, lý do họ đang
gần như đứng ngoài chủ thể và đối tượng tư tưởng mà thẩm định. Tuy nhiên
cái biết hãy còn rất mờ, vì chưa thể dùng tâm vô phân biệt, tâm không
đối đãi qua nhận thức các pháp đều do duyên sinh và cũng do duyên diệt.
Vậy hỏi ai
đã được chân tâm? Tất nhiên chơn tâm khó nhận diện, khó đạt thành; chỉ
có các vị chứng đạo mà thôi.
Vấn đề rõ
ràng là tất cả đều nhờ vào việc học Phật mà suy ra. Nếu không ta lấy đâu
làm nguyên tắc tiêu chuẩn để học và hành, nhận diện được chân tâm!
Kết lại,
những gì của tư tưởng hành động ngược lại hướng đi giải thoát, đây là do
vọng tâm sai khiến; và những gì xuôi thuận theo giải thoát là chân tâm
vậy. - Thế thì chân tâm sẽ xuất hiện dưới mọi hành tướng mà không phân
biệt người tu tại gia hay xuất gia.
Ðến đây đã
thấy chân tâm là Bồ Ðề Tâm, là tâm hướng về giải thoát; tâm cầu thành
Phật để độ chúng sanh.
Hành giả
niệm Phật dù chẳng thể nhất tâm trong mỗi thời niệm, nhưng ý tưởng tâm
niệm độ sanh khi thành tựu đạo nghiệp nơi Liên cảnh, chắc chắn sẽ là lực
tác động vững vàng cho con đường vãng sanh Cực Lạc.
Ngược lại
niệm Phật chỉ có cầu sanh Cực Lạc mà không có ý nguyện thành Phật độ
sanh, sẽ là trở ngại cho phẩm cao nơi Liên cảnh. Cũng từ đó có thể dễ
dàng rơi vào cõi người hay cõi thiên hưởng phước hữu lậu, nếu giờ phút
cuối không xác định được niệm lực của mình là duy chỉ độ sanh.
Sở dĩ phải
cầu thành Phật độ sanh khi công phu niệm Phật, do vì thế giới Cực Lạc
thuần chất Bồ Ðề Tâm, là nơi chư vị thượng thiện nhân bất thoái chuyển
hay nói đúng hơn là nơi của chư Phật tương lai - chính do đồng hành tâm
niệm Bồ Ðề như thế mới hòa hợp một chỗ, và đó là tương hợp với hạnh
nguyện Phật A Di Ðà.
Vậy phát Bồ
Ðề Tâm niệm Phật là dùng tâm lực và Phật lực; tâm lực là công phu tinh
tấn chuyên nhất vào sự hành trì của hành giả, Phật lực cũng là nguyện
lực của chính hành giả, chuyển từ tâm thô của một chúng sanh tục nhiễm
hướng về chân tâm mầu sáng của Ðức Phật A Di Ðà, để hòa quyện thành thế
giới nhiệm mầu thanh tịnh, đó chính là thế giới Cực Lạc vậy.
Ðại lược
như trên trình bày, đó là lý mầu tự tâm theo nghĩa của Bồ Ðề Tâm giải
thoát; nhưng sự sâu nhiệm bằng tâm Từ Bi hiện ngay cảnh giới khổ đau này
lại càng giúp ta phát mạnh thêm Bồ Ðề Tâm.
Hành giả
niệm Phật trong cảnh giới phiền trược, chắc chắn phải vì nhận thức cuộc
đời là khổ. Do hiểu như thế mới cầu sanh thế giới Tịnh. Nhưng sự nhận
thức khổ đây, lẽ nào hành giả không khởi từ bi tâm khi nhìn thấy hành
giả là một trong muôn người khổ! Trong muôn sự khổ kia lại càng khổ hơn
nếu chẳng biết được có một thế giới để quay về. Thông cảm như vậy hành
giả càng tinh tấn niệm Phật vì thấy muôn người đang đau khổ, khổ hơn cả
chính mình.
Hành giả
quan sát gần hơn, thấy rằng bao nhiêu sự tranh chấp của con người trong
thế giới trược phiền này, càng làm nỗi khổ chỉ có tăng mà không giảm,
thấy như thế hành giả lại quyết chí niệm Phật nhất tâm hơn.
Hành giả
quan sát thêm nữa về những chúng sanh không phải là người, nỗi khổ này
thật càng cay nghiệt đáng thương hơn; hành giả càng niệm Phật không
ngừng.
Tóm lại tất
cả vì từ bi thương nghĩ đến mọi người mọi vật mà niệm Phật càng tinh
tấn; để có thể cứu cánh vãng sanh, quay về cụ thể hóa niềm thương nghĩ
đó.
Người chưa
hiểu nguyên lý pháp tu niệm Phật thường hay ngộ nhận, cho niệm Phật, ích
kỷ chỉ cầu riêng mình sanh Cực Lạc, chẳng đoái tưởng đến người khác !.
Ðiều này
không cần xác định thêm nữa về tâm nguyện của người niệm Phật, vì chỉ
cần Bồ Ðề Tâm nói lên đủ nguyện lực của hành giả niệm Phật rồi.
Việc người
niệm Phật chiếu cái nhìn từ bi đến muôn loài chúng sanh, trong đó có
luôn cả hành giả, tất nhiên phải là cái chiếu nhìn trí huệ.
Từ bi phải
có trí huệ mới là từ bi của Phật. Thương người chỉ thương trong nhất
thời bồng bột, trong biến dịch của tư duy thô thiển, cái thương đó không
phải trí huệ.
Thương
người đúng với chánh pháp, vẫn là cái thương bình thường qua xúc cảm
tinh thần, qua vật chất thỏa hợp, nhưng những tác dụng này phải mở bày
ra sự thật của chân lý; phải cho người thương thấy được mặt thật cuộc
đời, và sự mầu nhiệm của con người giác ngộ ý thức được sự thật này. Ðó
là cái thương sáng suốt và trí huệ của người tu Phật, và nơi đây, chính
là cái thương của người niệm Phật vậy.
Khi hành
giả càng quán chiếu vào đời sống chúng sanh đa dạng, càng phát được Bồ
Ðề Tâm, đó là sự mầu nhiệm của người niệm Phật. Vì sao? Vì cảnh tượng
muôn hình muôn dạng, do tâm thức biến hiện chiêu cảm ra (Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức); nói cho dễ hiểu vì nghiệp duyên quá phức tạp
của từng loại chúng sanh mang trong người muôn động niệm. Cho nên cảnh
trí mới muôn màu muôn vẽ, chúng sanh mới đủ loại dị hình. Cũng như do
chánh báo, y báo của thế giới này, duy vì nặng dục ái mà ra, thành thử
phải khổ nhiều hơn vui.
Vì dục ái
vốn từ ba độc Tham, Sân, Si nên chúng sanh ở đây khó lòng sáng suốt giác
ngộ, khó lòng thoả mãn thèm khát, thế đó trở thành cảnh giới khổ nhiều
hơn vui .
Nhìn được
như thế người niệm Phật càng phát tâm sợ cho cái tâm thức phiêu lưu này,
và cảnh trí khổ đó nào đâu ra ngoài tâm thức! Thế càng sợ thì càng
thương cho muôn loài chúng sanh, cuối cùng càng phát tâm Bồ Ðề để sớm
cứu độ chúng sanh.
Cái biết của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân, của ý
thức, của thức thứ bảy, và thức thứ tám.
---o0o---
Mục Lục
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII
Chương
VIII
|
Chương IX
|
Chương X