Vượt Luân Hồi Vào Tịnh
Ðộ
Thích Phổ Huân
---o0o---
Chương VII
Niệm Phật đi vào đời
Ðới
nghiệp vãng sanh
Người tỉnh
thức mỉm cười chiêm nghiệm lại cuộc đời đã qua; từ khi còn là kẻ lang
thang đây đó trong ba cõi, sáu đường, rồi mệt nhoài tỉnh thức quờ quạng
tìm được con đường tương đối sáng, để dần dần tiến đến ngày nay và giờ
đây thấy được ánh sáng vàng tuyệt đối
Tâm người
tỉnh thức dào dạt niềm hân hoan, niềm hỷ lạc của Bồ Ðề giác ngộ. Giác
ngộ cuộc đời và giác ngộ giáo lý.
-Giác
ngộ cuộc đời:
Là những
chuổi thời gian kết nối nhau vô tận; là những cảnh tượng không gian mắc
dính theo thời gian thay đổi đến vô chung.
Thời gian
và không gian là những gì của khái niệm mà ý thức con người đặt định ra;
qua đó nó được quan sát nhận định là lớn, nhỏ, xa, gần diễn tiến theo
hoàn cảnh tâm cảnh con người.
Không gian,
thời gian cõi Ta Bà này đặt định tùy thuộc vào vị trí, tầm cở kích thước
của trái đất, và sự hiện hữu của mặt trời, trong quỹ đạo hấp dẫn nhau
gọi là Thái dương hệ. Và giả dụ cõi Ta Bà chúng ta đổi lại vị trí, cũng
như chu vi diện tích của Mộc Tinh (Jupiter)
vậy thời gian và không gian lại thay đổi hẳn so với hiện nay. Chừng đó
cái nhìn về cuộc đời có thể khác hơn! Tuy nhiên dù con người ở Mộc tinh
có khác con người ở đây thế nào, cũng không ra ngoài chân lý khổ. Bởi
vì, thế giới đó vẫn còn trong cõi dục.
Thế thì
cuộc đời được quan niệm thế nào cũng chẳng ra ngoài vòng lẩn quẩn của
Thành, Trụ, Hoại, Không; tức cái chu kỳ quỹ đạo của những hành tinh quay
quanh mặt trời rồi có ngày cũng chấm dứt. Hoặc chấm dứt vì trái đất lệch
đi đường quay, hoặc đường quay chưa lệch mà bị thiên thạch hay vật lạ
ngoài không gian làm cho lệch, hay mặt trời thay đổi vị trí đột ngột,
bởi vì mặt trời cũng vẫn là những ngôi sao lang thang trong vũ trụ mà
thôi.
Ðánh giá
cuộc đời thế này thế kia chỉ là những kiến thức đối đãi tùy cảnh tùy tâm
mà ra; dù nó được hội ý, đồng tình với hết những con người trên trái đất
này, nó vẫn không là gì cả, khi nói đến chân lý tột cùng của sự vô
thường sinh diệt. Nhưng con người lại tuyệt vời siêu việt, ý thức được
chân lý này, nên vẫn có thể tiếp nhận hay từ chối trong sự thăng hoa đời
sống.
-Giác
ngộ giáo lý
Ðời sống
văn minh nhân loại ngày nay đã minh chứng, và đạo giáo lại nói lên sự
vượt bực của văn minh tinh thần.
Trong những
nền văn minh đạo giáo của nhân loại, một số người lại tìm thấy một đạo
giáo văn minh vượt trên tất cả. Nhưng đạo giáo này lại không cho mình là
vượt trên hết, vì tự giáo lý của đạo này nói lên điều đó!
Ðiểm chính
của đạo giáo đó, không thể tách ly với con người, nghĩa là có người thì
có, không người không có!. Tuy nhiên phương tiện hành động đạt đến đích
thành tựu của đạo giáo này rất tinh vi quyền biến, và kết quả đạt được
cũng muôn vàn, do thế người hành theo có thể tùy vào khả năng và trí huệ
đều được thỏa đáng.
Ðạo giáo đó
là đạo giác ngộ, là đạo Phật.
Thật tình
mà nói, đạo Phật không phải là tôn giáo, cũng không phải triết học, chỉ
đơn giản là một pháp học giúp người nhìn rõ cuộc đời và con người trong
sự thật chính nó, qua tiến trình tư duy sáng suốt, từ đó hành động đạt
đến hạnh phúc rốt ráo.
Ðiều này cụ
thể rõ ràng, không chút gì huyền hoặc mê tín.
Tuy nhiên
nền tảng đạo Phật là từ bi, nên tùy duyên thế giới thế nào, mà xuất hiện
thế đó để tùy thuận độ sanh. Ðiều này nói đến việc du hành của chư Bồ
Tát nhập cuộc vào đời. Như là, chúng sanh đang khát vọng, ngưỡng cầu một
nơi thờ phượng qua ảnh tượng Thánh thần, qua hành động lễ cúng van xin;
Bồ Tát liền nhập cuộc để làm duyên tiếp độ
Và bao giờ
thấy được thời duyên, liền giảng giải - Bồ Tát sẽ khai thị chánh pháp
đưa chúng sanh quay về tự tánh, khiến chúng sanh đó tự biết thế nào là
đạo trạng thanh tịnh. Nếu có chúng sanh nào vào được đạo tràng thanh
tịnh tự tâm, bấy giờ Bồ Tát lại từ bi khai phóng cho chúng sanh đó vào
thêm đạo tràng của chân như tuyệt đối, tức tỉnh ngộ ra tất cả chỉ là
phương tiện. Cuối cùng Bồ Tát sẽ chuyển tâm "Bồ Tát mới phát tâm" làm
tâm Phật để cùng nhau hành động như mọi người nhưng trong chánh pháp
nhiệm mầu, huyền diệu.
Thế nên
chưa nhận rõ pháp mầu của Phật, ta hay ngộ nhận những nghi thức, lễ nghi
mà cho không khác tôn giáo thờ lạy, van xin!
Ðạo Phật
lại càng chẳng phải là những ngôn từ văn chương, những kỹ thuật chuyển
vận ngữ văn theo một cấu trúc văn điệu có tính cách tận dụng đề cao trí
thức diễn đạt ngôn ngữ con người, mà hay thường gọi là triết lý. Ðiều
này chỉ có ích cho cuộc sống qua một vài khía cạnh, duy trì làm đẹp văn
hóa. Tuy nhiên đạo Phật cũng không phủ nhận và tất nhiên đã biết, đạo
Phật xuất hiện từ con người, từ nhân sinh quan trong đời sống, do vậy
tất cả định nghĩa cho triết học cũng phải quay về mà hành động theo giáo
lý giải thoát. Và tuyệt nhiên nếu nhìn về nhân sinh, vũ trụ chỉ bằng
ngôn từ hay ra ngoài chân lý nhân quả, duyên sinh, vô ngã... thì chẳng
phải là đạo Phật, tức chẳng giúp gì được con người thoát khỏi luân hồi
đau khổ, ngược lại chỉ rối rắm thêm trong cái vòng lẩn quẩn vốn đã rối
ren.
Trong niềm
tư duy đó, người tỉnh thức nhận ra niệm Phật là cách dễ nhất đi vào đời.
Người niệm Phật quan sát thấy rằng, từ xưa con người ngoài những việc
phát triển kiến tạo, mưu sinh như lịch sử từ hàng thế kỷ qua, nay lại
chẳng khác gì! Rồi tương lai hàng lớp thế hệ trẻ lại tiếp tục. Ðiều đó
có phải vì, người trước hay người nay chưa bao giờ quay lại chính mình
để tìm thấy một thế giới Phật; thế giới thanh tịnh, niết bàn! Nếu thế
giới vật chất được mãi xây dựng thành tựu là do phát xuất manh nha từ
tâm ý, thì thế giới siêu vật chất, đó là thế giới tâm linh cũng không
ngoài phát sinh từ tâm ý con người mà ra.
Niệm Phật
là manh nha cho mình ý tưởng xây dựng thế giới siêu vật chất; niệm Phật
mãi mãi là cụ thể hóa thế giới tâm linh, sẽ biến hiện ngay con người một
thế giới an lạc và bình an trong lòng. Thế giới thanh tịnh tâm, là thế
giới bình an lưu xuất bên ngoài con người niệm Phật.
Bao nhiêu
người biết niệm Phật, thì bấy nhiêu người được bình an.
Có phải
chúng ta đã bất an trong đời sống! Có phải chúng ta ao ước được yên
thân!
Ðiều này
nói lên đời sống đã không thanh tịnh nơi tự tâm rồi. Chỉ có niệm Phật
mới giải quyết được những dằn vặt bất an trong đời sống; chỉ có niệm
Phật mới toại nguyện được niềm ao ước vĩnh hằng.
Nhưng điều
gì đã làm con người bất an?
Ta đã thấy
ngay câu trả lời căn bản, là do thế giới nhiễm ô này.
Một khi
hoàn cảnh không chân thật, không nhẹ nhàng thanh tịnh, chúng sanh sống
trong hoàn cảnh đó tất phải không an. Thế giới đó không tránh khỏi thiên
tai đe dọa.
Thiên tai
trù dập vào đời sống như: núi lửa phát phún, sóng thần cuốn hút, động
đất lấp vùi, lũ lụt cuốn trôi, hay nắng khô đồng cháy...thế đó cũng đã
quá khổ, nhưng còn cái khổ bên trong nào đâu thua kém.
Chúng ta dư
thấy ở thế giới văn minh giàu có số người tự vận, quyên sinh chẳng kém
gì các nước lạc hậu. Và lạ thay kẻ tự vận có khi lại là triệu phú hay
đang trong danh vọng cao sang. Sự thể như vậy, cho thấy bên trong người
ấy hết sức kinh động đến mức không thể chịu đựng đành tìm cái chết! Tìm
hiểu đoán được, họ có thể vì thất bại phá sản nơi thương trường, hay lỡ
làm việc gì ô danh, nhục tiếng, do thế đau thương, hay nhục nhã mà quyên
sinh.
Nhưng cũng
không hiếm trường hợp tự vận chết đi vì những dằn vặt nội tình chưa đến
nỗi phải trầm trọng như trên. Và đau thương hơn, chỉ vì thấy đời không
thú vị nữa nên không thích sống!
Những nỗi
bất an bên trong như thế là quá rồi, và còn lại vô số người như chúng ta
vẫn đang đối diện và chịu đựng bao bất an khác! Dù chúng không đến nổi
xúi giục ta chết đi, nhưng vẫn đủ sức giết lần ta, nghĩa là ta sống
trong sự héo mòn đau khổ, và cuối cùng dẫn ta tái sanh đến hằng kiếp.
Một vài bất
an thường tình mà ta phải đối diện như: không toại nguyện sống với người
thương, không ưng lòng sống với người ghét, và không thuận lòng vừa ý
những gì mong đợi.
Chỉ ba điều này thôi đời sống đã không an rồi.
Ðó là những
bất an trong đời, mà hễ là người tất phải đối diện.
Nhưng xưa
nay vẫn xuất hiện các vị Thánh, sống trong hoàn cảnh và tâm cảnh như
chúng ta mà chẳng bao giờ phải bất an! Do vì chư vị biết niệm Phật trong
tâm.
Ðây muốn
nói, dù bao nhiêu pháp tu khác nhau nhưng chẳng khác gì niệm Phật. Ðứng
về mặt tướng, còn có tọa thiền, tụng kinh, niệm chú, nhưng về mặt tánh
thì nhất quán, trừ hoặc hiển chơn, tồi tà phụ chánh (trừ phiền não phát
trí chân, dẹp tà ngụy xiển dương chánh pháp).
Ngồi thiền
là an thân, để tâm được định và cứu cánh nhận rõ bộ mặt mình, quay về
với chân tánh là chân như là Phật tánh.
Tụng kinh,
niệm chú, niệm Phật là đọc, niệm lên pháp ngữ, mật chú, danh hiệu Phật
để thanh tịnh lắng nghe mà nghiêm thân tịnh ý, để rồi tâm được an và cứu
cánh thân tâm hòa vào lời kinh, mật chú, danh hiệu Phật như hòa vào chân
tánh Như Lai.
Chính lẽ đó
thế gian vẫn còn nhiều người an tâm do thực hành tha thiết lời Phật dạy.
Vậy nơi đây nếu hành giả niệm Phật luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh, hành
giả đã đi lần đến con đường chư Thánh đi.
Tiếc rằng
nhiều người không duyên nên chẳng tin niệm Phật.
Niệm Phật
lại chẳng khó, và điều để tin rằng ta sẽ niệm Phật được luôn luôn là do
chính tâm ta vô thường; chính tâm ta vô thường, nên dù tâm có vọng tưởng
đến đâu, nó vẫn có lúc ngừng nghỉ, vì không thể vọng tưởng hoài; và ngay
lúc nghỉ này ta liền nhớ câu niệm Phật!
Vấn đề lại
đưa ra, làm sao ta nhớ niệm Phật!
Vì sợ làm
sao ta nhớ, nên ta phải tập cho nhớ, tức phải niệm Phật ngay bây giờ;
ngay khi thức tỉnh cuộc đời như đã quán sát - thức tỉnh rằng, pháp môn
đang đeo đuổi đây, là pháp thù thắng hợp với thời đại nguyên tử ngày
nay.
Khi tâm
hằng ghi nhớ danh hiệu Phật, hành giả vừa giảm được nỗi bất an thường
tình, vừa chuyển hóa vào tâm niềm an lạc. Công hiệu và thần lực của danh
hiệu Phật có thể chuyển tâm thức ta về thế giới Thanh tịnh, xá gì lại
không chuyển nỗi những bất an thường tình hiện tại! Do vì ta chưa đặt
hết niềm tin vào Phật lực để hóa thành tâm lực nên còn vướng động vọng
niệm để kết quả chưa đủ duyên hiện ứng.
Hành giả
niệm Phật vào đời, nhất định lạc quan vui vẻ; không vì thấy rõ cuộc đời
là bất an rồi sinh tâm cầu thoát ly xa lánh. Dù rằng việc niệm Phật cấp
bách, công phu ngày đêm, vẫn hợp cho việc thoát ly, tuy nhiên phẩm vị
vãng sanh cao, chắc chắn cho người phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật. Chung quy
lại người niệm Phật vào đời vẫn được vãng sanh, không khác gì nhập thất
tịnh tu một chỗ.
Với lý tánh
tâm nguyện Bồ Ðề, hoàn cảnh nào cũng không trở ngại, cho nên phải phát
tâm Bồ Ðề mà hành mọi Phật sự; do đó nên hiểu người nhập thất mà không
phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật chưa chắc đã được phẩm cao, bằng người đi vào
đời niệm Phật phát Bồ Ðề tâm . Vậy hành giả nào vì nghiệp duyên chưa thể
dứt bỏ thế tục, vẫn an nhiên thực hành pháp tu niệm Phật mà chẳng lo
rằng ta được vãng sanh hay không!
Ðới
nghiệp vãng sanh.
Nhân đây
người niệm Phật lại nghĩ, những hành nghiệp thiện, ác cùng lúc không
ngừng phát ra khi niệm Phật! Và đây là vấn đề nói đến sự kiện Ðới Nghiệp
Vãng Sanh
Chính nơi
nghĩa " Ðới nghiệp vãng sanh" mới thấy, niệm Phật là tuyệt diệu pháp
môn. Nói như thế vẫn không mâu thuẩn, trong ý niệm tất cả pháp tu đều
đưa về nhất quán, thanh tịnh thân tâm, giải thoát luân hồi. Nhưng thực
tế liễu thoát sinh tử một đời, thì việc dễ, khó, hiện thể rõ ràng khác
nhau ở mọi pháp tu.
Người tu
Thiền, tất nhiên ai cũng hiểu phải trải qua cấp bực giải thoát từng
phần, để đoạn dần kiến tư hoặc; rồi mới đắc quả vị Thánh. Khi đã thành
Thánh việc tu vẫn còn gian nan, bởi vì có tới tứ Thánh quả. Và khi giải
quyết tứ quả xong, bây giờ vị Thánh đó bắt đầu chuyển qua con đường Bồ
Tát để hành Bồ Tát đạo là đoạn đường cuối thành Phật - tất nhiên đối với
quả Thánh Vô Sanh (đã đắc tứ quả) việc hành đạo so với ta thật dễ muôn
lần, nhưng đó là so với ta, chứ quả vị Phật hãy còn dài, do vậy mà thấy
trong kinh, Phật phải dùng mọi phương tiện nhắc nhỡ quý Ngài tiếp tục tu
,
nếu không lại ngỡ mình đã đến đích (thành Phật).
Cho nên
trình độ chứng đạo nào cũng cần nên gần Phật; đến những vị có túc duyên
gặp Phật trong quá khứ, nhưng vì một nghịch duyên nào đó mà chưa thành,
phải chịu rơi vào thế giới không Phật, vị này có thể tu đến quả Bích Chi
(Duyên Giác: quán 12 nhân duyên), nhưng lại phải cần sự xuất hiện của
Phật, thì nhân duyên chứng đạo Vô thượng mới thành, nếu không cũng dễ
lầm, rằng đã đến đích (Phật quả).
Thế thì
thiền định mà chưa đạt quả Thánh thì chỉ là phước báo của nhơn thiên, mà
quả giải thoát chỉ gieo vào duyên xa chưa biết chừng nào. Ðiều này mới
thấy, trong kinh thường tả vô số Bồ Tát thường hiện diện trong lần Phật
thuyết kinh, để chỉ mong sớm học được giải thoát.
Vậy thì
niệm Phật là giải quyết ngay vấn đề gần Phật, và cầu thành Phật ở tại
bất cứ thế giới nào.
Khi nương
tựa vào Phật, tâm không rời, tất nhiên ta đã thiết lập cho mình Phật tại
tâm, để cuối cùng sanh đi nơi nào cũng còn chủng tử Phật.
Nhưng pháp
tu niệm Phật, Phật Thích Ca dạy, kết quả của hành giả niệm Phật sẽ được
vãng sanh về cõi Cực Lạc A Di Ðà.
Phật lại
dạy, bất cứ thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào khi lâm chung tâm không tán
loạn niệm được mười câu hiệu Phật sẽ được vãng sanh; đây bao gồm cả cư
sĩ và tu sĩ. Thế thì cho thấy còn có pháp môn nào vượt qua được sự mầu
nhiệm này.
Do vậy
người cư sĩ chẳng cần phải lo vị trí của mình chưa thanh tịnh, chưa yên
ổn, chưa nhất tâm v.v...Ðiều mà hành giả cư sĩ đáng lo, là có phát được
Bồ Ðề Tâm hay không!
Ðới nghiệp
vãng sanh, không phải nhấn mạnh vào giới cư sĩ mà nói chung cả hai giới,
vì khó ai có thể dứt khoát được một đời tịnh nghiệp mà vãng sanh, cho
nên không rơi vào thô thì cũng tế. Người tu sĩ trọn một đời tu đến ngày
ra đi vẫn chưa thể giải quyết được những bất thiện nhân-nghiệp trong một
đời, dĩ nhiên là bất thiện vi tế; do đó nếu nói phải sạch nghiệp mới
vãng sanh thì ai lại làm được! Cho nên trừ nghiệp tội thật ác (ngũ trọng
tội) ra, khi lâm chung biết sám hối đều được vãng sanh về cõi Phật.
Ðây chúng
ta thấy, do nguyện lực của Phật A Di Ðà và diệu dụng thần lực của tự tâm
chính ta, nên hoán chuyển tức khắc cảnh giới tự tâm, để hòa hợp vào cảnh
giới Phật mà khoảnh khắc được vãng sanh.
Tuy nhiên,
dù đứng trên mặt lý nhận định thật rõ ràng, và sự vẫn xãy ra như thật,
vậy mà số người được vãng sanh chẳng thấy là bao! Lý do hoặc người niệm
Phật ỷ lại, hoặc giờ phút cận tử nghiệp gặp chướng duyên!
-Ỷ lại,
mình sẽ mang nghiệp vãng sanh nên hay tạo nghiệp bất thiện; dù bất thiện
này không nghiêm trọng, nhưng khiến tâm thức xem nhẹ câu niệm Phật để
giờ lâm chung không thể tha thiết nhất tâm.
Nghiệp bất
thiện đây liên hệ đến việc, quên mất Bồ Ðề Tâm, tỉ dụ xem thường việc ăn
chay, việc bố thí giúp người, hay nói lời vọng ngữ.
-Chướng
duyên vào giờ phút lâm chung, có thể đến từ người trong gia đình hay bạn
bè thân quyến. Thay vì khuyên ta niệm Phật, hoặc niệm Phật cho ta nghe,
ngược lại chỉ gợi lên những việc thế gian luyến ái buồn thương, hoặc
khơi nhắc chuyện đau thương làm ta xúc động quên mất câu niệm Phật.
Xét cho
cùng, do chính người niệm Phật chủ động chứ chẳng để ai quyết định cho
mình; khi đã hiểu ÐỚI NGHIÊP VÃNG SANH là thù thắng, thì ngay trong lúc
lâm bệnh phải có chuẩn bị sắp xếp, có thế mới thắng được chướng duyên.
Người cư sĩ
vì gia duyên thế sự ràng buộc, nhưng nếu giữ được tâm niệm hằng thẩm vào
sự cầu sanh về thế giới thanh tịnh, thì danh hiệu Phật dù niệm ít vẫn
hằng chuyển mạnh vào tâm. Và muốn giữ được tâm niệm sâu như vậy, tất
phải ý thức việc làm, sự sống của mình hiện tại. Phải xem rằng tất cả
những tác nghiệp này trong công việc hiện tại, đều ngoài ý mình muốn,
nhưng vì đã lỡ duyên nghiệp đời sống nên phải giải quyết, hành xử.
Ngoài ý
muốn, nghĩa là không muốn những nghiệp nhân này ngày một dính mắc; không
muốn phải tiếp tục mâu thuẩn vừa tạo thiện lại tạo bất thiện, duy chỉ có
cái muốn là dứt luân hồi, dứt vay nghiệp, để được sanh về thế giới Vô
Lượng Quang. Ðiều đó mới là ý muốn, còn lại hiện thời, tất cả ngoài ý
muốn.
Như thế
công phu niệm Phật của hành giả cư sĩ này, dù niệm ít nhưng lại thẩm
sâu, và tất nhiên chỉ chính hành giả này biết rõ hơn ai.
Lại thêm
một điều mầu nhiệm, có thể giải quyết luôn việc ngoài ý muốn đó mà chẳng
chút gì là ngoài hay trong. Nghĩa là hành giả cư sĩ niệm Phật này, vừa
thầm niệm cầu sanh Tịnh Ðộ, vừa giới thiệu pháp tu đến mọi người, như
thể tạo thêm công đức giúp hoằng dương giáo pháp Phật Ðà, và nhất là
pháp tu tối thắng mà hành giả đang âm thầm thực hiện.
Vậy thì bao
việc làm đó, hẳn nhiên trở thành phương tiện đem giáo pháp mầu nhiệm đến
gần chúng sanh hơn, và ngày ra đi của hành giả chắc mọi người sẽ ngạc
nhiên, sao lại vãng sanh được; trong khi với người hiểu được Niệm Phật
đới nghiệp vãng sanh sẽ thấy sự thật phải là như vậy! Và hơn ai hết
chính hành giả niệm Phật sẽ mỉm cười nơi Liên Ðài Lạc cảnh.
Mộc tinh:
một trong chín hành tinh quay chung quanh mặt trời; là hành tinh lớn
nhất trong thái dương hệ chúng ta. Thời gian ngày đêm ngắn hơn Trái
đất, nhưng một năm thì gấp 12 lần, tức 12 năm ở quả đất.
Giáo
lý cao siêu vượt lên tất cả được diễn giải trong Kinh Kim Cang: Kinh
chỉ người biết, kẹt chấp vào ngã và pháp là chướng ngại trên đường
giải thóat, nên người đắt đạo chẳng cho mình đắc đạo mới là đắc đạo!
Ðoạn kinh nói lên điều huyền diệu như sau: -Tu Bồ Ðề, ý
của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Ðà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng
quả Tư Ðà Hàm không ? Tu Bồ Ðề bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, không
thể được. Vì sao ? Vì vị Tư Ðà Hàm gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật
không có vãng lai, nên gọi là Tư Ðà hàm ". (dịch giả Thích Thiện
Thanh)
Kinh Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm,
nói lên điều này.
Một trong những bát khổ: Sinh, lão, bệnh,
tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí
thạnh khổ.
Kinh Pháp Hoa - Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy.
---o0o---
Mục Lục
Chương I
|
Chương II
|
Chương III
Chương IV
|
Chương V
|
Chương VI
|
Chương VII
Chương
VIII
|
Chương IX
|
Chương X