Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Tịnh Độ


......... .

 

Vượt Luân Hồi Vào Tịnh Ðộ

Thích Phổ Huân

---o0o--- 

Chương VII

Niệm Phật đi vào đời

Ðới nghiệp vãng sanh

Người tỉnh thức mỉm cười chiêm nghiệm lại cuộc đời đã qua; từ khi còn là kẻ lang thang đây đó trong ba cõi, sáu đường, rồi mệt nhoài tỉnh thức quờ quạng tìm được con đường tương đối sáng, để dần dần tiến đến ngày nay và giờ đây thấy được ánh sáng vàng tuyệt đối 

Tâm người tỉnh thức dào dạt niềm hân hoan, niềm hỷ lạc của Bồ Ðề giác ngộ. Giác ngộ cuộc đời và giác ngộ giáo lý.

-Giác ngộ cuộc đời:

Là những chuổi thời gian kết nối nhau vô tận; là những cảnh tượng không gian mắc dính theo thời gian thay đổi đến vô chung.

Thời gian và không gian là những gì của khái niệm mà ý thức con người đặt định ra; qua đó nó được quan sát nhận định là lớn, nhỏ, xa, gần diễn tiến theo hoàn cảnh tâm cảnh con người.

Không gian, thời gian cõi Ta Bà này đặt định tùy thuộc vào vị trí, tầm cở kích thước của trái đất, và sự hiện hữu của mặt trời, trong quỹ đạo hấp dẫn nhau gọi là Thái dương hệ. Và giả dụ cõi Ta Bà chúng ta đổi lại vị trí, cũng như chu vi diện tích của Mộc Tinh (Jupiter) [1] vậy thời gian và không gian lại thay đổi hẳn so với hiện nay. Chừng đó cái nhìn về cuộc đời có thể khác hơn! Tuy nhiên dù con người ở Mộc tinh có khác con người ở đây thế nào, cũng không ra ngoài chân lý khổ. Bởi vì, thế giới đó vẫn còn trong cõi dục.

Thế thì cuộc đời được quan niệm thế nào cũng chẳng ra ngoài vòng lẩn quẩn của Thành, Trụ, Hoại, Không; tức cái chu kỳ quỹ đạo của những hành tinh quay quanh mặt trời rồi có ngày cũng chấm dứt. Hoặc chấm dứt vì trái đất lệch đi đường quay, hoặc đường quay chưa lệch mà bị thiên thạch hay vật lạ ngoài không gian làm cho lệch, hay mặt trời thay đổi vị trí đột ngột, bởi vì mặt trời cũng vẫn là những ngôi sao lang thang trong vũ trụ mà thôi.

Ðánh giá cuộc đời thế này thế kia chỉ là những kiến thức đối đãi tùy cảnh tùy tâm mà ra; dù nó được hội ý, đồng tình với hết những con người trên trái đất này, nó vẫn không là gì cả, khi nói đến chân lý tột cùng của sự vô thường sinh diệt. Nhưng con người lại tuyệt vời siêu việt, ý thức được chân lý này, nên vẫn có thể tiếp nhận hay từ chối trong sự thăng hoa đời sống.

-Giác ngộ giáo lý       

Ðời sống văn minh nhân loại ngày nay đã minh chứng, và đạo giáo lại nói lên sự vượt bực của văn minh tinh thần.

Trong những nền văn minh đạo giáo của nhân loại, một số người lại tìm thấy một đạo giáo văn minh vượt trên tất cả. Nhưng đạo giáo này lại không cho mình là vượt trên hết, vì tự giáo lý của đạo này nói lên điều đó!  [2]

Ðiểm chính của đạo giáo đó, không thể tách ly với con người, nghĩa là có người thì có, không người không có!. Tuy nhiên phương tiện hành động đạt đến đích thành tựu của đạo giáo này rất tinh vi quyền biến, và kết quả đạt được cũng muôn vàn, do thế người hành theo có thể tùy vào khả năng và trí huệ đều được thỏa đáng.

Ðạo giáo đó là đạo giác ngộ, là đạo Phật.

Thật tình mà nói, đạo Phật không phải là tôn giáo, cũng không phải triết học, chỉ đơn giản là một pháp học giúp người nhìn rõ cuộc đời và con người trong sự thật chính nó, qua tiến trình tư duy sáng suốt, từ đó hành động đạt đến hạnh phúc rốt ráo.

Ðiều này cụ thể rõ ràng, không chút gì huyền hoặc mê tín.

Tuy nhiên nền tảng đạo Phật là từ bi, nên tùy duyên thế giới thế nào, mà xuất hiện thế đó để tùy thuận độ sanh. Ðiều này nói đến việc du hành của chư Bồ Tát nhập cuộc vào đời. Như là, chúng sanh đang khát vọng, ngưỡng cầu một nơi thờ phượng qua ảnh tượng Thánh thần, qua hành động lễ cúng van xin; Bồ Tát liền nhập cuộc để làm duyên tiếp độ [3]

Và bao giờ thấy được thời duyên, liền giảng giải - Bồ Tát sẽ khai thị chánh pháp đưa chúng sanh quay về tự tánh, khiến chúng sanh đó tự biết thế nào là đạo trạng thanh tịnh. Nếu có chúng sanh nào vào được đạo tràng thanh tịnh tự tâm, bấy giờ Bồ Tát lại từ bi khai phóng cho chúng sanh đó vào thêm đạo tràng của chân như tuyệt đối, tức tỉnh ngộ ra tất cả chỉ là phương tiện. Cuối cùng Bồ Tát sẽ chuyển tâm "Bồ Tát mới phát tâm"  làm tâm Phật để cùng nhau hành động như mọi người nhưng trong chánh pháp nhiệm mầu, huyền diệu.

Thế nên chưa nhận rõ pháp mầu của Phật, ta hay ngộ nhận những nghi thức, lễ nghi mà cho không khác tôn giáo thờ lạy, van xin! 

Ðạo Phật lại càng chẳng phải là những ngôn từ văn chương, những kỹ thuật chuyển vận ngữ văn theo một cấu trúc văn điệu có tính cách tận dụng đề cao trí thức diễn đạt ngôn ngữ con người, mà hay thường gọi là triết lý. Ðiều này chỉ có ích cho cuộc sống qua một vài khía cạnh, duy trì làm đẹp văn hóa. Tuy nhiên đạo Phật cũng không phủ nhận và tất nhiên đã biết, đạo Phật xuất hiện từ con người, từ nhân sinh quan trong đời sống, do vậy tất cả định nghĩa cho triết học cũng phải quay về mà hành động theo giáo lý giải thoát. Và tuyệt nhiên nếu nhìn về nhân sinh, vũ trụ chỉ bằng ngôn từ hay ra ngoài chân lý nhân quả, duyên sinh, vô ngã... thì chẳng phải là đạo Phật, tức chẳng giúp gì được con người thoát khỏi luân hồi đau khổ, ngược lại chỉ rối rắm thêm trong cái vòng lẩn quẩn vốn đã rối ren. 

Trong niềm tư duy đó, người tỉnh thức nhận ra niệm Phật là cách dễ nhất đi vào đời. Người niệm Phật quan sát thấy rằng, từ xưa con người ngoài những việc phát triển kiến tạo, mưu sinh như lịch sử từ hàng thế kỷ qua, nay lại chẳng khác gì! Rồi tương lai hàng lớp thế hệ trẻ lại tiếp tục. Ðiều đó có phải vì, người trước hay người nay chưa bao giờ quay lại chính mình để tìm thấy một thế giới Phật; thế giới thanh tịnh, niết bàn! Nếu thế giới vật chất được mãi xây dựng thành tựu là do phát xuất manh nha từ tâm ý, thì thế giới siêu vật chất, đó là thế giới tâm linh cũng không ngoài phát sinh từ tâm ý con người mà ra.

Niệm Phật là manh nha cho mình ý tưởng xây dựng thế giới siêu vật chất; niệm Phật mãi mãi là cụ thể hóa thế giới tâm linh, sẽ biến hiện ngay con người một thế giới an lạc và bình an trong lòng. Thế giới thanh tịnh tâm, là thế giới bình an lưu xuất bên ngoài con người niệm Phật.

Bao nhiêu người biết niệm Phật, thì bấy nhiêu người được bình an.

Có phải chúng ta đã bất an trong đời sống! Có phải chúng ta ao ước được yên thân!

Ðiều này nói lên đời sống đã không thanh tịnh nơi tự tâm rồi. Chỉ có niệm Phật mới giải quyết được những dằn vặt bất an trong đời sống; chỉ có niệm Phật mới toại nguyện được niềm ao ước vĩnh hằng.

Nhưng điều gì đã làm con người bất an?

Ta đã thấy ngay câu trả lời căn bản, là do thế giới nhiễm ô này.

Một khi hoàn cảnh không chân thật, không nhẹ nhàng thanh tịnh, chúng sanh sống trong hoàn cảnh đó tất phải không an. Thế giới đó không tránh khỏi thiên tai đe dọa.

Thiên tai trù dập vào đời sống như: núi lửa phát phún, sóng thần cuốn hút, động đất lấp vùi, lũ lụt cuốn trôi, hay nắng khô đồng cháy...thế đó cũng đã quá khổ, nhưng còn cái khổ bên trong nào đâu thua kém.

Chúng ta dư thấy ở thế giới văn minh giàu có số người tự vận, quyên sinh chẳng kém gì các nước lạc hậu. Và lạ thay kẻ tự vận có khi lại là triệu phú hay đang trong danh vọng cao sang. Sự thể như vậy, cho thấy bên trong người ấy hết sức kinh động đến mức không thể chịu đựng đành tìm cái chết! Tìm hiểu đoán được, họ có thể vì thất bại phá sản nơi thương trường, hay lỡ làm việc gì ô danh, nhục tiếng, do thế đau thương, hay nhục nhã mà quyên sinh.

Nhưng cũng không hiếm trường hợp tự vận chết đi vì những dằn vặt nội tình chưa đến nỗi phải trầm trọng như trên. Và đau thương hơn, chỉ vì thấy đời không thú vị nữa nên không thích sống!

Những nỗi bất an bên trong như thế là quá rồi, và còn lại vô số người như chúng ta vẫn đang đối diện và chịu đựng bao bất an khác! Dù chúng không đến nổi xúi giục ta chết đi, nhưng vẫn đủ sức giết lần ta, nghĩa là ta sống trong sự héo mòn đau khổ, và cuối cùng dẫn ta tái sanh đến hằng kiếp.

Một vài bất an thường tình mà ta phải đối diện như: không toại nguyện sống với người thương, không ưng lòng sống với người ghét, và không thuận lòng vừa ý những gì mong đợi. [4] Chỉ ba điều này thôi đời sống đã không an rồi.

Ðó là những bất an trong đời, mà hễ là người tất phải đối diện.

Nhưng xưa nay vẫn xuất hiện các vị Thánh, sống trong hoàn cảnh và tâm cảnh như chúng ta mà chẳng bao giờ phải bất an! Do vì chư vị biết niệm Phật trong tâm.

Ðây muốn nói, dù bao nhiêu pháp tu khác nhau nhưng chẳng khác gì niệm Phật. Ðứng về mặt tướng, còn có tọa thiền, tụng kinh, niệm chú, nhưng về mặt tánh thì nhất quán, trừ hoặc hiển chơn, tồi  tà phụ chánh (trừ phiền não phát trí chân, dẹp tà ngụy xiển dương chánh pháp).

Ngồi thiền là an thân, để tâm được định và cứu cánh nhận rõ bộ mặt mình, quay về với chân tánh là chân như là Phật tánh.

Tụng kinh, niệm chú, niệm Phật là đọc, niệm lên pháp ngữ, mật chú, danh hiệu Phật để thanh tịnh lắng nghe mà nghiêm thân tịnh ý, để rồi tâm được an và cứu cánh thân tâm hòa vào lời kinh, mật chú, danh hiệu Phật như hòa vào chân tánh Như Lai.

Chính lẽ đó thế gian vẫn còn nhiều người an tâm do thực hành tha thiết lời Phật dạy. Vậy nơi đây nếu hành giả niệm Phật luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh, hành giả đã đi lần đến con đường chư Thánh đi.

Tiếc rằng nhiều người không duyên nên chẳng tin niệm Phật.

Niệm Phật lại chẳng khó, và điều để tin rằng ta sẽ niệm Phật được luôn luôn là do chính tâm ta vô thường; chính tâm ta vô thường, nên dù tâm có vọng tưởng đến đâu, nó vẫn có lúc ngừng nghỉ, vì không thể vọng tưởng hoài; và ngay lúc nghỉ này ta liền nhớ câu niệm Phật!

Vấn đề lại đưa ra, làm sao ta nhớ niệm Phật!

Vì sợ làm sao ta nhớ, nên ta phải tập cho nhớ, tức phải niệm Phật ngay bây giờ; ngay khi thức tỉnh cuộc đời như đã quán sát - thức tỉnh rằng, pháp môn đang đeo đuổi đây, là pháp thù thắng hợp với thời đại nguyên tử ngày nay.

Khi tâm hằng ghi nhớ danh hiệu Phật, hành giả vừa giảm được nỗi bất an thường tình, vừa chuyển hóa vào tâm niềm an lạc. Công hiệu và thần lực của danh hiệu Phật có thể chuyển tâm thức ta về thế giới Thanh tịnh, xá gì lại không chuyển nỗi những bất an thường tình hiện tại! Do vì ta chưa đặt hết niềm tin vào Phật lực để hóa thành tâm lực nên còn vướng động vọng niệm để kết quả chưa đủ duyên hiện ứng.

Hành giả niệm Phật vào đời, nhất định lạc quan vui vẻ; không vì thấy rõ cuộc đời là bất an rồi sinh tâm cầu thoát ly xa lánh. Dù rằng việc niệm Phật cấp bách, công phu ngày đêm, vẫn hợp cho việc thoát ly, tuy nhiên phẩm vị vãng sanh cao, chắc chắn cho người phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật. Chung quy lại người niệm Phật vào đời vẫn được vãng sanh, không khác gì nhập thất tịnh tu một chỗ.

Với lý tánh tâm nguyện Bồ Ðề, hoàn cảnh nào cũng không trở ngại, cho nên phải phát tâm Bồ Ðề mà hành mọi Phật sự; do đó nên hiểu người nhập thất mà không phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật chưa chắc đã được phẩm cao, bằng người đi vào đời niệm Phật phát Bồ Ðề tâm . Vậy hành giả nào vì nghiệp duyên chưa thể dứt bỏ thế tục, vẫn an nhiên thực hành pháp tu niệm Phật mà chẳng lo rằng ta được vãng sanh hay không!

 

Ðới nghiệp vãng sanh.

Nhân đây người niệm Phật lại nghĩ, những hành nghiệp thiện, ác cùng lúc không ngừng phát ra khi niệm Phật! Và đây là vấn đề nói đến sự kiện Ðới Nghiệp Vãng Sanh

Chính nơi nghĩa " Ðới nghiệp vãng sanh" mới thấy, niệm Phật là tuyệt diệu pháp môn. Nói như thế vẫn không mâu thuẩn, trong ý niệm tất cả pháp tu đều đưa về nhất quán, thanh tịnh thân tâm, giải thoát luân hồi. Nhưng thực tế liễu thoát sinh tử một đời, thì việc dễ, khó, hiện thể rõ ràng khác nhau ở mọi pháp tu.

Người tu Thiền, tất nhiên ai cũng hiểu phải trải qua cấp bực giải thoát từng phần, để đoạn dần kiến tư hoặc; rồi mới đắc quả vị Thánh. Khi đã thành Thánh việc tu vẫn còn gian nan, bởi vì có tới tứ Thánh quả. Và khi giải quyết tứ quả xong, bây giờ vị Thánh đó bắt đầu chuyển qua con đường Bồ Tát để hành Bồ Tát đạo là đoạn đường cuối thành Phật - tất nhiên đối với quả Thánh Vô Sanh (đã đắc tứ quả) việc hành đạo so với ta thật dễ muôn lần, nhưng đó là so với ta, chứ quả vị Phật hãy còn dài, do vậy mà thấy trong kinh, Phật phải dùng mọi phương tiện nhắc nhỡ quý Ngài tiếp tục tu [5], nếu không lại ngỡ mình đã đến đích (thành Phật).

Cho nên trình độ chứng đạo nào cũng cần nên gần Phật; đến những vị có túc duyên gặp Phật trong quá khứ, nhưng vì một nghịch duyên nào đó mà chưa thành, phải chịu rơi vào thế giới không Phật, vị này có thể tu đến quả Bích Chi (Duyên Giác: quán 12 nhân duyên), nhưng lại phải cần sự xuất hiện của Phật, thì nhân duyên chứng đạo Vô thượng mới thành, nếu không cũng dễ lầm, rằng đã đến đích (Phật quả).

Thế thì thiền định mà chưa đạt quả Thánh thì chỉ là phước báo của nhơn thiên, mà quả giải thoát chỉ gieo vào duyên xa chưa biết chừng nào. Ðiều này mới thấy, trong kinh thường tả vô số Bồ Tát thường hiện diện trong lần Phật thuyết kinh, để chỉ mong sớm học được giải thoát.

Vậy thì niệm Phật là giải quyết ngay vấn đề gần Phật, và cầu thành Phật ở tại bất cứ thế giới nào.

Khi nương tựa vào Phật, tâm không rời, tất nhiên ta đã thiết lập cho mình Phật tại tâm, để cuối cùng sanh đi nơi nào cũng còn chủng tử Phật.

Nhưng pháp tu niệm Phật, Phật Thích Ca dạy, kết quả của hành giả niệm Phật sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc A Di Ðà.

Phật lại dạy, bất cứ thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào khi lâm chung tâm không tán loạn niệm được mười câu hiệu Phật sẽ được vãng sanh; đây bao gồm cả cư sĩ và tu sĩ. Thế thì cho thấy còn có pháp môn nào vượt qua được sự mầu nhiệm này.

Do vậy người cư sĩ chẳng cần phải lo vị trí của mình chưa thanh tịnh, chưa yên ổn, chưa nhất tâm v.v...Ðiều mà hành giả cư sĩ đáng lo, là có phát được Bồ Ðề Tâm hay không!

Ðới nghiệp vãng sanh, không phải nhấn mạnh vào giới cư sĩ mà nói chung cả hai giới, vì khó ai có thể dứt khoát được một đời tịnh nghiệp mà vãng sanh, cho nên không rơi vào thô thì cũng tế. Người tu sĩ trọn một đời tu đến ngày ra đi vẫn chưa thể giải quyết được những bất thiện nhân-nghiệp trong một đời, dĩ nhiên là bất thiện vi tế; do đó nếu nói phải sạch nghiệp mới vãng sanh thì ai lại làm được! Cho nên trừ nghiệp tội thật ác (ngũ trọng tội) ra, khi lâm chung biết sám hối đều được vãng sanh về cõi Phật.

Ðây chúng ta thấy, do nguyện lực của Phật A Di Ðà và diệu dụng thần lực của tự tâm chính ta, nên hoán chuyển tức khắc cảnh giới tự tâm, để hòa hợp vào cảnh giới Phật mà khoảnh khắc được vãng sanh.

Tuy nhiên, dù đứng trên mặt lý nhận định thật rõ ràng, và sự vẫn xãy ra như thật, vậy mà số người được vãng sanh chẳng thấy là bao! Lý do hoặc người niệm Phật ỷ lại, hoặc giờ phút cận tử nghiệp gặp chướng duyên!

-Ỷ lại, mình sẽ mang nghiệp vãng sanh nên hay tạo nghiệp bất thiện; dù bất thiện này không nghiêm trọng, nhưng khiến tâm thức xem nhẹ câu niệm Phật để giờ lâm chung không thể tha thiết nhất tâm.

Nghiệp bất thiện đây liên hệ đến việc, quên mất Bồ Ðề Tâm, tỉ dụ xem thường việc ăn chay, việc bố thí giúp người, hay nói lời vọng ngữ.

-Chướng duyên vào giờ phút lâm chung, có thể đến từ người trong gia đình hay bạn bè thân quyến. Thay vì khuyên ta niệm Phật, hoặc niệm Phật cho ta nghe, ngược lại chỉ gợi lên những việc thế gian luyến ái buồn thương, hoặc khơi nhắc chuyện đau thương làm ta xúc động quên mất câu niệm Phật.

Xét cho cùng, do chính người niệm Phật chủ động chứ chẳng để ai quyết định cho mình; khi đã hiểu ÐỚI NGHIÊP VÃNG SANH là thù thắng, thì ngay trong lúc lâm bệnh phải có chuẩn bị sắp xếp, có thế mới thắng được chướng duyên.

Người cư sĩ vì gia duyên thế sự ràng buộc, nhưng nếu giữ được tâm niệm hằng thẩm vào sự cầu sanh về thế giới thanh tịnh, thì danh hiệu Phật dù niệm ít vẫn hằng chuyển mạnh vào tâm. Và muốn giữ được tâm niệm sâu như vậy, tất phải ý thức việc làm, sự sống của mình hiện tại. Phải xem rằng tất cả những tác nghiệp này trong công việc hiện tại, đều ngoài ý mình muốn, nhưng vì đã lỡ duyên nghiệp đời sống nên phải giải quyết, hành xử.

Ngoài ý muốn, nghĩa là không muốn những nghiệp nhân này ngày một dính mắc; không muốn phải tiếp tục mâu thuẩn vừa tạo thiện lại tạo bất thiện, duy chỉ có cái muốn là dứt luân hồi, dứt vay nghiệp, để được sanh về thế giới Vô Lượng Quang. Ðiều đó mới là ý muốn, còn lại hiện thời, tất cả ngoài ý muốn.

Như thế công phu niệm Phật của hành giả cư sĩ này, dù niệm ít nhưng lại thẩm sâu, và tất nhiên chỉ chính hành giả này biết rõ hơn ai.   

Lại thêm một điều mầu nhiệm, có thể giải quyết luôn việc ngoài ý muốn đó mà chẳng chút gì là ngoài hay trong. Nghĩa là hành giả cư sĩ niệm Phật này, vừa thầm niệm cầu sanh Tịnh Ðộ, vừa giới thiệu pháp tu đến mọi người, như thể tạo thêm công đức giúp hoằng dương giáo pháp Phật Ðà, và nhất là pháp tu tối thắng mà hành giả đang âm thầm thực hiện.

Vậy thì bao việc làm đó, hẳn nhiên trở thành phương tiện đem giáo pháp mầu nhiệm đến gần chúng sanh hơn, và ngày ra đi của hành giả chắc mọi người sẽ ngạc nhiên, sao lại vãng sanh được; trong khi với người hiểu được Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh sẽ thấy sự thật phải là như vậy! Và hơn ai hết chính hành giả niệm Phật sẽ mỉm cười nơi Liên Ðài Lạc cảnh.


[1] Mộc tinh: một trong chín hành tinh quay chung quanh mặt trời; là hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ chúng ta. Thời gian ngày đêm ngắn hơn Trái đất, nhưng một năm thì gấp 12 lần, tức 12 năm ở quả đất. 

[2] Giáo lý cao siêu vượt lên tất cả được diễn giải trong Kinh Kim Cang: Kinh chỉ người biết, kẹt chấp vào ngã và pháp là chướng ngại trên đường giải thóat, nên người đắt đạo chẳng cho mình đắc đạo mới là đắc đạo! Ðoạn kinh nói lên điều huyền diệu như sau: -Tu Bồ Ðề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Ðà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả Tư Ðà Hàm không ? Tu Bồ Ðề bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, không thể được. Vì sao ? Vì vị Tư Ðà Hàm gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật không có vãng lai, nên gọi là Tư Ðà hàm ". (dịch giả Thích Thiện Thanh) 

[3] Kinh Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm, nói lên điều này. 

[4] Một trong những bát khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. 

[5] Kinh Pháp Hoa - Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy.

 

---o0o---

Mục Lục

Chương I | Chương II | Chương III

Chương IV | Chương V | Chương VI | Chương VII

Chương VIII | Chương IX | Chương X

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 07-2003

 


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về trang Mục lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@quangduc.com
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544