Cuộc đời đã hiển bày chân tướng, người tỉnh
thức sẵn sàng trong niềm an lạc chờ đợi ngày vãng sanh.
Các
pháp thế gian đều giả tạm, kể cả thân này chẳng phải là vật quý báu
nhất mà con người đã vọng kiến nhận lầm. Thân này được xem quý nhất
khi biết ý thức, hiện thể chuyển vào dòng pháp giải thoát.
Tuy
nhiên, thế nào đi nữa, chẳng thể phủ nhận mang ơn thân này, tức mang
được dòng thức chân như, sanh diệt thật nhiệm mầu.
Người
tỉnh thức vui mừng tận dụng hết sức những gì có thể làm được trước
khi xả bỏ huyễn thân. Và việc làm của người tỉnh thức hiện nay, phải
là công đức, phước đức có công năng hồi hướng trở thành phước báo
vãng sanh.
Việc
làm trước nhất phải từ thân, rồi đến ngoài thân.
-Từ
thân phải buông bỏ chấp trước.
-Ngoài
thân phải hành hạnh bố thí xả ly.
Phải
chăng vì đã đã ôm chấp, giữ gìn ngũ uẩn thân một cách si mê thái
quá, nên chẳng có công đức, phước đức mà vượt khỏi luân hồi!
Công
đức là công phu tu niệm, là việc tác duyên tu thiện ngay tự bản
thân, mà không ai có thể giúp mình được. Nói dễ hiểu, là công sức
của hành giả phát được đức tánh thiện, sinh ra các pháp lành đó là
công đức.
Hành
giả niệm Phật chính ngay tự thân đã là công đức, do điều khiển được
ba thân khẩu ý thanh tịnh, và nếu hành giả có thể tự điều khiển mình
công phu niệm Phật hằng thẩm như thế suốt đời, thế đã quá đủ mà
không cần phải làm gì nữa.
Nhưng
không! Hành giả khó thể làm được; nguyên nhân, hành giả còn phải
liên hệ với sự sống, còn phải chấp tác, còn phải đi lại, còn phải
đương đầu với hoàn cảnh phức tạp chung quanh trước khi xả báo thân -
nên phan duyên bên ngoài tác động vào tâm khó mà giữ câu niệm Phật
mãi được.
Khó
nhất nữa, hành giả lại đang sống trong thời xa Phật như hiện nay
(hơn 2600 năm), chính vậy nên phải cần tạo thêm công đức, nghĩa là
công phu thêm nữa ngoài giờ công phu niệm Phật.
Công
phu nhiều ít, sâu cạn tùy do sức lực căn cơ hành giả, chẳng hạn lạy
Phật, tụng kinh mỗi ngày. Nhất định là phải mỗi ngày, dù hành giả
chỉ rảnh lạy có một lạy! Nhưng nếu hành giả vì cơ thể không thể lễ
lạy, hay thậm chí đọc không được chữ, thì thay thế công quả chấp tác
làm việc.
Hoặc
hành giả cũng không tạo được duyên chấp tác tại chùa, kể cả ở nhà
riêng; bây giờ hãy quán chiếu vào mỗi công tác đi đứng ăn uống ngủ
nghỉ của mình, tất cả phải là điều có lợi cho chúng sanh, tức phải
sinh ra thiện pháp, nghĩa là nhất tâm vào việc làm không để tâm vọng
tưởng.
Phải
như vậy, những tác động đó mới giữ hợp hòa với tánh Phật, là danh
hiệu Phật mà hành giả đã và đang thực hành, như thế đó là công đức.
Thật ra
đối với người không thể lễ lạy, tụng kinh, chấp tác mà chỉ ý thức
với sinh hoạt thường tình thôi, như thế mặc nhiên đã công phu niệm
Phật đến nhất tâm rồi.
Suy ra,
khi danh hiệu Phật ngưng nghỉ trong tâm hành giả, vì phải ăn cơm,
uống nước, vệ sinh v.v...nhưng trong những động tác đó không có vọng
tưởng, đây cũng chẳng khác gì đang niệm Phật, bởi vì có niệm thanh
tịnh, mà niệm Phật là niệm thanh tịnh vậy. Tuy nhiên lưu ý rằng, đây
nhắm vào hành giả đang tu pháp niệm Phật, chứ không có nghĩa hễ ai ý
thức được việc mình làm, thì đồng với công phu niệm Phật, điều này
hoàn toàn khác, vì việc làm của hành giả niệm Phật là hồi hướng đến
cảnh giới Phật là rốt ráo của Bồ Ðề Tâm, chứ không phải làm mà chẳng
có tâm Bồ Ðề chẳng có ý thức!
Nhấn
mạnh hơn, chúng ta đang luận về pháp tu niệm Phật, không phải các
pháp tu khác, và càng không phải so sánh đến các bậc thượng căn Bồ
tát đốn ngộ, đốn tu.
Người
niệm Phật không cần lo lắng rằng, mình bị kẹt vào pháp tu, hay dính
mắc vào cảnh giới Cực Lạc. Dù hành giả vẫn hiểu tất cả phải xả bỏ
không chấp trước, bởi các pháp đều do duyên sinh, nên vô ngã.
Việc
này người học Phật có lẽ ai cũng hiểu; còn chấp là còn kẹt, còn chấp
là còn khổ, và những cái chấp đó bao gồm luôn cả pháp tu niệm Phật!
Hành
giả niệm Phật không cần luận thêm nhiều nữa, vì đã hiểu và tin, ở
phần nhận thức về cảnh giới thật hay giả của Ta Bà, Cực Lạc và
nguyên nhân của sự thị hiện giữa Phật Thích Ca, và A Di Ðà.
Tuy
nhiên nếu người học Phật sợ chấp rồi phá chấp, mà không biết rõ căn
cơ của mình, vị trí của mình, nghiệp tánh của mình, và sự chứng đắc
của mình thì thật nguy hiểm, vì sao? Vì chỉ là nói suông mà tạo ra
nghiệp luân hồi. Rồi không chừng trở thành mâu thuẩn bởi chính mình,
khi phải sống chấp vào hằng hà sa số nhân duyên trong vũ trụ, hay
nói cho gần là trái đất này, lại nói gần hơn là xã hội đất nước này,
nói gần hơn nữa là gia đình của mình, công việc của mình...và ngay
trên con người của mình kẹt chấp đủ thứ để sinh tồn. Thế là biến
thái, thành người không được bình thường, đơn giản cũng vì không
giải thích nổi cái chấp kia thật hay không thật!
Chưa
đạt đến cái nhìn của Ðại Bồ Tát, của Phật, ta chỉ sống trong mộng mị
mà thôi, và xét cho cùng nên chấp có, hơn là chấp không! Chấp có ta
còn làm công đức, còn đóng kịch tu trong cuộc đời huyễn v.v...,
nhưng chấp không thì vô phương cứu chữa. Ðiển hình, loài người từ
man khai đến giờ, nhờ chấp có mà đến nay mới văn minh, nhờ chấp có
đến nay mới khám phá được không gian là mênh mông rộng lớn, và nhờ
chấp có mà ta mới bắt đầu suy nghĩ lại việc chấp của ta có đúng hay
sai.
Chúng
ta hãy thử nhận định lời Ðại Sư Tế Tỉnh trả lời cho một người, gặn
hỏi về các pháp là huyễn, vậy việc cầu sanh Cực sẽ thế nào! Ðây cũng
tựa như chấp không.
Hỏi:
Tất cả các pháp đều như mộng huyễn. Cõi Ta Bà cố nhiên vẫn huyễn,
song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng. Như thế niệm Phật cầu về Cực Lạc
nào có ích chi ?
Ðại
sư đáp: Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ thất địa trở về
trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Ðến như bậc Ðẳng Giác vẫn còn ở
trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Ðại Giác, hoàn toàn
thức tỉnh. Ðang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cũng khổ vẫn uyển
nhiên! Như thế cam chịu cảnh khổ ở Ta Bà, sao bằng về hưởng cảnh
mộng vui nơi Cực Lạc ? Phương chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng,
lần lượt đi sâu vào chỗ chìm mê. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi
mơ, lần lượt đến ngôi đại giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng mà
kết quả ở đôi nơi khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc!
Thế thì
việc niệm Phật, nếu có sợ chấp, là sợ chấp vào tánh nghiệp vô minh
của mình, mà tự cao ngã mạn cho người khác tu sai, cho tất cả đạo
giáo khác trên thế giới là hạ cấp không bằng mình .v.v...Chấp như
vậy mới đáng sợ, và sẽ khó vãng sanh, vì phá đi Bồ Ðề tâm, là tâm độ
chúng sinh. Chúng ta há không nghe kinh Phật dạy, Bồ Tát lớn thường
thị hiện vào mọi nơi và nơi ấy bất kể con người nào hay tôn giáo
chi.
Nói về
phước đức ngoài thân.
Phước
đức ngoài thân, thật ra cũng là trong thân, do trong tâm có suy
nghĩ, bên ngoài mới hiển lộ, dù có hiện qua trung gian cũng vậy.
Hiểu cơ bản, phước đức không phải do công sức tự thân, mà chỉ do
những vật phẩm, những ngoại duyên bên ngoài, thành ra đối với công
đức không so sánh được; do đó một người triệu phú phát tâm cúng
dường một triệu đồng, so với phước báo của người đem công sức của
mình tạo đức cúng dường, người triệu phú kia khó thể hơn được.
Tuy vậy
cũng tùy vào sự phát tâm; nếu người triệu phú, phát tâm tha thiết
quên mình là triệu phú, quên luôn số tiền, chỉ biết chánh tâm cung
kính hồi hướng vãng sanh hay hồi hướng thành đạo, phước đức này quả
không kém gì công đức.
Ðiều
muốn nói đây, là phước đức Bố Thí của hành giả niệm Phật.
Phải
nhận rõ vấn đề bố thí và phải bố thí như thế nào để được lợi ích, để
thành công đức hồi hướng vãng sanh.
Bố thí
mà không cầu vào pháp hữu vi, không chấp kẹt vào tự ngã và pháp thí,
duy chỉ mong đạt được đạo giải thoát và giúp người đạt giải thoát,
đạt đến trình độ vậy gọi là cùng cực của Bố Thí hay có thể gọi là Bố
thí Ba La Mật.
Nhưng
ta hiểu thế nào, khi một người bố thí giúp người, giữ tâm bình thản
không cầu gì, mà họ là người không hiểu Phật pháp, vậy có phải đã
hành bố thí Ba La Mật! Tất nhiên là không, và tuyệt nhiên sẽ không
phải. Người đó vẫn còn mãi dạo chơi trong luân hồi cho dù có bố thí
như vậy suốt đời và nhiều đời chăng nữa, nếu không nhận hiểu Phật
pháp.
Ðơn
giản để hiểu vì sao, vì người này làm với tâm không tu Phật, và tâm
mà không tu Phật làm sao hiểu được Phật pháp để biết: các pháp là vô
ngã, tâm người vô thường. Chính không biết như thế, người này chắc
chắn thế nào cũng có ngày quay về chấp ngã, chấp pháp, nghĩa là
không sớm thì chày người này cũng sẽ từ từ chấp vào việc làm bố thí
của mình, dù thời gian có lâu bao nhiêu đi nữa. Và cho dù được phước
báo sanh lên cõi trời, cõi người hàng tỉ lần, nhưng rồi cũng phải
cạn phước, để kết quả sanh ra kẹt chấp đủ thứ.
Bố thí
như thế cũng đáng ca ngợi, duy chỉ tiếc chưa hiểu Phật pháp có thể
chuyển nhẹ ý thức qua việc làm của mình thì ngày thành Phật chẳng
xa.
Bố Thí
Ba La Mật nhìn qua, tương tự lối bố thí bình thản trên, chẳng thấy
cầu chi, nhưng thật ra có nguyên nhân, phát xuất từ tâm đại bi, trí
tuệ của người mang tín lực Bồ Ðề tâm. Chỉ có như thế mới làm được
những việc bố thí phi thường mà xem rất nhẹ nhàng thanh thoát.
Với thế
gian bố thí chỉ là phước báo nhỏ nhoi, hơn nữa bố thí của thế gian
vẫn còn nhiều giới hạn, bởi không thể bố thí được thân mình. Nếu lại
bố thí được thân, xem như quá giỏi, nhưng sự giỏi đó trở thành tiếc
cho, vì không hồi hướng công đức thành đạo độ cho muôn người, mà lại
kẹt chấp chỉ vì bố thí một người hay vì lưu danh, vang tiếng (mà thí
thân).
Cho nên
Bố Thí Ba La Mật hoàn toàn khác hẳn với người thế gian, và người
hành được thường là các bậc Bồ Tát lớn
Có ba
cách bố thí căn bản, giúp người Phật tử tiến đến sự nghiệp tu đạo
chóng thành. Ðó là bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô úy (sự không
sợ hãi).
Bố
thí Tài.
Người
có tài sản với việc bố thí tài thật thuận duyên, nhưng phải là người
biết phát tâm nghĩ tưởng người khác, nếu không vẫn là việc khó làm
dù gia sản có đến bạc triệu. Nhưng, giá mà người triệu phú này biết
được, sở dĩ mình giàu có đây, là do đời trước biết bố thí, biết tu
thiện họ chẳng dám làm ngơ. Tiếc rằng tất cả đều quên hết!
Như đã
hiểu các pháp hiện hữu trong vũ trụ, đều do vô số nhân duyên, duyên
khởi tạo thành, thì mọi việc: nghèo, đói, giàu sang, xấu hèn, cao
đẹp v.v...cũng phải có nhân duyên. Nhân duyên đến từ: ích kỷ, hà
tiện hay rộng lượng, từ tâm của chúng ta từ những kiếp trước.
Không
thể khẳng định rằng ngày nay kiến thức được như vậy, giàu sang được
như đây là do chính ta tạo ra, hay có chăng đáng nói là do sự giúp
đở hỗ trợ của cha mẹ, Thầy cô ở trường ngoài ra đều do ta tạo ra.
Nhận
định như vậy chỉ đúng một phần, một phần rất nhỏ. Hãy quan sát, suy
nghĩ kỹ xem, bao nhiêu người cũng có cha mẹ như ta, cũng học hành
như ta, thậm chí cũng tốt nghiệp ra trường cùng lúc như ta ,và có
khi đã học vượt hơn ta nữa, thế mà họ vẫn khổ, không phải cái khổ
tinh thần đâu, vì đó là đương nhiên, họ đang khổ về vật chất đấy!.
Chứng
minh điều này, xảy ra vào thời chiến tranh; bấy giờ hoàn cảnh xoay
chuyển phức tạp. Số người chết vì đói trong đó không thiếu gì người
giàu và học vị cao. Sự việc lại còn xảy ra ngay thời bình, cũng
không hiếm gì người giàu có hôm qua mà ngày nay phá sản trở thành
tay trắng; còn người kiến thức cao vẫn long đong với công việc chẳng
thể xoay xở hợp đúng với danh vị, kiến thức của mình.
Ðó là
lý do gì? Chắc chắn người học Phật phải biết! Và sự thành tựu của ta
ngày nay bất cứ phương diện gì, đều là do nhờ ơn của vô số người
chung quanh. Nếu tính kể hết ai là người chịu ơn, có lẽ ta sẽ tiêu
mất sự tự cao của mình và thấy mình còn nhỏ hơn phân nửa hạt cát
trong sa mạc.
Do vậy
ta không những mang ơn chúng sinh hữu tình, mà còn cả vật vô tình
nữa. Vật vô tình mà nói, chỉ nội ngôi nhà ta ở thôi cũng đã có hàng
ngàn nhân duyên tạo thành, mà nhân duyên đó há là tự nhiên sao!
Thành ra ta phải mang ơn vô số những vật vô tình vậy. Còn hữu tình,
đâu phải tuyệt đối là loài người; nếu không có những côn trùng sống
ẩm thấp dưới lòng đất kia chưa chắc gì ta lại tồn tại cho lâu, vì
phần lớn ta sống nhờ vào thực vật, mà các loài chúng sanh đó phần
nào là duyên làm nên đất đai mầu mỡ. Nếu nói đến những quốc gia sống
nhờ vào nguồn lợi tức chăn nuôi động vật, thì nợ của hữu tình thôi,
còn cao hơn núi Tu Di.
Cho nên
ta phải khiêm hạ, đối xử với tất cả bằng sự đáp lại, đó là thực hành
việc bố thí. Và sự đáp lại cụ thể là tài vật hiện thời của ta.
Ðối
tượng của bố thí là những người kém may mắn, là những nơi chốn đất
nước hay bị thiên tai hoành hành.
Hành
đúng pháp bố thí rốt ráo, là phải thực hiện trong sự hoan hỷ, thậm
chí còn mong mỏi để bố thí nữa, có vậy sanh ra nơi đâu lại chẳng gặp
duyên lành, và luôn luôn làm người đầy đủ.
Bố
Thí Pháp
Bố thí
tiền tài vật chất, ta còn có thể khiếm khuyết, chứ Pháp có lẽ ai
cũng dư. Tuy nói vậy cũng thành không dễ, nếu gặp phải nghịch duyên,
vì không thuận duyên sẽ không thực hiện được.
Nhưng
pháp là gì.?
Ðây chỉ
nói thuần theo nghĩa bố thí pháp - đó là ngôn ngữ hoặc diễn ra bằng
lời hay viết thành sách giúp người chuyển hóa nhận ra chân lý chánh
pháp.
Vậy bố
thí pháp là dùng mọi phương tiện khéo léo dẫn giải cho người hiểu
thế nào để tu hành lần về giác ngộ giải thoát.
Nhưng
ai có thể làm việc này! Tất nhiên ai cũng có thể, nhưng chỉ e người
ta có làm được hay không! Chính lẽ đó mới gọi là bố thí!
Người
ta không làm được, hoặc vì ngộ nhận, tưởng là những gì cao siêu,
hoặc cảm thấy mình còn chưa xong, có đâu giảng cho người khác! Nhưng
nếu vì nghĩ vậy, vẫn còn đỡ hơn người đủ khả năng mà không nói ra
giúp người thì đây ảnh hưởng rất lớn đến việc tu niệm của hành giả
đó.
Việc
này kinh nói sẽ bị quả báo do giấu nhẹm chánh pháp; cũng không khác
quả báo để hình tượng Phật khuất ánh sáng, chưa từng lễ lạy.
Trong
pháp Phật có năm thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên
Giác thừa, và Bồ Tát thừa.
Tùy
trình độ nào của mình, hãy nói lên hiểu biết đó. Ta không thể mới
hiểu về Nhân, Thiên mà giảng về Thanh Văn, Duyên Giác và ngược lại
vì quá hiểu đại thừa Bồ Tát, mà không muốn nói cho người biết những
căn bản ở cõi người!
Xét như
vậy, hai thừa Nhân, Thiên, Phật tử nào cũng có thể bố thí. Vì sanh
cõi trời hay trở lại cõi người, không ra ngoài những nghiệp nhân căn
bản như: hiếu thảo cha mẹ, thương yêu gia đình, làm công dân tốt;
với thầy dạy của thế gian và đạo giáo cư xử tử tế lễ nghi v.v...
Nền
tảng của giải thoát đến từ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Ðó là bước đầu học
giới lần đưa người tiến tới những bước cao hơn.
Bằng
hoàn cảnh nào đó, ta uyển chuyển đón nhận ý kiến của người để giúp
họ nhận ra con đường căn bản giải thoát. Có người vì không giữ được
một giới trong năm giới, như uống rượu mà từ chối quy y Tam Bảo; ta
phải cảm thông, và vẫn khuyên quy y. Việc không giữ giới rượu được,
thì thôi còn bốn giới chẳng có sao, cả đến mất thêm một giới 'không
sát sanh' nữa, ta cũng khuyên nên quy y, vì ta biết lợi ích của quy
y Tam Bảo.
Trường
hợp, không thể giữ được giới nào lại hỏi có quy y được không, ta
cũng phương tiện mà giúp họ. Ðiều này chắc chắn Phật cũng từ bi mà
gia bị. Bởi vì quy y chỉ là nương về một con đường sáng, mà kẻ kia
đang còn trong tối vậy là điều cần thiết. Dù rằng kẻ kia cứ mãi mê
không chịu chạy ra bóng tối (không thọ giới), nhưng hắn vẫn còn tin
là hắn đang ở trong tối (chịu quy y), và bên ngoài kia là ánh sáng,
vậy quá tốt rồi. Chỉ sợ là không bao giờ chịu quy y Tam Bảo, có
nghĩa không bao giờ tin có con đường giác ngộ giải thoát.
Người
bố thí pháp lại chẳng ra ngoài chánh pháp khi không đề cập đến quy y
hay thọ giới, đó là trường hợp đối tượng quá xa lạ với Phật pháp.
Bấy giờ người bố thí hãy nói nhân quả, làm lành tránh ác, và những
gì gần gũi với đối tượng để dần dần giúp họ hiểu được nền tảng quy
y.
Từ nền
tảng quy y Tam Bảo là căn bản, tuần tự đến những con đường cao hơn,
(Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) mà hành giả lượng sức được mình cũng
như căn cơ đối tượng, để bố thí một cách trọn vẹn.
Bố
thí vô úy (không sợ hãi)
Bố thí
không sợ hãi, tựa như bố thí Pháp; có điều bố thí không sợ hãi nghe
gần gũi và dễ nhận ra hơn; vì đối tượng đang trong tình trạng lo
lắng sợ hãi, được gặp người giúp đỡ cứu nguy.
Sự kiện
lo sợ trong đời đại lược như: sợ nghèo đói, sợ cô đơn, sợ bóng tối,
sợ thiên tai, sợ nhân tai v.v...Nói chung, những lo sợ xung đột từ
thân tâm tiếp xúc ngoại cảnh qua hai vấn đề vật chất và tinh thần.
Nhận
xét thấy rằng, bố thí vô úy là ý nghĩa sâu được khai triển ra từ Bố
thí tài và pháp. Vì như đã nói, chỉ có hai vấn đề sợ hãi, vật chất
và tinh thần; nếu đầy đủ vật chất, tinh thần thì không còn lo sợ
nữa. Tất nhiên tinh thần đây phải hiểu đúng theo chánh pháp; chỉ có
hiểu đúng chánh pháp mới thấy tất cả, ngược lại khó thể tránh được
sợ hãi khi còn ôm giữ cái tôi (ngã) và các thứ chung quanh (pháp).
Thế thì
theo nghĩa đen của bố thí không sợ hãi, ai cũng có thể làm được
trong giới hạn khả năng của mình; chẳng hạn giúp người sợ nghèo đói
bằng cách tìm giúp việc làm cho họ. Giúp người diệt tánh sợ hãi bóng
tối, và những chuyện lo nghĩ bông lung, bằng cách giải thích hiện
tượng trời đất tự nhiên trong vũ trụ; chẳng hạn hoạn họa thiên tai
thuộc về sự vận hành của vật lý thiên nhiên, và cuối cùng cho biết,
nhân loại ngày nay đã quá văn minh, nên chắc chắn tìm được phần nào
phương pháp chống đỡ, nếu so với người xưa thật mới đáng sợ!
Tuy
nhiên, sự thật mà nói, người ta không khỏi lo sợ khi chưa giải quyết
được những bí ẩn cuộc đời. Do vậy khi được nhân duyên giúp đỡ đối
tượng hiểu về Phật pháp, đây mới đầy đủ ý nghĩa bố thí vô uý. Bởi vì
những sợ hãi như trên vừa kể sẽ không chấm dứt, và nhân loại văn
minh tới đâu, vẫn không tránh được thiên tai hoạn họa. Người ban cho
sự vô uý, có giải thích hay giúp đỡ thế nào cũng chỉ an ủi nhất
thời, trong khi đối tượng lại mang một thứ bệnh nan y của sợ hãi!
Vì do
nghiệp tánh tham sân si của con người đang trong cõi ái nhiễm, làm
sao không bồn chồn lo sợ! Chỉ có giảm trừ nghiệp độc tham, sân, si
mới trừ được không sợ hãi. Và như cõi Ta Bà này tìm đâu thấy phương
thuốc nào ngoài Phật pháp!
Phật
pháp không những giải thích, trả lời xác thực cụ thể nỗi lo sợ của
con người, lại còn giúp họ dứt sự lo sợ, an sống yên vui đến cuối
cuộc đời.
Với
hiện tượng thiên nhiên, thiên tai trời đất, Phật pháp giải thích y
như khoa học, nghĩa là do áp suất của bốn chất đất, nước, gió, lửa,
không quân bình nên tạo ra sự đắp đổi bên này sang bên kia, nhân đó
trở nên xáo động thành ra, động đất, núi lửa, sóng thần.v.v...Nhưng
Phật pháp còn nói xa hơn, là sự kiện như vậy chỉ là hiện tượng của
Thành, Trụ, Hoại, Không (Sinh, Trụ, Dị, Diệt) của hết thảy các pháp,
không khác gì con người mới sanh ra chập chững, rồi già đi chết mất
(thể xác). Trái đất hiện ta đang ở cũng vậy, cũng có một số tuổi
giới hạn của nó, chẳng hạn 200 tỉ năm! Và bây giờ nó đã mấy tỉ tuổi
rồi, thế chắc chắn nó sẽ chết trong một ngày gần đây; và triệu chứng
báo chết, là những cơn bệnh như chúng ta gọi là thiên tai địa đất
đó.
Về tinh
thần sợ hãi mông lung, thì thuốc chửa trị của Phật phải là thần
diệu; không những cứu người bệnh đời này, lại cứu đến nhiều đời sau
nữa; và cứu cho đến khi chẳng còn sợ hãi! Tưởng không cần giải thích
nhiều thêm toa thuốc của Phật, vì đến đây chắc con bệnh đã hiểu.
Hiểu
rằng ba độc Tham, Sân, Si là nguyên nhân tác nghiệp khiến chúng sanh
phải luân hồi, để sinh ra đủ thứ chuyện! Nhưng do đâu có ba độc
tham, sân, si ? Vì chấp ngã và pháp; nhưng sao chấp ngã, pháp ? Vì
vô minh! Hay vì đơn giản rằng, con bệnh chưa gặp Phật pháp thế thôi!
Gặp Phật pháp, bấy giờ mới thấy Tứ Diệu Ðế là chân lý cuộc đời, và
Tam Pháp Ấn
là phương pháp hành xử Tứ Diệu Ðế, và giải quyết Ngã, Pháp .
Tóm lại
thấy rằng, Bố thí không sợ hãi, có thành tựu trọn vẹn hay không đều
do hành giả khôn khéo đưa người vào chánh pháp .
Ðến đây
hành giả niệm Phật đã thấy, việc bố thí là công đức không thể thiếu,
và càng phải thực hành hơn. Người Phật tử mới quy y hiểu đạo, ít có
nhân duyên thường xuyên thực hành công phu tu niệm, chỉ có quy y
nương về chánh đạo khỏi sợ lạc đường, mà còn được khuyên tu bố thí,
huống gì một hành giả đang tín tâm tu niệm!
Những
phước báo công đức từ nơi niệm Phật dù đủ đưa hành giả về Cực Lạc,
nhưng phước báo bố thí Tài, Pháp, Vô úy, lại bồi thêm phẩm vị vãng
sanh, và nếu Pháp thí kia được thành tựu khuyên người niệm Phật, thì
hành giả đã chắc chắn vãng sanh ở phẩm vị thật cao.
Mấy Ðiệu Sen Thanh tập I của HT Thích Thiền Tâm. Ðại sư Tế
Tỉnh được tôn là Tổ thứ mười hai tông Tịnh Ðộ.
Ở Việt Nam có Bồ Tát Thích Quảng Ðức, thiêu thân bố thí cúng
dường, cầu cho pháp nạn được tiêu (.20-4-1963)
* Chư hành vô thường (1), chư pháp vô ngã (2), Niết Bàn tịch
tĩnh (3)
(1)
Mọi diễn tiến các pháp hữu
vi, từ ngoại giới cho đến tâm cảnh con người đều biến đổi xê
dịch.
(2)
Tất cả các sự vật đều
không có thật thể, chúng hình thành hiện hữu là do nhân duyên
sinh.
(3)
Lìa khỏi sự đối đải, thấy
rõ các pháp do duyên sinh thì an vui tịch tĩnh.