PHÁT KHỞI
BỒ TÁT THÙ THẮNG CHÍ NHẠO
KINH LƯỢC
GIẢNG
(Nguyên văn: Phát Khởi Bồ
Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký)
Chủ giảng: Hoà
Thượng Thích Tịnh Không
Cư Sĩ Truyền Tịnh
Chỉnh Lý
Chuyển Ngữ: Bửu
Quang Tự đệ tử Như Hoà
---o0o---
IV.
LƯỢC GIẢI KINH VĂN
C.
Lưu Thông Phần
* Kinh này tên là Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí
Nhạo, còn gọi là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn
Chánh
kinh:
Nhĩ
thời, tôn giả A Nan bạch Phật ngôn:
- Hy
hữu Thế Tôn! Nãi năng khai thị, diễn thuyết Như Lai chân thật công đức,
phát khởi Bồ Tát thù thắng chí nhạo.
(Lúc bấy
giờ, tôn giả A Nan bạch Phật rằng:
- Đức Thế
Tôn hy hữu, bèn có thể khai thị, diễn thuyết công đức chân thật của Như
Lai như thế, phát khởi chí hướng, lòng ưa thích thù thắng cho Bồ Tát)
Điều được
kinh này khai thị từ đầu cho đến cuối là “công đức chân thật của Như
Lai”. Ngài chẳng nói là công đức chân thật của chư Phật; nếu nói là
công đức chân thật của Phật, chưa chắc chúng ta đã có đâu nghe! Nói
“chư Phật” là nói trên mặt Sự; nói Như Lai là luận trên mặt Lý, từ mặt
Tánh mà nói. Đấy là những công đức chân thật của tự tánh chúng ta, chẳng
khác biệt gì. Quý vị nói: Tôi có cần phải tu hay chăng? Người ta thì khác,
tôi có sẵn lòng tu hay không? Nơi chính mình, không tu cũng vậy, có tu
cũng vậy, công đức nơi tự tánh mà! Vậy thì quý vị đã minh tâm kiến tánh
hay chưa?
Kiến tánh thì
công đức tự tánh sẽ hiện tiền viên mãn. Trong kinh đức Phật giảng, từng
chữ, từng câu đều là tự tánh công đức, chứ chẳng phải là gì khác! Nếu Bồ
Tát giác ngộ nhất định sẽ phát khởi “chí hướng, lòng ưa thích thù
thắng”. “Chí” là thệ nguyện, “Nhạo” là yêu thích, hoan
hỷ vậy! Quý vị nhất định vui vẻ làm, nhất định vui vẻ cầu sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là chí nhạo thù
thắng của Bồ Tát.
Một lần nữa,
vì sao chúng tôi muốn chọn giảng kinh này? Thật ra là vì thấy trong mấy
năm, quý vị rất dụng công nơi Tịnh tông, rất nghiêm cẩn đọc tụng, niệm
Phật, tu trì, nhưng chưa có thành tích. Giống như học sinh đọc sách, đọc
rất nhọc nhằn, rất gắng sức, nhưng thi rớt mãi. Vấn đề rất nghiêm trọng
vậy! Căn bệnh là do đâu? Chúng ta phải tìm cho ra, bởi thế mới dùng hai bộ
kinh để đối trị căn bệnh ấy.
Chúng tôi
chọn giảng kinh Kim Cang với mục đích khiến quý vị hiểu rõ chân tướng sự
thật, chân tướng của nhân sanh vũ trụ, dạy quý vị thấy rỗng toang, buông
xuống thì về mặt công phu có thể đột phá được những chướng ngại đối với
việc niệm Phật. Bộ kinh này giảng về cách đoạn phiền não, tập khí, trong
sanh hoạt thường nhật, trong lúc làm việc, xử thế, đãi người, tiếp vật,
bất tri bất giác phạm rất nhiều bệnh, nếu với những bệnh ấy mà chẳng giác
ngộ, sửa lỗi đổi mới, thì vẫn tạo thành chướng ngại y như cũ. Bởi vậy,
kinh Kim Cang là phá chướng ngại trên mặt Lý, kinh này phá chướng ngại
trong những sinh hoạt vụn vặt thường ngày. Hy vọng công phu niệm Phật của
quý vị thuận buồm xuôi gió! Mục đích giảng kinh của chúng tôi là vậy. Bởi
lẽ kinh văn chỉ quy Cực Lạc rất rõ rệt vậy, đừng cho là thừa thãi, chẳng
phải là kinh thích hợp cho tông mình.
Tông mình chỉ
có năm kinh một luận, sao lại dính thêm những thứ khác, tôi vừa mới nói
rồi, những sách giáo khoa thuộc tông khác, nếu giúp ích cho chúng ta,
chúng ta có thể tuyển tu cơ mà! Tuy chẳng phải là chủ tu (tu chính yếu)
chúng ta nhất định phải nghiêm túc tuyển tu, cái gì chẳng tương ứng tông
mình, chúng ta chẳng tu thứ ấy. Kinh này tương ứng với tông chúng ta.
Chánh
kinh:
Thế
Tôn! Đương hà danh thử kinh, ngã đẳng vân hà thọ trì?
(Bạch Thế
Tôn! Nên đặt tên kinh này như thế nào, chúng con thọ trì như thế nào?)
Đây là điều
chẳng thể thiếu trong phần Lưu Thông, nhất định phải hỏi – xin Phật dạy
tên kinh. Kinh này tương lai kết tập, lưu truyền nên dùng danh xưng nào?
Danh xưng ấy do đức Phật đặt.
Chánh
kinh:
Phật
cáo A Nan ngôn:
- Thử
kinh danh vi Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo.
(Phật bảo
A Nan rằng:
- Kinh này
tên là Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo).
Tên kinh do
đức Phật nói.
Chánh
kinh:
Diệc
danh: Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn.
(Cũng có
tên là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn)
Bởi vậy, nếu
đề là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn (những câu hỏi của Bồ Tát Di Lặc) cũng là cùng
một bộ kinh. Bộ kinh này có hai tên.
Chánh
kinh:
Dĩ thị
danh tự, nhữ đương thọ trì.
(Dùng danh
tự ấy, ông nên thọ trì)
Tên của kinh
là tổng cương lãnh của toàn kinh. Bởi lẽ, từ tên kinh, quý vị có thể nhận
hiểu kinh này giảng về nghĩa lý nào, tông chỉ là đâu, chúng ta phải nên
thọ trì như thế nào.
Chánh
kinh:
Phật
thuyết thử kinh dĩ, Di Lặc Bồ Tát cập chư Thanh Văn, nhất thiết thế gian:
thiên, nhân, a-tu-la, càn-thát-bà đẳng.
(Phật nói
kinh này xong, Di Lặc Bồ Tát và các Thanh Văn, hết thảy thế gian: trời,
người, a-tu-la, càn-thát-bà v.v…)
Thính chúng
tham gia pháp hội trong lúc ấy.
Chánh
kinh:
Văn
Phật sở thuyết, giai đại hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
(Nghe lời
Phật dạy đều hoan hỷ lớn, tin nhận vâng làm)
Câu cuối cùng
rất khẩn yếu. Nghe xong chẳng phải tan hội là rồi, chẳng phải vậy! Ra về
phải tin nhận phụng hành. A! Nghe xong thật sự tin tưởng. “Thọ” là
minh bạch, giác ngộ, tiếp nhận hoàn toàn, y giáo phụng hành. Từ nay trở
đi, khởi tâm động niệm, nói năng, hành động đều lấy kinh này làm tiêu
chuẩn, quyết định chẳng trái nghịch lời Phật dạy dỗ, mới là đệ tử Tam Quy
chân chánh của đức Phật vậy!
Lược Giảng kinh Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo hết
(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 15 tháng 07 năm 2004)
(1) Nơi dành
riêng để bế quan gọi là quan phòng.
(2) Quải đơn:
Đơn là một tấm gỗ dài, rộng vừa đủ cho một người nằm. Trong các tùng lâm,
dùng đơn thay giường. Khi một vị tăng đến nhập chúng trong một tùng lâm để
tham học, thì vị tri chúng kê thêm đơn cho người ấy trong tăng phòng, gọi
là “quải đơn”, nay được dùng với nghĩa rộng là xin vào tu trong một ngôi
tự viện nào. Khi vị tăng ấy đi tham học nơi khác thì gọi là “trừu đơn”
(rút đơn).
---o0o---
Mục Lục >
I-II-III
-IV
> V-A
> V-B1
>V-B2
> V-B3 >
V-B4
> V-C
---o0o---
Source: http://www.niemphat.net/
Cập nhật
ngày: 01-06-2005