QUAN ÐIỂM NGHIỆP
TRONG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
Thích Hạnh Bình
---o0o---
3.SỰ DỊ BIỆT GIỮA QUAN ÐIỂM NGHIỆP CỦA
KỲ NA GIÁO VÀ PHẬT GIÁO
Trước khi đạo Phật xuất hiện, truyền thống tôn
giáo ở Aán độ đã có quan điểm về nghiệp, cụ thể là Kỳ na giáo. Thế
thì quan điểm nghiệp của Phật giáo và Kỳ na giáo khác nhau như thế
nào, đây là điểm mà chúng ta cần phân biệt rõ, để tránh khỏi sự hiểu lầm
giữa hai tôn giáo khác nhau. Kỳ na giáo là một trong sáu phái triết học Ấn
độ (Lục phái ngoại đạo), trong kinh đức Phật thường gọi phái này là phái
Ni kiền tử ( Nigantha-nata-putta), về sau phát triển thành Kỳ na giáo, là
một tôn giáo rất thịnh hành trong thời đức Phật còn tại thế. Kỳ na giáo
cho rằng, lý do con người không được giải thoát vì sự trói buột của
nghiệp, con người muốn được giải thoát giác ngộ, cần phải diệt trừ
nghiệp, bằng cách tu tập khổ hạnh. Trên thật tế, tư tưởng này vốn là
sự kế thừa tư tưởng về nghiệp của Bà la môn. Ni kiền tử xuất thân
thuộc giai cấp Sát đế lợi, mẹ là một vi công chúa, em họ là vương phi, do
vậy học thuyết của phái này, mang ý nghĩa duy trì sự lợi ích của giai cấp
thống trị.
Quan điểm của Kỳ na giáo và Phật giáo là hai quan điểm không giống nhau,
nếu không muốn nói là hai quan điểm mang tính xung đột lẫn nhau.
Trong “Kinh Trung Bộ”(Majjhima Nikàya), “Tiểu
kinh khổ uẩn” (Cula dukkha kkhandha suttam).
Phái Ni kiền tử đã trình bày quan điểm của mình như sau:
“ Nếu xưa kia ngươi có làm ác nghiệp, hãy làm
cho nghiệp ấy tiêu mòn bằng khổ hạnh khốc liệt này.... Như vậy, chính nhờ
sự thiêu đốt, sự chấm dứt các nghiệp trong quá khứ, sự không làm các
nghiệp mới, do vậy không có sự tiếp tục trong tương lai.........”.
Ðây là quan điểm tu tập của phái Kỳ na giáo. Họ
cho rằng, sự tu tập khổ hạnh là phương pháp để tiêu diệt những ác nghiệp
mà con người đã tạo ra trong quá khứ. Chính nhờ tu tập khổ hạnh mới có thể
thiêu đốt các nghiệp ác, là điều kiện cơ bản để con người đạt được hạnh
phúc, vươn tới cảnh giới giải thoát giác ngộ. Họ cho rằng, hạnh phúc không
thể đạt được hạnh phúc chỉ có khổ đau mới đạt được hạnh phúc, như nói:
“Hạnh phúc không thể thành tựu nhờ hạnh phúc,
hạnh phúc phải thành tựu nhờ đau khổ. Hiền giả Gotama, nếu hạnh phúc có
thể thành tựu nhờ hạnh phúc thời vua Magadha Seniya Bimbisara (Tần bà ta
ra) có thể đạt được hạnh phúc, và vua Magadha Seniya Bimbisara sống hạnh
phúc hơn tôn giả Gotama.”
Qua hai đoạn kinh trên, chúng ta thấy phương
pháp tu tập của phái Kỳ na giáo là tu tập khổ hạnh, lý do mà họ đưa ra
quan điểm này, vì chỉ có tu tập khổ hạnh mới có thể làm tiêu mòn những
nghiệp ác trong quá khứ, là điều kiện duy nhất để đạt được giải thoát giác
ngộ, đó là lý do tại sao họ đưa ra lập luận, hạnh phúc không thể thành tựu
nhờ hạnh phúc, hạnh phúc chỉ có thể thành tựu nhờ đau khổ. Vì nếu hạnh
phúc có thể thành tựu nhờ hạnh phúc thời vua Magadha Seniya Bimbisara (Tần
bà ta ra) có thể đạt được hạnh phúc.
Ðức Phật không chủ trương hạnh phúc đạt được
nhờ tu tập khổ hạnh, hay hạnh phúc nhờ hạnh phúc, là sự hưởng thọ những
vật dục ở thế gian. Ðức Phật cho rằng, con người chỉ có thể đạt được hạnh
phúc và giải thoát, khi người đó thành tựu giới, thành tựu thiền định và
thành tựu trí tuệ. Giới là điều kiện cơ bản để hành giả có thể chế ngự
những tham muốn thấp hèn ở thế gian; Thiền định là phương pháp huấn luyện
nhiếp phục tâm buông lung của con người, vì tâm buông lung không định tỉnh
là điều kiện phát sinh phiền não; Trí tuệ là kết quả của sự thành tựu giới
và thiền định, là khả năng phân biệt giữa pháp bất thiện và thiện. Pháp
bất thiện là pháp tạo ra sự đau khổ cho con người, làm chướng ngại con
đường giải thoát, pháp thiện là pháp giúp cho con người thành đạt giải
thoát, nhờ vai trò trí tuệ, hành giả không thật hành pháp bất thiện, thực
hành pháp thiện. Do vậy, người ấy được giải thoát giác ngộ. Xuất phát từ
quan niệm như vậy, cho nên đức Phật không chấp nhận phương pháp tu tập khổ
hạnh, nhưng ngài cũng không chấp nhận đời sống hưởng thọ dục vọng, vì khổ
hạnh và hưởng thụ dục vọng chỉ mang lại khổ đau, không giúp ích gì cho
việc thực hiện con đường giải thoát.
Ðây là quan điểm khác nhau về phương pháp tu tập giữa đức Phật và phái Kỳ
na giáo, nhưng lý do nào dẫn đến phương pháp tu tập khác ?
Ðể trả lời câu hỏi này, chúng ta căn cứ “Kinh
Ưu bà ly”
tường thuật câu chuyện giữa đức Phật và những người của phái Kỳ na giáo,
trình bày quan điểm sự khác nhau về nghiệp như sau:
- Thế Tôn hỏi: Theo chủ trương của phái Ni kiền
tử, có bao nhiêu sự trừng phạt (nghiệp) để không hành ác nghiệp, không tạo
ác nghiệp?
- Ni kiền tử đáp: Thưa Cù đàm, theo Tôn sư của
tôi giảng dạy, có ba sự trừng phạt để không hành ác nghiệp, không tạo ác
nghiệp. Ðó là sự trừng phạt bằng thân, bằng miệng và bằng ý.
- Thế Tôn hỏi tiếp: Có sự khác biệt gì giữa thân phạt, khẩu phạt và ý phạt
?
- Ni kiền tử đáp: Thưa Cù đàm, theo chúng tôi ba phạt này không giống
nhau.
- Thế Tôn hỏi tiếp: Trong ba phạt này, phạt nào
được xem là quan trọng ?
- Ni kiền tử đáp: Thưa Cù đàm, theo Tôn sư của
chúng tôi cho rằng, thân phạt được xem là quan trọng...ý phạt được xem là
nhẹ nhất.
Sau khi trình bày xong về quan điểm của mình,
phái Ni kiền tử hỏi đức Phật.
- Sa môn Cù đàm chủ trương có bao nhiêu trừng
phạt để không hành ác nghiệp, không tạo tác ác nghiệp ?
- Này Ni kiền tử, ta không giảng về phạt để
không hành ác nghiệp, không tạo ác nghiệp. Ta chỉ giảng về nghiệp để không
hành ác nghiệp, không tạo ác nghiệp.
- Ni kiền tử hỏi: Theo sa môn Cù đàm chủ trương
có bao nhiêu nghiệp ?
- Thế Tôn đáp: Ta chủ trương có ba nghiệp để
không hành ác nghiệp, không tạo ác nghiệp. Ðó là thân nghiệp, khẩu nghiệp
và ý nghiệp.
- Ni kiền tử hỏi: Có sự khác biệt gì giữa ba
nghiệp này ?
- Thế Tôn đáp: Ba nghiệp này khác nhau.
- Ni kiền tử hỏi: Theo sa môn Cù Ðàm trong ba
nghiệp này, nghiệp nào được xem là quan trọng ?
- Thế Tôn đáp: Trong ba nghiệp này, ý nghiệp được xem là nghiệp quan trọng
nhất.
Cuộc đối thoại trên giữa phái Ni kiền tử và đức
Phật, là cuộc đối thoại nói lên quan điểmï khác biệt về nghiệp. Ở
đây, chúng ta thấy, phái Ni kiền tử diễn tả về hành vi tạo tác ác hạnh,
phái này không dùng chữ “nghiệp” mà dùng chữ “ trừng phạt”,
vì chủ trương lấy việc tu tập khổ hạnh để tiêu diệt những ác hạnh về thân,
khẩu và ý, lý do dùng từ này có lẽ là muốn nhấn mạnh về việc tu khổ hạnh.
Ngược lại cũng mô tả về hành vi tạo ác hạnh này, đức Phật không dùng chữ
“trừng phạt” mà dùng từ “nghiệp”. Thật ra, hai khái niệm
này, tuy khác nhau về cách dùng từ, nhưng cùng giống nhau về ý nghĩa. Một
điểm quan trọng mà chúng ta cần lưu ý ở đây là: Phái Kỳ na giáo cho rằng,
trong ba nghiệp, thân nghiệp là nghiệp quan trọng nhất, nhưng đức Phật lại
cho rằng, trong ba nghiệp, ý nghiệp là nghiệp quan trọng. Kỳ na giáo chủ
trương thân nghiệp là nghiệp quan trọng, cho nên phái này lấy việc tu tập
khổ hạnh làm phương pháp tu tập để làm tiêu mòn những ác nghiệp trong quá
khứ, là điều kiện để được giải thoát giác ngộ. Ngược lại, đức Phật lại chủ
trương trong ba nghiệp, ý nghiệp là nghiệp quan trọng, vì ngài cho rằng, ý
nghiệp là chủ nhân của tất cả hành động, một hành động không có ý thức
không thể thành nghiệp. Nói một cách khác, tất cả những hành vi sai
lầm trong cuộc sống của chúng ta đều do ý thức chỉ đạo, do vậy, con người
muốn sửa sai những hành động của mình, trước tiên phải thay đổi nhận thức
sai lầm từ bên trong, sự sửa đổi sai lầm của nhận thức là điều kiện cơ bản
để chúng ta thành tựu con đường giác ngộ. Như vậy, sự hành hạ về thể xác,
không thay đổi nhận thức sai lầm là sự hành hạ vô ích, không giúp được gì
cho sự giác ngộ và giải thoát khổ đau. Ðây là quan điểm khác nhau về
nghiệp giữa Phật giáo và Kỳ na giáo.
---o0o---
Mục Lục |
1 |
2 | 3 |
4 |
5
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-09-2002