NGUYÊN NHÂN NÀO LÀM CHO CÁC TRIỀU VUA ĐẦU ĐỜI TRẦN HƯNG THỊNH ?
Thích Phước Sơn
Bất cứ người Việt Nam nào khi xem qua lịch sử
dân tộc cũng đều thừa nhận triều đại nhà Trần là một trong những triều đại
hưng thịnh và vẻ vang nhất trong lịch sử nước ta. Nguyên nhân nào đã đưa
đến sự hưng thịnh ấy ? Đó là câu hỏi mà các nhà nghiên cứu sử học xưa nay
đã nêu ra nhiều giải đáp. Thế nhưng, hình như chưa có một giải đáp nào làm
cho tất cả mọi người hoàn toàn thỏa mãn. Do đó, việc tìm hiểu những nguyên
nhân kia vẫn còn là trách nhiệm đặt ra cho mỗi chúng ra. Sau đây chúng tôi
xin nêu lên một vài dẫn chứng lịch sử để góp phần làm cho vấn đề trên thêm
sáng tỏ.
1.
Đức anh minh, nhân ái, yêu dân của các vua đầu đời Trần
Nhằm mục đích chấn hưng nền học vấn nước nhà, tháng 6 năm Nguyên Phong thứ
ba (1925) vua Thái Tông (1225 - 1258) lập ra Quốc Học Viện, cho người đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công, Mạnh Tử, và vẽ tranh 72 người hiền để thờ (Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư, tập II. Nxb. KHXH Hà Nội 1985).
Qua việc làm ấy chứng tỏ Thái Tông có tầm nhìn xa, thấy rộng, có tinh thần
khoáng đạt, cởi mở. Với cương vị là một Phật tử, chẳng những ông không kỳ
thị Nho giáo, mà trái lại ông còn nỗ lực xiển dương Nho học, quý trọng
nhân tài, tạo điều kiện cho Quốc gia trở nên cường thịnh. Thế thì ông đã
biết đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên quyền lợi của bản thân và tôn
giáo mình. Việc tha tội Hoàng Cự Đà sau đây càng chứng tỏ điều đó.
Vì
không được ăn xoài do vua ban, Hoàng Cự Đà tức giận đào ngũ khi quân giặc
đến. Sau khi tan giặc, triều đình đòi xử tội Cự Đà, vua nói: "Tội của Cự
Đà thật đáng chết, nhưng đó là do lỗi của ta. Nay tha tội chết, cho đánh
giặc lập công để chuộc tội. (Sđd - 26)
Đức anh minh, nhân ái của Thái Tông như thế, nên khi bàn về vua, sử gia
Phan Huy Chú (1782 - 1840) đã viết: "Thiến tính vua rất nhân hậu, tin dùng
hiền tài, định ra các lễ nghi, hình luật, pháp độ điển chương, thật đáng
khen ngợi". (Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí).
Để
thấy rõ hơn hành động của Thái Tông, chúng ta có thể đọc thêm lời bình
phẩm sau đây của sử gia Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780): "Mấy năm sau vua để tâm
đến việc học, nên tiến bộ rất nhiều, lại nghiên cứu sâu nội điển, làm sách
Khóa Hư Lục, mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như nhau, tuy ý tứ gần với
đạo "không tịch" mà chí khí thì xa rộng, cao siêu; cho nên bỏ ngôi báu như
trút đôi dép nát" (Việt Sử Tiêu Án - q.III).
Thiết tưởng qua ý kiến của hai sử gia trên đây cũng đã có thể minh họa
được phần nào chân dung một vị vua khai sáng đời Trần.
Kế
nghiệp của Thái Tông là Thánh Tông (1258 - 1278). Đức sáng suốt và lòng
nhân hậu của ông có thể nói là nối chí được vua cha. Khi triều đình mở dạ
yến, vua cùng ăn chung với các vương hầu tôn thất. Hôm nào trời tối không
về được, thì vua tôi cùng trải chiếu dài ngủ với nhau tại Hoàng cung rất
là thân mật. Vua từng nói với các người trong Hoàng tộc: "Thiên hạ là
thiên hạ của Tổ tông, người nối nghiệp của Tổ tông phải cùng hưởng phú quý
với anh em trong họ. Tuy bên ngoài có một người ở ngôi Tôn, được cả thiên
hạ phụng sự, nhưng bên trong thì ta với các khanh là đồng bào ruột thịt.
Lo thì cùng lo, vui thì cùng vui. Các khanh nên truyền những lời này cho
con cháu để chúng đừng quên, thì đó là phúc muôn năm của tông miếu xã
tắc". (Sđd - 35)
Chẳng những đối với gia tộc của vua cư xử đầy lòng nhân hậu mà đối với
triều thần vua cũng tỏ ra độ lượng khoan dung. Khi quân Nguyên tiến vào
kinh thành, triều đình có người trở lòng giao thiệp với giặc. Đến khi giặc
rút, triều đình bắt được một tráp biểu hàng giặc của các quan. Có người
đòi khui ra để trị tội những kẻ phản trắc. Nhưng Thánh Tông (lúc này đã là
Thượng hoàng) sai đem đốt hết để yên lòng mọi người (Sđd - 63). Tư cách
đặc biệt của vua đã được Ngô Thì Sĩ mô tả: "Họp quần thần ở Bình Than, đãi
phụ lão ở Diên Hồng, không hạng người nào không hỏi đến… Nghĩ lại khi đi
Chí Linh, Vạn Kiếp, trận đánh Đại Than, Bạch Đằng, những lúc con thuyền
lênh đênh dùng bát cơm hẩm, vua tôi, cha con, vẫn một lòng lo sao cho nước
nhà qua cơn sóng gió". (Việt Sử Tiêu Án).
Và
sau đây là lời bình luận của sử thần Ngô Sĩ Liên: "Vua trung hiếu nhân từ,
tôi hiền, trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà
Trần được bền vững vậy". (ĐVSKTT. II. 28)
Đức nhân hiếu là cái gốc của mọi người, đối với bậc Đế vương đức tính ấy
lại càng cần thiết để thu phục nhân tâm, khiến cho mọi người tin yêu, kính
trọng và tuân phục, nhờ đó mới xây dựng được một triều đại hùng cương và
thịnh trị. Nối nghiệp vua cha, giữ gìn giềng mối xã tắc là Nhân tông (1279
- 1293), ông cũng nổi tiếng là bậc minh quân, như lời nhận định của sư
thần họ Ngô: "Vua bẩm thụ tinh anh của Thánh nhân, hình dáng đạo mạo, sắc
thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng…. nhân từ hòa nhã, cố
kết lòng người, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời muôn thuở, thật là bậc vua
hiền đức đời Trần". (Sđd - 42). Khi Toa Đô thua trận Tây Kết, bị quân ta
giết, đem đầu đến dâng vua, trông thấy đầu Toa Đô, vua thương hại nói:
"Người làm tôi nên như thế này". Rồi cởi áo bào bọc đầu Toa Đô, sai quân
đem liệm chôn. Cử chỉ ấy vừa biểu lộ phong độ của bậc Đế vương, lại vừa có
tác dụng cổ vũ tinh thần quân sĩ hết lòng vì nước.
Lúc ngự chơi bên ngoài, nếu gặp gia đồng của các vương quốc ở ngoài đường,
vua thường gọi lại thăm hỏi, không cho các vệ sĩ quát tháo họ, và bảo với
tà hữu: "Ngày thường thì có vệ sĩ tả hữu nhưng khi quốc gia lâm nạn thì
chỉ có bọn chúng có mặt" (Sđd - 66). Biểu lộ tình thương chân thật với
từng đứa gia đồng hèn mọn của các vương hầu, hành vi ấy còn có người làm
được, chứ yêu thương cả kẻ thù của mình thì chỉ có Nhân Tông, một người đã
thấm nhuần tinh thần từ bi, vị tha của Phật giáo, một Tổ sư Thiền mới làm
được như vậy mà thôi.
Năm 1293 Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông (1293 - 1314). Sau khi
lên ngôi, Anh Tông vâng đi chúc Thượng hoàng, gả công chúa Huyền Trân cho
chúa Chiêm Thành là Chế Mân (1306). Vua Chiêm dâng hai châu Ô, Lý để làm
sính lễ. Việc làm này của Anh Tông vừa giữ được lòng thành tín, vừa gây
tình thân thích với lân bang, vừa mở mang bờ cõi cho đất nước phú cường.
Một hôm, lễ rước linh cửu của Thượng hoàng Nhân Tông đã đến giờ mà dân
chúng còn đứng chật cả cung điện, quân tướng xua đuổi mấy dân chúng vẫn
không tan. Vua sai Trịnh Trọng Tử giải tán. Trọng Tử bèn tổ chức từng đội
quân, chia ra làm nhiều chỗ, hát những khúc Long ngâm, dân chúng thấy lạ
đua nhau đến xem, nhờ vậy mới rước được linh cửu của Thượng hoàng về an
trí ở lăng Quy Đức. Qua cảnh tượng này chúng ta thấy rõ lòng ái mộ của
nhân dân đối với triều đình và đức thân dân của các vua Trần.
Sau khi đã lên làm Thái Thượng hoàng, một hôm Thượng hoàng cho mời Huệ Túc
Vương vào cung đàm luận. Vốn hay bài xích Phật, Lão, thấy Thượng hoàng
đang ăn chay, Huệ Túc Vương nói: "Thần không biết ăn chay, ăn chay nào có
lợi ích gì". Thượng hoàng đón biết ý ông liền dụ rằng: "Ông cha ta ngày
xưa thường ăn chay, cho nên ta bắt chước đó thôi". Huệ Túc im lặng, lui ra
(Sđd - 114). Lời nói của Anh Tông sao mà thâm trầm, đôn hậu và cung kính
đến thế.
Đến khi Minh Tôn (1314 - 1329) lên nối ngôi chùa, ông cũng tỏ ra là một vị
vua nhân hậu, sáng suốt, xứng đáng giữ gìn sự nghiệp vẻ vang của cha ông.
Câu trả lời của vua với Hiệu khả cho ta thấy rõ điều đó. Một hôm Hiệu Kha
ca ngợi vua giỏi hơn Anh Tông, vua biến sắc mặt, ngăn không cho nói, và
trách: "Ai mà khen người khác giỏi hơn cha, thì đó hẳn là kẻ bất hiếu nên
mới nó ra lời ấy" (Sđd - 112). Cử chỉ này vừa tỏ lòng tôn kính vời Tiên
vương, vừa có tác dụng uốn nắn tính tình của Hiệu Khả.
Bấy giờ có người dâng sớ nói là trong dân gian có nhiều người sống lang
thang tới già vẫn không có hộ tịch, không chịu sưu dịch, thuế má gì cả.
Vua nói: "Nếu không có những người như thế thì sao có thể gọi là đời thái
bình ? Ngươi muốn ta trách phạt họ thì có được việc gì không ?" (Sđd -
137).
Nhân cách của vua thật đặc biệt nên sử thần Phan Phu Tiên đã khen ngợi:
"Minh Tông có bẩm tính nhân hậu, nối nghiệp thái bình, giữ vững được phép
tắc của Tổ tiên" (Sđd - 137).
Năm 1362 đời vua Dụ Tông (1314 - 1369), đất nước bị thiên tai, mất mùa,
dân chúng đói và bệnh, triều đình mở kho lấy tiền gạo đem phát cho dân. Ai
đau ốm thì được phát cho hai viên hồng ngọc sương, hai tiền và hai thăng
gạo (Sđd - 141). Để thấy rõ lòng nhân ái, đức sáng suốt và phẩm cách đặc
thù của các vua đời Trần như thế nào, chúng ta có thể nghe lời nhận xét
của Lê Quý Đôn (1726 - 1784): "Nét đặc sắc của triều đại nhà Trần là việc
truyền ngôi cho con (tr. 169)… Nhà Trần đãi ngội sĩ phu rộng rãi mà không
bó buộc, hòa nhã mà có lễ độ. Cho nên nhân tài thời ấy có chí khí tự lập,
hào hiệp cao siêu, vững vàng vượt ra ngoài thói thường làm rạng rỡ sách
sử, trên không hổ với trời, dưới không thẹn với đất. Ôi người đời sau có
thể theo kịp thế nào được ! Từ bản triều (nhà Lê) về sau phong độ ấy dần
dần không được nghe thấy nửa !" (Kiến Văn Tiểu Lục. Nxb. KHXH, 1977,
tr.258).
2.
Các tướng lĩnh văn võ toàn tài
a.
Giỏi quân sự
Quân Nguyên Mông là đoàn quân thiện chiến, đánh bộ giỏi, cưỡi ngựa hay,
vượt đường xa, từng đánh chiếm cả nửa châu Âu và rất tự hào là ít khi thất
bại. Thế mà ba lần sang xâm lược nước ta, cả ba lần đều chuốc lấy thất bại
thê thảm. Những chiến công lừng lẫy của quân dân ta có nhiều nguyên nhân
mà một trong những nguyên nhân đó chính là tài thao lược, đức dũng cảm của
các tướng lãnh lúc bấy giờ. Các tướng đã biết dùng sở trường của mình để
chọi sở đoản của dịch: 1. Dùng thủy chiến giao tranh với giặc; 2. Dùng
phục binh để đánh bất ngờ; 3. Dùng đội quân ái quốc đánh quân xâm lược; 4.
Dùng quân bản địa đánh quân viễn chinh; 5. Chận đánh các đoàn quân tiếp
tế.
Phàm là quân viễn chinh thì chúng rất lo ngại về phương diện tiếp tế.
Khánh Dư (? - 1339) hiểu rõ nhược điểm ấy của địch nên đã phục binh đánh
đoàn tiếp tế của quân Nguyên tại bến Vân Đồn, thu được quân lương và khí
giới vô số kể.
Ngày 28 tháng 11 năm 1287, Nhân Đức Hầu dùng thủy quân đánh thắng quân
giặc tại vũng Đa Mỗ, thu được nhiều chiến thuyền và khí giới. Đến ngày 8
tháng 3 năm 1288, quân ta lại đánh một trận quyết định tại sông Bạch Đằng.
Trận đánh này quân ta toàn thắng và giành được chiến công oanh liệt, thu
400 thuyền giặc, bắt sống Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ, kết thúc cuộc chiến. Khi
làm lễ mừng thắng trận tại Chiêu Lăng, Nhân Tông đã cảm hứng đọc hai câu
thơ:
"Xã tắc hai phen lao ngựa đá,
Non sông muôn thuở vững cơ đồ".
(Sđd - 60)
b.
Giỏi cả văn chương
Các tướng đời Trần không những giỏi quân sự mà còn có tài văn chương, biết
dùng ngòi bút để động viên quân sĩ. Đọc đoạn văn sau đây trong bài "Hịch
tướng sĩ"của Hưng Đạo Vương (1232 - 1300) ai mà không cảm kích:
"Huống chi ta dùng các ngươi sinh ra thời loạn lạc, gặp phải buổi gian
nan. Trông thấy tướng giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú
diều mà lăng nhục triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt Tổ phụ; thác mệnh
Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân
Nam vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem
thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao khỏi tai vạ về sau !".
"Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa; chỉ giận chưa thể xẻ thịt, lột da, ăn gan uống máu quân thù, dẫu cho
trăm thây này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng
cam lòng". (Thơ Văn Lý Trần, tập II - quyển thượng - tr. 392-Nxb. KHXH, Hà
Nội, 1988).
Rõ
ràng một sức kích động phát ra từ những lời văn như hồi trống giục, khiến
ta có liên tưởng đến lời nhận xét của Quang Trung về ngòi bút của Ngô Thời
Nhiệm: "Ngòi bút của Ngô Thời Nhiệm mạnh hơn cả mấy sư đoàn".
Trong lời di chúc lâm chung, Hưng Đạo Vương đã bàn về chiến lược quân sự
với vua Anh Tông; "Vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước dồn sức
lại thì chúng đành phải chịu trói… Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa to
gió táp thì đó là tình thế dễ chế ngự… Phải gây dựng một đội quân cha con
rồi có thể sử dụng được. Vả lại, nên dưỡng sức dân để làm kế gốc sâu rễ
bền, đó là thượng sách giữ nước vậy" (Sđd - 397).
Gây dựng một đội quân cha con, đó là mục đích mà Phạm Ngũ Lão (1255 -
1320) đã thực hiện được. Ông sống rất bình dị, đối xử với quân sĩ như
người thân, đồng cam cộng khổ, người bấy giờ gọi đoàn quân của ông là "Phụ
tử chi binh" (Sđd - 562). Ngoài ra ông còn có tài làm thơ, trong bài
"Thuật hoài" của ông toát ra một hùng khí ngất trời:
"Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu".
(Trần Trọng Kim - Việt Nam Sử Lược)
Cùng một giọng lẫm liệt và hùng tráng như vậy là giọng thơ của tướng Trần
Quang Khải (1241 - 1294)
"Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu".
(Sđd - 114)
Các tướng mỗi người một vẻ, khác với Quang Khải có giọng văn khí khái,
hùng hồng, Nhật Duật (1255 - 1330) thì tỏ ra thâm trầm và rất am tường
phong tục của thổ dân miền thượng, lại biết ràng ngôn ngữ của họ. Do đó
khi Trịng Giác Mật ở Đà Giang làm phản, ông cùng với tên lính hầu đến
thẳngg trại giặc, thuyết phục chúng đầu hàng. Giác Mật vì cảm phục và kính
trọng tài năng của ông nên đã đem cả gia thuộc xin hàng, khiến cho ba quân
không tốn mũi tên mà vẫn thu được thắng lợi.
Tướng tài của đời Trần còn nhiều, chúng ta có thể nhắc đến một vị tướng
vừa có tài xông pha trận mạc vừa giỏi binh pháp đó là tướng Trần Khánh Dư
(? - 1339). Khi đề tựa sách "Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư" của Hưng Đạo
Vương, ông viết: "Phàm người giỏi cầm quân thì không cần bày trận; giỏi
bày trận thì không cần giao chiến; giỏi giao chiến thì không thể thất bại;
khéo thất bại thì không bị tổn hại" (ĐVSKTT, 11, 82). Đời Trần sở dĩ có
nhiều tướng tài kiêm văn võ như vậy là vì: "Vua lập ra trường học, tôn
trọng nghề văn, dựng lên nhà tập võ, cả văn lẫn võ đều có vẻ rực rỡ lắm".
Đó là lời nhận xét của Ngô Thì Sĩ trong Việt Sử Tiêu Án. Ông tiếp: "Cho
nên các ông Hán Siêu, Trung Ngạn, Nhật Duật, Ngũ Lão, nối nhau xuất hiện.
Văn Trinh và Hưng Đạo là danh Nho, danh tướng lừng lẫy thời bấy giờ, đó là
kết quả của sự tôn trọng văn võ vậy".
3.
Những nhà ngoại giao xuất sắc làm vinh dự quốc gia
Khi Ô Mã Nhi tiến quân đến Đông Bộ Đầu, Nhân Tông muốn dò xét tình hình
của địch, bèn sai Đỗ Khắc Chung đến doanh trại của y nói là đến xin thương
thuyết. Để trấn áp tinh thần của sứ giả, Ô Mã Nhi cật vấn nhiều điều khúc
mắc, nhưng Khắc Chung vẫn bình tĩnh, thản nhiên đối đáp lưu loát, khiến
cho họ Ô rất khâm phục, bảo với các tướng của y: "Người này ở vào hoàn
cảnh bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên… giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục
mệnh vua, nước của nó có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". (Sđd - 51)
Tài ứng đối lanh lợi của sứ giả Việt Nam một lần nữa ta lại thấy xuất hiện
ở Mạc Đỉnh Chi (1284 - 1361) khi ông làm Trưởng đoàn ngoại giao đi sứ nhà
Nguyên năm 1308. Lúc tiếp xúc với triều thần phương Bắc ông đã làm cho họ
thán phục tài hùng biện của mình. Đến khi vào chầu, nhân lúc nước ngoài
dâng quạt, vua Nguyên bảo các quan làm bài Minh. Đỉnh Chi liền cấm bút
viết xong bài Minh như sau:
"Chảy vàng tan đá, trời đất như lò, ngươi bấy
giờ là Y, Chu Đại Nho.
Gió bấc căm căm, mưa tuyết mịt mù, ngươi bấy
giờ là Di, Tề, đói xo.
Ô ! Được dùng thì làm, bị bỏ thì nằm co, chỉ
ta dùng ngươi là như thế ru !".
(Sđd - 93)
Qua đó, vua tôi nhà Nguyên lại càng thêm khâm phục. Và tương truyền vua
Nguyên đã phong cho ông là "Lưỡng Quốc Trạng nguyên" (Trạng nguyên cả hai
nước).
Lại chuyện Nguyện Đại Phạp cầm đầu phái đoàn ngoại giao ta sang sứ nhà
Nguyên năm 1292. Khi vào thăm các quan hàng tỉnh, thấy Chiêu Quốc Vương
Ích Tắc ngồi đó, Đại Phạp chào hỏi mọi người, chỉ chừa Ích Tắc, Ích Tắc
hỏi: "Ngươi không phải là tên biên chép ở nhà Chiêu Đạo Vương đó sao ?".
Đại Pháp đáp: "Việc đời thay đổi, Đại Pháp trước vốn là tên biên chép cho
Chiêu Đạo Vương, nhưng nay là sứ giả, cũng như Bình Chương xưa kia là con
vua, mà nay lại là người hàng giặc". Ích Tắc có vẻ hổ thẹn. (Sđd - 66)
Chẳng những khi đi sứ sang phương Bắc, các sứ giả đã làm cho Bắc triều
phải kính nể người Việt Nam, mà lúc sang sứ phương Nam, các nhà ngoại giao
ta cũng làm cho họ phải thay đổi cả thông lệ. Theo nghi lễ Chiêm Thành, sứ
giả khi vào triều phải lạy chúa Chiêm trước, rồi mới đọc chiếu thư. Nhưng
khi Nhữ Hài đến đó, lúc vào triều kiến bưng chiếu thư để trên án nói với
chúa Chiêm: "Từ khi sứ Thiên triều mang chiếu thư của Thiên tử sang, xa
cách long nhan lâu ngày, nay mở chiếu thư thật như trông thấy mặt Thiên
tử, nên tôi phải lạy chiếu thư đã rồi mới tuyên đọc". Từ đó về sau, sứ
thần ta sang Chiêm Thành không còn lạy vua Chiêm nữa (Sđd - 86). Vì vậy,
Thượng hoàng Nhân Tông khen: "Nhữ Hài đúng là người giỏi".
Cố
nhiên nhân tài thời nào cũng có nhưng các sứ giả ngoại giao đi sứ nước
ngoài đã không làm mất thể diện quốc gia, mà còn khiến cho các lân bang
phải kính nể, thán phục thì phải thừa nhận đời Trần thật là đặc sắc.
4.
Trên dưới đoàn kết một lòng
Nhờ có đời sống gương mẫu, các vua đời Trần đã cố kết được lòng người,
khiến cho toàn dân đoàn kết, trên dưới một lòng, thậm chí đứa trẻ con cũng
thấy mình có trách nhiệm khi tổ quốc lâm nguy. Vì vậy mà triều đình họp
bàn việc chống giặc ngoại xâm, Hoài Văn Hầu Quốc Toản hận mình còn nhỏ,
chưa được phép tham dự, phẩn khích, bóp nát quả cam đang cầm trong tay lúc
nào không biết. Sau đó lui về, huy động gia nô, sắm sửa vũ khí, dực một lá
cờ để lên sáu chữ: "Phá cường địch báo hoàng ân". (Phá giặc mạnh, báo ân
vua); rồi tự động điều quân, xông pha đánh giặc (Sđd - 46)
Thượng tướng Quang Khải và Hưng Đạo Vương vốn ít thân nhau, người ta ngờ
rằng giữa hai bên có điều gì hiềm khích. Để giải mối nghi ấy, một hôm hai
người gặp nhau, bèn tắm cho nhau. Hưng Đạo nói: "Hôm nay được tắm cho
Thượng tướng". Quang Khải cũng nói: "Hôm nay được Quốc công tắm cho". Từ
ấy tình nghĩa qua lại giữa hai người càng thêm đậm đà thân mật (Sđd - 70).
Một chi tiết rất nhỏ này đã nói lên cái ý nghĩa rất lớn: tinh thần đoàn
kết giữa mọi người. Nhất là ý thức gia đình, tình gia tộc keo sơn. Đọc
trong lịch sử xưa nay, chúng ta ít thấy có triều đại nào mà tình gia tộc
nồng nàn như triều đại đầu nhà Trần.
"Đánh", tiếng hô thốt ra từ cửa miệng của các bô lão tại Hội nghị Diên
Hồng do Thượng hoàng Thánh Tông triệu tập. Đấy là biểu hiện của sự nhất
trí và quyết tâm cao, đồng thời là sự thách thức đối với dã tâm xâm lăng
của địch. Có lẽ sử thần họ Ngô đã nói đúng khi nhận định về việc này:
"Giặc Hồ vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai vua hiệp mưu, bề tôi họp
bàn, há lại không có kế sách gì chống giặc hay sao mà phải đợi ban yến hỏi
kế của phụ lão ? Là vì Thánh Tông muốn làm thế để xét lòng thành ủng hộ
của dân chúng, và để dân chúng nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên
thôi. Đó là giữ được cái nghĩa người xưa nuôi người già để xin lời hay
vậy" (Sđd - 44).
Ba
lần chiến thắng quân Nguyên, tạo ra một đoạn sử hiển hách nhất của dân
tộc, phải chăng các vua Trần đã khéo lợi dụng được sự nhất trí của toàn
dân ? Trong dân gian Việt Nam có câu: "Đoàn kết chặt chẽ thì sống, chia rẽ
sụt sùi thì chết". Thế thì sự đoàn kết quả là một trong những yếu tố quyết
định thành công của một tập thể.
5.
Tinh thần tự tín, tự cường
Tinh thần đoàn kết là một yếu tố cần thiết, nhưng muốn được đoàn kết, nhà
lãnh đạo phải có ý chí tự tín, quyết đoàn thì mới thuyết phục được mọi
người tuân theo mệnh lệnh của mình.
Tháng 12 năm 1225 thế giặc đang tiến mạnh, quân ta phải lui về giữa sông
Thiên Mạc, Thái Tông liền dời thuyền đến chỗ Thái sư Trần Thủ Độ (1194 -
1264) hỏi kế chống giặc. Thấy tâm trạng đang lo lắng của Thái Tông, Thủ Độ
trả lời: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo gì cả". (Sđd - 26)
Lời nói đầy tự tín của Thủ Độ có một tác dụng rất lớn, vừa khiến cho Thái
Tông yên lòng, vừa động viên mạnh mẽ lòng dũng cảm chiến đấu của ba quân.
Cùng một lối cương quyết và đầy khí phách là câu trả lời của Hưng Đạo
Vương với Thánh Tông. Khi quân Nguyên đang rầm rộ vào kinh thành, Thánh
Tông giả vờ hỏi ông: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi". Hưng Đạo trả
lời: "Bệ hạ chém đầu thần trước rồi hãy hành". Và một lần khác vua Nhân
Tông đến hỏi tình hình quân giặc thì ông đáp tỉnh bơ: "Năm nay đánh giặc
nhàn" (Sđd - 57).
Thủ Độ có công xây dựng cơ nghiệp nhà Trần, có tinh thần gia tộc rất mạnh,
việc gì cũng lo toan chu đáo, hành động thì cương quyết, tự tin. Kế thừa
truyền thống gia đình, Hưng Đạo tỏ ra là một bậc anh hùng lỗi lạc, văn võ
song toàn. Vừa tự tin vào tài năng của mình, vừa biểu lộ một tấm lòng yêu
nước cực độ. Nhân cách và tài trí của ông khiến cho triều đình vững lòng,
quân sĩ phấn khở. Ba lần chiến thắng quân Nguyên, công ông không nhỏ. Phải
chăng vì vậy mà tục ngữ có câu: "Anh hùng làm nên lịch sử" ? Mỗi lần giở
lại trang sử xem, chúng ta không khỏi xúc động và hãnh diện nhớ đến hình
ảnh lẫm liệt của bậc anh hùng xuất chúng đời Trần.
6.
Tinh thần độc lập tự chủ
Tinh thần tự tín, tự cường cần thiết để xây dựng đất nước như thế nào thì
tinh thần độc lập, tự chủ cũng không kém phần quan trọng trong công cuộc
dựng nước và giữ nước. Bằng tinh thần độc lập, các văn nhân nước ta đã có
ý thức tạo ra một thứ chữ riêng cho dân tộc gọi là chữ Nôm. Công việc này
đã manh nha từ trước, nhưng phải đến đời Trần nó mới hoàn chỉnh. Bài "Văn
tế cá sấu" nổi tiếng của Nguyễn Thuyên là một ví dụ. Ông làm bài văn này
giống như việc tế cá sấu trước kia của Hàn Dũ, nên được vua Nhân Tông ban
cho họ Hàn gọi là Hàn Thuyên. Nhưng rất tiếc bài văn ấy nay không còn nữa.
Ngoài ra chúng ta còn thấy Nhân Tông có hai bài là "Cư trần lạc đạo phú"
và "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca"; Huyền Quang (1254 - 1334) có "Vịnh
Vân Yên tự phú" và tương truyền Mạc Đỉnh Chi có "Giáo tử phú". May thay
các áng văn này ngày xưa chúng ta còn giữ được. Đó là những bảo vậy trong
kho tàng văn học nước nhà.
Tính độc lập tiêu biểu nhất là câu trả lời của vua Minh Tông (1314 - 1329)
với triều thần. Nhân các ông Lê Quát, Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi chế độ,
vua nói: "Nước ta đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau, nếu nghe theo
kế của bọn học trò mặt trắng cốt tìm đường tiến thân, thì chỉ thêm loạn mà
thôi" (Sđd - 138).
Vua Nghệ Tông (1370 - 1372) cũng nói: "Triều đình dựng nước, tự có pháp độ
riêng, không theo chế độ nhà Tống là vì Nam Bắc đều làm chủ nước mình,
không cần phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Trị (1358 - 1369) kẻ học trò
mặt trắng làm việc nước không hiểu thâm ý khi lập ra pháp độ, cho nên đem
pháp chế cũ của Tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc, như y phục, ca nhạc
và nhiều thứ khác. Bắt đầu từ nay, chính trị phải trở lại đúng lệ đời Khai
Thái (1324 - 1329).
Qua đó chúng ta thấy rõ ý thức tự chủ quốc gia và tinh thần độc lập dân
tộc của các vua đầu nhà Trần và những nhà yêu nước tiến bộ. Họ muốn tạo ra
một bản sắc đặc thù Việt Nam, tách rời những ảnh hưởng của phương Bắc,
bằng một niềm tự hào về những truyền thống tốt đẹp của cha ông.
7.
Những phẩm cách đặc biệt
Người xưa nói: "Nhất gia nhân, nhất quốc hưng nhân" (một nhà có lòng nhân,
thì cả nước có lòng nhân). Phải chăng nhờ ảnh hưởng tinh thần độc lập và
tự trọng của các vua Trần mà Bình Trọng đã khẳng khái trả lời với tướng
giặc khi ông bị bắt ? Biết ông là bậc danh tướng, quân giặc muốn thuyết
phục ông hàng, nhưng Bình Trọng thét lớn: "Ta thà làm quỷ nước Nam, quyết
không làm vương đất Bắc" (Sđd - 51). Lời khẳng định ấy vừa biểu lộ khí
phách hào hùng của một viên danh tướng, vừa tự gắn chặt mình với hồn thiên
sông núi thân yêu.
Trần Liễu (1211 - 1251) vốn đau buồn vì việc mất Thuận Thiên, có ý hiềm
oán Thái Tông, nên khi lâm chung cầm tay Quốc Tuấn bảo phải chiếm lấy ngôi
báu. Quốc Tuấn không cho là phải. Sau đó muốn thử lòng hai kẻ tùy tướng là
Dã Tượng và Yếu Kiêu, Quốc Tuấn bèn đem lời cha dặn nói với hai ông. Hai
ông cùng đáp: "Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng nhơ
muôn thuở. Nay Đại vương há chẳng đủ phú quý hay sao ? Chúng tôi thể xin
chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu" (Sđd
- 77). Quốc Tuấn là bậc danh tướng có học thức rộng nên phân biệt phải
trái, điều đó cũng dễ hiểu. Nhưng hai người kia là kẻ tùy tướng, ít học mà
biện luận sáng suốt, có nghĩa khí cao thượng như vậy đáng thán phục.
Đó
là khí phách đặc biệt của các võ tướng, và đây là đức kiêm khiết của một
danh thần. Đỉnh Chi vốn tính thanh liêm, nên gia thế rất thanh bạch. Vua
thương tình cảnh ấy, sai người ban đêm mang 10 quan tiền bỏ vào nhà ông.
Hôm sau vào chầu, ông cứ tình thực tâu lên vua việc ấy; vua bảo: "Nếu
không ai nhận, khanh cứ lấy mà dùng" (Sđd - 108).
Bề
tôi thì sống đạm bạc kiêm khiết, nhà vua thì quan tâm đến đời sống của mỗi
triều thần. Ôi, thực là cảnh vua Thánh, tôi Hiền hiếm có!
Ngoài ra có Chu Văn Trinh (? - 1370) là người thẳng thắn, cương nghị, giữ
bền tiết tháo không cầu danh lợi. Khi dâng "Thất trảm sớ" (Sớ xin chém 7
tên nịnh thần) lên vua Dụ Tông (1314 - 1369), không thấy vua trả lời, ông
bèn giũ áo từ quan, về nhà mở trường dạy học. Học trò ông có nhiều người
đỗ đại khoa, giữ những chức vụ trọng yếu trong triều đình. Phạm Sư Mạnh,
Lê Quát làm đến Hành Khiển mà vẫn giữ lễ học trò; khi đến thăm thầy thì
lạy ở dưới giường, được hầu chuyện cùng thầy thì mừng lắm. Ai có điều
không tốt thì ông thẳng thắn nghiêm trách; thậm chí quát đuổi không cho
gặp mặt. Nhân cách đặc biệt của ông như thế nào qua lời bình luận của sử
thần Ngô Sĩ Liên sau đây có thể thấy rõ: "Văn Trinh thờ vua rất thẳng
thắn, can ngăn, xuất xử làm theo nghĩa lý, đào tạo nhân tài thì công khanh
đều ở cửa ông mà ra, tiết tháo cao thượng thì Thiên tử cũng không thể bắt
làm tôi được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được nghiêm,
giọng nói lẫm liệt mà bọn nịnh hót phải sợ. Ngàn năm sau nghe phong độ của
ông, há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết tự
lập hay sao ? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ thì ai biết thụy hiệu của ông
xứng đáng với con người của ông. Ông thực đáng được xem là ông Tổ của nhà
Nho nước Việt ta và đáng được đem thờ vào Văn miếu vậy" (Sđd - 153).
Xem thế đủ thấy nhân cách và đạo đức của các bậc tôi Hiền là những nhân tố
rất thiết yếu để xây dựng một xã hội có tôn tri trật tự và ổn định nhiều
mặt. Phẩm hạnh của họ là những tấm gương sáng để mọi người noi theo, và
nhờ đó tạo thành giềng mối kỷ cương cho một xã hội lý tưởng.
Những nguyên nhân mà chúng ta đã tìm hiểu trên kia tạo thành các nhân tố
tích cực để đưa đất nước đến phú cường. Điều đó hiển nhiên. Nhưng thử hỏi
động lực nào đã tựu thành các nguyên nhân ấy, và nguyên nhân nào là cốt
lõi trong tất cả các nguyên nhân ? Có lẽ đó là:
8.
Đời Trần đã lấy Phật giáo làm Quốc đạo
Trong bài văn bia chùa Thiên Phúc, Lê Quát than phiền: "Cái thuyết họa
phúc của nhà Phật sao mà cảm động lòng người sâu sắc đến thế ? Trên từ
vương công, dưới đến thứ dân, hễ nói đến việc bố thí cúng dường Phật sự
thì dù hết của, hết tiền cũng không tiếc. Ngày hôm nay được cúng dường vào
việc xây chùa, dựng tháp thì lấy làm hân hoan như là ngày hôm mai sẽ được
báo ứng tốt đẹp. Thế nên từ trong kinh thành đến ngoài châu phủ, khắp nơi
thôn cùng ngõ hẻm, không cần ra lệnh mà cũng tuân theo, không bắt phải thề
mà vẫn giữ đúng. Hễ chỗ nào có nhà thì ở đó có chùa Phật. Chùa hư nát thì
sửa lại, lâu đài chuông trống chiếm đến phân nửa dân cư. Sự hưng thịnh của
đạo Phật quá dễ dàng mà sự tôn sùng thì rất mực". (Việt Nam Phật Giáo Sử
Luận - I - Nguyễn Lang - tr.413). Và văn bia chùa Khai Nghiêm của Trương
Hán Siêu (? - 1354) viết: "Tượng giáo đặt ra là để đức Phật dùng làm
phương tiện tế độ chúng sanh, khiến cho người ngu không biết, người mê
không ngộ nương vào đó mà trở về đường thiện… Vì thế những nơi u nhã thanh
kỳ trong nước, chùa chiền đã chiếm một nửa". (TVLT-II. thượng.748).
Tuy hai nhà Nho Siêu, Quát không ưa đạo Phật, có ý chỉ trích, nhưng qua đó
chúng ta thấy hai ông đã chứng minh một cách cụ thể đạo Phật lúc bấy giờ
rất hưng thịnh, trên từ vương khanh, dưới đến lê dân đều rất mực tôn sùng.
Giáo lý từ bi cứu khổ, nhân quả thiện ác đã thấm nhuần sâu sắc trong mọi
tầng lớp nhân dân. Ngoài ra nếu đọc các tư liệu khác (như Khóa Hư Lục, Tuệ
Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, Tam Tổ Thực Lục v.v…) chúng ta sẽ thấy đạo Phật
lúc bấy giờ đã khéo triển khái những khía cạnh tích cực, sinh động, thực
tiễn và tiến bộ để đáp ứng những nhu cầu thiết thực của thời đại. Sau đây
là một số đặc điểm nổi bật:
a.
Tinh thần độc lập tự cường:
Phật giáo Việt Nam tiếp thu hai nguồn ảnh hưởng từ Ấn Độ và Trung Hoa,
trải qua thời gian, các Thiền sư đã dần dà dung hợp để tạo thành một bản
sắc đặc biệt Việt Nam. Đó là phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà Trần Thái Tông
là người có công lớn trong sự khai phá. Kế thừa truyền thống của cha ông,
Trần Nhân Tông đã xây dựng hoàn chỉnh một phái Thiền độc lập gọi là "Trúc
Lâm Yên Tử" mà ông là đệ nhất Tổ. Vị Tổ sư thứ hai là Pháp Loa (1284 -
1330) và thứ ba là Huyền Quang (1254 - 1334) cùng tiếp tay nhau xiển dương
phái Thiền này ngày thêm rực rỡ.
Theo sách "Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh" của Thiền sư Chân Nguyên (1647
- 1726) thì trong đời Trần Thái Tông có hai Thiền sư Trung Hoa là Thiên
Phong vằ Tống Đức Thành sang Việt Nam. Hai ông sang Việt Nam không phải vì
mục đích truyền giáo mà vì nghe tin Thái Tông đắc đạo nên tìm đến để thụ
giáo. Mặc dù hai ông sau này có đóng góp vào sự chấn hưng Thiền học Việt
Nam, nhưng điều đó đủ nói lên tính chất độc lập và tinh thần tự lực cao độ
của Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.
b.
Tinh thần nhập thế hành động
Các vua Thái Tông, Thánh Tông và Nhân Tông vừa lo việc triều chính, vừa
học đạo, hành Thiền. Đối với các ông, sự tu học gắn liền với mọi sinh hoạt
của cuộc sống đời thường, và liên hệ chặt chẽ với những hoạt động của mọi
người trong xã hội. Thánh Tông thì vừa dự yến, vừa bàn đạo Thiền; Tuệ
Trung Thượng Sĩ (1230 - 1291) thì "hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời
bụi bặm"; và Nhân Tông thì "cư trần lạc đạo" một cách ung dung:
"Ở
đời vui đạo cứ tùy duyên,
Hễ đói thì ăn, mệt nghỉ liền.
Châu báu đầy nhà đừng chạy kiếm,
Lặng lòng đối cảnh hỏi chi Thiền ?"
(VNPGSL.I.NL.316)
c.
Tinh thần phóng khoáng, tự do
Mặc dù Phật giáo đời Trần có địa vị là một Quốc giáo, các vua Trần lại là
những Phật tử nhiệt thành, thế nhưng họ không muốn giành quyền độc tôn cho
đạo Phật, mà lại khuyến khích giúp đỡ Nho giáo và Đạo giáo phát triển
trong tinh thần dung hợp với quan niệm "Tam giáo đồng nguyên". Việc lập
văn miếu để thờ Khổng Tử (551 - 479 tr.TL) và các vị Tiên hiền của Thái
Tông nói lên ý nghĩa cởi mở và bao dung của đạo Phật.
d.
Tinh thần Thiền, Tịnh đồng hành
Trong sách "Khóa Hư Lục" (Việt Nam Phật Điển Tùng San. Tổng hội Phật giáo
Bắc Kỳ, 1943) chúng ta thấy Thái Tông vừa bàn đến phương pháp tham Thiền
vừa luận về pháp môn Tịnh độ, vừa đặt ra những khóa lễ sám hối để hành trì
sáu thời trong mỗi ngày. Như vậy rõ ràng Thiền và Tịnh không tách rời
nhau. Trong "Thượng Sĩ Ngữ Lục" - dù là một quyển Ngữ Lục, nặng tính chất
Thiền học, nhưng Tuệ Trung vẫn đề cập đến Tịnh độ:
"Đức Phật Di-đà ẩn đáy lòng,
Pháp thân châu biến khắp Tây Đông".
và
trong "Cư trần lạc đạo" Nhân Tông viết:
"Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương, Di-đà là tính
sáng soi, lọ phải nhọc tìm về Cực lạc".
đ. Ít dùng Mật giáo, chuộng sự trong sáng
Đạo Phật Việt Nam vào cuối đời Lý pha trộn nhiều tính chất Mật giáo, nhất
là phái Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, các Thiền sư thường khai thác những diệu
dụng của Mật giáo để cầu mưu, trị bịnh, v.v… Thế nhưng, bước sang đầu đời
Trần, sắc thái Mật giáo dường như rất ít. Chỉ đến đời Pháp Loa mới chú
trọng đến những lễ Quán đỉnh và một vài hình thức khác.
Trúc Lâm (Nhân Tông) sau khi xuất gia, hoạt động rất tích cực, thường đi
khắp châu phủ, khuyên dân chúng phá bỏ các dâm từ (đền thờ sinh thực khí)
và thực hành giáo lý Thập Thiện (Tam Tổ Thực Lục).
Như vậy, Phật giáo bấy giờ chú trọng xiển dương những phương diện tích
cực, thực tiễn và trong sáng; tước bỏ những yếu tố nào xét thấy không còn
thích hợp với những sinh hoạt đương thời.
Tóm lại, trong một đất nước có vua sáng, tôi hiền, triều đình hòa mục,
trên dưới một lòng, trên từ Thiên tử, dưới đến thứ dân, từ một em bé thơ
ngây đến những cụ già đầu bạc, tất cả đều một lòng vì dân, vì nước. Trong
mọi lãnh vực quân sự, ngoại giao, giáo dục, chính trị, đều có những nhân
tài xuất chúng. Mọi người trong xã hội đều có tinh thần độc lập, tự chủ,
tự tín và tự cường. Như thế, tất nhiên có đủ điều kiện để xây dựng một
quốc gia hùng mạnh. Nhưng điều quan trọng hơn hết chính là tư tưởng chủ
đạo để hướng dẫn tất cả mọi hoạt động ấy. Đó chính là tinh thần Phật giáo.
Một tinh thần nhập thế hành động, từ bi cứu khổ, lấy con người làm đối
tượng để phụng sự.
Các vua Thái Tông, Thánh Tông, và Nhân Tông vừa là một vị nguyên thủ quốc
gia, vừa là một nhà lãnh đạo tinh thần. Họ là những nhà chính trị xuất
chúng, đồng thời cũng là những nhà đạo đức gương mẫu. Họ vừa có kiến thức
thế học vững chắc lại vừa có trình độ Phật học uyên thâm. Họ dùng đạo Phật
để phục vụ cho mục đích chính trị, nhưng đó là một nền chính trị nhân bản,
lấy con người làm trung tâm điểm.
Hình ảnh một lãnh tụ quốc gia cầm quân ra trận khi Tổ quốc lâm nguy mà
đồng thời cũng là một Thiền sư siêu thoát lúc đất nước thanh bình, đó là
kết tinh kỳ diệu của một nền Phật giáo tự chủ, trong một quốc gia độc lập
phú cường.
---o0o---
Vi Tính: Ngọc Dung
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-05-2003