Cảm tạ xứ Đức
Thích Như Điển
Phật lịch
2546 - 2002
Trung
tâm văn hóa xã hội Phật Giáo Việt Nam
---o0o---
Chương I.
Đôi nét về nước Đức
Người
Việt Nam chúng ta hiểu như thế nào về nước Đức và người Đức? Có lẽ mỗi
người sẽ có một câu trả lời khác nhau và cũng tùy theo ngành nghề chuyên
môn mà có cái nhìn khác nhau vậy. Dĩ nhiên trong ấy cũng có lắm điều được
khen, đồng thời cũng có lắm điều bị chê. Tuy nhiên ở sách nầy tôi không
trình bày những điều không tốt, mà chỉ trình bày những điểm đặc biệt của
dân tộc Đức, kể từ khi lập quốc vào đầu thế kỷ thứ 10 đến nay. Nghĩa là
hơn 1.000 năm qua nhiều vấn đề dựa trên sách sử, để nhiều người Việt Nam
nếu chưa có cơ hội làm quen, thì đây là cơ hội vậy.
Đứng về phương diện
lịch sử mà nói nước Đức được chính thức thành lập vào năm 911 bởi nhà vua
Konrad I và những tước hiệu của vua được thay đổi như: Frảnkischer König,
Römischer König. Cho đến thế kỷ thứ 11 đổi thành Römisches Reich; thế kỷ
thứ 13 trở thành Heiliges Römisches Reich; thế kỷ thứ 15 thành Deutscher
Nation (Ạ). Chữ "deutsch" bắt đầu biết đến từ thế kỷ thứ 8 và sau đó kể từ
miền Nam nước Pháp tiếng Đức nầy được lan rộng mãi cho đến ngày hôm nay
qua bao nhiêu thay đổi của hơn 1.000 năm lịch sử vậy.
Nước Việt Nam chúng
ta được gọi là nước có 4.000 năm văn hiến; nhưng nếu xem sử Nhật Bản hay
sử Trung Quốc và ngay cả sử thế giới, họ cũng chỉ công nhận nước chúng ta
từ năm 938 nghĩa là sau khi Ngô Quyền xưng vương mà thôi. Kể ra như vậy
giữa nước Việt Nam và nước Đức, tuy hai nước Đông Tây khác nhau về địa lý,
ngôn ngữ, khí hậu, nhưng thời gian chính thức hình thành một quốc gia
không sai biệt bao nhiêu năm. Nghĩa là nước Đức được biết đến năm 911. Còn
nước Việt Nam được chính thức độc lập tự chủ từ năm 938. Kể từ đó đến nay
Việt Nam bị mấy lần đô hộ của Trung Hoa, Pháp, Nhật và sự hiện diện của
người Nga cũng như người Mỹ. Nước Đức cũng không tránh khỏi những số phận
hẩm hiu đó. Trước cách mạng Pháp (1789) tất cả các nước Âu Châu trước khi
phong vương đều phải được sự chấp thuận của Giáo Hoàng tại La Mã. Đó là
chưa kể năm 1949 đất nước Đức bị chia đôi; phía Đông Đức thành lập chủ
nghĩa Cộng Sản vào ngày 7 tháng 10 năm 1949 và phía Tây Đức thành lập Liên
Bang tự do kể cả Tây Bá Linh; nhưng nước Đức từ năm 1949 đến năm 1989,
trong 40 năm ấy kể cả hai miền đều nằm dưới sự kiểm soát của 4 cường quốc
là Anh, Pháp, Mỹ và Nga. Một quê hương như thế mà ngày nay nước Đức đã trở
thành một trong những cường quốc mạnh mẽ nhất nhì trên thế giới. Quả là
"bất khả tư nghì" vậy. Miền Đông Đức do Nga thống trị suốt 40 năm. Miền
Tây Đức tuy ảnh hưởng thống trị không mạnh và rõ nét; nhưng quân sự quốc
phòng đều do Anh cai quản vùng Bắc Đức, Pháp cai quản vùng Tây Nam Đức và
Mỹ cai quản vùng Nam Đức. Đây là những sự giám hộ cần thiết của một nước
bại trận sau đệ nhị thế chiến như Đức và Nhật. Ngày nay nước Đức đã sánh
vai với năm châu bốn bể không hề thua kém một nước nào trên thế giới về tự
do, kinh tế, giáo dục, tôn giáo, khoa học kỹ thuật v.v...
Về đất nước
Diện tích của nước
Đức từ Đông sang Tây từ Nam sang Bắc chỉ có 357.000 kmỲ; đường chim bay
dài nhất từ Bắc chí Nam là 876 km và chiều ngang là 640 km. Như vậy so với
Việt Nam cũng không lớn hơn bao nhiêu. Diện tích của Việt Nam độ 333.000
kmỲ và đường chim bay dài nhất là 2.000 cây số dọc theo bờ biển, chỉ có
chiều ngang của Việt Nam nhỏ hơn nước Đức rất nhiều. Nếu tính diện tích
bao bọc chung quanh của nước Đức thì biên giới của nước nầy là 3.758 km.
Còn diện tích bao bọc của Việt nam, Bắc giáp Trung Hoa, Tây giáp Lào, Nam
giáp Cao Miên, Thái Lan, Đông giáp biển Đông thì có lẽ cũng hơn 5.000 km.
Dân số Đức trong
hiện tại có 81 triệu người; nếu so với Việt Nam cũng có thể gọi là tương
đương và với Âu Châu thì Ý hiện có 58 triệu, Anh có 57 triệu, Pháp có 56
triệu. Diện tích mặt bằng thì Đức nhỏ hơn Pháp 544.000 mỲ và Tây Ban Nha
505.000 mỲ.
Phía Bắc nước Đức
giáp Đan Mạch; Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo và Pháp nằm về phía Tây. Thụy Sĩ
và Áo nằm về phía Nam của nước Đức. Phía Đông giáp Tiệp Khắc và Ba Lan.
Vào ngày 3 tháng 10 năm 1990 là ngày thống nhất nước Đức sau 40 năm chia
cắt, nước Đức đã có một biên giới to lớn như thế.
Nước Việt Nam sau
ngày 20 tháng 7 năm 1954 đã chia đôi đất như nước Đức. Phía Bắc theo chủ
nghĩa Cộng Sản thân Nga và Trung Cộng. Phía Nam do Mỹ và các đồng minh của
khối Tự Do hỗ trợ. Rồi đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 Việt Nam cũng thống
nhất; nhưng miền Bắc cưỡng chiếm miền Nam để trở thành một nước Cộng Sản
(trong khi đó ngày 3 tháng 10 năm 1990 nước Đức trở thành một nước hoàn
toàn độc lập tự do, do người dân Đông Đức tự chọn thể chế chính trị nầy).
Từ năm 1954 đến năm 1975, sau 21 năm, người Cộng Sản Việt Nam đã làm cho
đất nước miền Bắc hủy hoại ở nhiều phương diện khác nhau cũng như Cộng Sản
Đông Đức đã làm cho quê hương họ từ năm 1949 đến năm 1990. Hơn 40 năm ấy
nếu người dân Đông Đức không tự chọn cho mình một thế đứng, có lẽ ngày nay
người Đức cả Đông lẫn Tây không thể được thế giới nể vì. Thế giới nể trọng
người Đức không phải vì những nhãn hiệu có in chữ: Made in Germany như xe
Mercedes Benz, Audi, BMW v.v... mà người ngoại quốc đã khâm phục tinh thần
quốc gia của người Đức sau ngày thống nhất đất nước nầy. Từ đó các lực
lượng quân sự của Mỹ, Nga, Anh, Pháp phải tự động lần lượt rút về quê họ,
qua một số đền bù thiệt hại và không bị mất mặt, khi không còn trực tiếp
chăm sóc nước bị thống trị nầy nữa. Đó là một vinh hạnh cho nước Đức nầy.
Về cảnh trí và khí hậu
Nước Đức phía Bắc
giáp biển, miền Trung có núi, miền Nam giáp rặng Alpen, là một trong những
dãy núi cao tại Âu Châu. Đa phần là đất liền và nông nghiệp cũng là nghề
chính của xứ nầy ngoài những kỹ nghệ nặng. Phía Bắc Đức có một số đảo như
Nordeney, Amrum, Föhr, Sylt cũng như đảo Helgoland. Đây là những nơi nghỉ
hè rất nổi tiếng và trước năm 1975 cơ quan Caritas của Đức đã gởi một
chiếc tàu sang Đà Nẵng (Việt Nam) tạo thành một bệnh viện nổi mang tên là
Helgoland và sau năm 1975 chiếc tàu nầy đã trở về quê hương đã tạo nên nó.
Về khí hậu thì nước
Đức có khí hậu của biển và cả lục địa. Về mùa Đông có tuyết và nhiệt độ
biến đổi từ 0 độ đến 5 độ C. Vào khoảng tháng 7 nhiệt độ trung bình từ 18
đến 20 độ C.
Nếu những người đến
từ Á Châu hay Phi Châu mà ở lại nước Đức nhiều năm thì chúng tôi sẽ gọi
nơi đây không có mùa hè. Vì mùa hè ở Ấn Độ có khi lên đến 45 độ C. Mùa hè
ở Việt Nam thường thường 35 độ C. Nếu gọi mùa hè ở Đức 20 độ C chẳng bằng
khí hậu mùa Đông của quê hương chúng tôi vậy. Ở Việt Nam không chia ra 4
mùa rõ rệt như ở Đức nầy mà chỉ có 2 mùa. Đó là mùa mưa và mùa nắng. Lá
chẳng vàng khi thu sang và đông đến không có một giọt tuyết nào. Nếu có,
chỉ là sương mù bao phủ trên các rừng núi tại Bắc và Cao nguyên Trung phần
Việt Nam mà thôi.
Ở Đức nầy thông
thường cứ đến Giáng Sinh là tuyết rơi, báo hiệu mùa Đông rõ nét rồi đó.
Cuối tháng 3 đầu tháng 4 là cây lá bắt đầu đâm chồi nảy lộc; tháng 6, 7, 8
là mùa đi nghỉ hè. Sau đó là gió bắt đầu chuyển mạnh, lá vàng hoe, kéo dài
suốt tháng 9, 10 và 11 của mỗi năm. Như thế có 4 mùa rõ rệt. Có nhiều
người ngoại quốc chịu lạnh không nổi; nên mùa Đông ở đây họ thường thiên
di đến những nơi ấm áp hơn và mùa Xuân cũng như mùa Hè thì họ trở lại nơi
nầy. Đôi khi tôi vẫn thường nói với những học sinh, sinh viên Đức đến chùa
Viên Giác học Phật Pháp rằng: "Tuy nước Đức lạnh; nhưng tấm lòng của người
Đức thì ấm áp vô cùng". Ai nghe câu ấy cũng vui lòng. Vì lẽ đây là một
người ngoại quốc nói về khí hậu cũng như tình người của người Đức, chứ
không phải người Đức tự khen tặng cho dân tộc mình như thế.
Về con người
Nước Đức vào năm 911
chẳng biết được bao nhiêu dân số, nhưng cho đến năm 2002 có lẽ đã trên 82
triệu người rồi, trong ấy có 7 triệu người là người ngoại quốc; nghĩa là
gần 10% của dân tộc nầy. Trung bình 227 người sống trên 1 kmỲ như thế.
Thành phố đông dân nhất là Berlin với 3 triệu rưỡi người. Tại nước Đức có
19 thành phố có hơn 300.000 dân sinh sống. Một phần ba dân số của 84 thành
phố lớn trên 100.000 dân sống tại thành thị. Có nghĩa là 26 triệu người
sống cũng như làm việc tại các đô thị trung bình và lớn. Số còn lại 47
triệu người sống giữa các làng từ 2.000 người đến 100.000 người tại các
vùng quê (Ạ). Khoảng 13 triệu người Đức đã từ vùng Đông Âu cũng như Đông
Đức di cư vào Tây Đức trước năm 1961 khi bức tường Berlin được xây dựng.
Năm 1990 theo thống kê của chính phủ cứ 1.000 dân cư như vậy mỗi năm chỉ
sinh 11 người. Đây là chỉ số sinh sản thấp nhất trên thế giới.
Nếu tính 1.000 người
là 500 cặp vợ chồng hay 400 cặp và 200 người độc thân, thì số sinh sản như
thế là quá thấp. Tại Á Châu mặc dầu bị cấm sinh sản đối với gia đình đông
con. Nghĩa là nếu cặp vợ chồng nào đã có 2 con thì không nên sinh thêm
nữa; nhưng họ vẫn muốn sinh nhiều hơn. Trong khi đó tại Đức sự sinh sản
được khuyến khích; nhưng nhiều cặp vợ chồng trẻ vẫn không thích. Họ quan
niệm rằng trách nhiệm rất nặng nề để phải lo cho một đứa trẻ sinh ra, nuôi
lớn và đến trưởng thành 18 tuổi mới hết bổn phận; chi bằng dùng tiền làm
được để đi nghỉ hè. Việc sống chung giữa nam nữ không cần kết hôn cũng
không còn là điều cấm kỵ tại xứ Đức nầy nữa. Nên đây là nguyên do chính
của sự việc chăng?
Nếu với đà sinh sản
nầy thì người già càng ngày càng nhiều mà người trẻ sinh ra lại ít, chừng
30 năm nữa đời sống của những người già sẽ khổ hơn. Vì số tiền đóng thuế
của người trẻ ít - lúc ấy có lẽ là một gánh nặng cho chính phủ đương thời.
Cho nên dẫu cho có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí đi nữa, bên nào cũng
có những điều đáng lo âu của nó. Trong khi đó tại các xứ Á Châu, ngay cả
Nhật Bản là một nước phát triển kỹ nghệ từ năm 1968 - Vua Minh Trị Thiên
Hoàng duy tân nước nầy, đã hơn 100 năm qua; nhưng đời sống xã hội cũng
không được bảo đảm mấy. Nếu thất nghiệp quả là một vấn đề lớn. Do đó có
nhiều người đã tự tử, bấn loạn thần kinh là thế.
Nhìn về Ấn Độ hay
Việt Nam là những xã hội nông nghiệp, ngay cả Trung Quốc nữa, dân số quá
tải, đời sống thấp so với Đức và Âu Châu; nhưng họ vẫn sinh sản. Họ nghĩ
đơn giản là: "Trời sinh voi thì sinh cỏ, sinh người thì sinh lộc", đâu có
gì phải bận tâm. Ngay cả đất nước Việt Nam vào đầu thế kỷ thứ 20 nghĩa là
cách đây 100 năm trước, dân số cả 2 miền Nam Bắc chỉ có 25 triệu người, mà
100 năm sau đã lên 80 triệu. Đó là chưa kể chiến tranh chết chóc suốt 50
năm qua. Không biết với đà sinh sản nầy Việt Nam nói riêng và thế giới nói
chung sẽ đi đến chỗ cuối cùng là chỗ nào. Người Á Châu quan niệm rằng sinh
con đông là để cho con cái lo cho cha mẹ về già, thay thế cho xã hội như
các nước Âu Mỹ; nên cha mẹ cũng an phận thủ thường. Nếu con mình giàu có
thì mình sẽ được sung sướng. Nếu con mình nghèo thì phải chịu chung số
phận mà thôi. Do vậy ít đòi tăng lương; ít đòi bồi thường thiệt hại. Dĩ
nhiên đời sống vật chất so với Âu Mỹ có thấp đó; nhưng đời sống tinh thần
thì họ thoải mái hơn. Cho nên nhìn họ có nhiều nụ cười an phận, hơn là đời
sống vật chất đầy đủ tại Tây phương. Ở đây không so sánh sự tốt xấu, hơn
thua, mà do phong tục, tập quán, phong thổ tạo nên con người vậy. Nếu
người Đức sinh ra tại Á Châu hoặc giả người Á Châu, Phi Châu sinh ra và
lớn lên nhiều đời khác nhau thì những người nầy cũng suy nghĩ giống như
những người Đức chánh hiệu mà thôi.
Tại Đức nầy không có
những dân tộc thiểu số như tại Việt Nam. Tuy nhiên mỗi vùng ở mỗi nơi có
một đặc thù riêng biệt và họ cố gắng giữ gìn những đặc thù đó. Ví dụ người
ở vùng Mecklenburg thì đóng kín; người ở vùng Shwanben thì tiết kiệm;
người ở vùng Rhein thì sống thoải mái, tự nhiên; người ở vùng Sachen thì
siêng năng chịu khó v.v... Tuy nhiên nước Đức đã kỹ nghệ hóa từ lâu; do
vậy mọi người sống trên quê hương nầy như là một đại gia đình; ít có sự
phân biệt. Đó là nhận xét của người Đức và sau đây là nhận xét của người
ngoại quốc về người Đức.
Người Đức chăm chỉ,
sạch sẽ, chịu khó, mực thước. Tuy nhiên cũng tò mò và cứng nhắc hơn là
nguyên tắc; đồng thời cũng lạnh lùng nữa. Sau đây là một câu chuyện vui
đăng trên một tạp chí Việt Nam xuất bản tại Thụy Sĩ cách đây chừng vài
năm, xin chép ra để hầu quý bạn đọc.
"Có một nhóm sinh
viên nghiên cứu về tính kỷ luật và tự trọng của người Đức gồm có 3 nam và
một nữ. Đầu tiên họ vào một nhà bưu điện tại thành phố Trier họ xin phép
thực hiện một cuộc nghiên cứu. Sau đó họ phân chia công tác với nhau. Họ
lấy 5 hình đàn ông dán lên trên 5 phòng điện thoại và 5 hình đàn bà dán
lên trên 5 phòng điện thoại công cộng gần đó. Cả nhóm sinh viên nầy theo
dõi suốt một tuần qua và ghi rằng: Khi người đàn ông đến thì họ sắp hàng
bên phía phòng điện thoại có dán hình đàn ông để gọi và khi đàn bà đến thì
họ cũng làm thế. Đến một hôm có một sự kiện lạ xảy ra và đây cũng là kết
quả của sự nghiên cứu ấy. Có một người đàn bà dẫn một đứa nhỏ đi theo, đứa
nhỏ thấy trong phòng điện thoại bên đàn ông vẫn trống nên bảo mẹ mình tại
sao không vào đó gọi? Bà mẹ bảo rằng phía đó chỉ để cho đàn ông thôi con
ạ! Thế là đứa bé tiu nghỉu đứng chờ mẹ mình đứng sắp hàng phía bên phòng
điện thoại dành cho người nữ. Rồi một hôm khác tự nhiên đám sinh viên mừng
rú lên, vì có một người đàn bà chạy qua phòng điện thoại có dán hình người
nam để gọi. Nhóm sinh viên nầy không bỏ lỡ cơ hội, chạy ra phỏng vấn liền
:
- Xin lỗi bà! Tại
sao bà chạy qua phía phòng điện thoại của người nam để gọi?
- Xin thưa! Tôi
không phải là người Đức. Chỉ có người Đức mới "kỳ cục" như vậy".
Câu trả lời ấy đã
làm sáng tỏ vấn đề dân tộc tính vậy. Người Đức chấp nhận nguyên tắc không
cần suy nghĩ. Trong khi đó người Pháp, người Anh lại không. Nếu là nhà vệ
sinh thì mới chia ra nam nữ và người ta phải đứng sắp hàng tuân hành giữ
nguyên tắc. Chứ còn ở đây là trạm điện thoại làm gì có phân biệt nữ nam mà
người Đức cứ phải tuân thủ. Đó là chưa nói những việc xa hơn như ở Nhật,
tại những vùng nhà quê, cho đến hôm nay họ vẫn còn tắm chung giữa nam nữ
tại các suối nước nóng, trong khi trên thân hình họ chẳng có một mảnh vải
che thân. Vậy thì dưới cái nhìn của người Đức thì đây là một dân tộc kém
văn hóa; trong khi đó người Nhật rất tự hào về sự tự nhiên nầy.
Tại Tokyo hay Kyoto
là những thành phố nổi tiếng nhất, sang trọng nhất nhì ở Nhật, tại các chỗ
tắm công cộng đàn ông vẫn khỏa thân tắm chung với nhau; đàn bà cũng thế.
Trong khi đó tại Âu Châu hay ngay cả Việt Nam, khi tắm chỉ riêng biệt một
người chứ không bao giờ có người thứ hai bên cạnh, nếu tắm khỏa thân.
Ngày nay tại Âu Mỹ
cũng có những nơi tắm thiên nhiên như thế; như đa phần để dành cho giới
trẻ và trung niên chứ người lớn tuổi thì chẳng thấy lai vãng. Ở Nhật lại
khác, ai cũng có thể vào đó tắm chung từ già đến trẻ, từ con nít cho đến
trung niên. Do đó khó có một kết luận cho đúng với những trường hợp mang
nặng đặc tính dân tộc như thế nầy.
Tại Đức có những
thành phố lớn với dân cư đông đúc được xếp theo thứ tự như sau:
1. Berlin với
3.465.700 người.
2. Hamburg với
1.688.700 người.
3. München với
1.256.600 người.
4. Köln với 960.600
người.
5. Frankfurt am Main
với 668.900 người.
6. Essen với 627.200
người.
7. Dortmund với
600.600 người.
8. Stuttgart với
599.400 người.
9. Bremen với
554.200 người.
10. Duisburg với
539.000 người.
11. Hannover với
523.600 người.
12. Nürnberg với
500.100 người.
13. Leipzig với
496.600 người.
14. Dresden với
481.600 người. (Ạ)
Trong 14 thành phố
ấy, phía Đông Đức cũ có 2 thành phố thứ 13 và 14 và thành phố Hannover nằm
ở con số thứ 12 có số dân trên 500.000 người. Thành phố Hannover đã kỷ
niệm 700 năm vào năm 1999 và năm 2000 đã tổ chức Hội Chợ Thế Giới, có hơn
18 triệu người đến tham dự trong vòng 6 tháng trời. Tại đây cũng có ngôi
chùa Viên Giác và hằng năm có độ 70.000 người Việt, khoảng 10.000 người
Đức đến tham quan, lễ bái cũng như học hỏi giáo lý của Đức Phật trong suốt
thời gian những năm tháng vừa qua. Dĩ nhiên trong thời gian tới con số ấy
sẽ tăng lên nữa; nhưng bao giờ cũng thế, cũng như không khí chỗ nào thiếu
thì không khí cũng luôn luôn trung hòa để loài người có đầy đủ dưỡng khí
mà hít thở để được tồn tại.
Về tiếng Đức
Tục ngữ Pháp có câu:
"Deux yeux sont les fenêtres du coeur". Có nghĩa là: con mắt là cửa sổ của
tâm hồn. Nhưng tôi đôi khi tự đổi lại: "La langue, c'est le fenêtre du
coeur". Có nghĩa: Ngôn ngữ là cửa sổ của tâm hồn. Quả thật ngôn ngữ nó
quan trọng như thế đó. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng, đôi khi có nhiều
hơn một ngôn ngữ; nhưng nhiều lúc có nhiều dân tộc trên thế giới chỉ dùng
một ngôn ngữ để diễn tả mọi hành động, mọi sự kiện trong cuộc sống của
mình bằng lời để mọi người chung quanh hiểu nhau mà thông cảm nhau. Nếu
con người không có ngôn ngữ để truyền đạt cho nhau, không biết là con
người phải giao thiệp với nhau bằng những hình thức nào ?
Tiếng Đức là một
ngôn ngữ thuộc nhóm Indogermanisch. Tiếng nầy có liên hệ với tiếng Đan
Mạch, tiếng Na Uy và tiếng Thụy Điển, cũng như tiếng Hòa Lan với tiếng
Flảmisch và ngay cả tiếng Anh cũng có sự liên hệ nữa.
Mặc dầu nước Đức có
nhiều thổ âm, nhưng đa phần dân chúng Đức đều có thể hiểu được tiếng của
những địa phương khác. Ngoài nước Đức ra tại Áo, Liechtenstein, phần lớn
của Thụy Sĩ, miền Bắc Ý và một phần của Bỉ, Pháp (Elsaß) cũng như Lục Xâm
Bảo và dọc biên giới Đức đều nói tiếng Đức như là tiếng mẹ đẻ của các quốc
gia nầy. Ngay cả người Đức tại Ba Lan, Rumảnien và một ít ở Nga cũng còn
giữ tiếng Đức tại đây.
Tiếng Đức được dùng
như là tiếng mẹ đẻ cho 100 triệu người. Trong 10 quyển sách được xuất bản
trên thế giới có một quyển bằng tiếng Đức. Đây cũng là một ngôn ngữ được
dịch nhiều, sau tiếng Anh và tiếng Pháp (Ạ).
Đối với người ngoại
quốc có lẽ tiếng Đức là một loại tiếng rất khó. Khó nhất là văn phạm. Động
từ thay đổi và mạo từ cũng thay đổi. Trong khi đó tiếng Anh thì không,
tiếng Pháp có thay đổi theo giống và số; nhưng ở đây tiếng Đức còn có thêm
cả trung tính cũng như thể Akkusativ và Dativ nữa, mà ở những ngôn ngữ
trên không có. Đặc biệt tiếng Việt Nam thì động từ khỏi cần chia, chỉ cần
xem thời gian phía trước hoặc sau chủ từ, người ta biết việc ấy thuộc về
tương lai hay quá khứ hoặc hiện tại. Tuy nhiên tiếng Việt Nam cũng thuộc
loại khó; không khó về văn phạm như tiếng Đức, mà khó về phát âm, dấu,
giọng. Ví dụ tiếng Trung Hoa hay như thế mà chỉ có 4 âm rưỡi. Trong khi đó
tiếng Việt có đến 5 âm rưỡi.
Tiếng Nhật là một
ngôn ngữ có những đặc biệt riêng của nó. Ví dụ động từ luôn luôn đứng ở
cuối câu và ở động từ ấy tự nó có thể chia thành thể phủ định, khẳng định,
sẽ, đã v.v... Còn tiếng Đức động từ chỉ đứng ở cuối câu khi nào có trợ
động từ. Ví dụ: Tôi muốn học tiếng Anh. Tiếng Việt dùng như thế là chủ từ
+ trợ động từ + động từ chính và túc từ. Trong khi đó tiếng Đức phải nói
là: Ich will (möchte) Englisch lernen. Như vậy là động từ chính phải nằm ở
cuối câu. Tiếng Nhựt phải nói là: Watashi wa Eigo o benkyositai. Câu nầy
chủ từ đứng trước + túc từ + động từ. Tự động từ benkyo suru nầy nó biến
thành thích (muốn) hay không thích, không muốn, sẽ, đã v.v... thật là rắc
rối. Bởi vậy tôi hay nói: Ngôn ngữ là cửa sổ của tâm hồn là vậy.
Có nhiều người ngoại
quốc như Thổ Nhĩ Kỳ, Ý Đại Lợi họ ở đây cả 30 hay 40 năm, họ làm nghề lái
Taxi, tôi có dịp tiếp xúc với họ. Họ nói một câu đã sai đến mấy chữ rồi.
Thế hệ thứ hai, con cái của họ sinh ra tại xứ Đức nầy có thể tốt hơn. Vì
lẽ con cái họ bắt buộc phải đi học trường Đức; nên phải nói tiếng Đức. Còn
họ đến nước Đức nầy chủ yếu là làm thợ và khi đến đây đã ở vào lứa tuổi
trung niên rồi, nên họ phải chịu vậy. Người Việt Nam cũng có hoàn cảnh
tương tự như thế. Khi ra đi tỵ nạn Cộng Sản thì đi cả gia đình, trong đó
có ông bà, cha mẹ và con cái. Người lớn nhớ quê cha đất tổ, học đâu quên
đó; trong khi con trẻ không có liên hệ với quê hương cũ, nên chúng học
hành thành tài khá nhiều. Tuy nhiên sự hội nhập quá nhanh nầy, chỉ một thế
hệ mà đã quên hết tiếng mẹ đẻ, phong tục, tập quán v.v... làm cho cha mẹ,
ông bà phải lo lắng. Chẳng biết đến thế hệ thứ 3, thứ 4 sẽ ra sao đây ? Dĩ
nhiên là người Đức mong cho mọi người ngoại quốc sớm hội nhập vào xã hội
nầy; trong khi đó những người ngoại quốc hiện sống tại nước Đức nầy họ vẫn
còn muốn bảo vệ văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc họ. Vì họ nghĩ rằng: Ý nghĩa
của sự hội nhập nó không nhất thiết phải là bị đồng hóa.
Những người ngoại quốc sống tại xứ Đức
Nước Đức là một nước
có thiện cảm với người ngoại kiều. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn có những
vấn đề kỳ thị. Ví dụ như công ăn việc làm tốt hơn, ngôn ngữ không giỏi
bằng người Đức; hoặc giả cũng có nhiều người Đức nghĩ rằng người ngoại
quốc vào đây để chiếm đoạt công ăn việc làm của họ; nên mới có một số đối
đãi không đẹp mắt; nhưng đa phần người Đức đều hiểu là họ sống cũng phải
nhờ vào ngoại kiều; vì lẽ những năm đầu thập niên 50, 60 họ phải cần thêm
những khách thợ đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, từ Ý v.v... và ngay cả đối với người
Đức hiểu chuyện mọi sản phẩm của người Đức sản xuất ra nếu không bán đi
khắp thế giới và dĩ nhiên là người ngoại quốc mua. Có như thế người dân
Đức mới có thu nhập cao và bây giờ ai cũng phải hiểu là chúng ta sống với
nhau, chứ không phải sống cho nhau nữa.
Nước Đức không phải
là một quốc gia lý tưởng để di dân như nước Mỹ, Canada hay Úc; nhưng gần
đây chính phủ SPD và Grüne đã có nhiều đạo luật có lợi cho nước Đức và có
thiện cảm với ngoại kiều, để khi người ngoại quốc hướng đến nước Đức,
không nghĩ rằng đây là hậu thân của Nazis được, mà hoàn toàn độc lập, tự
do và thân thiện. Chính người Đức cũng thấy rằng sự giết hại mấy triệu
người Do Thái thời Hitler là một điều sai lầm, đáng tiếc; nên ngày nay đã
có những đạo luật bảo vệ ngoại kiều và tất cả đều bình đẳng trước pháp
luật; chứ không phân biệt tôi là người Đức, anh là người ngoại quốc nữa.
Bắt đầu từ năm 2002
biên giới về lãnh thổ, về tiền bạc của các quốc gia tại Âu Châu hầu như
không còn nữa. Mọi người di chuyển tự do, làm ăn buôn bán, giao dịch không
còn trở ngại nữa, thì việc kỳ thị cũng giảm đi. Người Đức cũng phải tự
hiểu rằng khi họ bước chân ra khỏi biên giới của nước Đức, họ cũng có
nghĩa là người ngoại quốc vậy. Mỗi người đến ở, học hành và lưu trú tại xứ
Đức nầy đều có một lý do riêng của nó; đồng thời chúng ta cũng phải hiểu
hơn 2 triệu người Đức đang ở ngoại quốc để sinh sống, làm việc cũng có
những lý do của mỗi cá nhân. Ngày nay thế giới có thể chỉ còn có một;
trong đó con người phải biết thương yêu nhau thì sự tồn tại kia mới có ý
nghĩa; chứ không phải chỉ là kẻ mạnh đi hiếp yếu như chủ nghĩa "Daitoa"
Đại Đông Á của Nhật hồi đệ nhị thế chiến. Cũng không phải thời gian từ
1934 đến 1945 mà người Đức dưới chính quyền Hitler đã phải chiến đấu cho
chủ nghĩa độc tài ấy và cuối cùng cũng phải đầu hàng Mỹ cũng như Anh, Pháp
mà thôi. Đây là một bài học lịch sử có giá trị muôn đời, mong rằng tất cả
chúng ta đều phải học chứ không phải chỉ có người Nhật hay người Đức.
Trong 81 triệu dân
người Đức có gần 7 triệu người ngoại quốc. Con số ấy không nhỏ và trong ấy
được chia ra như sau:
- Đông nhất là cộng
đồng Thổ Nhĩ Kỳ gần 2 triệu người.
- Sau đó là người Ý
gần 600.000 người.
- Người Hy Lạp
351.000 người.
- Ba Lan 260.000
người.
- Áo 186.000 người.
- Rumảnien 162.000
người
- Tây Ban Nha
133.000 người.
- Iran, Bồ Đào Nha,
Anh, Mỹ và Hòa Lan khoảng từ 100.000 đến 115.000 người.
- Bảo Gia Lợi
(Bulgarie), Ungarn và Pháp từ 50.000 đến 100.000 người.
- Những người tỵ nạn
đến từ các nước xa hơn như Việt Nam gần 100.000 người, Marokko 82.000
người; 55.000 người Libanese; 46.000 người Tích Lan, 46.000 người A Phú
Hãn và 36.000 người Ấn Độ.
Có độ 50% người
ngoại quốc sống tại nước Đức nầy từ 10 năm trở lên và 2/3 con cái của họ
được sinh ra tại đây.
Có khoảng 2 triệu
người Đức hồi cư từ các nước phía Đông: kể từ năm 1987 đã về lại Đức và
riêng năm 1994 đã có 222.600 người.
Số người xin tỵ nạn
tại Đức mỗi năm một nhiều. Ví dụ như năm 1991 là 256.112 người và năm 1993
là 322.600 người. Trong số nầy có từ 4 đến 6% được tỵ nạn chính trị. Ngoài
ra là những lý do khác như nhân đạo, kết hôn v.v... Số còn lại bị trục
xuất hay tạm dung là tùy theo từng trường hợp.
Người ta khi đưa đơn
xin tỵ nạn có 3 lý do chính để được xét đến. Đó là:
- Lý do Tôn Giáo: Ví
dụ như tại quê hương mình không được thực thi tự do tôn giáo, lễ bái, hội
họp v.v...
- Lý do chính trị:
Mình là người bị theo dõi, tình nghi; nếu mình trở lại quê hương sẽ bị bắt
tù hoặc hãm hại. Tuy nhiên đa phần chỉ có lý do sau khi đến Đức, chứ trước
khi đến Đức để tỵ nạn có lý do rõ ràng thì ít; cho nên việc công nhận để
được tỵ nạn chính trị rõ ràng là rất giới hạn. Ví dụ như các cơ quan thẩm
tra tỵ nạn chính trị Liên Bang Đức ở Zindorf luôn luôn đòi hỏi có bằng
chứng bị đàn áp ở tại quê hương của mình; nhưng tiếc rằng ở những chế độ
độc tài, như Cộng Sản Việt Nam, thì làm sao để có một bằng chứng. Tất cả
đều dối trá và lừa đảo; nhưng thế giới tự do thì không thể nào tin được.
Hiệp ước về người tỵ nạn đã được ký kết tại Genève vào ngày 28 tháng 7 năm
1951 đã giúp cho rất nhiều người được định cư cũng như tỵ nạn tại quê
hương thứ hai, khi mà nơi sinh trưởng ra họ không thể dung thứ họ được; vì
khác nhau bởi chính kiến và tư tưởng.
- Điều thứ 3 cũng
không kém phần quan trọng là mình người thiểu số ở tại quê hương mình;
nhưng chính quyền sở tại đàn áp, đánh bật mình ra khỏi quê hương đó cũng
như tiêu diệt ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán của mình thì người ấy
có thể xin ở lại Đức để tỵ nạn.
Trên đây là 3 lý do
tương đối chính đáng. Dĩ nhiên là còn nhiều lý do khác nữa; nhưng nếu
không được chứng minh một cách rõ ràng. Do vậy dễ bị cơ quan công quyền
Đức kết luận là đến Đức vì lý do kinh tế, mà với lý do nầy thì không thể
đứng vững để trước sau rồi cũng sẽ bị tiếp tục trục xuất về quê hương của
mình. Nơi đó đang có không biết bao nhiêu cạm bẫy đang chờ đón họ.
Sự đóng góp về thuế
má của người ngoại quốc cho chính quyền Đức
Người ngoại quốc
sinh sống tại Đức phải cảm ơn chính phủ Đức đã đành, mà chính phủ Đức
ngược lại cũng phải cảm ơn người ngoại quốc nữa. Vì sao vậy ? Vì lẽ người
ngoại quốc đến đây mang nhiều nền văn hóa khác nhau, đã góp mặt và xây
dựng đất nước nầy thành một đất nước đa văn hóa. Cũng ví như trong một
vườn hoa, lâu nay đã có trồng loại hoa hồng, xem ra đã đẹp mắt, mà nay có
thêm hoa cẩm chướng, hoa lan, hoa cúc, hoa huệ v.v... thì càng đẹp hơn chứ
có sao đâu. Ngoài ra với số lượng người ngoại quốc gần 7 triệu người sống
trên nước Đức đó, gần 4 triệu người có công ăn việc làm, có hãng xưởng,
nhà hàng. Hoặc giả những người đi làm kỹ sư, công chức v.v... mỗi năm như
thế chính phủ Đức thâu vào chừng hơn 100 tỷ Đức Mã; có nghĩa là hơn 50 tỷ
Euro trong hiện tại. Đây là số tiền đóng góp không nhỏ của ngoại kiều vào
xã hội Đức nầy (5). Nếu mọi người dân Đức đều hiểu vấn đề nầy thì có lẽ
làn sóng bài ngoại ở đất nước nầy càng ngày càng ít hơn đi. Vì nhiều người
Đức nghĩ rằng ngoại kiều, trong đó có người tỵ nạn đến đây để ăn bám vào
xã hội Đức và lấy mất công ăn việc làm của họ. Trên thực tế, xã hội nào
cũng có lắm kẻ làm biếng và hư thân; nhưng nhiều người muốn đi ra ngoại
quốc, hoặc muốn tỵ nạn đến một nước nào, có nghĩa là người đó phải có một
nghị lực tuyệt vời mới vượt qua được những chặng đường nguy hiểm, mới có
thể đến được những bến bờ tự do. Chỉ vấn đề ý chí thôi cũng đã quyết định
chuyện sinh tử rồi, cho nên họ không thể ăn bám vào xã hội nầy được
Nhiều người ngoại
quốc sống từ 10 năm trở lên tại xứ Đức, ai cũng tìm cách nhập tịch Đức,
hoặc xin giữ 2 quốc tịch. Điều nầy chính phủ Đức cũng khuyến khích và có
nhiều đạo luật khác nhau để giúp cho người ngoại quốc hội nhập vào xã hội
nầy mau lẹ hơn, đỡ đi gánh nặng chăm sóc, học hành cũng như nghề nghiệp
cho người tỵ nạn.
Sau khi tái thống
nhất nước Đức vào năm 1990, cả Đông Đức lẫn Tây Đức đã hòa nhập thành một.
Tất cả thể chế chính trị, hãng xưởng, chính phủ của miền Đông đều rập
khuôn theo cách tổ chức của miền Tây và hiện tại nước Đức có tất cả là 13
Tiểu Bang và 3 Thành Phố để trở thành một nước Cộng Hòa Liên Bang Đức to
lớn tại Âu Châu. 16 Tiểu Bang và Thành Phố đó kể theo thứ tự A, B, C là:
1. Baden-Württemberg
2. Friestart Bayer
3. Berlin
4. Brandenburg
5. Freie Hansestadt
Bremen
6. Freie und
Hansestadt Hamburg
7. Hessen
8.
Mecklenburg-Vorpommen
9. Niedersachsen
10.
Nordrhein-Westfalen
11. Rheinland-Pfalz
12. Saarland
13. Friestaat
Sachsen
14. Sachsen-Anhalt
15.
Schleswig-Holstein
16. Freistaat
Thüringen.
Cả 13 bang và 13
thành phố lớn của Đức gọp lại chưa bằng một Tiểu Bang California của Mỹ;
nhưng sản lượng quốc gia, tinh thần dân tộc, thi văn, kịch nghệ, hội họa,
âm nhạc, thể thao v.v... đã làm cho thế giới phải nể vì và ngày nay nước
Đức đứng nhì ba trên thế giới về mọi phương diện. Do vậy khi người ngoại
quốc ngưỡng mộ về nước Đức, chính là ngưỡng mộ tinh thần dân tộc, tinh
thần trách nhiệm và tinh thần tự chủ nầy.
Nước Đức có 13 Tiểu
Bang và 3 Thành Phố; nhưng chúng tôi chỉ giới thiệu sơ lược về Tiểu Bang
Niedersachsen, nơi có ngôi chùa Viên Giác hiện hữu; còn những tiểu bang
khác quý vị có thể tham cứu các sách tiếng Đức cũng như tiếng Anh viết về
nước Đức nầy.
Tiểu Bang
Niedersachsen hiện có 7 triệu 600 ngàn dân cư, sinh sống trên một diện
tích rộng 46.352 kmỲ. Thủ phủ của Tiểu Bang là thành phố Hannover.
Hai phần 2 đất đai
của tiểu bang nầy chuyên về nông nghiệp trồng trọt cũng như chăn nuôi. Thí
dụ như thịt dồi của Oldenburg; mật của Lüneburg Heide. Về khoáng sản hầm
mỏ thì có vùng Harz. Từ thời vua chúa Goslar đã được đào bới và mỏ bạc đã
được phát hiện nơi đây. Bắt đầu từ năm 1775 Clausthal đã mở trường dạy học
cho những người liên hệ về đồi và núi sinh sống tại đó. Ở đây những người
tốt nghiệp cũng được công nhận là những kỹ sư miền núi. Tại Salzgitter, mỏ
sắt cũng đã được phát hiện, lớn thứ 3 tại Âu Châu. Tại tiểu bang nầy dầu
và hơi đốt cũng chiếm đến 5% của toàn nước Đức. Braunschweig là trụ sở kỹ
thuật về hóa học cho toàn liên bang. Emden là hải cảng lớn thứ 3 của Bắc
Hải. Nơi đây cũng là nơi đóng tàu rất nổi tiếng. Wolfsburg là thành phố
sản xuất xe Volkswagen.
Hơn 7 triệu người
sinh sống tại tiểu bang nầy, có hơn 500.000 người sống tại thành phố
Hannover. Đây cũng là một thành phố triển lãm của thế giới.
Đại Học Göttingen là
một đại học rất nổi tiếng về khoa học tự nhiên. Từ năm 1837 có một nhóm
giáo sư tại Göttingen trung lập, chống lại sự giải tán những người nông
dân của hiến pháp tiểu bang và việc nầy cho đến năm 1848 các Nghị viên tại
cuộc họp Quốc Gia ở Frankfurt đã đề cập đến. Göttingen cũng là nơi sinh ra
nhà Toán học và Thiên văn học Carl Friedrich Gauß (1771-1859). Trong thế
kỷ thứ 20, Göttingen cũng đã phát triển về Atomphysik mà 2 người đã lãnh
dược giải Nobel. Đó là Max Born (1882-1970) và Werner Heisenberg
(1901-1976).
Năm 1993 cả nước Đức
sản xuất là 1.079 tỷ Đức Mã; có nghĩa là hơn 1 billion cho mọi sản lượng
của quốc gia và người ngoại quốc đã dự phần không ít về sự thành trưởng
kinh tế tại xứ Đức nầy. Nghĩa là 10% (100 tỷ Đức Mã). Trong đó Tiểu Bang
Niedersachsen đóng góp cũng không nhỏ. Riêng chùa Viên Giác tại Hannover
mỗi năm có 100.000 Phật Tử về thăm viếng, lễ bái v.v... như vậy qua giao
thông, mua sắm, du lịch v.v... người Việt Nam và Phật Tử Việt Nam cũng đã
trực tiếp đóng góp vào sự thành trưởng kinh tế của Tiểu Bang Niedersachsen
không phải là ít.
Nếu muốn viết đầy đủ
về nước Đức phải đề cập về Hiến Pháp, cử tri. Nước Đức liên hệ với ngoại
quốc như thế nào, kinh tế ra sao. Từng loại kỹ nghệ một; căn bản cấu trúc
của xã hội; đời sống người phụ nữ, thể thao, du lịch, hội hè, giáo dục,
nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, âm nhạc, kịch nghệ v.v... thế phải cần
viết thành một quyển sách. Tuy nhiên chương nầy chỉ là chương đại cương để
giới thiệu những nét căn bản về nước Đức cho những người Việt Nam sau nầy
hay đã ở đây lâu đời không rành Đức ngữ tham cứu. Còn những vị giỏi Anh
hoặc Đức ngữ có thể đọc trực tiếp nơi các sách vở hiện có tại các Thư Viện
của thành phố hay Đại Học thì sẽ rõ nhiều hơn.
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III |
Chương IV
Chương
V|
Chương VI |
Chương VII
|
Chương VIII