Cảm tạ xứ Đức
Thích Như Điển
Phật lịch
2546 - 2002
Trung
tâm văn hóa xã hội Phật Giáo Việt Nam
---o0o---
Chương II.
Sự liên hệ giữa Chùa Viên Giác, Hội Phật
Tử, Chi Bộ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất với chính quyền Đức qua
Bộ Nội Vụ Liên Bang tại Bonn
Ngày
22 tháng 4 năm 1977 tôi đã đặt chân đến phi trường Hamburg của nước Đức,
sau đó về ở Kiel một năm học tiếng Đức tại Đại Học Kiel. Sau đó có giấy
nhập học tại Đại Học Hannover Phân khoa Giáo dục; nên tôi đã dời về
Hannover vào tháng 3 năm 1978.
Lẽ ra tôi không ở
lại Đức. Vì chương trình học hậu Đại Học ở Nhật chưa xong; nên tôi muốn về
đó để làm luận án cho xong; nhưng qua sự yêu cầu của các anh em Sinh viên
Phật Tử lúc bấy giờ; nên tôi đã ở lại đây từ đó cho đến nay. Đúng là một
nhân duyên vậy.
Sau đó tôi đưa đơn
xin tỵ nạn vì lý do Phật Giáo bị đàn áp tại Việt Nam và ngày 29.3.1979 Sở
Công Nhận Tỵ Nạn Liên Bang đã chính thức công nhận và sau đó tôi đã nhận
được Thông Hành Tỵ Nạn màu xanh có 2 gạch đen bên góc.
Ngày 30 tháng 4 năm
1975 tôi và một số các anh chị em Sinh viên đang du học tại Nhật có lên Sứ
quán Việt Nam Cộng Hòa tại Tokyo gia hạn thêm Thông Hành được 5 năm nữa;
nghĩa là sổ Thông Hành ấy đến năm 1980 mới hết giá trị, mặc dầu miền Nam
Việt Nam không còn hiện hữu nữa. Tuy nhiên cũng nhờ Thông Hành của Việt
Nam Cộng Hòa mà năm 1977 tôi mới được qua Đức, do Tòa Đại Sứ Đức tại Tokyo
cấp Visa. Lúc ấy có giấy mời của Bác sĩ Văn Công Trâm, là bạn học cũ, từ
Đức gởi sang cùng với giấy học Đức ngữ.
Từ năn 1975 đến 1977
chính quyền Nhật đã không cấp cho Sinh viên chúng tôi một loại giấy tờ nào
cả. Trong khi đó chính quyền Đức sau năm 1975 đã cấp cho các Sinh viên
Việt Nam tại đây Thông Hành tạm (Fremdenpaß) màu xám và sau đó chuyển qua
Thông Hành Tỵ Nạn với quy chế cho người tỵ nạn thuộc Hiệp Ước ngày 28
tháng 7 năm 1951 ở Genève về người tỵ nạn. Ở Nhật không rõ ràng như thế
cho nên ai cũng lo và sau khi tôi làm đơn xin tỵ nạn, tôi cũng đã được cấp
một thông hành màu xám (Frendenpaß) như thế, để đến ngày 29 tháng 3 năm
1979 được chính thức được Thông Hành Tỵ Nạn. Thời gian xem chừng 3 tháng
là có kết quả. Lúc ấy ít người xin tỵ nạn và lý do vững vàng, do vậy có
kết quả rất nhanh.
Từ 1979 đến 1986 tôi
vẫn dùng Thông Hành Tỵ Nạn nầy và từ ngày 15 tháng 7 năm 1986 chính quyền
Hannover đã nhận cho tôi vào quốc tịch Đức và kể từ đó đến nay vẫn giữ
quốc tịch Đức như vậy. Có nhiều lý do để trở thành dân Đức vì lẽ ngày về
Việt Nam chưa biết là bao giờ, vả lại Việt Nam cho đến nay Phật Giáo vẫn
còn bị đàn áp. Thứ hai có quốc tịch như thế dễ hội nhập nơi đây và dễ dàng
di chuyển trên thế giới. Vì có nhiều quốc gia trên thế giới không cần
chiếu khán mà vẫn đến được như Mỹ, Canada, Úc chẳng hạn. Tôi là Tổng Thư
Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu phải đi hội họp và
hoằng pháp khắp nơi; nếu không có quốc tịch Đức sẽ phải chờ đợi lâu ngày
xin Visa thì cuộc họp đã khai mạc, mà nhiều khi chưa chắc gì đã nhận được
Visa để đi.
Vào ngày 2 tháng 4
năm 1978 là Lễ An Vị Phật Niệm Phật Đường Viên Giác tại đường Kestnerstr.
số 37 và vào ngày 24 tháng 7 năm 1978 chúng tôi đã hoàn thành xong bản Nội
Quy Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức Quốc bằng tiếng
Việt cũng như tiếng Đức.
Ngày 2 tháng 10 năm
1980 gởi đơn xin ghi danh tại Tòa án Hannover và ngày 27 tháng 6 năm 1981
Tòa án Hannover đã chính thức ghi danh vào Sổ Hội Đoàn với số hiệu 4844.
Đồng thời ngày 27 tháng 2 năm 1981 Bộ Tài Chánh Hannover cũng đã công nhận
Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức là một hội công ích từ
thiện (gemeinnützigkeit).
Riêng phần Chi Bộ
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Đức cho đến ngày 5 tháng 10 năm
1980 chúng tôi mới thành lập được nội quy bằng tiếng Việt và tiếng Đức để
sau đó ghi danh nơi Tòa án và xin tư cách công ích từ thiện tại Bộ Tài
Chánh.
Ngày 23 tháng 12 năm
1981 đã được Tòa án Hannover chuẩn y với số hiệu 4826. Ngày 13 tháng 1 năm
1981 Bộ Tài Chánh Hannover đã công nhận là một tổ chức công ích từ thiện
(gemeinnützigkeit) với số hiệu 25/206/28507 - 227. Như vậy cả 2 tổ chức
đều có pháp nhân và pháp lý để dễ bề hoạt động trên mọi bình diện của Liên
Bang. Thành viên của Chi Bộ chỉ toàn là Tăng Ni và thành viên của Hội Phật
Tử hoàn toàn là các vị Cư sĩ.
Ngày 10 tháng 12 năm
1978 chính quyền Tiểu Bang Niedersachsen thời ông Dr. Ernst Albrecht là
Thủ Tướng đã nhận 1.000 người tỵ nạn Việt Nam đầu tiên trên chuyến tàu Hải
Hồng từ Việt Nam đến Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Đức. Đây là sự cứu
trợ nhân đạo cao cả nhất và cũng là lần đầu tiên số người tỵ nạn đến từ
Việt Nam đông đảo nhất. Hôm đó các anh em sinh viên và chúng tôi ra phi
trường Hannover để đón tiếp họ. Tôi xin nghỉ học 1 Semester tại Đại Học
Hannover để đi giúp đồng bào mới đến tại bệnh viện Göttingen và trại tỵ
nạn Friedland. Tôi cũng chỉ mới đến Đức hơn một năm nên tiếng Đức còn giới
hạn lắm.
Sau đó anh Nguyễn
Ngọc Tuấn, chị Nguyễn Thị Thu Cúc, các anh Văn Công Trâm, Lâm Đăng Châu
v.v... lần lượt được chính quyền Tiểu Bang Niedersachsen mướn làm thông
dịch viên dài hạn. Có người làm đến 5 năm. Còn tôi đầu năm 1979 đã trở về
lại chùa để chăm sóc cho Niệm Phật Đường cũng như đi học tiếp tục. Ngày ấy
có giấy khen của Thủ Tướng gởi đến những người làm thiện nguyện như chúng
tôi và giấy ấy, nay chúng tôi vẫn còn giữ để làm kỷ niệm.
Trong khi làm thiện
nguyện cho đồng bào tỵ nạn như thế các đài truyền hình và báo chí có phỏng
vấn chúng tôi. Chúng tôi trả lời thành thật về những gì đang xảy ra lúc đó
cũng như dự tính trong tương lai cho Phật Giáo Việt Nam tại xứ nầy. Thuở
ấy người dân Đức và chính quyền rất có thiện cảm với người tỵ nạn Việt
Nam. Vì vậy vào ngày 17 tháng 10 năm 1979 chúng tôi, anh Tuấn, chị Cúc đã
được ông Geißler là một công chức làm trong Bộ Nội Vụ Liên Bang mời đến
văn phòng của Thiên Chúa Giáo tại Kaiser-Friedrichstr. 9 giới thiệu về
những sinh hoạt của Niệm Phật Đường cũng như của Hội Phật Tử và ngày 23
tháng 11 năm 1979 chúng tôi đã gởi lên Bộ Nội Vụ Liên Bang một lá thư
trình bày những buổi lễ tổ chức trong năm, báo Viên Giác, tiền thuê nhà
v.v...
Ngày 11 tháng 2 rồi
ngày 30 tháng 4 năm 1980 chúng tôi đã nhận được 2 văn thư chính thức của
ông Dr. Geißler gởi; nhưng chúng tôi chưa quen với hành chánh, nên đã
chẳng trả lời kịp thời. Sau đó ngày 7.5.1980 chúng tôi mới làm đơn xin tài
trợ. Đầu tiên chính phủ cho 11.800 Đức Mã để lo lễ Phật Đản. Cho 3.000 Đức
Mã xuất bản báo Viên Giác và 5.400 Đức Mã trả tiền thuê nhà tại
Kestnerstr. số 37. Tổng cộng là 20.200 Đức Mã. Ngoài ra Bộ Văn Hóa của
Tiểu Bang Niedersachsen cũng có giúp cho 15.000 Đức Mã nữa. Tổng cộng của
2 nơi là 35.200 Đức Mã.
Ngày 5 tháng 8 năm
1980 chúng tôi nhận được một thư khẩn nữa từ Bộ Nội Vụ, bảo rằng hãy làm
đơn nhanh lên cho những nhu cầu mua máy móc của nhà máy in và ngày 8 tháng
8 năm 1980 chúng tôi nhận được thư của ông Broschat một lần nữa bảo rằng
cần 3 giấy khảo giá khác nhau của 3 hãng bán cùng một loại máy. Thế là
chúng tôi quýnh lên phải chạy đi tìm; nhưng lúc ấy tiếng Đức chẳng rành,
vả lại tiếng Đức thuộc về lãnh vực chính phủ nên phải ngồi tra lại tự điển
mới có. Không hiểu tại sao chính phủ bắt mình phải đi khảo giá 3 hãng bán
máy cùng một hiệu mà 3 nơi khác nhau. Sau nầy chúng tôi mới rõ là: tuy một
loại máy giống nhau mà 3 cửa hàng bán giá khác nhau, chứ không giống nhau,
chính phủ sẽ lựa hãng bán máy rẻ nhất. Từ đó về sau chúng tôi đã có kinh
nghiệm.
Năm đó chúng tôi còn
nhận thêm được 10.000 Đức Mã mà chính phủ cho lễ Vu Lan nữa. Ngày 8 tháng
10 năm 1980 chúng tôi làm đơn xin chính phủ tiền thuê nhà để làm chùa mỗi
tháng độ 3.000 Đức Mã và ngày 10.12.1980 chính phủ đã đồng ý cho từng năm
một. Cho đến ngày 24 tháng 11 năm 1980 chúng tôi đã nhận được một thư khác
của ông Dr. Geißler đồng ý cho mua máy móc cho nhà máy in cũng như những
lễ lộc khác trong năm tổng cộng là 62.011,80 Đức Mã.
Đến ngày 1 tháng 1
năm 1981 chúng tôi đã dời địa điểm về Eichelkamstr. 35A và mỗi tháng chính
phủ cho 3.000 Đức Mã để trả tiền nhà. Năm 1981 nầy chúng tôi tương đối đã
có kinh nghiệm; nên việc làm đơn xin tương đối dễ dàng hơn một chút. Tổng
cộng năm 1981 chính phủ giúp 99.800 Đức Mã. Ở đây tôi xin làm một bản
thống kê để tạ ơn nước Đức đã giúp cho người tỵ nạn Việt Nam của chúng tôi
và đặc biệt là người Phật Tử từ đó đến nay, để tuyên dương chính phủ và
nhân dân Đức đã hết lòng hỗ trợ cho chùa Viên Giác, Hội Phật Tử cũng như
Chi Bộ tại đây.
Năm 1982 chính phủ
giúp tổng số tiền là 70.488 DM
Năm
1983 -nt- 71.500 DM
Năm
1984 -nt- 72.700 DM
Năm
1985 -nt- 75.600 DM
Năm
1986 -nt- 79.400 DM
Năm
1987 -nt- 78.300 DM
Năm
1988 -nt- 79.880 DM
Năm
1989 -nt- 82.400 DM
Năm
1990 -nt- 86.000 DM
Năm
1991 -nt- 138.200 DM
Năm
1992 -nt- 87.700 DM
Năm
1993 -nt- 140.100 DM
Năm
1994 -nt- 127.100 DM
Năm
1995 -nt- 162.465 DM
Năm
1996 -nt- 131.760 DM
Năm
1997 -nt- 131.630 DM
Năm
1998 -nt- 138.230 DM
Năm
1999 -nt- 138.230 DM
Năm
2000 -nt- 124.400 DM
Năm
2001 -nt- 155.000 DM
Năm
2002 -nt- 77.500 Euro
Nếu làm con số thống
kê chung trong suốt 23 năm qua mà Chính Phủ Liên Bang Đức đã trợ giúp cho
chùa Viên Giác tại Hannover đã lên đến 2.118.206,80 Đức Mã cộng với 77.500
Euro, tương đương với 155.000 Đức Mã. Như vậy số tiền tổng cộng là
2.273.206,80 Đức Mã. Nếu tính ra Đô-la Mỹ trong hiện tại, độ chừng hơn Một
Triệu Đô-la Hoa Kỳ.
Sở dĩ mỗi năm có sự
tài trợ khác nhau vì lẽ có nhiều nhu cầu khác nhau. Ví dụ như ngoài việc
tài trợ cho Lễ Phật Đản, Vu Lan, báo Viên Giác, tiền điện Gas nước sưởi,
sách bút chỉ văn phòng v.v... thì số tiền tài trợ lại tăng lên. Trong hơn
2 triệu Đức Mã tài trợ đó chúng ta phải tự đóng góp vào là một phần ba.
Đây chỉ là những chi tiêu có liên quan đến Bộ Nội Vụ Liên Bang. Còn những
chi tiêu như sinh hoạt phí, xây chùa, xe cộ, bảo hiểm, người làm, chợ búa,
xăng nhớt v.v... phải trình cho Bộ Tài Chánh Hannover cứ mỗi 3 năm một lần
như thế. Vì lẽ người Phật Tử cúng dường tiền vào chùa, cuối năm họ xin lại
thuế từ chính phủ; cho nên chùa phải chứng minh sổ chi thu thật rõ ràng.
Những gì mà báo Viên Giác đã đăng tải lên mỗi năm 6 lần và cho đến nay gần
25 năm rồi đó, đều có báo cáo với Bộ Tài Chánh để họ theo dõi. Người cúng
dường tiền cho chùa mỗi năm có thể nhận lại một số tiền trừ thuế từ Bộ Tài
Chánh nơi sở tại; nếu người đó có đi làm. Chỉ độ 10 đến 20% người đi làm
có xin lại thuế; còn đa phần không muốn xin lại, hoặc lãnh tiền trợ cấp xã
hội nên họ không cần đến điều nầy.
Chính phủ giúp người
dân, đặc biệt là dân tỵ nạn cũng từ thuế của dân ra mà thôi. Dĩ nhiên là
trong đó vẫn có phần đóng góp của 100.000 người Việt Nam đang tỵ nạn và
sinh sống tại nước Đức nầy, mà chùa đã làm được những gì cho đồng bào. Do
vậy chính phủ vẫn tiếp tục hỗ trợ. Sự giúp đỡ ấy nhằm ổn định đời sống của
ngoại kiều thuộc về tâm lý, văn hóa khi còn bỡ ngỡ cho việc hội nhập tại
đây. Sự giúp đỡ ấy của chính phủ vẫn không phí phạm chút nào. Vì một người
có niềm tin với Tôn Giáo chính là những người đang thực hành đạo đức đó!
Có vậy xã hội sẽ không bạo động, đời sống tinh thần được yên ổn. Đây là sự
giúp đỡ cao quý nhất của chính phủ vậy.
Khi người nhận được
sự trợ giúp như chúng tôi phải tự hiểu rằng mình phải làm gì với bổn phận
và trách nhiệm; chứ không phải chỉ nhận suông mà không có điều kiện. Suốt
gần 25 năm qua chúng tôi đã thể hiện tinh thần tự lực và hội nhập ấy bằng
cách là đã tạo lập tại Hannover một Cơ sở Văn hóa Tôn giáo trị giá độ 9
triệu Đức Mã, tương đương với 5 triệu rưỡi Mỹ kim thời giá 1991. Số tiền
ấy có được là do Phật Tử khắp nơi tại Đức, Âu, Mỹ, Úc Châu đóng góp cũng
như cho mượn không có lời. Ngoài ra chúng tôi đã mượn ngân hàng 700.000
Đức Mã cho vấn đề xây dựng nầy. Cho đến gần giữa năm 2007 thì hết nợ của
ngân hàng và nhà thầu. Thành quả ấy là một sự cố gắng vượt bực, chính phủ
giúp mặt nầy để chúng tôi giúp mặt khác, nhằm làm cho vững vàng cộng đồng
của người Việt Nam đang sống tại xứ Đức nầy.
Trong gần 25 năm qua
chúng tôi đã đào tạo được hàng ngàn, hàng vạn người Phật Tử thuần thành có
quy y Tam Bảo, có ăn chay giữ giới. Không những chỉ người Việt mà người
Đức cũng đã đến đây để làm quen với giáo lý từ bi lợi tha nầy. Đạo Phật
không có cơ quan truyền giáo, nhưng nếu ai muốn theo thì cứ việc đến chùa.
Chúng tôi đến nước Đức tỵ nạn chính trị và tỵ nạn Tôn Giáo, chúng tôi đã
mang theo niềm tin của mình cũng giống như người Trung Hoa đã đến Việt Nam
gần 2000 năm trước để tỵ nạn và họ đã mang đạo Phật vào Việt Nam. Các nhà
sư thực hành đạo Phật tại Việt Nam, người Việt Nam thấy hay nên đã chọn
lựa đạo Phật mà theo. Kể từ đó đến nay đã 2000 năm lịch sử rồi đó. Có lúc
cũng là quốc giáo như vào đời Lý và đời Trần ở thế kỷ thứ 11 đến 14. Suốt
400 năm ấy Phật Giáo đã đóng góp rất nhiều cho dân tộc Việt Nam.
Phật Giáo đến Đức
cũng bằng con đường như thế, rất từ bi, hài hòa, không gây hấn chiến tranh
cũng như thù hận; nên được chính phủ và người dân ở đây thương yêu, mến
mộ. Do vậy chúng tôi rất ít gặp khó khăn ở đây. Chúng tôi đã tiếp xúc với
những nhân viên công chức của chính quyền Bộ Nội Vụ như ông Dr. Geißler,
bà Michael, ông Dammemann, ông Dubbert v.v... qua nhiều lần và nhiều năm
tháng như thế, chúng tôi thấy họ rất tận tình giúp đỡ, chỉ vẽ cũng như
thân thiện, làm cho chúng tôi lại tin tưởng hơn. Cho đến hôm nay thì ông
Dr. Geißler, bà Michael, ông Dammemann đã về hưu; nhưng những ơn nghĩa đó
của quý vị chúng tôi không bao giờ quên được. Bằng chứng là những năm
1980, 1981 chúng tôi chẳng biết gì về hành chánh. Vì có học hành chánh bao
giờ đâu; nhưng quý vị đã thôi thúc, chỉ vẽ từng li từng tí một để chúng
tôi nhận được sự trợ cấp một cách dễ dàng. Dĩ nhiên đường đi nào nó cũng
chẳng đơn giản. Có khó khăn thử thách thì sự thành công ấy mới có giá trị.
Nếu không, thì cuộc đời nầy nó không đầy đủ ý nghĩa của nó.
Có nhiều lúc từ Bonn
quý vị gọi lên thúc hối chúng tôi gởi đơn xuống gấp cho kịp thời gian
tính, hay bảo nên làm giấy tờ chi xuất trước, Bộ có thể ứng liền. Những cử
chỉ như thế làm sao chúng tôi quên được. Quý vị là những người làm ơn, có
lẽ quý vị hay quên; nhưng chúng tôi là những kẻ chịu ơn, chúng tôi bắt
buộc phải nhớ.
Để nhận được sự tài
trợ như thế phải là một tổ chức chứ không phải là tư nhân. Như quý vị đã
thấy bên trên, chúng tôi có 2 tổ chức - Một tổ chức toàn là Tăng Ni và một
tổ chức khác toàn là Cư sĩ tín đồ. Với mô hình nầy tôi cũng muốn ứng dụng
cho Hội Phật Giáo Đức (BDV) nhưng chưa thành công. Vì người Đức tin theo
Phật Giáo mới chừng hơn 100 năm nay thôi; nên chưa hệ thống hóa và tổ chức
hóa Giáo Hội Phật Giáo tại đây. Dĩ nhiên là ở Đức có nhiều người giỏi,
nhưng cũng không có nghĩa là trường học không cần Thầy giáo, ở nhà con cái
không cần cha mẹ. Cha mẹ và Thầy giáo chỉ làm bổn phận của mình chỉ dạy,
còn nên hư là do học đường, môi trường cũng như hoàn cảnh của người con,
người học trò. Tuyệt nhiên không thể nói và không thể đòi là người con
phải bình đẳng với cha mẹ, người học trò bình đẳng với Thầy Cô giáo được.
Như vậy ý nghĩa của sự giáo dục, đào tạo đâu còn nữa.
Ở đây cũng vậy Tăng
Ni có giới luật riêng. Họ không lập gia đình và sống đời phụng sự, phải có
một tổ chức riêng, chứ không thể chung đụng với người Cư sĩ được. Đây là
một trong những lý do mà cho đến nay ở nước Đức nầy chưa trở thành một tổ
chức Offenliches Recht được. Trong khi đó Phật Giáo tại Áo đã được công
nhận từ năm 1983 và ở Ý vào năm 2000 là một Tôn Giáo sánh ngang vai với
những tôn giáo khác, hiện có mặt tại Âu Châu nầy. Chính nhiều người Phật
tử Đức họ cũng bảo rằng các tổ chức Phật Giáo tại Đức ngày nay rất phức
tạp, giống như một gian hàng bày bán mọi loại, mọi thứ như là một Bazar
vậy. Nói thế thì thê thảm quá, nhưng thực tế là vậy. Vì lẽ người theo
Thiền Tông chỉ muốn giới thiệu Thiền của mình; người theo Tịnh Độ cũng
thế. Gần đây phong trào học Phật Giáo Tây Tạng cũng nhiều lại cũng chẳng
thiếu người Đức tin theo và đề cao tông phái của mình. Nhớ lại lịch sử thì
thấy rằng đầu tiên thời Schopenhauer và sau đó, tại Đức nầy chỉ ảnh hưởng
về Nam Tông Phật Giáo; nhưng ngày nay tại xứ Đức nầy ảnh hưởng của Thiền
và Mật Tông Tây Tạng mạnh hơn khuynh hướng cổ điển nầy rất nhiều.
Ở Đức nầy là một xứ
tự do, muốn lập một Hội Đoàn chỉ cần 5 đến 7 người là đủ. Thế mà năm 1978
ở tại Đức nầy chưa đủ số tu sĩ như thế nên giữa năm 1978 tôi phải lập Hội
Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam trước, để rồi sau đó năm 1979 có
nhiều Thầy Cô qua Đức tỵ nạn, số Tăng sĩ mới đầy đủ để trở thành một Chi
Bộ Phật Giáo đúng nghĩa tại đây. Thuở ấy có quý Thầy Thích Trí Hòa, Thích
Minh Thân, Thích Giác Minh đã cùng với tôi, Thầy Thiện Tâm, Thầy Minh Phú,
Sư Cô Diệu Ân, Sư Cô Diệu Hạnh, Cô Minh Loan đứng vào danh sách của Chi Bộ
để thành lập Hội. Sau nầy thì Thầy Thích Trí Hòa, Thầy Minh Thân và Sư
Giác Minh đi Hoa Kỳ thì có Ni Sư Diệu Tâm đến cũng như một số quý vị xuất
gia thêm, đã có chân trong Chi Bộ nên Chi Bộ đã phát triển không ngừng từ
đó đến nay và số thành viên trong hiện đã hơn 40 người xuất gia. Đây là số
Tăng Ni đông đảo nhất trong các cộng đồng của Phật Giáo Đức tại đây. Nếu
tính hết những người Đức xuất gia đang ở Thái Lan, Nhật Bản, Tích Lan con
số ấy cũng chưa đến. Vì lẽ đời sống của người xuất gia không đơn giản chút
nào. Còn ở tại nước Đức nầy số người Đức xuất gia theo Đạo Phật chưa đến
20 người, trong khi đó số tín đồ theo Phật Giáo không dưới 200.000 người
và số người thích đọc sách Phật Giáo cũng từ 500.000 đến 1 triệu người như
thế.
Tôi phải cảm ơn
chính phủ Đức và Bộ Nội Vụ đã đành, nhưng tôi cũng phải cảm ơn những Thầy
những Cô người Việt Nam của chúng tôi nữa. Nếu không có họ tổ chức Phật
Giáo tại đây khó thành tựu. Đầu tiên người chúng tôi nhắc đến là: Sư Giác
Minh. Sư theo hệ phái Khất Sĩ, đã đến tỵ nạn tại Aachen vào năm 1979. Sau
khi Sư ở trại tỵ nạn được mấy tháng, Sư có dọn về Niệm Phật Đường Viên
Giác ở Kestnerstr. số 37, Hannover, từ cuối năm 1979 đến giữa năm 1980 ở
chung với chúng tôi; sau đó Sư di dân sang Mỹ và hiện đang sống ở Tiểu
Bang California vùng Los Angeles. Cuộc họp ngày 5 tháng 10 năm 1980 Sư
được mọi người hiện diện bầu làm Chi Bộ Phó Nội Vụ.
Riêng tôi được bầu
làm Chi Bộ Trưởng từ năm 1980 đến nay. Cứ mỗi 2 năm bầu lại một lần và
nhiệm kỳ nầy (2001-2003) có lẽ là nhiệm kỳ cuối. Vì chúng tôi muốn trẻ
trung hóa thành phần lãnh đạo của Chi Bộ, đưa lớp Tăng Ni trẻ lên làm
việc. Dẫu sao đi nữa cá nhân tôi cũng đã làm việc trong Chi Bộ và tại nước
Đức nầy hơn 25 năm rồi. 25 năm làm việc tại đây tôi được phép xem như 50
năm tại Việt Nam. Vì lẽ ở nước Đức nầy cái gì cũng mới mẻ. Tất cả đều bắt
đầu bằng con số không to tướng. Công việc từ A đến Z phải thành thục. Nếu
không, sẽ dễ bị đổ gãy giữa đường.
Cuối năm 1978 Hội
Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam được thành lập và với danh nghĩa
nầy chúng tôi đã khai báo tại Ordnungsamt Hannover. Đến năm 1979 chúng tôi
đã đứng trên danh nghĩa nầy để xin tài trợ của Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên
Bang Đức. Năm 1981 Tòa án mới công nhận tổ chức (ngày 27.6.1981) và cùng
năm nầy Bộ Tài Chánh cũng đã công nhận tư cách công ích từ thiện của tổ
chức. Chi Bộ được thành lập vào ngày 5 tháng 10 năm 1980 và ngày 23 tháng
12 năm 1981 cũng đã được Tòa án Hannover công nhận, đồng thời trong năm
1981 nầy tổ chức của Chi Bộ cũng đã được công nhận là một tổ chức từ thiện
công ích (Gemeinnützigkeit). Như thế cả 2 tổ chức có cái trước cái sau,
nhưng tất cả đều được tư cách pháp nhân vào năm 1981 để chúng tôi làm việc
nhịp nhàng từ 1981 đến nay (2002) và trong năm nầy chúng tôi sẽ đệ đơn lên
Bộ Văn Hóa của Tiểu Bang Niedersachsen xin hợp thức hóa tính cách
Offenliches Recht để Phật Giáo được công nhận như là một Tôn Giáo như tại
Áo và Ý đã thành công.
Người thứ ba được
bầu vào chức vụ Chi Bộ Phó Ngoại Vụ thuở ấy là Thầy Thích Thiện Tâm. Thầy
ấy đến tỵ nạn tại Đức vùng Münerstadt gần Würzburg từ năm 1979 và Thầy
tham gia Chi Bộ cho đến khoảng 1985 thì không còn trực tiếp nữa. Mặc dầu
Thầy ấy vẫn còn ở nước Đức và đã về hưu, Thầy thích đời sống nhập thất, an
tĩnh tu hành hơn là đi vào những việc hành chánh.
Vị Thư Ký của Chi Bộ
được bầu thuở đó là Thầy Thích Minh Thân. Thầy Minh Thân cũng đến tỵ nạn
tại Đức vùng Barntrup vào cuối năm 1979 và dời về Düsseldorf để đến năm
1985, 86 thì Thầy ấy sang Mỹ, hiện ở tại vùng San Jose Tiểu Bang
California tại Hoa Kỳ.
Ni Sư Thích Nữ Diệu
Hạnh được bầu làm Thủ Quỹ của Chi Bộ. Ni Sư cũng đến tỵ nạn tại Đức từ năm
1979, ở vùng Barntrup cho đến ngày nay và hiện là Trụ trì chùa Phật Bảo
tại Barntrup.
Thầy Minh Phú và Cô
Minh Loan thuở ấy được bầu vào Ủy Viên Văn Hóa. Thầy và Cô đều đến Đức tỵ
nạn từ năm 1979. Đầu tiên đến ở trại tỵ nạn Münerstadt và sau đó Thầy Minh
Phú về chùa Viên Giác Hannover ở với tôi từ năm 1981 đến 1983; sang năm
1984 Thầy về Düsseldorf lập nên Niệm Phật Đường Thiện Hòa để sau đó dời về
Mönchengladbach và trụ ở đó cho đến ngày nay. Cho đến nhiệm kỳ 2001-2003
nầy Thượng Tọa Thích Minh Phú giữ chức vụ Chi Bộ Phó Ngoại Vụ.
Cô Minh Loan đến năm
1990 không đủ nhân duyên nữa nên đã hoàn tục; nên không còn giữ những
nhiệm vụ trong Chi Bộ nữa.
Người cuối cùng
trong 7 người trong Chi Bộ là Ni Sư Thích Nữ Diệu Ân. Ni Sư đảm trách Ủy
Ban Nghi Lễ thuở đó và qua nhiều nhiệm kỳ khác nhau Ni Sư cũng đã đảm nhận
nhiều nhiệm vụ khác nhau trong Chi Bộ. Ni Sư cũng đến tỵ nạn tại Đức từ
năm 1979, ở Münerstadt và có về chùa Viên Giác Hannover ở một thời gian
ngắn, sau đó Ni Sư về Aachen để lập nên chùa Quan Thế Âm Ni Tự và ở trụ
tại đó cho đến ngày nay.
Khi Sư Giác Minh,
Thầy Minh Thân, Thầy Thiện Tâm không còn cộng tác với Chi Bộ nữa thì một
số chức vụ trong Chi Bộ được thay thế cho Sư Bà Thích Nữ Diệu Tâm, Ni Sư
Diệu Phước, Thầy Trí Hòa cũng như một vài vị mới đến tỵ nạn tại nước Đức
sau nầy. Về sau Thầy Trí Hòa đã đi Mỹ, nên dân sự cứ phải hoán đổi mãi để
hợp với nhu cầu, tình hình sinh hoạt Phật sự của từng thời điểm và nhất là
làm sao phải phù hợp với tinh thần Nội Quy của Chi Bộ theo luật lệ của
nước Đức.
Bản Nội Quy của Chi
Bộ gồm có 5 chương, 10 điều và 14 điểm - là chỉ đạo nòng cốt của việc Phật
sự tại Đức từ đó đến nay. Hôm nay tôi viết những dòng chữ nầy để tạ ơn
chính phủ phủ Đức, đồng thời tôi cũng xin tạ ơn những Thầy, Cô đã cộng tác
với Chi Bộ trong suốt thời gian hơn 20 năm qua, hoặc ngắn hạn hoặc dài
hạn. Tất cả là những cây trụ cột của Giáo Hội tại xứ Đức nầy. Phải thành
thật nói rằng chúng tôi không giỏi như những nơi khác; nhưng chúng tôi
biết lắng nghe; nên đã giữ vững Chi Bộ được suốt hơn 20 năm qua. Tôi là
người lãnh đạo luôn luôn quan niệm rằng phải cần nhiều bàn tay, khối óc
góp sức vào, dầu dở cũng sẽ trở nên mạnh mẽ. Cũng như thế ấy, một cây dầu
to, cao lớn đến thế mấy mà đứng trơ vơ giữa hư không, khi gió bão thổi
qua, chắc chắn sẽ dễ bị trốc gốc. Còn chúng tôi, giống như những chùm cây
dại mọc dọc theo hai bên lề đường, tuy xấu xí, khó xem, nhưng chúng tôi đã
chạm lưng vào nhau, nên gió nào có thổi đến, chúng tôi vẫn không bị giao
động. Nhiều lúc những thành viên trong Chi Bộ cũng có những sự bất mãn, có
lúc nhỏ, có lúc lớn, nhưng cuối cùng rồi chúng tôi cũng đã giải quyết một
cách êm thắm, nhẹ nhàng. Điều nầy chúng tôi đã học được ở người Đức và
người Âu Mỹ rất nhiều. Nghĩa là cái gì không thích, không đúng thì cứ nói,
cứ bàn cải và cuối cùng cái hay nhất được tuyển chọn ra và đem vào ứng
dụng cho tổ chức. Có như thế tổ chức mới mạnh và tạo nên sự tin tưởng của
mọi người được.
Năm 1977 đơn thương
độc mã một mình tôi đi vào xứ Đức nầy, để đến năm 1979 có đầy đủ 7 người
Tăng sĩ để lập nên một Tổ Chức của Giáo Hội và ngày nay, sau hơn 20 năm,
đã có hơn 40 người xuất gia, nhằm duy trì cũng như phái triển mạng mạch
cho Phật Giáo tại xứ nầy. Con số ấy thực sự không nhiều để phải lo chăm
sóc đời sống tinh thần của gần 70.000 đồng bào Phật Tử Việt cũng như Đức
tại đây; nhưng so ra với truyền thống xuất gia của người Việt Nam đối với
các nước Phật Giáo khác tại Đức nầy, con số ấy không phải nhỏ.
Khi chúng tôi nhận
được sự tài trợ của Chính Phủ Liên Bang như thế, không có nghĩa là nhận
tiền riêng cho mỗi cá nhân trong Chi Bộ, mà mỗi một khoản chi thu đều phải
rõ ràng. Nếu dư phải trả lại cho chính phủ; nếu thiếu, chính là mình không
biết tính; nhưng dầu dư hay thiếu cũng không được dưới và trên 20% của số
tiền đã dự chi cho mỗi công việc. Quý vị nhìn hơn 2 triệu Đức Mã mà chính
phủ đã giúp cho Giáo Hội tại Đức trong suốt hơn 20 năm qua đều nằm trên
lãnh vực văn hóa của Tôn Giáo. Ví dụ như tài trợ một phần cho lễ Phật Đản,
Vu Lan. Đóng tiền thuê chùa để có nơi sinh hoạt. Sau nầy, kể từ năm 1991
đến nay chuyển tiền thuê ấy qua trả tiền điện, Gas, nước v.v... Rồi xuất
bản báo Viên Giác, sách vở của chúng tôi viết, bút chỉ văn phòng v.v...
nghĩa là tất cả những sự chi tiêu đó không còn đọng lại một vật gì cả.
Ngoại trừ những máy in, sách vở, bàn ghế văn phòng của chính phủ cho. Bây
giờ đã quá 20 năm rồi, nên đa phần đã bị hư hoặc không còn dùng đến nữa.
Ngoài ra tất cả
những chi thu ấy, cuối năm đều phải tường trình về Bonn. Bonn sẽ gởi cho
một bộ khác gọi là Bundesausgleichsamt (Bộ so sánh) để thẩm định lại việc
chi thu của Giáo Hội có đúng hay không ? nếu sai, số tiền chi ấy bị rút
lại. Ví dụ như trong chi thu ăn uống cho buổi lễ; nếu có ai trong Ban Tổ
Chức mua lộn vào đó một ít xà-phòng, một cây chổi quét nhà v.v... điều ấy
trở nên không hợp lệ. Vì lẽ chi cho thực phẩm thì phải chi cho thực phẩm,
thứ khác không được tính thêm vào. Điều ấy có nghĩa là những vật xử dụng
ấy sẽ mất luôn, chứ không được phép còn tồn tại.
Có năm chúng tôi
nhận dựọc sự tài trợ của chính phủ nhiều. Vì lẽ năm ấy có tổ chức Hội
thảo, hội nghị, hoặc khánh thành v.v... chúng tôi được trợ giúp cho việc
di chuyển trong nước Đức, chỗ ăn, chỗ ở v.v... và dĩ nhiên trong mỗi khoản
chi như thế chúng tôi đều phải có phần đóng góp của tổ chức mình độ chừng
1/3 công việc.
Tôi, cá nhân mình
suốt 25 năm qua cũng như quý Thầy, quý Cô trong Chi Bộ phải nói rằng đã
không nhận một đồng lương nào của chính phủ cả, mà tất cả đều với mục đích
từ thiện, công ích như Bản Nội Quy đã đề ra. Vì nhu cầu chúng tôi không
nhiều như chỗ ở đã có chùa, di chuyển có Phật Tử cúng, ăn uống thực phẩm
cũng Phật Tử cúng và ngay cả tiền túi cũng không cần nhiều. Chúng tôi chỉ
cần bảo hiểm sức khỏe và mỗi người đã được Giáo Hội hoặc chùa địa phương
lo việc ấy. Chúng tôi sống độc thân, không có gia đình, nên chả cần tài
sản, của cải để lại cho con cháu đời sau như người đời vẫn thường làm.
Tôi chẳng biết mình
chẳng còn sống được bao lâu nữa, nên hôm nay sau 25 năm làm việc ở xứ Đức
nầy, tôi phải nói lên hai tiếng "Cảm ơn" với chính phủ Đức và với những
người đồng đạo của tôi đã giúp tôi đi suốt một đoạn đường dài của một thế
hệ 20 năm và thế hệ khác của 20 năm sau chắc chắn sẽ khác hơn bây giờ. Vì
"thời gian và thủy triều đâu có đợi chờ ai". Do vậy phải làm những gì khi
có thể làm được để tạ ơn Tam Bảo, ơn Quốc gia, ơn Sư trưởng, ơn bằng hữu,
ơn thiện hữu tri thức, ân chúng sanh v.v... là những điều mà một người tu
Phật như chúng tôi không được phép quên, mà phải luôn luôn nhớ.
Sau đây tôi xin ghi
lại một vài diễn tiến với Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại
Tây Đức.
Ngày 20 tháng 11 năm
1979 Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức đã được thành lập
và Hội Trưởng lúc bấy giờ là anh Thị Minh Văn Công Trâm. Lúc ấy Trâm còn
là Sinh viên Y khoa, du học tại Đức từ năm 1969; nghĩa là đã ở Đức 10 năm,
nên tiếng Đức khá vững vàng. Bây giờ là Bác sĩ gây mê tại bệnh viện
Iserlohn. Tôi phải cảm ơn vị nầy. Vì nếu không có anh Văn Công Trâm thì
tôi không có mặt tại xứ Đức, mà cũng đã chẳng có giấy mời đến Đức thăm vào
năm 1977. Trâm vốn là bạn học cùng trường thuở Tiểu Học và bây giờ là đệ
tử quy y Tam Bảo của tôi.
Người thứ hai là Thị
Chơn Ngô Ngọc Diệp, lúc ấy cũng còn Sinh viên và hiện tại là Kỹ sư nhưng
không còn hành nghề kỹ sư, mà làm nghề nhà hàng, du học Đức từ năm 1968.
Anh nầy cũng đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều từ khi Niệm Phật Đường Viên Giác
mới thành lập vào năm 1978 cho đến năm 1992 thì mới chính thức không giúp
đỡ trực tiếp nữa.
Người thứ ba là anh
Tusito Nguyễn Ngọc Tuấn, Sinh viên du học Đức từ năm 1968 và đã xong Kỹ
sư, hiện đang làm việc tại Bưu Điện ở Bonn. Thuở ấy anh giữ chức Phó Hội
Trưởng Ngoại Vụ; còn Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp là Phó Hội Trưởng Nội Vụ.
Người thứ tư là chị
Diệu Hoa Nguyễn Thị Thu Cúc, giữ chức Thư Ký của Hội. Chị cũng là Sinh
viên du học Đức từ năm 1968 và đã cộng tác cho chùa Viên Giác cho đến năm
1980, sau đó vì công ăn việc làm nên đã dọn về Hamburg và bây giờ thì cư
trú tại Bonn.
Người thứ năm là cô
Thủ Quỹ Thị Nhân Đoàn Thị Thu Hạnh; người nầy không phải là Sinh viên du
học. Tuy nhiên chồng cũng là Tiến sĩ người Đức. Cô ta đến Đức độ năm 1977.
Hiện giờ ở gần Braunschweig. Những năm đầu cô ta là Thủ Quỹ của Niệm Phật
Đường cũng như của Hội Phật Tử; những chi thu ngày ấy tôi vẫn còn giữ cho
đến nay, để sang năm (2003) kỷ niệm 25 năm thành lập chùa Viên Giác sẽ
trưng bày những kỷ niệm khiêm nhường ấy cho mọi người xem. Nghĩa là sau 25
năm Viên Giác đã tiến theo lũy thừa 100 hoặc lũy thừa 1000 chứ không phải
ít.
Trong năm người của
Ban Chấp Hành Hội Phật Tử đã có 4 người là Sinh viên du học. Do vậy tên
của Hội được đặt là: Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam tại Đức,
và đến năm 1987, vì lẽ đồng bào Phật Tử đến tỵ nạn tại Đức càng ngày càng
đông và số sinh viên đã ra trường; cho nên Đại Hội năm ấy đã đổi danh xưng
là: Hội Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Tây Đức. Đây là một Hội có tầm vóc của
người Việt Nam tại xứ Đức nầy. Cho đến nay sau hơn 20 năm hoạt động đã có
18 Chi Hội tại các địa phương như: Hamburg, Norden, Bremen, Hannover,
Berlin, Koblenz, Nürnberg, Frankfurt, Aschaffenburg, Wiesbaden, Saarland,
Freiburg, Mannheim, Stuttgart, Tüttlingen, Reutlingen, München và trong 18
Chi Hội đó có 7 Gia Đình Phật Tử quy tụ các em thiếu nhi và thanh thiếu
niên Việt Nam hiện đang đi học tại các trường Đức. Bảy Gia Đình Phật Tử ấy
sinh hoạt tại các địa phương như: Norden, Bremen, Hamburg, Hannover,
Berlin, Nürnberg, München và những Gia Đình Phật Tử ấy đang sinh hoạt dưới
các chùa tại các địa phương như:
- GĐPT Pháp Quang
tại Hamburg sinh hoạt với chùa Bảo Quang
- GĐPT Tâm Minh sinh
hoạt với chùa Viên Giác tại Hannover
- GĐPT Chánh Niệm
sinh hoạt với chùa Linh Thứu tại Berlin
- GĐPT Chánh Tín
sinh hoạt với chùa Tâm Giác tại München
Có 3 Gia Đình Phật
Tử sinh hoạt trực tiếp với các Chi Hội không có chùa. Đó là:
- Gia Đình Phật Tử
Minh Hải tại Norden
- Gia Đình Phật Tử
Chánh Giác tại Bremen, và
- Gia Đình Phật Từ
Chánh Dũng tại Nürnberg; nhưng có lẽ nay mai Chánh Dũng sẽ được sinh hoạt
với Niệm Phật Đường Viên Âm vừa mới được thành lập tại Fürth.
Ngoài ra có một số
chùa tại Đức không có Gia Đình Phật Tử sinh hoạt thường xuyên như:
- Chùa Phật Bảo tại
Barntrup
- Chùa Quan Thế Âm
Ni Tự tại Aachen
- Chùa Thiện Hòa tại
Mönchengladbach
- Chùa Tam Bảo tại
Reutlingen
- Chùa Phật Huệ tại
Frankfurt.
Như vậy nếu kể chung
lại tại Đức ngày hôm nay có 10 ngôi chùa để tổ chức những khóa tu học, lễ
bái, cầu nguyện, ma chay, cưới hỏi cho khoảng 70.000 người Việt Nam, quả
là một sự dung chứa quá tải. Trong khi đó người Đức mỗi nhóm chỉ 5 hay 10
người trở lên, họ đã có một cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng, dầu cho thuê mướn
hay mua sắm.
Hiện nay (1995) theo
ông Dr. Baumann, nơi quyển Deutsche Buddhisten mà ông đã cho xuất bản thì
số lượng Hội Đoàn cũng như Tổ Chức và Nhóm theo Đạo Phật của người Đức
hiện ở rải rác trên Cộng Hòa Liên Bang Đức nầy không dưới 500 Hội. Tôi
chẳng biết nhiều như vậy là tốt, hay ít là tốt. Tuy nhiên sự tự phát ấy nó
cũng chỉ có tính cách thời gian. Nếu tổ chức nào có đường hướng hoạt động
lâu dài, rõ ràng thì tổ chức ấy sẽ được nhiều người tham gia cộng tác.
Bằng ngược lại, các tổ chức ấy tự tan rã.
Tôi quan niệm rằng:
Tất cả các tổ chức của Phật Giáo tại xứ Đức nầy hay bất cứ nước nào trên
thế giới theo Phật Giáo cũng giống như thế thôi. Nghĩa là: Thân mẹ của một
cây đại thụ phải gồm nhiều cành lá. Nếu cành nào phát triển tốt thì sẽ
sống mãi trên thân cây mẹ ấy; nếu cành nào khô, tự nó phải bị hoại diệt để
cho cành khác tăng trưởng. Đây là nguyên tắc mà tôi đã điều khiển Chi Bộ
cũng như cố vấn cho sự sinh hoạt của Hội Phật Tử Việt Nam tại Cộng Hòa
Liên Bang Đức nầy. Tôi không sợ hơn hoặc thua, nhiều hoặc ít, mà tôi chỉ
nói đến sự tồn tại trong sự tồn tại để được phát triển, thì đó là một
nguyên tắc tương đối cho nhiều vấn đề mà tôi đã làm cơ sở cho sự hoạt động
tại đây. Không tranh giành ảnh hưởng, không sợ hơn kém, mà chỉ sợ rằng
mình không đủ đức tu để lo vun xới vườn hoa nội tâm giác ngộ của mình khi
đi vào một xứ sở có nền văn hóa xa lạ với Đông Phương như thế nầy.
Trên đây là sự tổ
chức cũng như cơ cấu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Đức và
nhờ có tổ chức chặt chẽ như thế nên sự liên hệ với chính quyền, điều hành
Phật sự cũng như phát triển mỗi ngày mỗi khởi sắc hơn. Giữa Cư sĩ và Tăng
sĩ đã hoạt động một cách nhịp nhàng. Giữa Đời và Đạo chúng tôi đã kiện
toàn giai đoạn 20 năm xây dựng cơ sở và từ đây trở đi là đào tạo con người
và đi vào hoạt động. Có như thế tổ chức mới lớn mạnh và cành cây kia trên
thân thể của cây cổ thụ Phật Giáo mới còn có cơ hội để triển khai ở nhiều
phương diện hơn thế nữa.
Nước Đức và Chính
phủ Đức là một nhà nước pháp trị. Nghĩa là dùng luật pháp để cai trị và
bảo đảm đời sống cho người dân; nên chúng tôi cảm thấy rất yên ổn, hài hòa
dễ sống. Đời sống thoải mái ấy không nhất thiết do vật chất tạo nên, mà
phải do tâm thức của con người có một lối sống thích hợp với những gì tự
do của ta đang có thì đời sống ấy càng có ý nghĩa nhiều hơn.
Do đó càng ngày càng
có nhiều người muốn đến thăm Đức, hoặc muốn ở lại Đức cũng từ lý do ấy là
chính, chứ không phải ai cũng muốn đến đây vì lý do kinh tế như nhiều nhà
chính trị hoặc dân chúng Đức đã phê phán về họ thì quả rất tội nghiệp cho
con người khi phải đánh đổi mạng sống của mình để đi tìm hai chữ Tự Do như
thế đâu.
Chương nầy tôi muốn
đề cập đến sự liên hệ giữa Giáo Hội và Bộ Nội Vụ Cộng Hòa Liên Bang Đức từ
khi hình thành cho đến khi phát triển và chương sau tôi sẽ có một cái nhìn
chủ quan cũng như khách quan sau hơn 25 năm sống tại xứ Đức nầy.
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III |
Chương IV
Chương
V|
Chương VI |
Chương VII
|
Chương VIII