Cảm tạ xứ Đức
Thích Như Điển
Phật lịch
2546 - 2002
Trung
tâm văn hóa xã hội Phật Giáo Việt Nam
---o0o---
Chương III . Người Đức dưới mắt tôi
Sau
hơn 25 năm sống ở xứ Đức, tôi đã hít thở không khí của bầu trời tự do nơi
đây, tôi đã ăn bánh mì, khoai tây của Đức, gạo và thực phẩm du nhập từ Á
Châu. Sống đời sống tự do thoải mái tại xứ nầy, lời đầu tiên là tôi phải
cảm ơn xứ Đức, nếu không có xứ Đức cưu mang tôi và những người tỵ nạn Việt
Nam cùng những sắc dân khác ở vùng trời tự do nầy thì sự sống còn và phát
triển không có ý nghĩa gì nữa cả. Vì vậy những kẻ chịu ơn nước Đức như
chúng tôi phải cảm ơn, đó là một bổn phận. Tuy nhiên trong cuộc sống của
xã hội nầy bao giờ nó cũng có cái tương đối của nó. Chỉ có chân lý của tôn
giáo mới tuyệt đối; nhưng nhiều khi điều ấy ở xã hội nầy cũng bị mổ xẻ,
đưa lên truyền thông và truyền hình hằng ngày. Do vậy những nhận xét dưới
đây của một người ngoại quốc nó cũng chỉ có tính cách tương đối và theo
chủ quan nhận xét của người viết mà thôi.
Năm 1975 khi tôi còn
ở Nhật, tôi có viết một bài nhận xét về nước Nhật, bằng tiếng Nhật, sau
hơn 3 năm ở đó, nhan đề là: "Nhật Bản dưới mắt tôi". Nếu người ngoại quốc
đọc, chắc hẳn là vui, vì đúng tâm trạng của họ; nhưng người Nhật đọc, họ
không vui mấy. Vì lẽ những gì người Nhật chờ đợi nơi người ngoại quốc nó
không hoàn toàn ảnh hưởng đúng như vậy. Tôi kết luận bài viết bằng câu:
Người Nhật cũng giống như hoa anh đào, rất đẹp khi nở. Tuy có sắc nhưng
chẳng có hương. Điều ấy có nghĩa là người Nhật lịch sự, lễ phép đó; nhưng
đó chỉ là cách xã giao thôi, chứ không phải là tấm lòng của họ. Vì mỗi một
dân tộc có một dân tộc tính khác nhau, chẳng ai giống ai và cũng chỉ có
một vài việc tiêu biểu nào đó xứng đáng tinh thần quốc gia, chứ còn đa
phần là làm theo phản ứng của mỗi cá nhân chứ không phải là tập thể hay
truyền thống. Ví dụ như việc Harakiri, nghĩa là mổ bụng của các võ sĩ Nhật
khi mà việc nghĩa đáng phải làm; nhưng ngày nay truyền thống ấy hầu như
không còn tồn tại nữa. Hay quý vị đã xem phim Kaminokaze, nghĩa là Thần
Phong; những cảm tử quân của Nhật chủ trương một là chiến thắng, hai là
chết chứ không chịu nhục và bại trận; nhưng sau 2 quả bom nguyên tử của Mỹ
thả ở Hiroshima và Nagasaki vào tháng 8 năm 1945 thì tinh thần hy sinh ấy
cũng không còn nữa. Đây có thể gọi là Mentalitảt của người Nhật. Chữ nầy
nếu dịch cho đủ nghĩa, nó có nghĩa là: tâm tánh, trạng thái tinh thần,
tánh hướng khí chất v.v... Khi người ta nhìn vào một dân tộc, đầu tiên
người ta có thể đánh giá qua cái Mentalitảt đó.
Người Nhật rất đúng
giờ và siêng năng, lễ phép. Đó là cái Mentalitảt của họ. Còn người Đức thì
sao ? Khi tôi đến Đức thấy người Đức cũng sạch sẽ như người Nhật, nhất là
những cửa kính của cửa sổ. Tuy không dơ, nhưng các bà nội trợ vẫn siêng
năng lau chùi, khiến ai đi dạo ngoài đường, khi nhìn vào thấy cũng cảm
phục và khen là sạch cũng như siêng năng quá. Người Việt Nam thì không
được như thế - nhà bao giờ dơ mới lau chùi; cửa kiếng của cửa sổ thì ít
quan tâm đến. Họa hoằng một năm lau chừng vài lần là cùng. Đợi cho khi nào
thật dơ mới lau; trong khi đó người Đức vẫn lau chùi thường xuyên. Đây là
một bản chất tốt tượng trưng cho sự siêng năng. Nhưng người Đức rất khép
kín và lạnh lùng. Bằng chứng thì quá nhiều để nói. Ví dụ nhà cửa lúc nào
cũng đóng, không mở rộng như ở Á Châu. Có lẽ ở đây ảnh hưởng về vấn đề khí
hậu chăng. Chúng tôi sinh ra ở những xứ nhiệt đới; nên lúc nào cũng thoải
mái ở ngoài đường hơn là ở trong nhà. Trong khi đó người Đức thích ở trong
nhà hơn là ở ngoài đường. Nhất là những cái cuối tuần thật lạnh lùng đáng
sợ ngay cả ở những phố thị lớn. Các xứ Á Châu vào những ngày cuối tuần rất
đông đảo người qua lại, thăm viếng bạn bè, chợ búa, mua sắm, du ngoạn
v.v... ở đâu đâu cũng rạng rỡ tiếng cười. Trong khi đó ở Đức hầu như yên
lặng vào cuối tuần. Một người ngoại quốc khi mới đến xứ nầy họ sẽ ngạc
nhiên rất nhiều cho những sinh hoạt cộng đồng như thế.
Người Đức ít chào
nhau khi chưa quen biết; nhưng người Mỹ thì khác, bất kể lạ quen gì, câu
xã giao đầu tiên là: Ông, bà có mạnh khỏe không ? Còn ở người Đức thì khó
gặp câu ấy lắm, khi chưa có sự hiểu biết hoặc giao hảo. Người Á Đông chúng
tôi ít ra cũng nhoẻn miệng cười xã giao khi gặp nhau. Còn người Đức tìm
được nụ cười, rất hiếm. Đây cũng là dân tộc tính của xứ nầy nữa.
Người Đức cũng siêng
năng, nhưng so ra với Nhật chưa bằng phân nửa và ngày nay Đại Hàn còn
siêng hơn cả người Nhật nữa. Thế nào gọi là siêng năng ? Có nghĩa là làm
việc chăm chỉ, không câu nệ thời gian, miễn sao công việc chạy và hãng
xưởng phát triển là được. Ở Đức tới trưa thứ sáu là đã nghỉ cuối tuần,
trong khi đó ở Nhật hay các nước Á Châu đến chiều thứ bảy vẫn chưa được
nghỉ, có nơi còn làm việc luôn ngày chủ nhật nữa. Nếu là ở Đức sẽ phạm
luật lao động, nhưng ở Á Châu thì không.
Ở Đức nghỉ hè và
nghỉ lễ rất nhiều. Trong khi đó ở Á Châu một năm chỉ nghỉ lễ được 1 đến 2
tuần. Nếu có bịnh, phải lấy ngày nghỉ vào các ngày nghỉ hè ấy. Trong khi
đó tại Đức và Âu Châu không có vấn đề đó. Người Nhật khi đi tìm việc làm,
đến một hãng xưởng để giới thiệu mình và mong được thâu nhận với những lý
do sau đây:
- Mong cho hãng của
ông chủ ngày càng phát đạt. Vì có tiến triển, gia đình người thợ, người
làm công mới có thể sống được
- Muốn tiến thân
theo chiều hướng tốt, khi đời sống tại hãng ấy được bảo đảm.
- Muốn tạo uy tín
cho hãng trên thương trường v.v...
Đó là những lý do
tiêu biểu để một kỹ sư, một công nhân được nhận vào làm trong hãng xưởng
ấy. Trong khi người Việt Nam tinh thần nầy ít có được. Nếu có ai đó có hỏi
họ rằng:
-Công việc làm của
anh ở sở ra sao ?
-Nhẹ lắm anh ơi!
nhưng lương khá.
Đó là một trong
những câu trả lời thiếu tinh thần trách nhiệm. Nếu là người Nhật họ sẽ bảo
là: Công việc nặng nề lắm, nhưng xứng đáng với đồng lương của tôi lãnh ra.
Người Đức sẽ có một câu trả lời khác: Việc lương hướng không được phép nói
cho người khác nghe. Đó cũng là một tinh thần khép kín của dân tộc nầy.
Làm một tuần 40 giờ mà ở đây các Công Đoàn muốn còn 35 giờ, rồi có nơi chỉ
còn 30 giờ; như thế không biết làm sao để phát triển kinh tế. Chủ yếu
chính là vấn đề quyền lợi và hưởng thụ của cá nhân. Trong khi đó ở Á Châu
nếu quyền lợi có đòi, họ sẽ đòi cho tập thể, chứ ít đòi cho cá nhân như
thế.
Người Đức ăn mặc rất
giản dị, không khoe trương như người Pháp. Tuy thế trong túi người Đức vẫn
có nhiều tiền để dành hơn là người Pháp. Người Pháp ăn mặc lịch sự thật,
ngoại giao thật hay, nhưng trong túi rất ít tiền. Người Đức và người Âu
Châu có sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính phủ, hãng xưởng, ngân hàng,
nên tiền bạc họ có, tất cả đều đầu tư để sinh lợi, cả hai bên đều có lợi
và chính phủ cũng thâu thuế được nữa. Trong khi đó người Á Châu, trong đó
có Việt Nam, khi mà sự tin tưởng ở chính quyền, hãng xưởng hay ngân hàng
không cao, không nhiều thì họ lấy tiền ấy chơi hụi cá nhân hoặc giữ trong
nhà. Như vậy cả hai đều chẳng lợi. Chính phủ không thâu được thuế, mà tiền
kia chẳng sinh ra tiền, đồng thời chính phủ chẳng biết đâu mà kiểm soát để
thâu thuế nữa. Như thế là một xã hội đang bảo lưu, ít phát triển được.
Về ăn uống thì người
Đức rất lịch sự, tự nhiên, nhưng nhiều khi cũng khép kín. Ví dụ như trong
khi ăn không được tạo thành tiếng động; trong khi đó người Nhật thì ngược
lại, khi nào tạo thành tiếng lúc húp canh hay suppe v.v... chứng tỏ rằng
đồ ăn ấy ngon và đúng tư cách của một người thưởng thức sành điệu. Còn
người Việt Nam trong khi dùng bữa thường nói chuyện thật lớn, mời mọc thật
lâu, lấy đồ ăn cho bạn bè, thân thuộc. Đó là một cử chỉ thân thiện.
Khi tôi mới đến Đức
và ngay cả bây giờ cũng còn thấy nhiều điều lạ lùng. Ví dụ như bạn bè hay
ngay như cả bạn trai và bạn gái mời nhau đi ăn kem, ăn nhà hàng hay xem
chiếu phim v.v... phần ai nấy trả tiền, chứ không ai bao ai cả. Nếu ở Việt
Nam, đây là một sự phũ phàng và xúc phạm đến danh dự của người được mời. Ở
Á Châu thường thường người lớn hơn hay bao cho kẻ nhỏ hơn và người giàu
hay có nghĩa cử bao dung cho mọi người bằng cách khi mời đi ăn hay xem hát
thì trả tiền; chứ ở đây thì phần ai nấy trả. Ngay cả tiền bạc trong gia
đình, ở đây cũng sòng phẳng; nghĩa là vợ có một số Konto riêng, chồng một
sổ riêng. Ở Á Châu, nhất là Việt Nam thì không có vấn đề đó. Nghĩa là
người chồng hoàn toàn tin tưởng nơi người vợ, nên giao trọn tiền bạc cho
vợ quán xuyến, trông nom. Do vậy mà sự tin cậy cao hơn và tình yêu lâu bền
hơn. Do đó sự ly dị ít hơn là người Đức hay người Mỹ. Người Nhật gọi vợ họ
là "gia nội" có nghĩa là người ở bên trong gia đình, là một nội tướng lo
chăm sóc cho gia đình; nên mọi quyền hạn ở bên trong đều do người vợ chăm
lo và người chồng chỉ lo việc ngoại giao, tiếp xúc, làm việc phía bên
ngoài là đủ.
Ở Âu Mỹ ngày nay
quyền bình đẳng giữa nam và nữ được xem ngang hàng nhau, nên phải đối xử
với nhau như thế mới phải lẽ. Tuy nhiên phái yếu thuộc về phái nữ, chứ
không phải là phái nam, nên cần phải có nơi nương tựa. Đa phần chủ gia
đình là đàn ông. Trừ khi chồng chết, người vợ ấy đảm nhận thêm trách nhiệm
làm cha, chứ có rất ít cặp vợ chồng sống trong nhà mà người vợ đóng vai
chính và người chồng đóng vai phụ. Do đó việc đối xử như thế xem ra cũng
lạnh lùng.
Trong việc bình đẳng
giữa nam nữ đã có ở Mỹ, Úc, Pháp từ 200 năm nay và ở Đức cũng hơn 100 năm;
nhưng cho đến bây giờ so ra những việc nặng, những việc chính trị, những
việc ở Quốc Hội người nữ cũng chỉ đóng vai trò rất khiêm nhường, chưa đến
một phần ba của công việc, trong khi đó thiên chức của người mẹ phải sinh
con và giáo dục cho con cái nên người. Việc nầy bổn phận người cha không
thể chu toàn được. Vì vậy cho nên người Á Châu giao toàn quyền cho nữ giới
quyết định công việc trong gia đình cũng là vấn đề hữu lý thôi.
Người Pháp lịch sự,
tế nhị như thế nào đối với phụ nữa tôi chưa thấy; nhưng khi thấy người đàn
ông Đức mặc áo khoác cho người nữ và nhận áo nầy để cất dùm cho người nữ.
Đây là một cử chỉ thân thiện đáng yêu, mà không nhất thiết phải là người
nữ, ngay cả những người đàn ông, đàn bà với nhau, ai lớn hơn sẽ được phục
vụ như thế. Đây quả là một cái nhìn đẹp, đậm nét văn hóa của xứ Đức nầy.
Trong khi đó những người đàn ông Việt Nam thì cục mịch hơn, hầu như chẳng
ai làm việc đó. Nếu có người nào làm được, chứng tỏ rằng họ có ảnh hưởng
của văn hóa Âu Châu, trong đó có văn hóa Đức, chứ tuyệt nhiên ở Việt Nam
không có vấn đề đó. Người Nhật thì còn thô bạo trắng trợn hơn. Nghĩa là
người vợ phải có bổn phận mặc áo, cởi giày cho chồng, chứ người chồng
không làm gì để tỏ vẻ lịch sự trong những vấn đề nầy cả. Đây cũng là dân
tộc tính của Đức và các dân tộc khác trên thế giới vậy.
Người Đức ăn uống
rất cực, chỉ bánh mì, khoai tây là chính. Trong khi đó người Pháp, Anh, Ý
hoặc những người Á Châu thì có nhiều món ăn đổi bữa hơn. Bù lại người Đức
ở nhà sang trọng hơn những dân tộc khác tại Á Châu và Phi Châu. Có nhiều
người nói rằng người Đức dành tiền ấy để đi nghỉ hè, chẳng biết có đúng
không ? nhưng khi đi nghỉ hè người Đức vẫn kéo theo những chiếc xe có
giường ngủ cho đỡ tốn tiền khách sạn, chứ đâu phải họ xài tiền một cách
rộng rãi đâu.
Người Đức chạy xe
ngoài đường rất lịch sự, không bóp còi inh ỏi như người Việt hay người
Thái Lan khi ở quê hương của họ. Họ hay giữ ranh giới, khoảng cách và
không vượt qua người trước, nếu không cần thiết. Dĩ nhiên người Đức trẻ
cũng chạy ẩu và gây ra nhiều tai nạn. Có như thế chính phủ mới có thêm
tiền từ những khâu tiền phạt nầy. Ở những thành phố lớn như Berlin,
Hamburg, Frankfurt v.v... tệ trạng đậu xe, đua xe, tai nạn xảy ra hằng năm
không ít so với các nước khác tại Á Châu.
Ở Đức được một cái
là bảo hiểm sức khỏe. Ai ai, kể cả ngoại kiều đều phải đóng bảo hiểm và
nếu không có bảo hiểm do hãng xưởng đóng, hay đóng tự túc qua tư nhân thì
xã hội cũng giúp cho vấn đề nầy để người bệnh có điều kiện chữa trị. Không
như ở Mỹ, khi một bệnh nhân cấp cứu, một sản phụ khi chở đến bệnh viện,
điều đầu tiên nhân viên bệnh viện sẻ hỏi là bảo hiểm ở đâu ? Nếu không có,
việc nhập viện có nhiều trắc trở. Mặc dầu những lý do nhập viện đều cần
thiết và xứng đáng cả. Tại Việt Nam ngày nay dưới chế độ Cộng Sản thì còn
tệ hại hơn nữa. Không ai có quyền hơn sức mạnh của đồng tiền. Do đó người
nghèo càng ngày càng khổ. Cái chết luôn bị rình rập bên mình. Vì lẽ chính
phủ chẳng quan tâm gì đến những kẻ khốn cùng như thế. Trong khi đó ở Đức
vấn đề nầy tương đối rất tốt đẹp. Không có một người dân Đức hay một người
ngoại kiều nào khó khăn vì vấn đề nầy cả.
Về bảo hiểm xã hội ở
xứ Đức nầy cũng rất tốt. Những người tỵ nạn lớn tuổi đến xứ Đức nầy trên
60 tuổi, khó tìm công ăn việc làm, do đó được trợ cấp xã hội cho đến lúc
qua đời. Khi mất, nếu người ấy không có con cái lo liệu và không có bảo
hiểm thì xã hội cũng cho cả tiền hòm và tiền chôn cất. Đây có thể nói là
một thiên đường trên trần thế. Ở các nước xã hội chủ nghĩa ngày xưa tại
Đông Âu và ngay ngày nay tại Việt Nam họ hay quảng cáo rằng các nước ấy là
thiên đường của xã hội chủ nghĩa. Thế mà khi chết cũng không có chiếc
chiếu để chôn và chính phủ đâu có đoái hoài tới. Một xã hội nghèo tơi tả
như Việt Nam, nếu không đổi mới theo hướng tư bản từ năm 1986 đến nay thì
dân chúng còn khổ sở hơn nhiều nữa. Họ quảng cáo cái gì cũng của nhân dân,
nhưng tiếc thay ngân hàng lại thuộc nhà nước quản lý. Do vậy các đảng viên
vẫn sống phè phởn trên xương máu của người dân thấp cổ bé họng, trong khi
đó Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước v.v... đang có hằng tỷ đô-la để trong ngân
hàng ở ngoại quốc. Xã hội Cộng Sản nó bất công như thế, khiến cho mọi
người hết tin tưởng vào cái thiên đường nầy nữa, cho nên nhiều người đã ra
đi tìm những thiên đường tự do nằm ở ngoài thiên đường của xã hội chủ
nghĩa là vậy.
Ở Đức thỉnh thoảng
mới thấy những người ăn xin hoặc say rượu. Họ đi xin không phải vì nghèo,
mà vì uống rượu, hút thuốc hết tiền, nên đã ra hè phố, hoặc trạm xe điện
để ngủ; đi lang thang như không có định hướng. Những việc như thế Cảnh sát
vẫn lùng bắt và hướng dẫn cho họ đến những cơ quan từ thiện như Caritas
hoặc nhà thờ để được giúp đỡ; nhưng đó cũng là bản chất của những người
nầy vì thiếu học, không tự chủ nên vẫn say sưa, hút sách, cờ bạc v.v... Ở
những xã hội chậm tiến việc nầy còn nhiều gấp năm hay mười lần như thế
nữa.
Về giáo dục học
đường có thể nói ở Đức tốt hơn cả ở Mỹ và ở Nhật. Vì lẽ người học trò khi
còn học ở Tiểu Học và Trung Học không phải đóng một loại học phí nào cho
nhà trường cả và ngay cả khi học xong chương trình Cử nhân, Tiến sĩ mỗi
năm chỉ đóng chưa tới 100 Euro tượng trưng cho bút chỉ văn phòng, thế mà
sinh viên đã biểu tình để đòi hỏi được giảm. Nếu nhìn qua Nhật hoặc Mỹ tuy
số Đại Học nhiều hơn Đức, nhưng trong khi đó Đại Học tư nhân chiếm rất
nhiều. Nếu học ngành Y khoa mỗi năm tại Mỹ và Nhật phải đóng ít nhất từ 10
ngàn đến 15 ngàn Mỹ kim học phí và những ngành khác cũng vậy. Dĩ nhiên ở
Nhật cũng có nhiều loại trường như trường công lập của chính phủ thì khỏi
đóng tiền học phí như ở Đức, nhưng thi tuyển vào đó rất khó, vả lại số
sinh viên chỉ nhận giới hạn mà thôi.
Đại Học cũ nhất của
nước Đức là Đại Học Heidelberg, được thành lập từ năm 1386 và nhiều Đại
Học khác được thành lập vào thế kỷ thứ 15. Ví dụ như Đại Học Leipzig thành
lập năm 1409, Đại Học Rostock thành lập năm 1419 và tổng cộng kể đến năm
1960 tại nước Đức nầy có 20 trường Đại Học (1).
Thống kê vào khóa
mùa Đông của năm 1994/95 tại Đức có gần 2 triệu Sinh viên đi học, nhưng dĩ
nhiên là ra trường rất ít. Vì lẽ chế độ học đường ở Đức rất tự do và không
gò bó thời gian phải học bao nhiêu học kỳ thì ra trường. Ngoài ra những
Sinh viên nghèo còn có thể nhận được học bổng từ chính phủ nữa, để sau khi
ra trường khi có công ăn việc làm thì trả dần hoặc trả một lần cho chính
phủ trong một nửa số tiền mượn và một nửa kia chính phủ cho Sinh viên ấy.
Sau nầy những năm 2000, 2001 hình như có nhiều thay đổi về chế độ học bổng
cho Sinh viên; nghĩa là chỉ cấp cho đến 5 năm học tại Đại Học mà thôi, sau
đó phải tự túc.
Ở các xứ nghèo như
Việt Nam, học bổng nếu có cũng chỉ cấp cho những học sinh giỏi, chứ không
phải ai cũng được cấp như tại Đức chỉ vì nghèo. Như vậy người Sinh viên có
cơ hội học hỏi tiến thân nhiều hơn, nếu người ấy có ý chí. Tuy nhiên vì
chế độ học đường quá dễ dãi như thế, nên có ít người ra trường hơn, so với
lúc ghi đơn vào học.
Ngược lại ở Nhật chế
độ thi tuyển vào Đại Học rất khó, nhưng nếu đã học ở Đại Học sau 8 học kỳ
là ra trường, sau đó thi vào Cao Học, học 4 học kỳ nữa là xong và nếu ai
học cao nữa thì học bậc Tiến sĩ từ 6 đến 8 học kỳ nữa là hoàn tất. Vì lẽ
không ai có tiền nhiều để đóng cho Đại Học nên phải học nhanh, học vội ra
trường đi kiếm việc làm.
Năm 1994 qua bảng
thống kê của Chính phủ Đức đã có khoảng 135.000 Sinh viên học tại đây. Con
số ấy không phải là con số nhỏ. Dĩ nhiên tiếng Đức là một loại ngôn ngữ
khó mà nhiều người ngoại quốc đến học như vậy phải nói rằng ở ngoại quốc
có nhiều người có cảm tình với nước Đức nầy. Tuy họ thấy những việc khủng
bố đốt nhà, giết người của một số thanh niên cực hữu Đức gây ra, nhưng họ
vẫn đến. Vì lẽ họ tin rằng ở xứ nầy có luật pháp để trừng trị những người
sống ra ngoài khuôn khổ của xã hội như thế! Dĩ nhiên nhân dân Đức ai cũng
muốn sống hòa bình trong đó có cả người ngoại quốc nữa; nhưng vào tháng 4
năm 2002 vừa rồi tại trường học ở Erfurt, nằm ở phần đất bên Đông Đức cũ
có một học sinh giết cả Thầy, Cô, Học sinh, Cảnh sát, tổng cộng 16 người
một lúc, làm cho thế giới cũng ngẩn ngơ và tất cả chính giới của nước Đức
cũng phải đặt lại vấn đề. Tại sao học đường lại sa đọa, mất phẩm chất đạo
đức như thế ? Cũng trong năm 2002 một tổ chức gọi là PISA hay kiểm tra về
học lực của các học sinh trên toàn thế giới thì nước Đức ở ngoài số chỉ
tiêu. Nghĩa là không đủ tiêu chuẩn. Vì thế Thủ Tướng Schröder của Đức muốn
cho học sinh Trung Học học suốt ngày tại trường như các xứ khác tại Á và
Âu Châu, chứ không chỉ học tới trưa là về nhà để sau đó lo chơi đùa với
bạn bè mà quên làm bài kiểm.
Ông Thủ Tướng
Schröder cũng là người cần mẫn siêng năng, khi còn nhỏ cha mất sớm, ông tự
học, tự kiếm việc làm, đi bỏ báo để có thêm tiền trong khi học. Lớn lên
sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ, ông đã gia nhập vào Đảng SPD và đã làm Thủ
Tướng Tiểu Bang Niedersachsen trước khi làm Thủ Tướng Liên Bang từ năm
1998 đến nay. Mùa bầu cử của năm 2002 nầy chẳng biết như thế nào - Ông còn
ở lại với nhân dân Đức hay ra đi thì chưa rõ; nhưng khi quý vị cầm quyển
sách nầy trên tay thì chuyện ấy đã rõ ràng rồi. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh,
con người ấy do ý chí tạo thành, mặc dầu hoàn cảnh của bản thân ông, của
gia đình ông, không phải là hoàn toàn tốt đẹp như nhiều gia đình khác.
Trong khi ông làm Thủ Tướng của một nước giàu nhất nhì tại Âu Châu, anh
ruột ông vẫn đi làm nghề sửa chữa đường sá cầu cống, chị ruột ông vẫn làm
ở những của hàng. Nếu mà những người nầy ở nước Việt Nam Cộng Sản hay
Trung Hoa thì họ chắc chắn đã có chỗ ngồi thật cao, có những món tiền thật
lớn để tiêu xài chứ không cần đi làm như thế đâu.
Ở Nhật tuy không có
ăn trộm, ăn cắp vặt, nhưng nhiều khi các Đảng phái khui ra những chuyện mờ
ám thì thâm thủng cả hằng tỷ đô-la. Nước Đức nầy cũng thế, người Đức ít ăn
cắp vặt, nhưng các Đảng phái chính trị, những nhà thầu, ngân hàng v.v...
đã trốn thuế cũng cả tỷ tỷ đô-la. Do vậy tôi vẫn thường hay nói: Ở đâu
cũng vậy, khi còn ở cõi Ta bà nầy là vẫn còn những tệ nạn như thế.
Khi ông bà xây một
căn nhà, không nhất thiết là phải có tiền đầu tiên, mà điều căn bản là ông
bà phải tính toán như thế nào để căn nhà ấy được xây lên và trả nợ ngân
hàng như thế nào v.v... Vậy thì cái tâm kia mới là chính, là động lực đẩy
mạnh để đi đến thành công và chắc chắn không phải bằng tiền. Vì có nhiều
người trúng số, có rất nhiều tiền, do không biết tính toán, cuối cùng còn
thâm thêm nợ nữa. Như vậy cái ý chí nó giúp ta thành Thủ Tướng, thành Vua,
thành Bồ Tát, thành Phật và quyết chắc rằng tiền bạc nó không làm nên tư
cách con người, mà nó chỉ là một phương tiện để giúp đỡ con người đi đến
thành công mà thôi.
Sau khi thống nhất
nước Đức, chính quyền Đức đã giúp cho các Đại Học ở phía Đông tân trang
đổi mới lại với số tiền lên đến 2,4 tỷ Đức Mã; nhưng sự giáo dục phía Đông
vẫn còn ì ạch, có lẽ vẫn còn ảnh hưởng bởi chính sách của chế độ cũ
chăng? Năm 1994/95 có 285.000 Sinh viên phía Đông ghi danh học. Tuy nhiên
số ra trường cho đến nay cũng rất giới hạn. Có nhiều Sinh viên và người
lao động thích sang phía Tây Đức nhiều hơn để kiếm chỗ học và việc làm;
nhưng nhiều khi người Đông Đức cũng không phải dễ kiếm việc làm tại Tây
Đức, vì lẽ suốt trong 40 năm xã hội chủ nghĩa họ được đào tạo khác và tinh
thần trách nhiệm họ không bằng phía bên Tây Đức nên họ vẫn bị đối xử khác
như thường. Đó là người Đức, còn người ngoại quốc khi đi xin việc hoặc lúc
mướn nhà quả là điều khó khăn vô cùng. Nhà đăng trên báo chưa cho thuê và
sự thật là vẫn chưa có người thuê; nhưng khi nghe tiếng người ngoại quốc
gọi đến xin thuê, thì đa phần câu đầu tiên bị từ chối khéo là: Đã có người
thuê rồi. Người Đức nếu đóng vai người ngoại quốc mới hiểu thấu tất cả
những vấn đề tế nhị ấy. Mặc dầu tại đây có nhiều luật pháp để bảo vệ cho
việc làm, cho việc thuê nhà, nhưng đa phần người ngaọi quốc vẫn bị thiệt
thòi như thường. Có lẽ đây là cái lỗi của người ngoại quốc, vì tiếng Đức
quá dở nên không nắm bắt được những cơ hội tốt như những người Đức khác
chăng ? Còn người Đông Đức thì sao ? Người Tây Đức họ vẫn nghĩ rằng họ
được giáo dục cao hơn, giàu có hơn và trên thực tế sau hơn 10 năm thống
nhất Đông Tây Đức, chính phủ rất thành công. Vì có nhiều tiền thuế để đổ
vào xây dựng cho phía Đông, nhưng cả hai phần đất nước Đông Tây vẫn chưa
có một điểm chung tuyệt đối để xây dựng đất nước nầy ngang hàng với các
quốc gia láng giềng khác.
Ngày 30 tháng 4 năm
1945 là ngày giải thể chế độ Đức Quốc Xã ở Đức. Ngày mà nhân dân Đức và
thế giới reo mừng. Vì đã thoát ra khỏi ách độc tài thống trị của một bạo
chúa Hitler cũng giống như Tần Thủy Hoàng của Trung Quốc, hoặc một
Hirohito của Nhật Bản. Đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 nghĩa là 30 năm sau
miền Nam Việt Nam đã bị mất vào tay của người Cộng Sản Việt Nam phương Bắc
và từ đó đến nay đã hơn ¼ thế kỷ rồi mà cả 2 miền tư tưởng của nhân dân
đâu có thống nhất được. Tuy giang sơn nối liền một mối, nhưng tư tưởng
chính trị, đời sống văn hóa nhân dân miền Nam Việt Nam vẫn còn khác xa đời
sống thực tế của người dân miền Bắc rất nhiều, mặc dầu tại miền Bắc Việt
Nam chính phủ đầu tư vào đó không ít. Tuy nhiên cái tinh thần làm việc của
xã hội chủ nghĩa mấy mươi năm qua làm sao bằng nhân dân miền Nam đã tiếp
xúc với tư bản chủ nghĩa từ năm 1954 đến 1975 được. Hy vọng rồi thời gian
sẽ làm cho mọi dị biệt sẽ đi đến chỗ tương đồng; nhưng bằng chứng của nước
Đức và bằng chứng của Việt Nam là 2 thực thể quá hùng hồn để cho chúng ta
thấy rằng tiền bạc chắc chắn không phải là vấn đề chính cho vấn đề phát
triển quốc gia, mà ý chí vươn lên của con người mới là vấn đề căn bản quan
trọng nhất.
Nước Đức vẫn là nước
có người đến du lịch nhiều. Vì nhiều người nghĩ rằng tại nước Đức an toàn
hơn các nước khác tại Âu Châu như Anh hay Pháp chẳng hạn. Vì lẽ ở Đức
không có thành phố nào lớn như Paris hay London, mà ở đó có rất nhiều vấn
đề phức tạp. Ngay cả Berlin là thủ đô của nước Đức trong hiện tại cũng chỉ
với hơn 3 triệu người, so với Paris, London trên 10 triệu người, dĩ nhiên
là ở Đức ít có vấn đề hơn. Thế nhưng điều ấy không có nghĩa là không có.
Ví vụ như tại phi trường Frankfurt người ta được đọc những lời khuyên bằng
tiếng Đức lẫn tiếng Anh là: Coi chừng bị móc túi. Như thế có nghĩa là ở
đây đã xảy ra những chuyện như thế. Vật giá ở Đức không rẽ hơn Pháp, Anh;
nhưng chắc chắn là rẻ hơn các xứ Bắc Âu như Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển,
Phần Lan. Do vậy nhiều người đến Đức cũng là lý do chính.
Ngày nay người Nhật
đến Âu Châu rất nhiều, trong đó có xứ Đức. Vì tại Đức có những thành phố
cổ như Heidelberg, Trier v.v... là những nơi họ cần xem và cần đến. Nếu có
ai đó đi du lịch ở Nhật mới biết - một quả táo tốt nhất của Nhật tính đến
8 USD. Một bữa ăn sáng của khách sạn độ chừng 20 USD mà thông thường ở Âu
Châu tiền ăn sáng được tính chung vào tiền phòng; nhưng ở Nhật không có
vấn đề đó. Năm 1972 khi tôi du học tại Nhật 1 USD đổi được 360 Yen. Bây
giờ năm 2002, 1 USD chỉ đổi còn 120 Yen. Nghĩa là đồng USD đã mất giá 1/3
sau 30 năm; hoặc giả đồng tiền Yen đã có giá? Do vậy mà từ Nhật đi sang du
lịch các nước Âu Mỹ rẻ hơn khi họ chuyển đổi đồng Yen ra USD hoặc những
loại tiền Âu Mỹ khác. Trong khi đó người ngoại quốc khi vào Nhật phải lo
tính trước túi tiền, mặc dầu nơi đây không bị móc túi nơi phi trường hay ở
những nơi đô hội, mà túi của khách bị rỗng vì giá cao cắt cổ như vậy đó.
Khi vào khách sạn
hay lúc ăn uống, khách sẽ nhìn thấy trên bàn miếng giấy có ghi rằng: nơi
đây không nhận tiền pour boire (trinkgeld); thế nhưng giá cắt cổ như thế
thì ai mà còn dám cho thêm tiền cho người hầu bàn. Ở Ấn Độ và Việt Nam hay
ngay cả ở Đức nầy cũng khác. Việc cho tiền bồi bàn là chuyện bình thường.
Điều ấy cũng giống như thưởng công cho họ. Trong khi ở Nhật không có thông
lệ ấy. Có lẽ là cái thể diện của quốc gia chăng? Năm 2002 chúng tôi ở Ấn
Độ 1 tuần lễ chỉ tiêu 100 USD là cùng, thế mà chỉ ở Nhật có 4 ngày; nhưng
phải tiêu đến cả ngàn USD rồi đấy. Vật giá mà cao nhất thế giới phải nói
là nước Nhật. Trong khi đó vật giá tại Đức tương đối trung bình, không đắt
quá mà cũng không rẻ quá; nên cũng dễ thở.
Người ngoại quốc,
dẫu ở tận đến Châu Phi ai ai cũng biết những đồ vật có dấu hiệu Made in
Germany. Ví dụ như Mercedes, BMW, Audi, Volkwagen v. v... là những sản
phẩm tuyệt diệu nhất. Tuy không đẹp bằng xe Honda, Suzuki của Nhật; nhưng
rất bền và chất lượng rất tốt. Đây là niềm tự hào của người Đức và vì thế
người Đức đến xứ họ thăm cũng như ở càng ngày càng nhiều vì lý do chữ tín
ấy rất quan trọng. Riêng người Việt Nam thì vấn đề nầy cần phải xét lại.
Đồ Việt Nam sản xuất tương đối rẻ. Vì nhân công đông, giá thành thấp;
nhưng nếu bán được thì con buôn và người sản xuất có nhiều lý do để ngụy
trang cho món hàng của mình. Ví dụ như làm cho chất lượng kém đi, nhưng
cũng với mẫu đó hoặc giả số lượng cũng giảm v. v... từ đó uy tín không còn
đứng vững trên thương trường và dễ đi đến chỗ phá sản.
Người ngoại quốc
cũng rất hãnh diện về những đồ đạc được sản xuất tại Đức. Họ đứng trước
một chiếc xe hiệu Mercedes đã hơn 30 năm xử dụng, nhưng máy vẫn còn chạy
rất tốt nên họ đã tự hào. Họ tự hào vì họ đã chọn món hàng ưng ý, tuy có
đắt hơn so với giá thị trường, nhưng rất bền. Mỗi năm Nhật Bản chắc chắn
sản xuất xe hơi nhiều hơn Đức và mẫu mã cũng đẹp hơn, hợp thời trang hơn;
nhưng chắc chắn kim ngạch xuất cảng xe hơi của Nhật không bằng tiền thâu
vào của Đức khi bán xe ra thị trường của nó.
Một người nội trợ
cầm một con dao nhỏ làm bếp rất hãnh diện và nói với bạn bè rằng con dao
ấy tôi mua ở Đức đó, đã 25 năm rồi nhưng vẫn còn sắc bén! Như vậy là nước
Đức thành công rồi! khi người thợ làm con dao ấy họ chỉ biết chế tạo theo
công thức và sản lượng; nhưng vì trách nhiệm nghề nghiệp họ không thể bớt
chất thép để hạ giá thành, mà ngược lại làm đúng tiêu chuẩn thì chữ tín
càng được tin hơn. Vì lý do ấy nên nhiều người Đức họ lạnh lùng cũng phải.
Bởi lẽ họ nghĩ rằng tất cả những đồ được bày bán đó đều có chất lượng cao.
Nếu anh chị thích thì cứ mua, chứ không cần phải hạ giá.
Người trẻ nước Đức
ngày nay lớn lên họ đã chẳng phải nhọc công như cha ông họ đã trải qua
những gian khổ của thời Hitler, của đệ nhất, đệ nhị thế chiến, hay cả 40
năm sống dưới chủ nghĩa cộng sản của Đông Đức; nên họ đã sa đọa rất nhiều
và họ đã bị thế hệ đàn anh của họ cảnh cáo. Ngày nay các phong trào hippy,
tự do luyến ái, ly dị, đồng tính kết hôn v.v... đã xảy ra hằng ngày tại
đây và đây là nguyên nhân của những ung nhọt trong xã hội; nếu không sớm
chữa trị, chắc chắn sẽ trở thành những thời đại bệnh hoạn kế tục về sau,
để nước Đức nầy sẽ ra sao thì những người có trách nhiệm ắt đã rõ. Tuy
nhiên những phong trào sống tự nhiên, sống hết mình, sống thoải mái và
không có tinh thần trách nhiệm như thế không phải chỉ có ở xứ Đức nầy mà
nhan nhản khắp Âu Mỹ và ngay cả các nước Á Châu như Nhật Bản, Đại Hàn,
Trung Hoa, Việt Nam, Thái Lan v.v...
Tôn giáo tại các xã
hội Âu Mỹ ngày trước có quyền lực vô biên. Bây giờ thì thần quyền đã giảm
và nhân quyền đã thăng hoa; nên ở đây mọi quyền tự do của con người được
tôn trọng và bảo vệ một cách thái quá. Ví dụ như chửi cả Thủ Tướng, Vua,
Dân Biểu. Lật hết tẩy của đối phương không một chút nhân nhượng; những tổ
chức tôn giáo cũng chỉ đứng vòng ngoài, làm sao vào bên trong được, trong
khi luật pháp cho phép họ làm những vấn đề như thế để tuyên dương ý chí tự
do.
Khi ngôi chùa Viên
Giác được xây dựng tại Hannover từ năm 1991. Từ đó đến nay mỗi năm có độ
hàng trăm ngàn người về chùa tham gia các lễ lớn như Tết, Rằm tháng Giêng,
Lễ Phật Đản, Vu Lan và các khóa tu học v.v... mỗi lần như thế có báo chí
truyền hình hay tường thuật lại các buổi lễ và họ có phỏng vấn chúng tôi
là có bị kỳ thị bởi người Đức không? Điều nầy phải thành thật trả lời là
hoàn toàn không? Có lẽ người Đức cũng hiểu Đạo Phật là đạo hòa bình, đạo
đem tình thương để hóa giải khổ đau cho nhân sinh; nên họ rất có cảm tình.
Dĩ nhiên là cũng còn nhiều người Đức cũng có ý tò mò tìm hiểu Đạo Phật là
gì v.v... nhưng điều ấy không có ý xấu, mà chính là để giải tỏa những thắc
mắc của họ.
Khi con người bị
chảy vào đời sống thác loạn như thế, họ thấy như chơi vơi, lạc lõng giữa
dòng đời. Do đó nhiều người đã tìm đến với Tôn Giáo, trong đó có Phật
Giáo, mà Thần học sẽ giúp họ về vấn đề tâm lý trị liệu để giúp họ quân
bình giữa đời sống tâm linh và đời sống vật chất một cách điều hòa hơn.
Chủ đề của chương
nầy là "Người Đức dưới mắt tôi", tôi đã nhìn tổng quát về mọi phương diện
qua 25 năm sống tại Đức. Có lẽ cũng có nhiều người Việt Nam không bằng
lòng bảo: sao Thầy bênh vực người Đức quá, trong khi đó giá trị của người
Việt Nam thì Thầy không nâng cao lên? Hoặc giả cũng sẽ có những người Đức
khó tính bảo rằng: đó chẳng phải là dân tộc tính của người Đức. Vì người
Đức cao thượng hơn, chứ không phải như vậy. Thì đó cũng là nhận xét của
những người khác và cái nhìn đó nó khác cái nhìn của mình vậy thôi. Hãy
quán rằng: tất cả là như thế đấy!
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III |
Chương IV
Chương
V|
Chương VI |
Chương VII
|
Chương VIII