Cảm tạ xứ Đức
Thích Như Điển
Phật lịch
2546 - 2002
Trung
tâm văn hóa xã hội Phật Giáo Việt Nam
---o0o---
Chương IV.
Hơn 30 năm sống ở ngoại quốc và trong đó có
hơn 25 năm sống tại xứ Đức
Năm nay (2002) tôi
đã 54 tuổi tính theo lịch Việt Nam và 52, 53 tuổi tính theo lịch Âu Mỹ.
Cái tuổi ngũ thập tri thiên mệnh rồi. Nghĩa là việc gì xảy ra trong trời
đất đều phải biết cả; thế nhưng sự kiện xảy ra hằng ngày làm sao biết hết
nổi, quá nhiều. Người nào có bộ óc tinh vi đến bao nhiêu đi nữa cũng không
thể nhớ hết tất cả sự việc. Còn tôi với chừng tuổi ấy, đã ở ngoại quốc năm
thứ 31 rồi. Điều ấy có nghĩa là tôi rời xa đất mẹ Việt Nam từ năm 23 tuổi.
Cái gốc gác cội nguồn ấy bây giờ nó đã còn sót lại trong tôi ít hơn là năm
tháng tôi học hành, trưởng thành và sinh hoạt tại ngoại quốc nầy.
Cũng may là sau khi
xong Tú Tài II, nghĩa là xong Trung Học Đệ Nhị Cấp tôi mới xa quê hương để
đi du học, nên vốn liếng tiếng mẹ đẻ cũng như lịch sử, văn chương, địa lý,
phong tục v.v... nó còn sót lại nơi mình. Khi nhìn những em bé sinh ra tại
ngoại quốc và lớn lên, học hành đỗ đạt ở đây, nhưng vẫn cố gắng nói tiếng
mẹ đẻ và viết được tiếng Việt, thật tình tôi cảm phục vô cùng. Một phần
tôi cảm phục các em ấy, phần khác phải công nhận rằng giáo dục của gia
đình em ấy có căn bản cho nên mới được kết quả ấy. Thông thường người ta
nói là: "Con cái nói tiếng mẹ đẻ" chứ chẳng ai nói rằng: con tôi nó nói
tiếng của cha nó. Như thế là hỏng mất một hay hai thế hệ rồi.
Cách đây chừng 20
năm khi tôi có dịp sang Thụy Sĩ thuyết trình về Phật Giáo, có lưu lại
trong một gia đình người Việt Nam lấy chồng người Thụy Sĩ, đã có 2 con rất
lớn. Các cháu đến chào tôi bằng tiếng Việt giọng Huế. Tôi đã ngỡ ngàng
không ít và hỏi người đàn bà đối diện rằng:
- Tại sao con chị
lai Thụy Sĩ mà nói tiếng Việt hay thế ?
- Bạch Thầy! Các
cháu phải nói tiếng mẹ đẻ của nó chứ! Bà ta trả lời như thế.
Đây là một bằng
chứng hay nhất để cho những người mẹ dạy dỗ con của mình. Ngày nay con của
mình có thể học, nói, viết 5, 7 ngôn ngữ cùng một lúc; nhưng quan trọng
nhất phải là ngôn ngữ của người mẹ trước. Nếu mẹ là người Việt Nam, bắt
buộc phải dạy con mình nói tiếng Việt. Nếu mẹ là người Hoa, người Nhật,
người Đức, người Pháp, người Ý v.v... điều đầu tiên là phải luyện cho con
mình học ngôn ngữ của mình nói ra. Người mẹ có cơ hội gần gũi con cái mình
nhiều; nên con cái dễ tập theo hơn là người cha. Người cha chỉ có bổn phận
làm ra tiền bạc và nuôi dưỡng con cái gia đình, còn người mẹ giữ vai trò
huấn dụ, uốn nắn con mình đi theo con đường của cha mẹ sẽ chọn và dạy dỗ
cho con.
Có nhiều người Việt
Nam sinh trưởng nơi thôn quê nghèo khó, không có chữ nghĩa bao nhiêu, khi
sang Đức hoặc Mỹ, Úc muốn cho con mình học ngôn ngữ địa phương cho nhanh
để dễ hội nhập vào cuộc sống mới. Dĩ nhiên là chúng rất thành công. Vì môi
trường giáo dục tốt thì con cái cứ thế mà phát triển và thành đạt; nhưng
tiếc thay sinh hoạt trong gia đình thì không ổn thỏa. Vì con cái chỉ nói
tiếng địa phương, trong khi đó cha mẹ lại ù ù cạc cạc. Nhiều khi chúng
chửi hoặc nói xấu cha mẹ bằng tiếng ngoại ngữ cha mẹ cũng chẳng biết đâu
mà trả lời. Chỉ biết nhăn răng cười khì thì chúng cho là lạc hậu, hủ bại
v.v... thế rồi đâm ra buồn phiền con dâu và có rất nhiều hiện tượng rất
tiêu cực như tự tử, thối chí, bấn loạn tâm thần v.v...
Ngày 22 tháng 2 năm
1972 khi tôi cất bước ra đi du học khỏi Việt Nam, tôi nghĩ rằng có ngày sẽ
trở lại quê cha đất Tổ, đâu có ngờ rằng phải lưu lạc khắp bốn phương trời,
tính cho đến ngày nay đã là năm thứ 31 rồi. Nếu có ai đó hỏi: Thầy sống ở
ngoại quốc thấy như thế nào? Thầy có nhớ Việt Nam không? hoặc giả dự định
tương lai của Thầy như thế nào? v.v... thì có vô vàn câu trả lời để diễn
tả tâm trạng của mình khi xa xứ. Được một cái may là tôi hội nhập rất
nhanh và biết nhiều ngoại ngữ cũng như sử dụng chúng một cách thuần thục,
do đó đỡ bỡ ngỡ khi tiếp xúc với người ngoại quốc hay với người đồng hương
của mình.
Tiếng Pháp tôi học 7
năm tại Trung Học Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp. Mỗi tuần 6 tiếng tiếng đồng
hồ. Văn phạm thì rất rành, nhưng nói năng thì chẳng được chữ nào khi còn ở
trong nước và lúc còn ngồi tại ghế nhà trường. Sang Trung Học Đệ Nhị Cấp
tôi lấy Anh văn làm sinh ngữ 2, học để lấy điểm và cốt thi Tú Tài I và II
cho xong là an phận. Còn chữ Hán thì tôi đã học tại chùa Phước Lâm, Viên
Giác cũng như tại các trường hạ tại chùa Tỉnh Hội Quảng Nam và chùa Long
Tuyền. Chỉ có chừng ấy chữ mà thôi. Giữa năm 1971 tôi đậu Tú Tài II và xin
giấy tờ sang Nhật Bản. Lúc ấy có học đâu chừng 3 tháng tiếng Nhật tại
trường Nhật ngữ Chiêu Dương ở Sài Gòn. Ngôn ngữ nầy cũng chẳng dễ chút
nào. Do vậy ba tháng học hỏi tiếng Nhật ấy cũng giống như muối bỏ vào biển
vậy thôi. Khi đến Nhật chẳng mở miệng nói được câu nào; ngay cả câu chào
hỏi hằng ngày.
Đến Nhật tôi ở chung
với Thầy Thích Chơn Thành mấy tháng để đi học tiếng Nhật tại trường Nhật
ngữ Yotsuya tại Tokyo. Đi học thì ham lắm, nhưng tiền bạc không có, biết
làm sao đây. Từ Sài Gòn qua Tokyo để du học mà trong mình chưa có 1.000
$US và một vé máy bay một chiều do Thầy Bảo Lạc, bào huynh của tôi tặng.
Hành trang chỉ có một bộ y (không đủ 3 y nữa), sách vở và bằng cấp Tú Tài
I và II. Chỉ đơn giản có vậy thôi. Lúc ấy tôi tìm địa chỉ của những người
quen và cuối cùng thì được gặp Phan Đức Lợi, người bạn học cũ cùng trường
Tiểu Học năm xưa từ 1958-1961 ở Xuyên Mỹ, Duy Xuyên, Quảng Nam. Lúc đó hắn
ta cũng mới qua Nhật độ 2 năm; nhưng có đi làm và dư dả chút ít nên đã cho
tôi mượn một ít tiền để đóng tiền trường học Nhật ngữ. Kế đến khóa 2 thì
hết tiền, tôi mới viết thư về Việt Nam cho Sư phụ tôi và một dịp may hiếm
có là có chị Yến con ông Tô Văn Tám ở Nhật lâu năm, nay sắp về nước, có để
lại một ít tiền; nên Sư phụ tôi đã mượn của ông Tô Văn Tám và chị Yến đã
chuyển ngay đến tôi.
Học khóa I tôi thi
nhảy lên khóa III và học khóa III tôi thi nhảy lên khóa cao cấp. Có nghĩa
là thay vì học một năm Nhật ngữ, tôi chỉ cần học có 6 tháng là thi đỗ vào
Đại Học.
Bây giờ thì Phan Đức
Lợi đã chết rồi, khi công danh còn rạng rỡ, ở lứa tuổi chưa đến 50. Tôi và
Lợi chánh kiến khác nhau. Do vậy mà cũng không thuận nhau mấy; nên những
ngày tháng sau 1975 ít hay liên lạc. Còn chị Yến và ông Tô Văn Tám nay vẫn
còn ở Mỹ, người lấy chồng tại Los Angeles, kẻ cư ngụ tại San Jose. Tất cả
đều ở cùng Tiểu Bang California. Xin cảm ơn tất cả với tấm chân tình của
từng người và từng giai đoạn trong cuộc đời tu học của mình.
Trước khi đi du học
tôi có thọ ơn của hai gia đình ở Việt Nam. Đó là gia đình của Phạm Mạnh
Cương và gia đình của Phạm Nam Hải. Hai người nầy là bạn học, bạn thi Tú
Tài I và Tú Tài II của tôi tại Sài Gòn thuở ấy. Từ sự liên hệ nầy mà năm
1975 đến nay tôi vẫn còn liên lạc với anh Phạm Nam Sơn, cô Đỗ Ngọc Hiền là
anh ruột và chị dâu của Hải và những người nầy đã quy y làm đệ tử của tôi
từ năm 1979. Hiện nay họ đang ở Raleigh, Tiểu Bang North Carolina, Mỹ
Quốc.
Sau khi thi đỗ vào
Đại Học Teikyo ở Hachigi ngành Giáo Dục học tôi đã chẳng còn tiền để đóng
học phí. Nếu không có đủ - thuở ấy chừng 1.000 $US - thì xem như không
được học. Tôi chạy quýnh quáng mọi nơi. Có lúc nhờ Thầy Minh Tâm, có khi
nhờ Thầy Như Tạng và Thầy ấy đã mách dùm là tại Nhật có một Đạo Hữu tương
đối có tiền. Đó là Đạo Hữu Quảng Phụng. Tôi mừng quá mới nhờ Thầy Như Tạng
giới thiệu và bảo đảm để mượn độ 10 vạn Yen. Độ chừng 500 $US thuở ấy.
Cuối cùng rồi tôi cũng đủ số tiền 1.000 $US để đóng học phí. Lúc ấy kiều
bào tại Nhật rất ít. Còn ở Nhật tất cả Sinh viên đều nghèo, ai cũng giống
như nhau, chẳng biết ai mà hỏi mượn. Nhìn về Việt Nam thì vô vọng. Giáo
Hội nghèo, gia đình chẳng trông cậy gì được. Lúc ấy tôi là một Tăng sinh
giỏi nên ngày đi du học Hòa Thượng Trí Giác và Sư phụ tôi hứa giúp mỗi
tháng 30 $US; trong khi đó ở Nhật một người Sinh viên tiêu mỗi tháng ít
nhất là 150 $US chưa kể tiền học phí. Thôi thì cứ chấp nhận và giải quyết
từng giai đoạn chứ biết sao hơn.
Thầy Như Tạng sau
khi xong Tiến sĩ chính trị học tại Đại Học Meiji ở Tokyo, sang định cư tại
Úc từ năm 1986, có lập gia đình và sinh một cháu gái học rất giỏi. Thầy là
bạn của Thầy Bảo Lạc và ân nhân của tôi từ thuở ban đầu khi mới đến Nhật.
Thầy Minh Tâm, bây
giờ là Hòa Thượng Thích Minh Tâm hiện trụ trì chùa Khánh Anh đó, khi tôi
qua Nhật thì Thầy đã chuẩn bị xong chương trình hậu Đại Học tại Đại Học
Risso, cũng là người ân của tôi và Thầy ấy đã giới thiệu cho tôi vào ở
chùa Honryuji tại Hachiogi để ở từ năm 1973 đến năm 1977. Chỉ những cái ơn
nho nhỏ nhưng rất quan trọng lúc ban đầu ở xứ người như thế, mà mãi cho
đến ngày hôm nay khi xây chùa Khánh Anh tại Pháp dưới sự trụ trì của Hòa
Thượng Thích Minh Tâm, cá nhân tôi và chùa Viên Giác ở Hannover đã đóng
góp giúp đỡ như thế nào thì quý vị đã rõ.
Năm 1973 Thầy Minh
Tâm đi Pháp; năm 1971, 1972 Thầy Long Nguyệt, Thầy Trí Quảng về lại Việt
Nam; một số Thầy khác như Thầy Bảo Lạc, Minh Tuấn, An Thiên, Thầy Chơn
Thành, Thầy Minh Tuyền vẫn còn ở lại Nhật cho đến năm 1980 hay mãi những
năm sau đó mới rời Nhật đi Úc, Mỹ v.v...
Đạo Hữu Quảng Phụng
đã giúp đỡ ngày xưa, sau năm 1975 đã sang định cư ở Pháp và tiếp theo sang
Hoa Kỳ lập nghiệp. Cuối đời thì xuất gia. Hiện đang trụ trì chùa Linh Sơn
tại Paris dưới pháp hiệu là Thích Trí Nguyên. Tất cả đều đổi thay và tất
cả đều không chắc thật. Chỉ có tâm nguyện của con người, lòng từ ái, sự
biết ơn là còn theo mãi ta suốt kiếp luân hồi mà thôi.
Thật tình mà nói
trước khi sang Nhật du học các Sinh viên thiếu rất nhiều nguồn thông tin.
Ngay cả Tòa Đại Sứ Nhật tại Việt Nam cũng ít cung cấp cho đầy đủ. Trong
khi đó Sứ Quán Việt Nam Cộng Hòa tại Tokyo cũng chỉ làm những nhiệm vụ
ngoại giao là chính, chứ vấn đề văn hóa giáo dục hình như cũng ít quan
tâm, ai cần gì thì họ giúp đỡ, hướng dẫn; nhưng thiếu tính cách chung cho
mọi trường hợp. Do đó người Sinh viên trở nên bơ vơ nơi đất khách. Ngay cả
trường hợp của chúng tôi là những Sinh viên Tăng đang còn hăng say, mới
bước chân vào ngưỡng cửa Đại Học, cũng chẳng biết tại Nhật đời sống của
Tăng Ni ra sao, ăn uống như thế nào ? trú ngụ ở đâu ? học hành trường sở
ra sao ? v.v... và v.v... tất cả đều mù tịt; miễn sao có được cái Passport
nắm trong tay và có Visa của chính phủ Nhật là an tâm để lao vào một chặng
đường chông gai chẳng ai có thể đoán trước được là gì nữa.
Đầu tháng 2 năm 1973
tôi đã dọn vào ở chính thức tại chùa Bổn Lập (Honryuji) ở thành phố Bát
Vương Tử (Hachiogi). Vị Thầy trụ trì ở đây tên là Oikawa, có gia đình 4
con và là Giáo sư Đại Học Risso tiếng Pali. Trước đây Thầy ấy có du học
Tích Lan mấy năm, nên ông ta tương đối có thông cảm với người ngoại quốc.
Do vậy ở chùa cũng dễ thở một chút so với những nơi khác. Tuy nhiên chùa
chiền ở Nhật sinh hoạt giống như một gia đình không hơn không kém; nhưng
tôi phải cố nhẫn nại. Vì biết rằng ở đây để giỏi tiếng Nhật và đỡ tiền ăn
ở là phước lắm rồi. Còn tiền học tự đi làm trong những kỳ nghỉ hè để xoay
xở mà đóng học phí. Nên tất cả đều phải vâng vâng dạ dạ và làm việc thật
tận tâm cho chùa để ngày tháng trôi qua và phải thành tựu một cái gì đó
mới là điều cần làm.
Năm thứ nhất tại Đại
Học Teikyo, Thầy giảng phần Thầy, trò nghe phần trò; chẳng hiểu mô tê ất
giáp gì hết, mặc dầu tiếng Nhật của tôi cũng không đến nỗi tệ lắm. Đến năm
thứ 2 trở đi mới nắm vững vấn đề là nhờ vào thời gian và bạn bè giúp đỡ.
Trong đó có Yamada và Iyoda là 2 người bạn trai học cùng phân khoa đã giúp
tôi không ít lúc ban đầu. Lúc ấy thì tiếng Nhật phải sử dụng như là ngôn
ngữ chính, tiếng mẹ đẻ và tôi đổi sang tiếng Anh làm sinh ngữ I và tiếng
Pháp làm sinh ngữ II, trong khi đó ở Việt Nam thì ngược lại.
Mỗi ngày tôi dậy sớm
để lau chùi chùa và tụng kinh, sau đó đi học cho đến chiều mới về chùa.
Buổi trưa ăn ở Kantine của Đại Học, vào Thư viện nghỉ trưa một chút và
chiều học thêm một vài môn nữa, sau đó lên xe Bus phía sau Đại Học đến nhà
gare Takahatafudo (Cao Phan Bất Động) thì đi tàu lửa về nhà gare Hachiogi
và đi bộ độ 15 phút thì về đến chùa. Khi về chùa báo cho chùa biết là
Tadaimasu nghĩa là tôi đã về tới. Người trong chùa sẽ nói lại là:
Okaerinasai nghĩa là: hãy trở về. Lúc đi cũng vậy, khi ra khỏi chùa phải
nói là Itteikimasu -xin phép được đi- người trong chùa sẽ trả lời là:
Itteirasai -xin vui lòng đi- Đó là cung cách của người Nhật rất lịch sự,
lễ phép, duyên dáng mà nhiều ngôn ngữ khác như Anh, Pháp, Đức không có.
Công việc của tôi là
nấu cho sôi nồi nước tắm chung cho cả chùa bằng một loại củi khô. Ở Nhật
ít có nhà nào rộng nên họ đi tắm chung tại một địa điểm nhất định trong
phố. Nhà chùa thì rộng rãi hơn nên họ có nhà tắm riêng. Tuy nhiên nồi nước
đó chỉ vừa một người ngồi vào sau khi đã hòa nước cho ấm, chứ không thể
nào tắm một lúc nhiều người được như ở ngoài. Cuối cùng rồi mọi thành viên
trong chùa đều phải tắm trong mỗi ngày cả. Lúc ấy có thêm 3 Sinh viên Tăng
và tôi nữa là 4 và gia đình Thầy Trụ Trì 6 người. Vị chi là 10 người.
Nakatomi, Matsunagara, Shimizu là những người Tăng sĩ trẻ đang học tại Đại
Học Risso thuở ấy và bây giờ đã là Trụ Trì nhiều ngôi chùa danh tiếng tại
Tokyo cũng như Sikokku rồi. Matsunagara và Nakatomi vào mùa hè năm 1974
cùng tôi có về Việt Nam một tháng, có dẫn họ theo và họ rất thích phong
cảnh cũng như đời sống của người Việt Nam.
Sau đó tôi có giới
thiệu Thầy Như Mẫn, tức Thầy An Thiên, vào ở chung chùa Honryuji từ cuối
năm 1973 đến năm 1975 thì Thầy ấy không còn ở đó nữa, mà dọn lên gần
trường để học và sau nầy có trở lại Honryuji để giúp việc trong các lễ
Ohigan cũng như Vu Lan bồn v.v... để rồi năm 1991 qua Úc, sau khi tốt
nghiệp Tiến sĩ tại Đại Học Risso và ngày 24 tháng 5 năm 2002 nhằm ngày 13
tháng 4 năm Nhâm Ngọ Thầy ấy đã tự thiêu sau chùa Minh Giác ở Sydney để
lại một nỗi buồn man mác cho mọi người. Vẫn biết rằng cuộc đời nầy là
huyễn mộng; nhưng học lực như thế, hảo tướng như thế, chưa giúp đời, giúp
đạo được là bao nhiêu, đã vội vào cõi tĩnh, thì thử hỏi ai mà chẳng ngỡ
ngàng.
Lúc đầu mới vào ở
chùa tôi không rành tiếng Nhật nên mỗi sáng phải đi làm thêm bên ngoài.
Trong tuần đi bỏ báo và cuối tuần đi làm thuê cho Nhật tại Takananobaba.
Nơi nhà gare nầy mọi người tập trung đến đó, có người đến ngã giá và chở
đi, đến sở làm và làm ở đó suốt ngày, đến chiều thì trả tiền. Đa phần là
những công việc xây cất. Chả bù với tấm thân mảnh khảnh của các Sinh viên,
chẳng làm được một việc gì nặng nhọc, mà bây giờ vì sự sống còn, phải kham
nhẫn vậy thôi.
Càng ngày tiếng Nhật
của tôi càng giỏi hơn, nhờ tiếp xúc hằng ngày tại chùa và cũng có khiếu
sinh ngữ nữa; nên tôi đã tụng kinh tiếng Nhật với các Sinh viên Tăng nầy
mỗi khi có đám tại chùa cũng như Thầy trụ trì cho nên càng dạn dĩ hơn.
Chùa nầy theo tông Nhựt Liên (Nichiren) nên kinh Pháp Hoa là bộ kinh
chính. Đa phần chỉ tụng phẩm thứ 2, tức Phương Tiện Phẩm và khi nào có lễ
lớn mới tụng Phẩm thứ 16 tức: Như Lai Vô Lượng Thọ Phẩm. Dần dà tôi đi đám
bên ngoài được và từ đó ít bận tâm đến chuyện tiền bạc để đóng học phí
nữa.
Mỗi năm 4 kỳ như
thế, trong chùa khoanh vùng ra cho 5 người đi cúng trong số đàn gia và tín
đồ của họ. Phần tôi độ 100 căn nhà như thế. Mỗi năm vào trước Tết, vào
cuối tháng 3, vào giữa tháng 7 và cuối tháng 9, từ chùa Tăng sĩ tự động
đến nhà Phật Tử để tụng kinh cầu nguyện. Ở Nhật đó là chuyện bình thường.
Có lẽ nhờ như vậy mà họ duy trì được sự liên hệ giữa chùa và các tín đồ
thuộc môn phái của họ. Nếu đến nhà đó không có người thì đi trở lại một
hay hai lần nữa. Khi tụng xong thời kinh là uống một ly trà, ăn một cái
bánh ngọt và nhận một bao thơ cúng dường với câu nói của thí chủ là: Cảm
ơn sự khổ nhọc của Thầy (Gokurosama desu). Tùy theo nhà giàu nghèo; đa
phần họ cúng 1.000 Yen là thường. Thời giá lúc ấy độ 5 $US, còn bây giờ là
10 đô-la vậy. Vì đồng Yen đã tăng giá. Đi cúng cả tuần như thế và hết 100
nhà là được 500 đến 1.000 đô-la. Một năm 4 kỳ như thế, quả là con số không
nhỏ. Thỉnh thoảng còn có đi đám tang với Thầy trụ trì nữa thì có thêm tiền
vào.
Có lần tôi đến cúng
cho một nhà, tôi mặc Kimono màu đen của Tu sĩ Nhật, khi tụng kinh thì đắp
y màu tím, ngắn thôi, không phải như y hậu của người Việt Nam mình, trông
cũng giống Nhật lắm. Vả lại tiếng Nhật của tôi cũng thuộc loại giỏi; nên
bà chủ nhà ít để ý. Đoạn bà ta hỏi:
- Thầy quê ở đâu vậy
?
- Tôi ở xa lắm, đi
máy bay cả 7, 8 tiếng đồng hồ. Tôi trả lời vậy.
Bà ta tròn xoe đôi
mắt và nói tiếp:
- Nước Nhật nầy bé
tí teo, từ Bắc xuống Nam chỉ đi 2 tiếng đồng hồ máy bay là hết sức. Vả lại
đây là Đông Kinh (Tokyo) đã ở giữa nước Nhật rồi, làm gì có xứ nào mà xa
vậy.
Tôi để bà ta ngẫm
nghĩ một lát. Vì tôi biết bà ta lầm tôi là người Nhật chánh hiệu. Trong
tôi có một niềm vui nho nhỏ, vì như thế tiếng Nhựt của mình cũng đủ tự tin
lắm rồi đấy chứ! Tôi tiếp:
- Tôi là người Tăng
sĩ Việt Nam.
- Mèn đét ơi! Cái xứ
gì mà mọi rợ thế?
- Tại sao? Tôi hỏi
bà.
- Anh em chúng nó
một nhà mà giết nhau như vậy, không man di mọi rợ là gì.
Tôi mỉm cười với lối
tự ái của dân tộc và tôi cúi đầu xuống để suy nghĩ về thân phận mình. Bây
giờ mình là người gì đây? và cứ thế bằng tư tưởng càng ngày càng nhiều và
tôi với bà ta thảo luận về chiến tranh, về chết chóc, về hận thù v.v... để
cuối cùng bà ta kết luận là: Kawaisoo desune! nghĩa là tội nghiệp quá nhỉ!
Ngày ấy khi còn ở Nhật tôi ít ưa nghe tiếng nầy từ người Nhật và tôi phải
chứng minh cho họ thấy rằng chiến tranh Việt Nam không phải thế.
Có lần tôi cũng đã
cãi lại bà cô giáo dạy tiếng Nhật rằng: Người đó giỏi, người đó dở v.v...
tiếng Nhật gọi Atama ga ii - nghĩa là cái đầu người kia tốt. Hoặc giả
Atama ga warui - cái đầu nó xấu lắm, hư lắm v.v... Tôi nói rằng: Chẳng có
cái đầu nào tốt mà cũng chẳng có cái đầu nào xấu cả. Xấu hay tốt cũng sẽ
giống nhau thôi. Ví dụ một bài toán được đưa ra cho 2 người giải. Kết quả
vẫn giống nhau. Tại sao gọi là tốt hay tốt. Nếu có chăng đi nữa là do
người được gọi là thông minh đó họ giải nhanh hơn. Còn người được gọi là
tối dạ đó họ giải chậm hơn; nhưng kết quả đâu có gì sai! Thế là cô giáo
cũng chịu thua với lối lập luận của tôi.
Tiếng Nhật là ngôn
ngữ thứ 3 của tôi, nhưng tôi dám thừa nhận rằng tôi hiểu tiếng Nhật trọn
vẹn, giống như tiếng Việt vậy. Dầu cho 30 năm sau trở lại Nhật vào tháng 3
năm 2002 nầy suốt 5 ngày thông dịch từ tiếng Nhật sang tiếng Việt và ngược
lại; nhưng tôi chỉ quên có một chữ mà thôi. Vì vậy Hòa Thượng Thích Hộ
Giác đi cùng đoàn phát biểu rằng: Tôi rất lấy làm lạ là tại sao hơn 25 năm
xa Nhật mà Thầy không quên tiếng Nhật. Tôi chẳng biết tại sao; nhưng có lẽ
nhờ ở chùa suốt thời gian ở Nhật nên mới được vậy. Tôi hiểu người Nhật cho
đến cái mỉm cười, cái cúi đầu, cái e thẹn, cái ganh ghét, cái thể hiện
tình thương v.v... thế mà lần nầy quên một chữ. Nguyên là Thầy nào đó ngồi
gần tôi bảo rằng nhờ Thầy nói họ cho xin một ít gừng. Tôi đâm ra lúng túng
bảo người bồi bàn rằng:
- Chotto Ingwer
Kudasai!
- Simasen! nandeska
?
Xin vui lòng cho tôi
một ít gừng. Chữ gừng tôi nói tiếng Đức -Ingwer- nên bà ta chẳng hiểu.
Đoạn tôi bảo:
- Ginger Kudasai.
Lại nói tiếng Anh
-bà ta cũng chẳng hiểu gì- hên là có ai đó lôi trong bát canh trước mặt
một lát gừng, nên bà ta reo lên! Aa Shoga, Shoga! Gừng mà, gừng mà! Thế là
mọi người cười rộ lên, trông như hiểu biết ý vậy. Ngôn ngữ là thế đó. Đúng
là bất khả tư nghì, bất khả thuyết là vậy. Không biết tự nhiên sao nó quên
cái chữ dễ như vậy, mà chữ ấy hằng ngày lúc ở chùa Honryuji tôi đều gặp
phải mà!
Năm 1973 tôi có nhờ
chùa Kongoin (Kim Cang Viện) cho Thầy Minh Tuấn ở. Thầy ấy sau khi học
tiếng Nhật, sang học Đại Học của tông chơn ngôn ở Kozasan và sau khi tốt
nghiệp đã đi Mỹ. Thầy Yamada trụ trì chùa có quen biết rất nhiều với quý
Thầy Việt Nam trước và sau 1975.
Đến cuối 74 đầu 75
thì Thầy Bảo Lạc sang, tôi đã nhờ chùa Shinshoin (Tín Tùng Viện) cho ở
thời gian đầu. Lúc ấy chưa quen với khí hậu mùa Đông của Đông Kinh nên
Thầy ấy chảy máu mũi nhiều. Mấy tháng đầu Thầy Bảo Lạc nhận cả hằng trăm
lá thư của học trò và Thầy Cô giáo từ Việt Nam gởi sang và Thầy lo đọc
cũng như trả lời. Vì Thầy ấy có dạy trường Trung Học Bồ Đề ở nhiều nơi về
môn Văn nên có nhiều học trò như thế.
Đến năm 1980 Thầy
Bảo Lạc đã xong Cử Nhân Xã Hội Học tại Đại Học Komazawa ở Tokyo và Thầy ấy
sang Úc sáng lập cũng như Trụ Trì chùa Pháp Bảo cho đến ngày nay. Thầy Bảo
Lạc cũng thích viết và dịch sách; nên cho đến bây giờ tổng cộng đâu chừng
30 tác phẩm đã được xuất bản, đa phần là tiếng Việt và dịch từ chữ Hán
sang tiếng Việt.
Ngày 1 tháng 4 năm
Showa (Chiêu Hòa) thứ 48, tức năm 1977, tôi đã ra trường với tước hiệu là
Văn Học Sĩ của xứ Nhật ngành giáo dục và kết quả là đứng 2 toàn khoa và
toàn trường với luận văn tốt nghiệp bằng tiếng Nhật - Tối Ưu - Tôi xin ghi
lại từng môn học một mà tôi đã thành công sau bốn năm ngồi Đại Học Teikyo.
Luân lý
học : Thứ
Luận lý
học : Bình
Tây Dương
sử : Ưu
Pháp học (bao gồm
cả Hiến
Pháp) : Bình
Xã Hội
học : Bình
Số
học : Ưu
Vật lý
học : Ưu
Thống kê
học : Thứ
Đây là những khoa
giáo dục cơ bản mà một Sinh viên bắt buộc phải chọn và tại Nhật chỉ có 3
loại điểm như vậy. Nếu dưới Thứ là rớt, phải thi lại. Nhưng 62 môn học
trong 4 năm của tôi, đã chẳng phải thi lại một môn nào cả.
Phần ngoại ngữ gồm
Anh, và Pháp văn như sau:
Anh ngữ
I : Thứ
Anh ngữ
II : Thứ
Anh ngữ
III : Ưu
Anh ngữ
IV : Bình
Anh ngữ
V : Ưu
Pháp ngữ căn
bản : Ưu
Pháp ngữ văn
phạm : Ưu
Pháp ngữ trung
cấp : Thứ
Phần ngoại ngữ học
tất cả là 8 đơn vị. Ngôn ngữ Anh tại Việt Nam là ngôn ngữ thứ 2, sang Nhật
đổi thành sinh ngữ I và Pháp ngữ ở Việt Nam học 7 năm tại Trung Học Đệ
Nhất và Đệ Nhị Cấp, sang Nhật Bản đổi thành sinh ngữ 2 ở Đại Học; nên học
cũng tương đối thoải mái không khó khăn gì. Chỉ có tiếng Anh ban đầu hơi
mệt một chút, nhưng nhờ trường Đại Học có phòng thính thị nên tôi vẫn hay
vào đó để nghe và luyện giọng, nên tiếng Anh chuyên khoa sau nầy tương đối
vững, nhưng chẳng phải là một môn học đơn thuần.
Có một điều quan
trọng mà mọi Sinh viên khi vào đến Nhật nên nhớ là dầu cho đang học ở Đại
Học nhưng môn thể dục bắt buộc phải lấy; nếu không, khó mà có thể ra
trường được. Đi học, tôi mặc áo dài tu sĩ Việt Nam suốt trong mấy năm học
như thế; nhưng khi tập thể dục và chơi bóng bàn thì phải thay đồ thể thao.
Thể dục lý luận :
Thứ
Thể dục thực hành :
Ưu
Trên đây là những
môn có thể chọn lựa được. Còn phần phía dưới nầy hầu như bắt buộc Sinh
viên học ngành giáo dục phải lấy.
Giáo dục triết học :
Thứ
Giáo dục nguyên lý :
Thứ
Giáo dục khóa trình
: Bình
Giáo dục sử khải
luận : Thứ
Giáo dục tư tưởng sử
: Ưu
Giáo dục tâm lý học
: Bình
Thanh niên tâm lý
học : Thứ
Giáo dục bình giá :
Thứ
Giáo dục phương pháp
luận : Thứ
Xã hội giáo dục khải
luận : Bình
Giáo dục xã hội học
: Bình
Giáo dục công học :
Thứ
Giáo dục hành tài
chánh học : Ưu
Học hiệu giáo dục :
Thứ
Giáo dục học diễn
tập I : Bình
Giáo dục học diễn
tập II : Bình
Giáo dục học diễn
tập III : Ưu
Giáo dục tâm lý học
diễn tập I : Thứ
Giáo dục tâm lý học
diễn tập II : Thứ
Tốt nghiệp luận văn
: Tối ưu
Sau năm thứ 3 tôi đã
bắt đầu đọc sách để viết luận văn ra trường của mình. Có nghĩa là năm 1975
đã chuẩn bị và năm 1976 đã viết. Mỗi lần viết được một chương, đưa qua cho
Yamada xem trước dùm và sau đó mới đưa qua cho ông Thầy giáo thọ xem và
chỉ dẫn. Tôi cũng không ngờ là trình độ tiếng Nhật của mình khá như thế;
suốt cả một luận văn viết nháp chừng 150 trang mà những dòng chữ gạch đỏ
bên cạnh các câu không tới 10 lần. Tôi rất mừng và về chùa chép lại sạch
sẽ để nộp. Hiện tại ở Thư Viện chùa Viên Giác có bản chép tay của tôi năm
1976 bằng tiếng Nhật. Còn bản chính thì đã nộp cho Đại Học rồi.
Tình cờ năm 1980 về
thăm lại Nhật, đến thăm chùa xưa và Đại Học cũ thì nhân viên nhà trường có
đưa cho tôi xem một tập luận văn của Đại Học Iwaki đã cho in một phần luận
văn của tôi bằng tiếng Nhật vào năm 1978 cho các Sinh viên tham khảo. Cuối
trang 60 của tập văn còn ghi chú là "Genbun no mama" có nghĩa là sao lại
nguyên mẫu. Điều ấy cũng có nghĩa là luận văn ấy đã được các Đại Học khác
tại Nhật chú ý và cho in ra để cho các Sinh viên Nhật cũng như Sinh viên
ngoại quốc tham khảo.
Cùng viết trong tập
luận văn của Đại Học Iwaki toàn là các bậc Giáo thọ của Đại Học, chỉ có
tôi là lưu học sinh Việt Nam mà đã đứng ngang hàng với những người địa
phương ấy, quả là một hãnh diện rồi còn gì nữa. Tiện đây tôi xin cho đăng
nguyên văn cả phần nghiên cứu của Đại Học Iwaki bằng tiếng Nhật vào đây để
làm bằng chứng. Chắc chắn bề nào cũng có người đọc được tiếng Nhật. Do vậy
tôi không dịch ra tiếng Việt để đỡ tốn chỗ cho quyển sách nầy.
Tiếp theo là những
môn học chuyên môn của ngành giáo dục mà một Sinh viên dầu là Nhật hay
ngoại quốc bắt buộc phải lấy như:
Xã hội tâm lý học :
Ưu
Xã hội giáo dục
phương pháp luận : Bình
Cần lao thiếu niên
giáo dục : Bình
Đạo đức giáo dục
nghiên cứu : Thứ
Sản nghiệp tâm lý
học : Bình
Giáo dục tương đàm :
Bình
Giáo dục học đặc
giảng : Bình
Giáo dục thực tập :
Ưu
Nhật ngữ I : Ưu
Nhật ngữ II : Ưu
Nhật ngữ III : Bình
Điểm mà Đại Học hoặc
các vị Giáo thọ cho Ưu có nghĩa là từ 80 đến 100 điểm. Bình có nghĩa là
điểm từ 70 đến 79 và Thứ có nghĩa là 60 đến 69 điểm. Đây là một nhu cầu
rất cao tại Đại Học của Nhật thuở bấy giờ. Nếu Sinh viên nào học những môn
học và thi dưới 60 điểm, xem như đã bị đánh rớt.
Tôi là Sinh viên
ngoại quốc tại Đại Học Teikyo nên phải học thêm tiếng Nhật. Ông thầy dạy
tiếng Nhật ở Đại Học chuyên về ngôn ngữ học; nên mỗi giờ học ông đem theo
tờ báo Yomiuri ra và chọn phần Tienrin Shingo như là phần bình luận về mọi
vấn đề thời sự, văn hóa, chính trị, tôn giáo để học và tuy ông ấy khó tánh
như thế, sau 3 học kỳ tôi đã lãnh 2 Ưu và 1 Bình.
Tiếp theo là phần
chuyên môn về Anh ngữ. Vì tôi chọn ngành giáo dục Anh ngữ; nên luận văn ra
trường tôi đã nghiên cứu về: Giáo dục Anh ngữ của Nhật Ban dưới thời Meiji
(Minh Trị). Cuộc cách mạng của vua Minh Trị từ năm 1868 và đến năm 1976
tôi mới nghiên cứu sâu vào, nghĩa là hơn 100 năm sau. Tuy nhiên cũng có
rất nhiều người quan tâm về đề tài trên.
Anh ngữ học khải
luận : Thứ
Anh ngữ âm thinh học
: Thứ
Anh văn học sử I :
Bình
Anh văn học sử II :
Bình
Anh văn học giảng
độc I : Thứ
Anh văn học giảng
độc II : Thứ
Anh hội thoại I : Ưu
Anh hội thoại II
: Thứ
Anh tác văn diễn tập
I : Ưu
Tây dương văn học :
Ưu
Anh văn pháp : Thứ
Anh ngữ khoa giáo
dục pháp : Thứ
Như vậy trong 62 môn
học đó tôi đã có 19 môn được hạng Ưu; 20 môn thuộc hạng Bình và 23 môn
thuộc hạng Thứ; nếu bình quân chia ra, điểm ra trường là điểm giữa 1 và 2
nếu tính theo cách tính của Đức. Một Sinh viên ngoại quốc học 4 năm ở Đại
Học như thế không phải là chuyện đơn giản.
Trước khi xong Đại
Học tôi cũng đã dự định là học tiếp lên Cao Học. Chương trình Cao Học ở
Nhật gọi là Tu Sĩ Khóa Trình. Có nghĩa là những người tu nghiệp và nghiên
cứu sinh không đơn thuần là học tập và Sinh viên ở Đại Học nữa.
Tôi ở chùa đã 4 năm
và tiếng Nhật cũng khá rành. Vả lại lúc ấy không có liên lạc được với Việt
Nam. Vì sau 1975 một lá thư đi từ Việt Nam sang Nhật phải mất đến 6 tháng
và bị kiểm duyệt nát nhàu. Thư đi từ miền Trung vào Sài Gòn, ra Hà Nội,
đến Bắc Kinh, chuyển qua Nga rồi mới đến Nhật. Thư đến nhàu nát như tương
và giấy đen như mực, chữ viết lem luốt, không thể nào đọc được. Lúc ấy tôi
chẳng hiểu cái xã hội chủ nghĩa Cộng Sản Việt Nam nó ra như thế nào cả.
Đọc thư của người thân, của gia đình mà ngậm ngùi cho số phận.
Vì không về nước
được mà cũng chẳng phải đi đâu. Vả lại tôi đã ở chùa theo Tông phái Nhật
Liên (Nichiren). Do vậy tôi được nợp đơn thi vào Cao Học phân khoa Phật
Học. Lúc ấy tôi làm ngon, lấy chữ Hán làm sinh ngữ chính. Vì suốt 4 năm
học ở Đại Học biết rằng Sinh viên Nhật chữ Hán không rành. Họ chỉ biết chữ
Hán-Nhật chứ không thể biết cổ ngữ Hán văn. Phần tôi đã đọc kinh sách hằng
ngày bằng chữ Hán, hoặc Hán-Việt; nên không mấy khó khăn khi chọn môn nầy
làm sinh ngữ chính.
Vào lớp thi họ cho
ra đề tài 5 thời giáo nghĩa qua sự phân định của Thiên Thai Trí Giả Đại Sư
và họ bắt chấm câu, phân đoạn chữ Hán và bình chú ra tiếng Nhật. Thế là
trúng tủ của tôi rồi. Trong khi đó nhiều Tăng sĩ Nhật ngồi bên cạnh vẫn
cắn bút và tôi lấy tiếng Pháp làm sinh ngữ 2 để thi. Do vậy cũng không gặp
khó khăn mấy. Sau khi thi, về chùa chờ. Vì biết chắc rằng mình sẽ đậu nên
không lo mấy. Cũng giống như khi còn học Trung Học thi Tú Tài I và Tú Tài
II tôi rất tự tin, nên về chùa lúc nào cũng an dạ. Còn nhiều người khác
thì phập phồng lo sợ.
Sau 10 ngày tôi có
kết quả đã đỗ vào Cao Học Phật Giáo và theo tôi nghĩ có lẽ cũng có lời gởi
gấm nào đó của Thầy Oikawa; nếu lỡ tôi không đậu thì chắc Thầy ấy cũng
buồn; nhưng sự cố gắng toàn lực nằm nơi cá nhân tôi khi học ở Đại Học cũng
như khi thi, chứ không phải hoàn toàn nằm ở sự gởi gấm đó. Đây chỉ là điều
dự đoán của tôi thôi chứ không phải là sự thật, mà điều nầy cho đến nay
tôi vẫn chưa hỏi Thầy ấy về vấn đề nầy.
Lúc đó tiền học phí
phải đóng độ chừng 250.000 Yen tương đương với 1.000 US$. Đây là Đại Học
Phật Giáo mà Tăng sĩ vẫn phải đóng tiền. Tôi đã có phân nửa tiền do sự đi
cúng; phân nửa tiền còn lại do Thầy trụ trì Oikawa cho. Như vậy tôi đã
thoát ra khỏi một cơn hiểm nghèo.
Đại Học nầy có nhiều
Thầy Việt Nam tốt nghiệp như Hòa Thượng Minh Tâm, Hòa Thượng Chơn Thành,
Hòa Thượng Trí Quảng hoặc Hòa Thượng Thánh Nghiêm người Đài Loan cũng đã
đỗ Tiến sĩ Phật Học nơi đây và hiện tại Ngài là người có uy tín về giới
nghiên cứu Phật học của Đài Loan tại Mỹ cũng như tại mẫu quốc. Tôi đã gặp
Ngài vài lần ở Nhật và khi qua Mỹ năm 1985 tôi cũng đã có ghé thăm Trung
Tâm Thiền Học của Ngài tại New York.
Đang học ngon trớn
tại Cao Học ở Đại Học Risso chẳng biết nguyên nhân gì tôi lại muốn đi
ngoại quốc. Thuở ấy đã có thư từ liên lạc với Văn Công Trâm đang học Y
khoa tại Đại Học Kiel và cuối cùng anh ta gởi cho tôi một giấy mời đến Đức
cũng như giấy học Đức ngữ tại trường Volkshochschule Kiel. Cầm Passport
Việt Nam Cộng Hòa lên Sứ Quán Đức xin Visa vào Đức, không ngờ họ thị thực
cho thật lẹ, mừng quá tôi về lại chùa Honryi để thưa với ông bà trụ trì
rằng đi nghỉ hè một thời gian vì sau khi thi cử nhức đầu quá. Vả lại sang
Âu Châu có cơ hội tìm thêm tài liệu về Phật Giáo Việt Nam bằng tiếng ngoại
ngữ để về Nhật làm luận án Cao Học và Tiến sĩ.
Tôi đã mua vé máy
bay khứ hồi của hãng Lufthansa có giá trị trong vòng một năm. Điều ấy có
nghĩa là tôi còn định trở lại Nhật và đồng thời cũng xin tái nhập quốc vào
lại nước Nhật khi từ Đức trở về.
Đến Đức vào một sáng
tinh sương ngày 22 tháng 4 năm 1977. Khi đi từ phi trường Haneda ở Tokyo
tôi đã nhận được một cái giấy nhắn tin là: Không đến đón Thầy được. Ký
tên: Lâm Đăng Châu. Tôi đoán có lẽ Trâm đã nhờ anh Châu đi đón dùm. Vì
Trâm vẫn còn đi thực tập tại một bệnh viện ở gần Kiel. Tôi biết thế và khi
đến phi trường Hamburg thì điện thoại về chỗ thực tập cho Trâm. Hôm đó là
ngày thứ sáu và sau hơn 1 tiếng đồng hồ thì Trâm đến đón về nhà của cô bạn
gái người Đức. Ngôi nhà ấy ở trong một làng quê rất đẹp, thật yên tĩnh,
rất giống với tâm tình của người Đức. Trong gia đình chỉ có một cụ già,
một cô gái và một con chó. Lúc ấy tôi chỉ xử dụng tiếng Anh, và tiếng Đức
hầu như không biết được một chữ nào cả. Vả lại 2 người ấy cũng không nói
tiếng Anh được; nên tôi phải nói tiếng Việt và Trâm dịch lại. Cô bạn gái
của Trâm hình như tên là Waldrau thì phải, tôi nhớ mang máng như thế. Vì
đã 25 năm rồi còn gì, cô ta cũng lịch sự vui vẻ, chỉ có hơi già so với
Trâm. Còn Trâm thì hơi thấp. So ra 2 người không cân xứng và nhiều khi tôi
nghĩ "tình không biên giới" là thế đó.
Tôi ở đó vào một cái
cuối tuần đầu tiên vào ngày 22, 23 và 24 tháng 4 năm 1977, không khí thật
êm đềm dễ chịu. Mỗi chiều lúc 4 giờ là giờ ăn bánh ngọt và uống cà-phê hay
trà. Tôi nâng niu những miếng giấy lau miệng mà không dám xài và làm nhàu
nát. Tôi nghĩ tại sao ở đây lại sang quá vậy. Tôi hỏi Trâm xài một lần rồi
bỏ đi sao? Trâm cười và bảo: Giấy mà chú.
Tôi đã thọ Tỳ Kheo
từ năm 1971 tại Việt Nam trước khi đi du học Nhật Bản; nhưng Trâm và tôi
vốn là bạn bè, do đó gọi nhau như thế cho đến năm 1978, 79 thì thôi. Sau
nầy Trâm đổi lại cách xưng hô là Thầy và xưng con, thỉnh thoảng cũng có
xưng tên. Ở Nhật quanh năm suốt tháng tôi chẳng có được một thời giờ rảnh
vào giữa chiều như thế để mà uống cà-phê hoặc ăn bánh ngọt. Còn ở đây mới
cái cuối tuần đầu tiên mà đã được thư giản như vậy nên tôi cũng thích. Đặc
biệt người Đức rất yêu thú vật, cho chúng sống chung trong nhà và quý mến
nó như một em bé. Còn ở Nhật thì không được thế. Trong khi đó ở Việt Nam
lại còn tồi tệ hơn; chó con, chó lớn chạy ngông nghênh ngoài đường để tự
kiếm ăn chứ người còn thiếu ăn, có đâu mà lại cho chó nữa.
Chiều 24 tháng 4 năm
1977, cô Waldrau chở tôi và Trâm đến chỗ thực tập của Trâm tại một bệnh
viện. Ở đây cảnh đẹp và lại còn yên tĩnh hơn tại nhà của cô Waldrau nữa.
Mỗi ngày tôi dậy sớm cùng Trâm ăn bánh mì, uống cà-phê, sau đó Trâm đi làm
và tôi ở nhà viết thư cho bạn bè khắp nơi báo tin rằng tôi đã đến Đức rồi.
Nếu tôi nhớ không lầm mỗi ngày như thế tôi viết độ chừng 10 đến 15 lá thư
và Card Postal và tổng cộng độ chừng 100 lá thư như thế. Lúc ấy dán tem
mệt nghỉ và hớn hở để đi gởi thư. Mỗi trưa Trâm đi làm về thì đã có cơm và
chiều thì tôi và Trâm cùng nấu. Những kỷ niệm như thế nó vẫn còn ở mãi
trong lòng, dẫu cho người ta có già hay chết đi, chắc không bao giờ phai
nhòa trong trí óc của tôi được.
Mỗi chiều tôi cùng
Trâm đi dạo ở bờ hồ và quan sát xem thấy những cặp tình nhân hay những ông
bà già dắt tay nhau đi rất tự nhiên tình tứ. Hình ảnh ấy chẳng có tại
Nhật. Vì ở Á Châu người ta ít thổ lộ tình cảm ra bên ngoài như thế. Ngay
cả việc bắt tay với người nữ, ở Á Châu cũng chẳng có so với người dân bình
thường. Còn ở đây tôi là người tu hình ảnh ấy lại còn quá xa lạ với mình.
Mỗi ngày đều sinh hoạt đều đặn như thế. Ngoài ra nếu có thì giờ rảnh thì
chúng tôi bàn về những sinh hoạt của Sinh viên các nơi trên thế giới, ở
Mỹ, Nhật hoặc Đức. Thỉnh thoảng cũng đưa ra một vài nhận xét cũng như quan
điểm chính trị của mỗi người.
Sau 2 hoặc 3 tuần ở
nơi thực tập, Trâm chở tôi về nơi cư xá Sinh viên tại đường Projendorf ở
Kiel. Tại đây lúc ấy có khoảng 20 Sinh viên Việt Nam đang học ngành Y và
Nha và trong hiện tại thì hầu hết đã ra trường đi làm việc, có phòng mạch
riêng và cũng có người sang Mỹ để sinh sống và cả hơn 20 người ấy ai ai
cũng sống với nghề nghiệp của mình chứ chẳng có ai bỏ cuộc.
Tại cư xá Sinh viên
tôi được sinh hoạt tự do, tiếp xúc với các Sinh viên Đức và Sinh viên
ngoại quốc ở cùng cư xá. Tôi quan sát mọi hiện tượng và nơi cư trú của họ.
Điều đầu tiên và rất đặc biệt là hệ thống sưởi trong nhà của Đức rất tốt.
Nhiều khi tôi thấy phí phạm nhiên liệu rất nhiều khi phải sưởi khắp phòng,
khắp nhà, khắp hành lang như thế, mà có xử dụng hết đâu. Chẳng bù với
Nhật, ở chùa mùa đông phải mở cửa và chân không được mang vớ khi tụng
kinh. Người Nhật cũng sưởi nhưng rất giới hạn. Họ chỉ sưởi nơi bàn chân ở
một bàn sưởi giữa nhà dùng cho cả gia đình ngồi uống trà hoặc ăn cơm
chung; chứ khi ngủ mỗi người rúc vào chăn bông thật ấm phủ lên người, lên
đầu là xong, không cần phải sưởi trong khi ngủ. Vả lại ở Nhật thường hay
động đất, nên nhà cửa xây toàn bằng những vật liệu nhẹ và cửa ngõ thường
dán bằng giấy. Nếu lấy ngón tay có thể chọc thủng từ bên nầy qua bên kia
một cách dễ dàng; cho nên nhiều Sinh viên hay gọi nhà của Nhật là nhà bằng
giấy là vậy.
Mỗi cuối tuần các
anh em Sinh viên tại Kiel thường hay đá banh với nhau, tôi cũng tham gia
cho vui, chứ nguyên tắc chẳng hiểu mô tê gì hết. Cũng có những đêm thứ bảy
rảnh rỗi ngồi kể cho nhau về sự sinh hoạt của Sinh viên tại Nhật cũng như
tại Đức cho nhau nghe và lúc ấy mới hay ra là mọi Sinh viên Việt Nam đi du
học ở Đức trước năm 1975, sau khi Miền Nam Việt Nam bị thất thủ, họ đã
nhận được một giấy gọi là Premdenpaß dùng cho người ngoại quốc trong khi
tiến hành thủ tục xin tỵ nạn.. Tôi nghe mà ham. Vì lẽ ở Nhật cho đến năm
1977 vẫn chưa có đả động gì tới chuyện giấy tờ cho những Sinh viên đến
Nhật du học trước năm 1975. Ngoài ra những Sinh viên nghèo ở Đức vẫn còn
có thể xin trợ cấp học bổng để học nữa. Đây là một số lý do căn bản để tôi
suy nghĩ là có nên tiếp tục ở lại Đức hay là về lại Nhật trong thời gian
một năm đầu ấy.
Trâm đã ghi danh cho
tôi học khóa tiếng Đức căn bản tại Volkshochschule và mỗi chiều Trâm có
kèm tôi một tiếng đồng hồ về văn phạm cũng như cách phát âm tiếng Đức. Đây
là một loại ngôn ngữ khó tôi đã bắt đầu làm quen. Không biết nên nói tiếng
Đức là ngôn ngữ thứ mấy của tôi rồi; nhưng nếu kể theo thứ tự ngoài tiếng
mẹ đẻ ra, tôi đã làm quen với tiếng Pháp, Anh, Hán, Nhật và bây giờ là
tiếng Đức nữa. Vị chi cũng không ít loại ngoại ngữ khó mà tôi đã kinh qua.
Học độ chừng 3 tháng
tại Volkshochschule Kiel tôi đã xin qua học phân khoa Đức ngữ tại Đại Học
Kiel. Nơi đây có phòng luyện giọng, tập nói, nghe kể chuyện v.v... nên
việc học tiếng Đức của tôi càng ngày càng tiến bộ. Dĩ nhiên tiếng Đức là
một loại tiếng khó, ít có người ngoại quốc nào dám tự hào rằng mình nói
đúng tiếng Đức hoàn toàn, chỉ trừ những em bé ngoại quốc sinh ra ở đây,
lớn lên đi học và tốt nghiệp từ Tiểu Học, Trung Học, Đại Học của Đức thì
có thể hãnh diện nói được điều đó; nhưng lại kẹt một điều là tiếng mẹ đẻ
của em ít rành hơn tiếng Đức; nên đó cũng là vấn đề được đặt ra của cha mẹ
các em cho chính tương lai của các em khi muốn tiếp tục tồn tại tại xứ nầy
mà phải làm sao bản sắc văn hóa của dân tộc không bị mất gốc. Quả là không
đơn thuần chút nào cả.
Học tiếng Đức mỗi
ngày chừng 4 tiếng đồng hồ và mỗi tuần từ thứ hai đến thứ năm. Ngày thứ
sáu tôi ôn bài hoặc làm bài tập để ngày thứ bảy, chủ nhật thì đi hái trái
Kirchen, là một loại đào của Đức, ra hoa cỡ tháng 3 và kết trái vào tháng
6 tháng 7. Từ Nhật sang tôi có mang theo một ít tiền; nhưng đã gần cạn. Do
đó tôi bắt đầu đi làm thêm với những anh em Sinh viên khác. Lúc ấy cũng có
một số người tỵ nạn đến sinh sống ở Kiel; nhưng ít lắm, độ chừng 10 gia
đình là cùng. Họ cũng cùng đi hái trái Kirchen với chúng tôi. Cứ mỗi giỏ
đầy là 5 Đức Mã. Mỗi ngày, mỗi người hái được 10 giỏ như thế là giỏi. Một
Sinh viên tay trắng mà mỗi ngày làm được 50 Đức Mã là loại siêng năng có
hạng và lúc ấy mới thấy được giá trị của đồng tiền là gì.
Nhưng mùa đào, mùa
dâu tây, mùa trái đâu có kéo dài suốt năm. Vả lại chúng tôi còn phải đi
học nữa; nên chỉ đi làm đâu chừng 6 đến 8 cái cuối tuần như thế cũng tạm
đủ tiêu vặt trong mấy tháng rồi. Làm việc kiểu Sinh viên chắc ai cũng rõ,
vả lại là Sinh viên cũng không được phép đi làm ngoài hè nhiều giờ. Vì bị
chi phối bởi việc học.
Ở chung với Trâm
chừng 3 tháng thì tôi dọn ra ở riêng tại đường Holtenauerstr. cũng ở Kiel,
mỗi ngày đạp xe đạp đến trường để học tiếng Đức. Có chiều ghé qua cư xá
Sinh viên của Trâm để thăm, ăn cơm chung và sau đó nhờ Trâm chỉ thêm cho
một ít văn phạm tiếng Đức. Sở dĩ tôi dọn riêng ra như thế, vì muốn có
phòng ốc rộng rãi hơn để thờ Phật và tụng kinh. Từ Nhật qua tôi chỉ mang
theo một cái chuông, một cái mõ và mấy hình Phật, kể cả một cái dĩa và một
đôi đũa với một số hồ sơ cá nhân. Như vậy đó mà 25 năm sau ở xứ nầy đồ cá
nhân chắc phải chở mấy xe cam-nhông mới hết. Nhưng để làm gì và sẽ đi về
đâu? thì là một con số không to tướng qua sự thành, trụ, hoại, diệt của sự
vật mà.
Nhiều lúc nghe mưa
rơi thấy nhớ nhà; nhưng chẳng biết nhớ ai. Không lẽ nhớ xứ Nhật. Vì nơi đó
không phải là quê hương của mình. Còn nhớ Việt Nam ư ? Nếu tính từ 1972
đến 1977 cũng đã hơn 5 năm xa xứ rồi, còn gì để nhớ nữa. Kể từ khi xuất
gia 1964 đến 1968 tại Hội An, tôi đã xa nhà cha mẹ và anh chị em, chỉ lấy
chốn chùa chiền làm nơi nương tựa. Rồi 1968 vào Sài Gòn ở chùa Hưng Long
đi học cho đến năm 1971 và 1972 lại rời Sài Gòn sang Tokyo. Như vậy đối
với tôi thuở ấy chẳng có nơi nào là quê hương chắc thật cả. Một hôm tôi
viết thư về Tokyo để hỏi thăm ý kiến của Thầy Bảo Lạc, bào huynh của tôi
vẫn còn đang học tại Đại Học Komazawa ở Tokyo rằng có nên về lại Nhật hay
nên ở lại Đức ? Tiếp theo tôi cũng viết cho Thầy Oikawa một lá thư bằng
tiếng Nhật để cảm ơn và để hỏi ý kiến. Vì thấm thoát cũng đã 8 tháng rồi
kể từ khi tôi rời Nhật.
Sau chừng vài tuần,
tôi nhận được thư của Thầy Bảo Lạc trả lời rằng: Nếu hoàn cảnh bên Đức
thuận tiện thì nên ở lại học hành; nếu về lại Đông Kinh cũng không sao. Vì
con đường học vấn vẫn còn chờ đợi đó.
Lá thư của Thầy
Oikawa gởi đi, nhưng không có thư trả lời. Tôi biết tánh Thầy ấy, bao giờ
cũng vậy rất dễ dãi, xuề xòa, nhưng lười trả lời thư cho bất cứ ai. Chỉ
thích một điều duy nhất là rượu. Nhiều khi ông ta uống nhiều quá bà vợ bảo
sao uống nhiều vậy ? Thì ông ta trả lời rằng: "Rượu cũng làm từ gạo ra chứ
sao bắt tôi phải ăn cơm để làm gì ?". Quả thật không sai; nhưng không hoàn
toàn đúng. Thế là mọi người cũng phải cười với lối lập luận ấy mà thôi.
Kể từ nhỏ, lúc 15
tuổi vào chùa, mọi quyết định đều tự mình lo liệu và giải quyết. Ví dụ như
quần áo tự giặt, mền chiếu tự lo, tiền bạc tự phải xoay xở cho có để đi
học, bài vở ở học đường tự tìm kiếm bạn giỏi cùng học và cùng làm xong
nhiệm vụ của một người học sinh, một Tăng sĩ, một Sinh viên. Thế thôi!
Không than phiền, không giận hờn, không trách móc, không đòi hỏi và cứ thế
mà tiến hành trên con đường thiên lý ấy.
Đâu vào cuối năm
1977, tôi nhận được thư của anh Lâm Đăng Châu ở Hannover gởi lên báo rằng
có chỗ học (Zulassung) tại Đại Học Giáo Dục Hannover. Thế là tôi mừng và
bắt đầu chuẩn bị đồ đạc để dời về Hannover sau khi ở Kiel và học tiếng Đức
hơn 8 tháng. Ngày hôm đó có lẽ vào Đông 1978, tôi đã đến ở tạm nhà anh Lâm
Đăng Châu độ chừng 10 ngày thì anh Châu đọc báo và thuê được căn nhà tại
đường Kestnerstr. số 37. Đây chỉ là một Wohnung nhỏ thôi, có 2 phòng, một
nhà bếp, một nhà tắm và một hành lang dài. Lúc về đây có Ngô Ngọc Diệp tận
tình giúp đỡ; nên những thông tin liên lạc thuở đó mới bắt đầu khởi đi từ
chốn nầy và ngày 2 tháng 4 năm 1978 chúng tôi làm lễ An Vị Phật, có mời
Đại Đức Thích Minh Tâm từ Paris tham dự. Lúc ấy Thầy vẫn còn là Đại Đức,
đến năm 1983 giới đàn Thiện Hòa ở Mỹ mới tấn phong lên Thượng Tọa và tháng
12 năm 1998 được tấn phong lên Hòa Thượng tại chùa Khuông Việt ở Na Uy.
Về sinh hoạt lễ An
Vị Phật độ chừng 30 người. Có vài vị từ Pháp tháp tùng Hòa Thượng Minh Tâm
sang. Còn bao nhiêu là anh em Sinh viên Việt Nam đang sinh sống tại
Hannover và có một ít người tỵ nạn đến từ Hildesheim tham dự. Lúc đó Ngô
Ngọc Diệp làm tổng khậu, có nghĩa là bao dàn từ trên chánh điện như đánh
chuông mõ cho đến nhà bếp như nấu nướng, dọn dẹp v.v...
Sinh hoạt Phật sự
tại Niệm Phật Đường hồi đó còn lỏng lẻo, yếu ớt, chậm chạp chỉ có mấy Thầy
trò. Thỉnh thoảng Trâm từ Kiel cũng có ghé về để sinh hoạt chung, rồi Thầy
trò kéo nhau đi Berlin, Dortmund hoặc Stuttgart để thuyết trình về tình
hình Phật Giáo tại Việt Nam qua sự đàn áp của người Cộng Sản. Mỗi tháng
vào chủ nhật thứ nhất và chủ nhật thứ ba vào lúc 11 giờ có lễ Phật định
kỳ, thuyết pháp và sau đó là cơm nước cũng như sinh hoạt chung và kể từ đó
đến nay (1978 - 2002) suốt gần 25 năm chùa Viên Giác đều sinh hoạt thường
xuyên như thế. Có lúc đông cả trăm người, nhưng cũng có lúc ít chừng 10
người, nhưng ít nhiều gì cũng cử hành lễ và chưa bỏ một lần lễ Phật định
kỳ nào cả. Nếu tôi có đi ra ngoại quốc thì ở nhà Ngô Ngọc Diệp thay thế để
làm chủ lễ.
Kể từ tháng 6 năm
1978 đến tháng 5 năm 1979, Ban Hộ Trì Tam Bảo đã kêu gọi bà con xa gần
đóng góp định kỳ hằng tháng tùy theo khả năng để trả tiền thuê Niệm Phật
Đường nơi tôi ở. Cứ kêu gọi hằng năm như thế và trong số 32 người đóng góp
đầu tiên ấy, nay vẫn còn tiếp tục hộ trì Tam Bảo. Quả là một sự giúp đỡ
không thể dùng lời nói để tạ ơn, mà năm sau (2003) Lễ Kỷ Niệm 25 năm Chùa
Viên Giác, tôi phải có những phần thưởng xứng đáng để tri ân những vị nầy.
Ngày nay cũng đã có
người đi xa, có người còn, có người mất và tôi ghi hết ra đây để cảm tạ sự
đóng góp một cách chân tình như thế cho sự trưởng thành của Phật Giáo Việt
Nam từ đó đến nay.
1. Văn Công Trâm, ở
Kiel, mỗi tháng 30 Đức Mã. Sau nầy ra trường Y khoa, anh ta đóng mỗi tháng
50 Đức Mã và mãi cho đến hôm nay vẫn còn tiếp tục. Đây là người bạn học cũ
cùng trường với tôi hồi còn Tiểu Học, em ruột của Sư Bà Diệu Tâm, anh ruột
của Nguyên Đạo Văn Công Tuấn và năm 1979 Trâm quy y với tôi, tôi cho pháp
danh là Thị Minh.
2. Nguyễn Thị Đẹp, ở
Neumünster. Chị nầy đóng mỗi tháng 10 Đức Mã và chỉ kéo dài chừng vài năm
là chấm dứt. Hiện bây giờ chị vẫn còn ở Neumünster vì trong danh sách nhận
báo Viên Giác chị ấy vẫn còn liên lạc với chùa và thỉnh thoảng có cúng
dường bất thường.
3. Nguyễn Thị Tư, ở
Kiel, đóng mỗi tháng 10 Đức Mã; nhưng cũng chỉ vài năm đầu rồi ngưng. Nghe
đâu bây giờ đã có chồng có con và vẫn ở tại Kiel.
4. Hồ Kim Lệ, ở
Kiel, đóng mỗi tháng 10 Đức Mã và cũng chỉ góp đâu độ 1, 2 năm đầu rồi
nghỉ. Họ là những người đến tỵ nạn ở Đức sớm nhất vào những năm 1976, 77
và nghe đâu bây giờ anh ta vẫn còn ở tại đó.
5. Đoàn Thị Mỹ Lộc,
ở Koblenz. Cô ta đóng mỗi tháng 20 Đức Mã và kéo dài đến năm 1980 thì hết.
Thỉnh thoảng có cúng dường bất thường gởi qua ngân hàng. Mới đây lễ Phật
Đản 2546 (2002) tôi có gặp cô ta và người chồng tên Giáo về chùa dự lễ.
Đúng là thời gian có đổi thay; nhưng tấm lòng với Đạo thì càng ngày càng
gắn bó nhiều hơn. Vì lẽ khi con người càng lớn thì dễ đi gần với niềm tin
Tôn Giáo của mình.
6. Lê Xuân Bình, ở
Koblenz, Người nầy chỉ hộ trì cho chùa một năm, mỗi tháng 20 Đức Mã và từ
đó đến nay không thấy liên lạc về chùa nữa.
7. Lê Văn Hồng, ở
Koblenz. Anh nầy hộ trì chùa mỗi tháng 20 Đức Mã và đóng góp chừng 3 hay 4
năm sau đó lại ngưng. Thỉnh thoảng cũng có về chùa.
8. Hồng Hoàng Sơn, ở
Koblenz. Anh nầy mỗi tháng đóng 20 Đức Mã và chừng vài năm thì nghỉ. Cho
đến nay vẫn không có liên lạc với chùa.
9. Trương Văn Giáo,
ở Koblenz, mỗi tháng đóng 20 Đức Mã và kéo dài trong nhiều năm. Nay vẫn
còn ở Koblenz và thỉnh thoảng có về thăm chùa.
10. Lê Thanh Bình,
Hannover. Anh nầy là Sinh viên du học trước 1975. Mỗi tháng đóng 20 Đức Mã
cho đến nhiều năm sau nầy. Sau khi tốt nghiệp Đại Học Hannover thì về
Bremen để làm việc. Thỉnh thoảng có ghé thăm chùa lễ Phật.
11. Lâm Đăng Châu.
Anh nầy ở Hannover, mỗi tháng hỗ trợ 20 Đức Mã, đóng độ vài năm thì ngưng
và như trong phần đầu có đề cập, anh ta là một trong những ân nhân của tôi
trong giai đoạn lúc ban đầu khi mới đến xứ Đức nầy.
12. Ngô Ngọc Diệp, ở
Hannover. Anh nầy đã quy y với tôi vào lễ Vu Lan ngày 19 tháng 8 năm 1978
cùng với 2 người khác là Đoàn Thị Thu Hạnh và Nguyễn Đức Hiếu. Diệp tôi
cho pháp danh Thị Chơn; Hiếu cho pháp danh Thị Ân và Cô Hạnh tôi cho pháp
danh Thị Nhân. Diệp là người mà tôi mang ơn cũng nặng ngay từ lúc ban đầu.
Lúc ấy Diệp cũng còn Sinh viên, mỗi tháng hộ trì chùa 20 Đức Mã cho tới
khoảng 1992, 93 mới ngưng.
Dạo ấy, mỗi sáng
trước khi đi làm ở hãng Continental, Diệp thường ghé chùa để tụng kinh
Lăng Nghiêm với tôi, từ khi còn ở tại Kestnerstr. cho đến Eichelkampstr.
cũng vậy. Anh ta là một người đa tài, cái gì cũng có thể làm được, không
kể công, không trốn tránh trách nhiệm.
13. Lê Huy Cát,
Hannover. Anh nầy mỗi tháng giúp 20 Đức Mã độ chừng một vài năm sau thì
ngưng. Vì anh chị ấy dọn sang định cư bên Úc vùng Brisbanne nắng ấm.
14. Nguyễn Tiến Hội,
ở Hannover, có ghi tên trong số 32 người nầy, mỗi tháng đóng 10 Đức Mã;
nhưng không thấy hỗ trợ. Có lẽ vì hoàn cảnh gia đình. Nay vẫn còn ở
Hannover, là một võ sư của Vovinam Việt Võ Đạo.
15. Đạo Hữu Long, ở
Hildesheim, có ghi đóng mỗi tháng 30 Đức Mã và chỉ đóng một tháng 6 duy
nhất của năn 1978 rồi nghỉ.
16. Phạm Văn Phụng,
ở Hildesheim, đóng mỗi tháng 20 Đức Mã và hỗ trợ chừng vài năm sau thì
ngưng.
17. Nguyễn Ngọc Tuấn
và Nguyễn Thị Thu Cúc, ở Hannover. Đây là hai anh chị cũng có công rất
nhiều với Niệm Phật Đường ngay từ lúc ban đầu. Mỗi tháng đóng 20 Đức Mã
trong nhiều năm liên tục như vậy. Trong chương trước, tôi có đề cập đến
anh chị nầy rồi. Họ là những Sinh viên du học đến Đức từ năm 1968.
18. Lê Hữu Cơ, ở
Neuss. Mỗi tháng đóng 10 Đức Mã, được 3 tháng thì ngưng. Chẳng biết ông bà
nầy còn sống hay đã mất. Vì từ lâu không còn liên lạc nữa.
19. Ngô Tài Ba, ở
Hòa Lan, hứa cúng mỗi tháng 20 Đức Mã nhưng chưa đóng lần nào cả và từ đó
đến nay cũng chẳng có tin.
20. Phạm Bé, ở Hòa
Lan, cũng giống như vậy.
21. Đinh Thị Hợi, ở
Aachen, đóng mỗi tháng 20 Đức Mã trong nhiều năm như vậy và vị nầy chắc
nay không còn nữa. Vì lúc đó cũng đã lớn tuổi rồi.
22. Nguyễn Đức
Quyến, ở Aschaffenburg. Vị nầy đóng mỗi tháng 20 Đức Mã bắt đầu từ tháng 9
năm 1978 và kéo dài trong vài năm như thế. Nay thì gia đình vẫn còn ở tại
Aschaffenburg.
23. Vũ Văn Hà, ở
Pháp; ông ta sau nầy xuất gia pháp danh là Nguyên Lưu, đệ tử của Hòa
Thượng Minh Tâm, mỗi năm Bác hộ chùa Viên Giác bên nầy 600FF và liên tục
như thế đến khi Bác mất cách đây chừng 10 năm thì nghỉ. Bác là đệ tử xuất
gia rất trung thành với Hòa Thượng Minh Tâm, đã ở Pháp trên 50 năm và cuối
đời còn lại vào chùa để hộ đạo.
24. La Thành, ở
Herford. Vị nầy cũng đóng vài năm rồi nghỉ, mỗi tháng 20 Đức Mã và cho đến
nay không còn liên lạc gì cả.
25. Nguyễn Thanh
Tùy, ở Recklinghausen, mỗi tháng đóng 20 Đức Mã, bắt đầu từ tháng 10 năm
1978 và đóng mãi cho đến khi vị nấy mất mới thôi.
26. Phan Văn Trường,
ở Hannover, là Sinh viên du học trước 75, đóng mỗi tháng 10 Đức Mã độ 1
năm, sau đó di dân sang Mỹ và cho đến nay không còn liên lạc nữa.
27. Nguyễn Thị Hạnh,
ở Braunschweig, mỗi tháng đóng 20 Đức Mã trong nhiều năm như thế. Chị cũng
là Sinh viên du học trước 1975 và đã xong Đại Học. Mỗi năm nhân lễ Phật
Đản hay Vu Lan chị đều về chùa giúp khâu trong nhà bếp suốt hơn 20 năm như
vậy. Công đức thật không nhỏ.
28. Bùi Hữu Tường, ở
Münster, cũng là Sinh viên du học trước 1975, đã ra Bác sĩ và làm việc tại
Đức. Mỗi tháng thuở ấy anh ta đóng 10 Đức Mã liên tục trong nhiều năm như
vậy.
29. Vương Đắc Mẫn, ở
Kiel, nay là Bác sĩ ở Mỹ. Cũng là Sinh viên du học trước 75, chỉ ủng hộ
bất thường cho chùa chứ không đóng định kỳ, mặc dầu có ghi danh như thế.
30. Đoàn Thị Thu
Hạnh, ở Hannover, mỗi tháng đóng 20 Đức Mã và kéo dài trong nhiều năm như
thế. Trong Chương trước tôi đã có đề cập về cô nầy rồi.
31. Phạm Công Hoàng,
ở Bremen, là Sinh viên du học trước 1975; nay là Kỹ sư Hàng không làm tại
hãng ở Bremen. Mỗi tháng góp 50 Đức Mã và kéo dài từ năm 1978 đến nay chưa
nghỉ.
32. Trần Văn Trường,
ở Schweringhausen. Anh là gia đình tỵ nạn đến Đức rất sớm và sau đó sang
định cư tại Mỹ. Kể từ đó đến nay không còn liên lạc nữa.
Từ 1979 đến cuối năm
1980 có thêm vài vị đóng góp nữa như chị Nguyễn Thị Soan ở Kiel mỗi tháng
đóng 10 Đức Mã và có vài vị có ghi tên nhưng không hỗ trợ, có lẽ vì lý do
gia cảnh. Đó là 32 hóa thân ban đầu của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát và nhờ mỗi
người một hạnh nguyện như thế mà ngày nay sau 25 năm ngôi chùa nầy đã đứng
vững vàng trong lòng xã hội Đức và là nơi nương tựa tinh thần của hằng 100
ngàn người tỵ nạn Việt Nam khi bỏ nước ra đi tìm tự do.
Tính trung bình mỗi
tháng như thế chùa Viên Giác tại Hannover số tịnh tài đóng định kỳ là 600
Đức Mã của 32 người đóng. Phải trả tiền nhà 180 Đức Mã, tiền điện, Gas,
nước, điện thoại v.v... độ chừng 120 Đức Mã nữa. Như vậy mỗi tháng dư độ
200 Đức Mã dùng làm quỹ chi dụng bất thường cho Niệm Phật Đường. Ví dụ như
mỗi khi có chư Tăng đến thăm phải cúng dường hoặc làm lộ phí di chuyển đi
đây đó v.v... Trong thùng phước sương hầu như không có đồng nào. Vì ai
cũng là Sinh viên hoặc người tỵ nạn mới đến Đức nên sự tiêu pha rất chừng
mực.
Vào ngày 5 tháng 2
năm 1979, tôi có viết một thư mời Phật Đản và năm đó địa phương Bá Linh đã
đóng góp phần văn nghệ cúng dường. Tổ chức tại Bethoven Saal của
Stadthalle Hannover. Có độ 400 người Việt và Đức về tham dự. Năm đó chính
quyền Tiểu Bang Niedersachsen có giúp tiền để thuê phòng và chở đồng bào
từ Friedland về tham dự lễ, ở qua đêm trong nhiều gia đình của Đức để trao
đổi làm quen, do Hội Hồng Thập Tự đảm trách việc nầy.
Năm 1979 nhằm Phật
Đản 2523 cũng là năm đầu tiên Hội Sinh Viên và Kiều Bào Phật Tử Việt Nam
tại Đức được ra mắt tại Hội Trường. Nghĩa là sau 6 tháng thành lập
(11.1978). Tất cả cái gì cũng mới mẻ và danh sách cúng dường lễ Phật Đản
năm đó của 19 người, đa phần đến từ Berlin tổng cộng là 195 Đức Mã. Số
tiền rất khiêm nhường; nhưng giá trị tinh thần thì không nhỏ. Vì đây là
lần đầu tiên ra mắt công chúng Đức. Lúc ấy người Đức rất quý mến người tỵ
nạn Việt Nam. Vì lẽ những người lớn tuổi họ đã hiểu nỗi khổ của thời Đệ
nhị Thế chiến (1939 - 1945) cũng như thời Đức Quốc Xã của Hitler sống khổ
cực như thế nào rồi; nên dễ thông cảm. Vì vậy chính quyền của Tiểu Bang
Niedersachsen mới dễ dàng đón nhận đầu tiên mấy ngàn người vào ngày 10
tháng 12 năm 1978 từ chiếc tàu Hải Hồng đang bị câu lưu ở Hồng Kông, ra đi
từ Việt Nam. Trong đó có mấy ngàn người đói khát, kể cả người già và con
trẻ.
Do đó, ông Ernst
Albrecht là vị Thủ Tướng Tiểu Bang đầu tiên của nước Đức đã kêu gọi cứu
trợ nhân đạo và lập tức nhân dân Đức hưởng ứng ngay. Ở đây xin chắp tay
cảm tạ ông cựu Thủ Tướng Tiểu Bang Niedersachsen trong thời gian ấy đã cưu
mang người tỵ nạn Việt Nam chúng tôi rất nhiều. Ngay như việc sau nầy vào
năm 1986, 87 đưa đơn xin phép xây cất chùa Viên Giác tại đường
Karlsruherstr. nầy nếu không có sự lưu tâm của ông, chắc rằng giấy phép
cũng còn lâu lắm mới nhận được.
Nhân một mùa Vu Lan
năm 1998, tôi đã mời cựu Thủ Tướng và phu nhân đến chùa Viên Giác Hannover
để nói lời cảm tạ chân thành của người tỵ nạn Việt Nam tại Tiểu Bang
Niedersachsen nói riêng và trên toàn nước Đức nói chung. Ông rất cảm động
và lưu lại chùa nhiều giờ hơn ngoài dự tính để đi thăm 7 tầng tháp có thờ
Phật, Tổ Đường v.v... do anh Kiến Trúc Sư Trần Phong Lưu hướng dẫn. Những
ân tình như thế chúng tôi không thể nào quên, xin ghi hết vào lòng, dẫu
cho có ở thế giới nầy hay tái sanh vào một cõi xa xăm nào khác đi chăng
nữa, thì ân nghĩa vẫn là những gì khó đáp đền trong muôn một vậy. Vào
tháng 8 năm 2002 phu nhân của cựu Thủ Tướng Tiểu Bang Niederesachsen cũng
đã vĩnh viễn ra đi; nhưng ơn cứu tử ấy, người Việt Nam chúng tôi không bao
giờ quên cả.
Từ Tết năm 1981,
chúng tôi đã chính thức dời chùa về đường Eichelkampstr. số 35A và tại đây
chùa đã nhận được chính thức tiền thuê chùa mỗi tháng 3.000 Đức Mã từ Bộ
Nội Vụ Liên Bang để trang trải tiền thuê và các phí khoản khác (xin xem
Chương trước). Tuy nhiên, số người ghi tên hỗ trợ định kỳ hằng năm 1991 và
1992 trong vòng 1 năm ấy có 60 người. Số lượng có tăng tuy nhiên số người
đóng góp không đều, chỉ có 42 người đóng thường xuyên. Số người cũ có một
ít rút lui và số người mới có một số thêm vào. Tổng số tiền ủng hộ định kỳ
là 900 Đức Mã mỗi tháng. Với số tiền nầy chúng tôi lo chi tiêu cho các lễ
lộc cũng như điện, Gas, nước v.v..
Trong số những vị
đóng định kỳ từ năm 1981 đó cho đến nay vẫn còn đóng liên tục gồm có: Đạo
Hữu Đoàn Thị Thanh Tú ở Paris, anh Tô Văn Phước tại München, anh Lâm Thành
ở Lingen. Đó là những tấm lòng son đáng trân quý và dĩ nhiên là sau nầy
còn nhiều người mới đóng định kỳ nữa, quý vị có thể xem danh sách nầy
trong tập san Viên Giác số 126 tháng 12 năm 2001. Bây giờ vẫn còn là 129
vị. Nghĩa là số người hộ trì càng ngày càng tăng và dĩ nhiên là chi phí
cũng không có giảm.
Tất cả những hồ sơ
nầy tôi vẫn còn giữ lại đó, để một mai biết đâu có ai đó có ý dò tìm để
hiểu rõ ngọn ngành của một thời đã qua thì quả là ơn nghĩa nghìn trùng
trong muôn thuở, khó đáp đền, mà kẻ mang chịu ơn trực tiếp đó là tôi. Nếu
không có những tâm hồn thanh cao trong sáng ấy, góp nhặt từng đồng tiền,
từng lời ca, từng tiếng hát, từng nhịp mõ, từng lời kinh v.v... thì làm
sao có được một Viên Giác tự như hôm nay sáng ngời long lanh trên bầu trời
của Hannover nầy hay trên Internet văn minh của thế kỷ thứ 21 nầy mà ngồi
ở nhà người ta cũng có thể xem được những hình ảnh lộng lẫy của ngôi chùa
tại đây.
Để đi đến thành công
như thế không phải câu chuyện của một ngày mà là câu chuyện của hơn 30
năm; nên chương nầy hơi dài hơn các chương khác, khi xem cũng mong quý vị
cảm thông cho.
Năm 1978 là năm đầu
tiên tôi về thành phố Hannover nên có nhiều việc phải làm, nào là an vị
Phật, lễ Vu Lan, đi học tại Đại Học Hannover, đón người tỵ nạn đến Đức
v.v... tương đối rất bận rộn và để chuẩn bị cho lễ Phật Đản năm 1979 tại
Bethoven Saal ở Stadthalle Hannover, tôi có soạn một vở kịch về "Cuộc Đời
Đức Phật "do các em Phật Tử nghiệp dư trình diễn. Trong đó có chị Giang,
anh Tuấn, Giang, Phấn, Danh và một số anh em khác nữa. Tôi phải viết tuồng
và đạo diễn luôn. Hình như có cả cô Kim Thêm nữa thì phải. Đó là vở kịch
đầu tiên do tôi soạn và sau nầy có vài vở khác như "Hoa Rơi Trước Cửa
Phật" do một số anh em tại Berlin đóng và diễn tại rạp hát Theater am
Aegi. Tất cả đều tự biên tự diễn. Sự thành công ít; nhưng mệt mỏi thì
nhiều. Vì lẽ hồi đó mỗi lần lễ phải dọn hết tất cả những gì từ Niệm Phật
Đường sang Jugendzentrum, từ bàn thờ cho đến nồi niêu soong chảo v.v...
sau khi lễ lại dọn về lại chùa, Thầy trò chúng tôi vất vả vô cùng, nhưng
được một cái vui là ai cũng đã thực hành xong nhiệm vụ của mình đã được
giao phó.
Học kỳ 78/79 ở Đại
Học Giáo Dục tôi phải nghỉ để đi Göttingen và Friedland giúp đỡ cho bà con
mới tới; nhiệm vụ là làm thông dịch viên cho Bác sĩ khi người tỵ nạn mới
tới đi khám bệnh tổng quát tại bệnh viện. Vì sống chung lâu ngày trên
chiếc tàu Hải Hồng nên chí của người nầy nó lây qua người kia, bất kể là
đàn ông hay đàn bà. Nên mọi người ai cũng phải gội đầu trừ chí và đội một
bọc ni-long trắng toát lên đầu, trông giống như để tang. Lúc ấy tiếng Đức
tôi còn bập bẹ và chẳng biết con chí tiếng Đức kêu bằng gì nên phải tra tự
điển và còn bao nhiêu chuyện dở khóc dở cười khi diễn tả bằng nhiều ngôn
ngữ khác nhau nữa, làm sao có thể diễn tả hết được.
Nhờ làm thông dịch
như thế mà có 2 việc có kết quả:
- Thứ nhất là chính
quyền Đức lưu tâm về vấn đề tôn giáo, xã hội. Người mình có thể tự giúp
cho mình, nên Bộ Nội Vụ Liên Bang mới kêu đến và giúp đỡ. Chứ thật tình
lúc ấy chúng tôi có biết đâu mà gõ cửa các cơ quan công quyền.
- Thứ hai là chuyện
ơn nghĩa. Người mình được cái là không bao giờ quên ơn kẻ khác, cho nên
những người được tôi giúp đỡ lúc ban đầu như thế, sau nầy họ có công ăn
việc làm và khá giả, họ trở về chùa để giúp lại chùa bằng nhiều cách khác
nhau. Thật ra thì khi thi ân, tôi không cầu đền đáp; nhưng đó là kết quả
trước mắt đã thành tựu như vậy.
Đến học kỳ mùa Đông
79/80 thì tôi làm xong Referat về một môn Emperie, dịch là kinh nghiệm
luận của ngành Giáo Dục Học bằng tiếng Đức và thuyết trình trước nhiều
Sinh viên để có một Chứng Chỉ còn thiếu về môn ấy. Ở Nhật học 62 môn mà
không có môn nầy và cuối năm 80 ấy thì tôi không còn tiếp tục đến Đại Học
nữa. Vì lẽ chùa chuẩn bị dọn qua nơi rộng rãi hơn; nên cần phải chăm sóc
nhiều hơn. Nhiều khi ở chùa lo việc chùa thì nghĩ rằng không biết trong
Đại Học các bạn đang học gì và lúc ngồi tại Giảng Đường Đại Học thì lại
nghĩ không biết ở chùa có ai đến lễ Phật, thăm viếng không v.v... và
v.v... do đó tôi quyết định không tiếp tục đi nốt con đường học vấn để ra
Tiến sĩ ngành nầy vì một số lý do chính bên trên và cũng có kèm theo một
số lý do phụ nữa.
Tôi có điện thoại
hỏi thăm Hòa Thượng Thích Minh Tâm và có ý về lại Nhật, hoặc ở Đức; không
ra hoạt động, để học cho xong học trình Tiến sĩ mới ra làm việc; nhưng Hòa
Thượng cũng có bảo rằng: Có nhiều vị có bằng cấp Tiến sĩ nhưng có làm được
gì đâu! Đó là câu an ủi để tôi không còn vấn vương với con đường học vấn
nữa; nhưng bây giờ nhiều lúc thấy cũng tiếc. Vì lẽ sức học của tôi vẫn
còn.
Ở Đức không có bậc
Cao Học như ở Mỹ và ở Nhật, mà học 5 năm ở Đại Học, sau đó vào nghiên cứu
sinh để làm luận án Tiến sĩ ra trường. Vả lại ở Trung Học họ đã học 13 năm
rồi, trong khi đó ở Nhật hay Việt Nam chỉ có 12 năm thôi. Nếu cộng chung
lại số năm từ Trung Học lên Cao Học vẫn tương đương với các nơi khác trên
thế giới. Thật ra sự học thì nó vô cùng, nhưng trên nguyên tắc học đến Đại
Học là hết, để sau đó mỗi người tự nghiên cứu mà thôi.
Thuở đó tôi cũng có
một quyết định quan trọng cho chính mình là phải tự chọn lựa con đường để
đi trong tương lai lâu dài hơn, chứ không thể gián đoạn ở nơi nầy được. Ví
dụ chọn con đường học vấn, thật ra ở ngoài đời có không biết bao nhiêu
người lo cho vấn đề nầy. Chỉ có con đường sở trường, con đường chuyên môn
của mình là tu học, lo Phật sự không có ai ngoài mình ra lúc đó có thể
gánh vác được. Cho nên tôi nằm đêm suy nghĩ thật nhiều và cuối cùng là
không tiếp tục chương trình ở Hậu Đại Học nữa là vậy.
Những năm 78, 79,
80, 81, 82 v.v... là những năm tôi thường hay lui tới chùa Khánh Anh tại
Paris nhiều nhất và từ đó tôi có được sự ủng hộ của một số Phật Tử thuần
thành cho đến bây giờ. Thuở đó Hòa Thượng Thích Minh Tâm cũng chỉ một
mình; nên mỗi khi đi dự Hội Nghị hay đi dâu xa là tôi phải sang trông
chùa. Mặc dầu lúc ấy cũng có Bác Hà; nhưng là một Cư sĩ và sau nầy Bác mới
xuất gia. Tôi đã thuyết giảng cho Phật Tử nghe và chỉ bày cách thực hành
chuông mõ cho một số Phật Tử và sau nầy có những người đã xuất gia như
Quảng Đạo, Diệu Trạm hiện ở tại chùa Khánh Anh bây giờ.
Hòa Thượng Khánh Anh
vốn là bậc đàn anh của tôi, Thầy ấy chưa trực tiếp dạy tôi ngày nào, nhưng
nhiều lúc tôi cũng cung kính như là một bậc Thầy. Vì Thầy ấy có nhiều cử
chỉ đối đãi đẹp với đồng môn và bạn bè, tử đệ. Chỉ đơn giản có thế thôi mà
người ta có thể sống chết cho cả một đời người. Thầy ấy đã hỗ trợ chùa
Viên Giác bên nầy bằng nhiều cách khác nhau và bây giờ đây khi xây chùa
Khánh Anh bên Pháp tôi cũng thể hiện lại tinh thần tương thân tương ái ấy.
Khi được sự chấp
nhận tài trợ của chính quyền tiền thuê hằng tháng của chùa mới, chúng tôi
đi tìm cơ sở để thuê, nhưng nó chẳng đơn giản chút nào. Vì lẽ - có chỗ làm
lễ được cho số đông người thì không có chỗ ở. Có nơi có chỗ ở thật tốt thì
lại không có chỗ làm lễ v.v... thiên nan vạn sự. Dịp may hiếm có, hình như
anh Lâm Đăng Châu, hoặc ai đó, đọc báo thấy ông Steimann có cho thuê một
cái hãng cũ, có văn phòng và chỗ ở; nên chúng tôi đến đây liền và hỏi thăm
điều kiện thì được ông chấp nhận ngay. Thế là cuối năm 1980 đầu năm 1981
Thầy trò chúng tôi lo thiên di những gì đang có tại Kestnerstr. về đường
Eichelkampstr.
Khi mới về đây cũng
chỉ có một mình tôi, đến cuối năm 81, đầu 82 có Phật Tử Thị Chánh Trương
Tấn Lộc và cô Diệu Niên dọn vào ở cùng. Sau đó có thêm Thầy Minh Phú nữa.
Nhân sự lúc ban đầu chỉ có thế và mỗi bữa trước khi đi làm, Thị Chơn Ngô
Ngọc Diệp có ghé chùa để cùng tụng kinh Lăng Nghiêm. Tết âm lịch năm 1981
nhằm ngày 5 tháng 2, tức ngày thứ năm trong tuần và năm ấy là năm Tân Dậu;
nhưng chẳng có một người nào đến lễ chùa cũng như đón Tết; ngoại trừ mấy
Thầy trò chúng tôi cùng nhau tụng một thời kinh là xong. Chẳng bù với sau
nầy, bây giờ (2002) mỗi lần Tết đến có cả hằng năm bảy ngàn người về chùa
lễ Phật đầu năm. Hồi đó nhiều khi không có tiền đi chợ và mua hoa để cúng
Phật, tôi phải ra ngoài vườn bứt những cây hoa dại về cắm lên bàn Phật.
Lúc ấy có lẽ Phật cũng đã mỉm cười cho cái thanh bần của chúng tôi thuở
ấy.
Đến năm 1984, 1985
có Thiện Phước từ Phần Lan qua xuất gia với tôi và chú nầy có lẽ là người
chịu thiệt thòi nhất. Vì hồi đó tôi rất khó tánh và ngay cả bây giờ có thể
cũng vậy; nên chú hay bị quở, bị la rất nhiều; nhưng được cái là chú không
buồn lâu, nhưng có lẽ chú tủi phận chú tại sao mà bị quở trách hoài như
thế. Chuyện cũng dễ hiểu thôi. Vì đánh chuông mõ sai, mặc dầu đã chỉ rồi.
Học hành quá chậm chạp. Vì trình độ của chú chỉ có thế mà nhu cầu của tôi
thì cao; nên sau khi thọ Sa Di -năm 1987- chú trở về lại Phần Lan sinh
sống.
Tiếp đến có Thiện
Thành và Thiện Nam xuất gia, một người Việt và một người Đức nói tiếng
Việt rất rành; nhưng các chú nầy ở cũng không lâu, sau đó lại trở về với
cuộc sống thế tục vì nhiều lý do khác nhau.
Năm 1983 gia đình
của Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp qua đoàn tụ gia đình, trong đó có thân phụ của
Thị Chơn là Bác Thị Tâm Ngô Văn Phát, cựu Trung Tá Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa, có khả năng hành chánh rất vững vàng; nên bắt đầu từ nhiệm kỳ 4 của
Hội Phật Tử (1984) đến nay Bác luôn được tín nhiệm và bầu làm Hội Trưởng.
Nhiệm kỳ 1 (1978-1980) Thị Minh Văn Công Trâm làm Hội Trưởng. Nhiệm kỳ 2
và 3 (1980-1984) Thị Chơn Ngô Ngọc Diệp làm Hội Trưởng và kế tiếp Bác là
người thông thạo nhiều ngoại ngữ như Anh, Pháp, Đức nên tôi cũng đã được
Bác giúp đỡ rất nhiều về phương diện giấy tờ ngoại giao bên ngoài.
Những người đóng góp
vào việc văn phòng thuở ấy có Ni Sư Diệu Ân, Chị Nga, Bác Phát. Còn Lâm
thì đứng máy quay báo. Hưng, Lộc bỏ dấu bài đã đánh máy xong; Thị Chơn lo
layout cho báo và sách. Còn tôi thì lo vấn đề thuyết giảng, ngoại giao và
đi đây đó để lo những công việc Phật sự như ma chay, cưới hỏi, thuyết
trình v.v...
Tôi những tưởng về ở
đường Eichelkampstr. là trụ ở đó lâu dài; nhưng cũng chỉ 10 năm thôi.
Nghĩa là từ năm 1981 đến 1991 và từ 1991 đến nay 2002 dọn qua chùa mới tại
đường Karlsruherstr. nầy. Trong đời tôi từ khi sinh ra đến nay 54 năm đã ở
những chỗ quan trọng như sau:
- Từ 1949 đến 1964 ở
quê là Mỹ Hạt, Xuyên Mỹ, Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
- Sau khi xuất gia ở
chùa Phước Lâm tại Hội An từ 1964 đến 1966.
- Từ 1966 đến 1968 ở
chùa Viên Giác, Hội An.
- Sau đó vào Sàigòn
ở chùa Hưng Long từ năm 1968-1972.
- Ở chùa Honryuji
tại Nhật Bản từ 1973 đến 1977. Trước đó có 1 năm ở với Thầy Chơn Thành và
các bạn học Nhật ngữ khác.
- Từ 1977 đến 1978
sống ở Kiel, Đức.
- Từ 1978 đến 1980 ở
tại Kestnerstr. 37 Hannover; kế theo như bên trên đã nói.
Như vậy có thể nói
trong 54 năm của cuộc đời tôi ở 3 nơi lâu nhất. Đó là nơi sinh ra 15 năm.
Tại đường Eichelkampstr. 10 năm và nơi hiện tại 11 năm rồi. Tôi không
biết ở tại nơi nầy còn bao nhiêu năm nữa, nhưng ở vào những lúc cuối đời
như thế nầy có lẽ không còn cao bay xa chạy như lúc còn trẻ nữa cũng nên.
Đến năm 1986 có
Thiện Tín vào chùa xin ở và sau đó xuất gia để năm 1987 thọ Sa Di và năm
1991 thọ Tỳ Kheo và đây là một trong những Thầy đệ tử của tôi có thực tu
và thực học. Tốt nghiệp Tú Tài Đức, Cao Học Tôn Giáo tại Đại Học Hannover
và ở Ấn Độ học tại Đại Học New Dehli cấp bậc Tiến Sĩ từ năm 1993 đến năm
2000. Hiện bây giờ là Phó Trụ Trì chùa Viên Giác và sang năm 2003 sẽ được
tấn phong lên làm Trụ Trì chùa Viên Giác. Còn tôi sẽ trở thành sáng lập
trụ trì chùa Viên Giác cũng như dành nhiều thì giờ để nhập thất, tu tịnh
và dịch kinh sách v.v...
Sau đó có Cô Hạnh
Tịnh, Cô Hạnh Châu và đến năm 1989 thì có Hạnh Bảo về ở chùa và xuất gia
để đến năm 1994 thì thọ Đại Giới.
Năm 1984 chùa Viên
Giác chính thức vận động mua đất cất chùa. Năm 1987 nhân mùa Phật Đản là
lễ đặt viên đá đầu tiên; đến Phật Đản 1989 bắt đầu khởi công xây cất, đến
tháng 7 năm 1991 làm lễ Khánh Thành và tháng 8 năm 1993 là lễ Hoàn Nguyện.
Cả một công trình kiến trúc đồ sộ như thế nhưng chạy vạy để lo chuyện tài
chánh phải nói là có rất ít người. Đặc biệt ở đây phải cảm ơn anh Kiến
Trúc Sư Từ-Hùng Trần-Phong-Lưu. Nhà anh ở tại Saarland và suốt 2 năm xây
cất đó từ 1989 đến 1991 anh luôn có mặt tại công trường để coi sóc thầy
thợ xây cất và bổ sung những bản vẽ chi tiết cho nhà thầu, nhưng anh cũng
đã chẳng tính tiền công như một Kiến Trúc Sư người Đức mà chỉ nhận những
thù lao khiêm nhường mà thôi.
Đến tháng 4 năm 1991
có Đại Hội Ban Chấp Hành Hội Đồng Tăng Già Thế Giới gồm 16 nước nhóm họp
tại chùa Viên Giác và những khâu tổ chức càng ngày càng bận rộn hơn. Nào
lo cho chùa mới, cho lễ Khánh Thành, cho Đại Hội v.v... ai cũng mệt phờ
người. Tiền bạc, nhân sự, sức lực v.v... cả là một vấn đề không đơn thuần
chút nào cả. Nhiều lúc không đủ tiền 8 Đức Mã để đi mua thêm một bao
xi-măng; nhưng nhiều lúc có sự cúng dường cả 300.000 US$ của cô Thị Nguyện
Thanh Hải từ Đài Loan gởi về, quả thật Phật Pháp vô biên và Phật Pháp
nhiệm mầu là thế.
Năm 1991, vào tháng
12, tôi dọn qua chùa mới. Lúc ấy chẳng có gì. Nước, sưởi chưa có, phải đem
sưởi Gas vào phòng để sưởi và nước phải đun sôi mới có nước nóng để tắm và
tiện đây cũng xin cảm ơn tất cả các anh em công quả làm thợ điện bắt điện
khắp chùa như: Tuấn, Sơn, Phong, Đông v.v..., các anh em làm ống nước,
sưởi như Phúc, Long. Những anh em làm thợ mộc như Bác Kiệm, ông Chữ, anh
Dũng, đặc biệt là các anh em Đông Âu từ khi bức tường Berlin được thông
suốt năm 1989 và từ đó đến nay vẫn còn người ở chùa làm công quả, không
tính với chùa một đồng nào cả; nếu có chỉ là tiền túi thôi. Họ làm mọi
công việc như lót gạch, quét vôi, phụ dọn dẹp v.v... nghĩa là ngày nào
cũng có mặt các anh em từ sáng cho đến tối như thế và chính trong các anh
em nầy cũng có đến 6 hay 7 người phát tâm xuất gia với tôi sau nầy.
Khi dọn qua chùa mới
có phòng ốc rộng rãi hơn nên có nhiều người về ở và phát tâm xuất gia; cho
đến nay chính thức xin xuất gia với tôi là 34 người. Trong ấy có 3 người
đã mất là cô Hạnh Niệm, cô Hạnh Tịnh và cô Hạnh Như; 5 người ra đời là
Thiện Thành, Thiện Nam, Hạnh Mãn, Hạnh Trí, Thiện Phước. Tất cả số còn lại
hiện còn đang tu học tại chùa Viên Giác hoặc đang học tại Ấn Độ, Trung
Quốc v.v... Trong số nầy có người đang có học vị Tiến sĩ như Hạnh Giới;
tương đương với Tiến sĩ như Hạnh Tấn. Thạc sĩ như Hạnh Hảo, Cử nhân như
Hạnh Giả v.v... và sẽ còn nhiều người tiếp theo con đường như thế nữa.
Năm 1995 có Đại Hội
Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại họp tại chùa Viên Giác và tôi cũng đã phát
nguyện là nên chọn nơi đây để làm cơ sở đào tạo nhân tài cho Giáo Hội như
là một Phật Học Viện. Nhớ lại năm 1991 khi cử hành lễ Khánh Thành tôi cũng
đã phát nguyện dâng cơ sở nầy cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
với nhiều lý do khác nhau. Điều ấy có nghĩa là Giáo Hội có quyền can thiệp
vào sự sinh hoạt của chùa nầy và ngay cả việc công cử vị Trụ Trì sau khi
tôi không còn tại thế nữa; nếu đệ tử của tôi không có khả năng cáng đáng
được. Vì qua kinh nghiệm, có một số quý Hòa Thượng sau khi dày công sáng
lập chùa viện; nhưng không cúng cho Giáo Hội. Vì vậy Giáo Không không có
trách nhiệm với ngôi chùa ấy; nếu người đệ tử của vị Sư tiền nhiệm có làm
sai đi nữa, Giáo Hội cũng không có lý do để can thiệp vào.
Ngoài ra tại đây
tông phong môn phái của Lâm Tế Chúc Thánh cũng rất quan trọng, cho nên tôi
đã dành cho môn phái một lá phiếu hộ trì cũng như duy trì ngôi Tổ Đình
Viên Giác nầy. Vì đây là ngôi chùa đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam tại Đức
và cũng là ngôi chùa thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh có xuất xứ từ Quảng Nam
qua gần 400 năm lịch sử truyền thừa.
Đó là 3 lá phiếu để
duy trì và phát triển ngôi chùa Viên Giác tại đây và tôi mong rằng dẫu còn
tôi hay sau nầy tôi không còn nữa, nguyên tắc ấy vẫn được duy trì. Vì qua
bao kinh nghiệm của bản thân, của xã hội và của lòng người, tôi đã rút ra
được một bài học căn bản cho công việc Phật sự tại đây là vậy.
Mỗi năm có 3 ngày lễ
quan trọng của riêng tôi mà Đại Chúng Viên Giác hay cử hành, có lúc nhỏ có
lúc lớn, tùy theo từng năm và từng hoàn cảnh. Đó là:
- Ngày sinh nhật của
tôi vào 28 tháng 6 mỗi năm.
- Ngày mất của thân
mẫu tôi vào 27 tháng 3 âm lịch. Tôi chỉ cử hành lễ nầy đến 25 năm rồi
nghỉ. Vì theo Phật Giáo sau 49 ngày đã đi đầu thai rồi; nên những ngày kỵ
giỗ sau nầy chỉ còn là những ngày nhớ ơn cha mẹ mà thôi. Bà cụ tôi mất năm
1966 và đến năm 1991 đã 25 năm, tôi không còn giỗ nữa. Mỗi năm đến ngày 27
tháng 3 âm lịch tôi mua một bình bông cúng mẹ để nhớ về người mẹ hiền đã
tần tảo nuôi con, để cuối đời chẳng an hưởng được gì mà chiến tranh đã làm
nát tan thân mẹ.
- Ngày 8 tháng 7 âm
lịch mỗi năm, trước lễ Vu Lan, là ngày giỗ của phụ thân tôi. Ông mất năm
1986; nghĩa là sau 20 năm mẫu thân tôi mất. Ông thọ đến 89 tuổi. Tính theo
tuổi Việt Nam, ông sinh vào cuối thế kỷ thứ 19 (năm 1898) và hôm nay là
thế kỷ thứ 21 (2002) rồi đó. Nghĩa là từ ông đến tôi chỉ một đời mà đã
trải qua 3 con mốc của thế kỷ rồi đó. Có lẽ chỉ giỗ đến năm 2011 là ngưng.
Vì năm ấy ông đúng 25 năm và nếu tôi còn sống thì sẽ lo giỗ 50 năm; nhưng
có lẽ ngày ấy vẫn còn xa và vô thường làm sao ai mà biết được chết sống
lúc nào. Do vậy, con cháu của các anh chị hoặc đệ tử của tôi nếu ai đó có
còn nhớ nghĩ đến ơn dưỡng dục của Sư phụ mình thì cúng giỗ tưởng niệm như
lúc tôi còn sống. Nếu không cũng chẳng có sao. Vì lúc sống nếu đã không
làm được gì để vui lòng nhau, thì lúc chết có bày biện lên bao cây trái
hoa hương hoặc khóc lóc kể lể v.v... đó cũng chỉ là vấn đề hình thức mà
thôi !
Mỗi năm tôi thường
có một ngày vào ngày 1 tháng 5 dương lịch để đi du ngoạn với Gia Đình Phật
Tử Tâm Minh và 10 ngày với Đại chúng chùa Viên Giác từ ngày 1 đến ngày 10
tháng 7 dương lịch; nhưng với Đại chúng chùa Viên Giác thì sau nầy không
còn thực hiện nữa, mà thay vào đó là khóa Tu Gieo Duyên của các Phật Tử
tại gia được tổ chức tại chùa mỗi năm vào ngày 1 đến 14 tháng 7 và nay đã
đến năm thứ 4 rồi.
Hồi đó Thầy trò
chúng tôi lên xe 9 chỗ ngồi, nếu đông thì đi 2 hoặc 3 xe tùy theo từng
vùng một đã định sẵn tại Âu Châu. Ví dụ như có năm thì đi miền Nam nước
Pháp, sang Tây Ban Nha, quay sang Ý và về lại Đức. Có năm đi miền Bắc Âu
qua Anh Quốc, sang Thụy Điển, trở lại Đan Mạch rồi về lại Đức. Có lúc Thầy
trò chúng tôi đi Đông Âu sang Ba Lan, Tiệp Khắc rồi về lại Đức. Cứ mỗi
chuyến đi như thế có một niềm vui khác nhau. Mục đích là cũng để cảm tạ
thâm ân với quý vị làm công quả cho chùa và tạo thêm sự hiểu biết, thông
cảm giữa quý Thầy, quý Cô, quý Chú trong chùa nhiều hơn nữa. Đó là động cơ
chính mà tôi tổ chức những chuyến hành hương mini như vậy. Có ra đi như
thế đầu óc mới thong thoáng, chứ quanh năm suốt tháng quanh quẩn bên chùa,
bên Thầy, bên công việc, ít tìm được một sự thoải mái với khung cảnh thiên
nhiên. Nên những chuyến đi như thế đều có những kết quả nhất định của nó.
Bây giờ thì những chuyến đi như thế không còn nữa. Vì lẽ tôi càng ngày
càng lớn tuổi, ít muốn đi xa, ngồi xe cả ngày như thế, mặc dầu có nhiều
chú lái xe còn trẻ có thể chở cho đi nhiều đoạn đường dài hơn như thế nữa,
nhưng không kham nổi.
Vào ngày 2 tháng 4
năm 1988 chúng tôi đã làm lễ kỷ niệm 10 năm chùa Viên Giác và trong năm đó
tôi có biên một quyển sách nhan đề là: "Hình ảnh 10 năm sinh hoạt Phật
Giáo Việt Nam tại Tây Đức" bằng tiếng Việt và tiếng Đức. Năm đó tổ chức 2
lần, một cho Việt và một cho Đức. Năm đó tôi cũng viết một bài nghiên cứu,
báo cáo thành quả của 10 năm hoạt động Phật sự qua 10 thể tài khác nhau và
sang năm 2003 đúng ra phải tổ chức Lễ Kỷ Niệm 25 năm Chùa Viên Giác vào
ngày 2 tháng 4 năm 2002; nhưng đến cuối tháng 6 năm 2003 chúng tôi sẽ tổ
chức Kỷ Niệm 25 năm Báo Viên Giác và phát giải thưởng cho những người
trúng giải "Viết Về Âu Châu" để cảm tạ những chính quyền Âu Châu đã giúp
đỡ cho đồng bào Việt Nam trong suốt 25 năm qua. Đồng thời sẽ tổ chức Lễ
Tấn Phong Trụ Trì Chùa Viên Giác vào ngày 28 tháng 6 năm 2003 (thứ bảy) là
ngày sinh nhật lần thứ 54 của tôi. Do vậy lễ kỷ niệm 25 năm sẽ tổ chức vào
ngày ấy.
Mười năm kỷ niệm
viết 10 đề tài và 25 năm kỷ niệm có lẽ có hơn 25 tiêu đề như thế để viết,
nhưng viết dài như thế chắc quý vị nghe và đọc cũng chán. Do đó tôi chỉ
viết một số ý chính trong sách nầy, cũng như đăng tải lại tài liệu của 15
năm trước lúc làm lễ kỷ niệm 10 năm chùa Viên Giác cho quý vị theo dõi và
đồng thời năm 2003 có lẽ không có quyển sách ra đời với tiêu đề 25 năm
chùa Viên Giác mà là một hoặc hai quyển sách tổng hợp đã xuất bản những
bài viết của tôi suốt trong 25 năm qua đã đăng trên báo Viên Giác chưa in
thành sách và một quyển sách in tất cả những Thư Tòa Soạn của gần 140 số
báo gồm bộ cũ và bộ mới do tôi viết để giới thiệu với tất cả bà con Phật
Tử xa gần và cũng để kỷ niệm 25 năm, tôi sẽ cho đóng thành tập một số văn
kiện cần thiết của chùa để giới thiệu và làm đề tài cho nhiều người cần
tham khảo về sử liệu của Chùa Viên Giác, Báo Viên Giác sau nầy.
Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất
Chi bộ Tây Đức
chùa viên giác,
eichelkampstr.35a, 3000 hannover 81. Tel. 0511-864638
Phật lịch
2531-Hannover ngày 2 tháng 3 năm 1988
Kính gửi :
Quý Thầy, Quý Cô trong Chi Bộ
Trích yếu:
v/v cung thỉnh Quý Thầy, Quý Cô tham dự lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập
chùa Viên Giác vào ngày 2 tháng 4 năm 1988 (thứ bảy) tại Hannover.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính thưa Quý Thầy,
Quý Cô,
Thấm thoát mà 10 năm
đã trôi qua một cách nhanh chóng; 10 năm qua là 10 năm Phật Giáo Việt Nam
đã bắt đầu hiện hữu tại xứ Đức nầy và 10 năm qua cũng là 10 năm của sự
hình thành cũng như phát triển mọi Phật sự tại Tây Đức.
Để kỷ niệm 10 năm
ngày thành lập Chùa Viên Giác tại Hannover, chúng tôi xin cung thỉnh Quý
Thầy, Quý Cô bỏ chút ít thì giờ về chùa tham dự ngày lể kỷ niệm trên.
Sự hiện diện của Quý
Thầy, Quý Cô sẽ tăng thêm phần long trọng của buổi lễ.
Kính chúc Quý Thầy,
Quý Cô pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ.
Nam Mô A Di Đà Phật
Thích Như Điển
Trụ Trì chùa Viên
Giác Hannover
Chương trình buổi lễ
kỷ niệm ngày 2/4/1988 (thứ bảy)tại Chùa Viên Giác Hannover
15:00 Tuyên bố lý
do, khai mạc lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Chùa Viên Giác
15:20 Trình bày
những quá trình hoạt động Phật sự trong 10 năm qua
16:30 Chiếu phim
sinh hoạt ngày An Vị Phật Niệm Đường Viên Giác của 10 năm về trước và
những hình ảnh sinh hoạt trong thời gian qua.
19:00 Cơm tối
20:00 Sinh hoạt
chung và sau đó chấm dứt chương trình.
Ghi chú: Ngày
hôm sau ¾/88 là lễ định kỳ của chùa và có đài truyền hình ZDF đến quay
hình.
Giáo hội phật giÁo
việt nam thống nhất
chi bộ tây đức
chùa viên giác;
Eichelkampstr.35A - 3000 Hannover 81. Tel: 0511-864638
Phật lịch
2531-Hannover ngày 2 tháng 3 năm 1988
Kính gửi: -
- Ban Chấp Hành Hội
Phật Tử Việt Nam Tỵ Nạn tại Tây Đức
- Ban Chấp Hành các
Chi Hội Phật Tử tại các địa phương
- Các Ban Hộ Trì Tam
Bảo thuộc các chùa, các Niệm Phật Đường và các Tịnh Thất tại Tây Đức
- Các Gia Đình Phật
Tử - Quý vị trong Ban Biên Tập Báo Viên Giác
- Cùng với Quý Đạo
Hữu và Quý Phật Tử xa gần
Trích yếu:
v/v mời Quý vị tham dự lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập chùa Viên Giác vào
ngày 2 tháng 4 năm 1988 (thứ bảy) tại Hannover.
Nam mô A Di Đà Phật
Kính thưa Quý vị,
Thấm thoát mà 10 năm
đã trôi qua một cách nhanh chóng; 10 năm qua là 10 năm Phật Giáo Việt Nam
đã bắt đầu hiện hữu tại xứ Đức nầy và 10 năm qua cũng là 10 năm của sự
hình thành cũng như phát triển mọi Phật sự tại Tây Đức.
Để kỷ niệm 10 năm
ngày thành lập chùa Viên Giác tại Hannover, chúng tôi xin mời Quý Vị về
chùa Viên Giác tham dự ngày lễ kỷ niệm trên. Sự hiện diện của Quý Vị sẽ
tăng thêm phần long trọng của buổi lễ.
Kính chúc Quý Vị
trong Ban Chấp Hành Hội Phật Tử, các Chi Hội Phật Tử, các Ban Hộ Trì, các
Gia Đình Phật Tử, Quý Vị trong Ban Biên Tập Báo Viên Giác cùng Quý Đạo Hữu
Phật Tử xa gần được sở cầu như nguyện.
Nam Mô A Di Đà Phật
Thích Như Điển
Trụ Trì chùa Viên
Giác
Chương trình buổi lễ
kỷ niệm ngày 2/4/1988 (thứ bảy)tại chùa Viên Giác Hannover
15:00 Tuyên bố lý
do, khai mạc lễ kỷ niệm 10 năm ngày thành lập chùa Viên Giác.
15:20 Trình bày
những quá trình hoạt động Phật sự trong 10 năm qua.
16:30 Chiếu phim
sinh hoạt ngày lễ An Vị Phật Niệm Phật Đường Viên Giác của 10 năm về
trước.
19:00 Cơm tối
20:00 Sinh hoạt
chung và sau đó chấm dứt chương trình.
Ghi chú: Ngày hôm
sau ¾/88 là lễ Phật định kỳ của chùa và có Đài truyền hình ZDF thâu hình.
Kính mong Quý Vị tham gia đông đủ.
Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất
Chi Bộ Tây Đức
Chùa Viên Giác,
Eichelkampstr.35A - 3000 Hannover 81 - Tel: 0511-864638
Phật lịch 2531 -
Hannover ngày 2 tháng 3 năm 1988
Kính gửi: - Quý
Thầy, quý Cô trụ trì các Chùa, các Niệm Phật Đường và Tịnh Thất tại Tây
Đức
- Quý vị trong Ban
Chấp Hành Hội Phật Tử và các Chi Hội Phật Tử địa phương trực thuộc Hội
Phật Tử VNTN tại Tây Đức.
Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch quý Thầy,
quý Cô,
Kính thưa Quý vị,
Để ghi lại những
sinh hoạt Phật sự tại Tây Đức trong suốt thời gian qua; năm nay chúng tôi
định cho xuất bản quyển sách song ngữ Việt-Đức với nhan đề là "Hình ảnh 10
năm sinh hoạt Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức". Vì thế chúng tôi mong mỏi
có sự cộng tác của Quý Thầy, quý Cô trong Chi Bộ cũng như Ban Chấp Hành
Hội Phật Tử và các Chi Hội địa phương gồm những phần chính sau đây:
1/ Viết và giới
thiệu về Chùa hay Niệm Phật Đường cũng như Tịnh Thất trong mọi hoạt động
tại địa phương về các lễ Phật Đản, Vu Lan, Tết Nguyên Đán, Đám Cưới, Đám
Tang, những công tác Từ Thiện, Văn Hóa, Xã Hội v.v... (Bài viết nầy không
quá 10 trang đánh máy khổ A 5, theo mẫu đính kèm).
2/ Những nơi nào
chưa có Quý Thầy, Quý Cô hay Niệm Phật Đường hoặc Tịnh Thất, xin các Chi
Hội tường thuật đầy đủ như phần 1 ở trên.
3/ Mỗi một sinh hoạt
của mỗi năm, từ ngày thành lập cho đến ngày nay (1988) chúng tôi mong muốn
nhận được một hình ảnh đính kèm, có ghi chú phía dưới và bên sau bức hình
theo số thứ tự để dễ nhận diện. Hình đen trắng hoặc hình màu cũng được. Cỡ
hình được giới hạn là 9cm x 13cm. (Tất cả mỗi mọi hình không quá 30 tấm).
4/ Tất cả những điểm
1, 2 và 3 bên trên ngoài phần tiếng Việt chúng tôi xin yêu cầu Quý Vị dịch
sang tiếng Đức và đánh máy theo mẫu đính kèm để chúng tôi bớt tốn thì giờ
trong việc soạn thảo lại. Phần tiếng Việt và tiếng Đức xin ghi rõ ràng tên
người viết và người dịch phía dưới bài.
5/ Thời gian in
sách được dự định vào cuối năm 1988 nầy. Vì thế chúng tôi cần tất cả
những tài liệu và hình ảnh trên của các Chùa, các Niệm Phật Đường, các
Tịnh Thất, Ban Chấp Hành Hội Phật Tử và các Chi Hội địa phương từ nay cho
đến 30.9.88 là hạn chót. Kính mong Quý Vị lưu tâm cộng tác cho.
Đây là một tập tài
liệu bằng hình ảnh ghi lại các sinh hoạt Phật sự tại Tây Đức trong 10 năm
qua để giới thiệu với người Đức cũng như người Việt Nam hay những ai muốn
nghiên cứu về sự hình thành cũng như phát triển của Phật Giáo chúng ta tại
Tây Đức nầy; nên chúng tôi xin kêu gọi Quý Thầy, Quý Cô và BCH Hội PT cũng
như các Chi Hội địa phương cố gắng hoàn thành những yêu cầu của chúng tôi
bên trên càng sớm càng tốt. Đó là những việc cần phải làm của Phật Giáo
chúng ta tại nước Đức nói riêng và Hải Ngoại nói chung vậy.
Lời cuối, xin nguyện
cầu Quý Thầy, Quý Cô pháp thể khinh an, chúng sanh dị độ; Quý vị trong BCH
Hội PT và các Chi Hội được sở cầu như nguyện.
Nam Mô Thường tinh
tấn bồ tát ma ha tát
™. CBPGVN tại Tây
Đức
Chi Bộ Trưởng
Thích Như Điển
Trụ Trì Chùa Viên
Giác
congregation der
vereinigten vietnamesischen buddhistischen kirche
abteilung in der
bundesrepublik deutschland - gemeinnütziger Verein e.V
c/o Pagode VIEN
GIAC, Eichelkampstr.35a, 3000 Hannover 81 - Tel. 0511-864638
Hannover, den 28
Mảrz 1988
EINLADUNG ZUR
JUBILẩUMSFEIER
Sehr geehrte Damen
und Herren !
Wir freuen uns,
Ihnen heute mitteilen zu dürfen, daß die VIEN GIAC Pagode am 23. April
1988, anlảßlich des 10-Jảhrigen Bestehens des vietnamesischen Buddhismus
in der Bundesrepublik Deutschland, eine Jubilảumsfeier veranstaltet.
Zudiesem feierlichen Anlaß möchten wir Sie herzlich einladen. Die
Veranstaltung findet statt:
Um 15 Uhr, am
Sonnabend, den 23. April 1988
In der VIEN GIAC
Pagode,
Eichelkampstr. 35a,
3000 Hannover 81
Ende gegen 18 Uhr
Es wird außerdem ein
kulturelles Beiprogramm mit musikalichen Darbietungen einiger
Jungbuddhisten -Familien in Niedersachsen, zudem wir Sie ebenfalls
herzlich einladen.
Bitte teilen Sie uns
mit, ob Sie an unserer Jubilảumsfeier teilnehmen können. Für Ihre
Kenntnissnahme und Bemühung bedanken wir uns bei Ihnen sehr herzlich.
Mit freundlichen
Grüßen
Abt der VIEN GIAC
Pagode
PROGRAM
DER 10-JẩHRIGEN
JUBILẩUMSFEIER
AM 23. APRIL 1988
IN DER VIEN GIAC
PAGODE
Beginn der
Jubilảumsfeier gegen 15 Uhr
Drachentanz zur
Begrüßung
- Begrüßungsrede von
Rev. Thich Nhu Dien (Abteilungsleiter der C.V.B.D: in der Bundesrepublik
Deutschland & Abt
der VIEN GIAC Pagode)
- Dias-Vorführung
über die Geschichte des 10-Jảhrigen Vietnam-Buddhismus in Deutschland
- Glückwünschreden
der Vertrettung der Landesregierung, der kommunalen Politiker, der
caritativen
Verbảnde, der
Kirche, der Schulen, der öffenlichen Institutionen ...
- Beisamensein beim
Tee und traditionellen Süßigkeiten samt musik. Einlagen Ende der
Jubilảumsfeier
gegen 18 Uhr !
Bitte hier abtrennen
Nam und Vorname
: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Adresse : . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . .
( Ich nehme teil.
( Ich nehme nicht
teil.
chương trình chi
tiết lễ kỷ niệm 10 năm
phật giáo việt nam
tại tây đức
ngày 2.4.1988 tại
chùa viên giác hannover
14.50 : Thị Chơn
mời quý Đạo Hữu vân tập vào Chánh điện
14.55 : Cung thỉnh
Chư Đại Đức Tăng Ni quang lâm Chánh điện
15.0 : Thị Chơn
đọc qua chương trình lễ
Cung
thỉnh ĐĐ trụ trì ban Đạo Từ nhân dịp lễ kỷ niệm
10 năm
Phật Giáo Việt Nam tại Tây Đức
15.30 : Đại diện
phát biểu cảm tưởng
16.00 : Chiếu phim
sinh hoạt 10 năm qua
17.00 : Nghỉ giải
lao, ăn bánh uống trà
17.45 : Múa lân,
Vũ
18.45 : Bế mạc
chương trình kỷ niệm
19.00 : Dùng cơm
tối
20.00 : Sinh hoạt
chung, văn nghệ cộng đồng
21.30 : Chấm dứt
chương trình
Kỹ thuất tổng quát :
Âm thanh: Th. Chơn
(chiều và tối)
Điều khiển chương
trình: Th. Chơn (chiều và tối)
Quay phim: A. Hưng
và A. Triết
Chụp hình: A. Như
Thân và A. Việt
Chiếu phim: Th. Chơn
và Thị Hiện (Berlin)
Kỹ thuật múa, vũ: Cô
Diệu Hiền. Th. Nguyện. Th. Nhơn và Ban HT GĐPT Tâm Minh
Kỹ thuật tổng quát:
Chú Th. Tín, Chú Quảng Ngộ, A. Th. Chánh và HT GĐPT Tâm Minh (như việc sắp
bàn ghế cho quý Thầy, Cô, và dọn...)
Dụng cụ âm nhạc:
Đàn: của Đức Thụ mang đến, tập nhạc sinh hoạt của GĐPT Tâm Minh ...
10 năm Phật Giáo
Việt Nam
* Thích Như Điển
Năm nay chùa Viên
Giác tại Hannover tổ chức kỷ niệm 10 năm ngày thành lập vào ngày 2 tháng 4
năm 1988. Vì thế chúng tôi có bài viết nầy để gởi đến quý vị, nhằm trình
bày cũng như lược thuật những gì đã xảy ra trong 10 năm qua tại đất
Hannover nầy nói riêng và Tây Đức nói chung qua 10 điểm phân tách sau đây
để quý vị lãm tường.
1. THờI GIAN
Yếu tố đầu tiên mà
chúng tôi muốn nói đến là thời gian. Tục ngữ Âu Châu hay Á Châu định nghĩa
về thời gian như sau: "Thời gian là vàng bạc". "Thời gian trôi qua sẽ
không bao giờ trở lại". "Thời gian và thủy triều chẳng đợi chờ ai" v.v...
Cứ từ đó mà nhìn, chúng ta thấy rằng thời gian quý là dường nào. Những gì
đã xảy ra rồi thì nó sẽ không lặp lại giống hệt như những gì đã vừa xảy ra
nữa. Vì mỗi sát na, mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ là một sự chuyển động
không ngừng của vũ trụ vạn hữu vậy.
Nếu so với một thế
kỷ gồm 100 năm. Mỗi năm có 365 ngày thì 10 năm cũng chưa đáng là bao so
với thiên nhiên và vũ trụ, đất trời. Nhưng nếu lấy 10 năm so với 1 năm
hoặc ít hơn nữa, thì thời gian ấy có vẻ dài lâu. So sánh như vậy để thấy
rằng lâu hay mau là tùy theo sự quan niệm của mỗi người và mỗi hoàn cảnh
vậy. Ví dụ như chư Thiên có tuổi thọ 10.000 năm so với chúng ta chỉ sống
trong ngoài 100 năm, thì đời sống của chúng ta quá ngắn ngủi thật. Cũng
như vậy; nếu so sánh lịch sử Phật Giáo từ khi khởi nguyên cho đến ngày nay
trải qua hơn 2.500 năm với 10 năm của Phật Giáo Việt Nam hiện hữu tại xứ
Đức nầy quả thật nhỏ bé vô cùng.
Tuy nhiên, muốn có
tương lai, không thể nào thiếu hiện tại và quá khứ được. Cho nên, dầu hiện
tại là một hạt nhân nhỏ đi chăng nữa, nó cũng sẽ là một nhân tố quan trọng
cho bao sự thành đạt cũng như phát triển sau nầy.
Mười năm trôi qua
thật nhanh hơn điều chúng tôi dự tưởng. Những gì chúng ta chờ đợi, thường
thấy thời gian hay kéo dài ra. Những gì chúng ta cố gắng thâu ngắn thời
gian lại, thường thời gian càng đến nhanh hơn như chúng ta dự tưởng.
Nhìn lại quãng đường
10 năm đã đi qua của Phật Giáo Việt Nam tại xứ Đức quả chưa có gì cả để
trình bày với quý vị nơi đây; nhưng chúng tôi sẽ lần lượt đi vào chiều sâu
trong từng chi tiết một.
2. Hoàn cảnh
Nếu không có ngày 30
tháng 4 năm 1975 thì có lẽ ngày hôm nay người Phật Tử nói riêng hay người
Việt Nam nói chung không có mặt tại xứ Đức nầy, hay bất cứ một nơi nào
trên thế giới. Nếu có chăng đi nữa, cũng chỉ đến du lịch, học hành rồi trở
lại quê hương sinh sống làm ăn, chứ không định trú khắp nơi trên quả địa
cầu như chúng ta trong hiện tại.
Người Do Thái sau
gần 2.000 năm mới trở lại được quê cha đất tổ. Trong khi sống tại xứ người
họ đã chúc nhau "mai nầy sẽ gặp nhau tại Thánh địa Jerusalem". Và điều đó
đã trở thành sự thật. Người Việt Nam cũng thế. Khi gặp nhau, thường chúc
nhau "mai nầy chúng ta cùng về Việt Nam".
Chim có tổ, có tông
thì loài người không thể thiếu quê cha đất tổ được.
Ngày nay người Việt
Nam sống khắp nơi trên quả địa cầu chẳng biết là niềm vui hay nỗi buồn.
Nhưng theo Phật Giáo, đây có lẽ là một cộng nghiệp mà người Việt Nam phải
đền trả vậy.
Cũng vì hoàn cảnh
30.4.1975 nên nhiều người trong nước đã chạy ra nước ngoài lánh nạn Cộng
Sản, cộng thêm những người ra đi khỏi nước trước năm 1975 để học hành, tu
niệm, không về lại nước được; nên cũng phải cùng chung số phận với bao
nhiêu người Việt Nam khác tạm sống nơi xứ người, để mong rằng một ngày nào
đó sẽ trở lại quê hương, trong số người đó có chúng tôi.
Chính bản thân mình
là một Tăng sĩ của Phật Giáo, vừa là một người Việt Nam tỵ nạn, nên trong
tôi có hai vấn đề phải quan tâm. Đó là Đạo Pháp và Dân Tộc. Đối với Đạo
Pháp, người Tăng sĩ có bổn phận phải hoằng truyền giáo pháp của Như Lai.
Vì đó cũng là báo đáp công ơn của cha mẹ và Thầy Tổ vậy. Đối với Dân Tộc,
là một Tăng sĩ bao giờ cũng phải biết rằng vận mệnh của Đạo Pháp luôn luôn
nối liền với vận mệnh của Dân Tộc. Vì thế tuy hai mà một. Tuy một mà hai.
Ngày xưa khi Trung
Hoa có loạn phương Bắc, các nhà Sư Trung Hoa chạy sang Việt Nam để lánh
nạn, dần dà sau đó chính những nhà Sư nầy đã cống hiến cho Dân Tộc Việt
Nam của chúng ta những di sản văn hóa, nghệ thuật cũng như tinh thần từ bi
bác ái của Đạo Phật, Đó chẳng phải là những điều tốt hay sao?
Các nhà Sư Ấn Độ
ngày xưa qua Việt Nam chúng ta bằng con đường hàng hải trên những chuyến
thương thuyền của người Ấn trong việc cầu nguyện mưa thuận gió hòa, rồi
dần dần ảnh hưởng của Phật Giáo đã có tại xứ ta lúc bấy giờ.
Ngày nay chúng ta
cũng làm thân tỵ nạn, chúng ta cũng đang sống tạm tại xứ Đức nầy và cũng
chính nhờ cơ hội đó mà chúng ta mang được Đạo Phật vào đây. Chúng ta đến
đây vì hoàn cảnh tỵ nạn; nhưng chúng ta cũng không quên góp mặt với Dân
Tộc Đức những tinh hoa của văn hóa Phật Giáo và văn hóa Dân Tộc cho xứ
nầy, chẳng khác nào trong vườn bông đầy hoa thơm cỏ lạ, lại có thêm được
một loài hoa quý từ phương xa mang tới. Hẳn nhiên những người bạn Đức của
chúng ta phải vui hơn là buồn mới đúng. Đành rằng những người bạn Đức của
chúng ta phải chia xẻ với chúng ta một ít tự do, một ít vật chất lúc ban
đầu để cho chúng ta sinh sống; nhưng bù lại, chúng ta đã đương và sẽ cống
hiến cho xứ Đức nầy những gì tốt đẹp nhất để đền đáp lại những cảm tình mà
người Đức đã đối xử với chúng ta.
3. Địa thế
Người ta thường bảo
"Đất lành chim đậu". Câu nói ấy có nghĩa là nơi nào có tự do, có hòa bình
là nơi ấy có những người yêu tự do sinh sống và làm việc. Nơi nào không
yên ổn thì người ta có quyền lựa chọn một nơi xứng đáng để ở vậy.
Có những loài chim
khôn khi đến mùa lạnh lại bay đi đến xứ ấm để ẩn thân, khi trời ấm áp trở
về trên quê hương của đàn chim ấy, thì chim lại kéo nhau từng đoàn để trở
lại cố hương. Loài vật còn biết vậy, huống nữa là người. Chúng ta có trí
tuệ, hẳn chúng ta phải khác hơn loài chim nhiều như thế nữa.
Có nhiều người Đức
hỏi chúng tôi rằng: "Ông thấy ở Đức như thế nào?". Câu trả lời đương nhiên
là có nhiều lối. Nhưng tựu chung được đáp lại như sau: "Tôi rất hài lòng ở
nơi đây nhưng tiếng Đức khó quá và trời mùa Đông lạnh quá". Những ai sinh
trưởng ra nơi ấm áp, hẳn phải gồng mình chịu lạnh khi mỗi độ Đông sang tại
xứ nầy. Và ngược lại cũng thế, nếu người Đức đi đến xứ Phi Châu hoặc Á
Châu có lẽ họ cũng sẽ không chịu được cái nóng bức tại những nơi đó vậy.
Còn ngôn ngữ thì
sao? Có lẽ ai trong chúng ta cũng phải thừa nhận rằng tiếng Đức là một
loại sinh ngữ khó nhì, ba trên thế giới. Không những khó về cách phát âm
mà khó cả đến văn phạm và cách dùng chữ nữa. Đối với những trẻ em sinh ra
và học hành tại xứ Đức, ít có gặp khó khăn về ngôn ngữ; nhưng ngược lại về
tiếng mẹ đẻ thì có phần yếu kém hơn nhiều.
Khí hậu, địa thế,
ngôn ngữ, phong tục, tập quán v.v... chẳng qua là thói quen của con người.
Nếu người đó sinh ra tại một nơi nào đó trên quả địa cầu nầy, chắc hẳn họ
phải chấp nhận hơn là so sánh với nơi nầy hay xứ nọ, chỉ trừ những người
đã ở xứ nóng rồi thì mới sợ lạnh và ngược lại cũng thế. Còn những gì đã an
bài con người thường hay vui vẻ mà chấp nhận vậy.
Chúng tôi vẫn thường
bảo với những người chung quanh rằng ở đây xứ lạnh có lẽ cây Bồ Đề khó đâm
chồi nảy lộc được như ở các xứ Á Châu đâu. Cây Bồ Đề có nghĩa là cây giác
ngộ. Cây ấy chính Đức Phật đã mang trồng từ xứ Ấn Độ qua Trung Hoa, Việt
Nam, Nhật Bản và ngày nay những người Đệ Tử của Ngài đã mang cành cây ấy
đi trồng ở trời Tây nầy. Nếu chúng ta trồng ngoài trời không được, thì
trồng trong nhà có sao đâu. Có người bảo tôi như thế. Mà quả thật đúng
vậy. Vì loài người cần sưởi ấm vào Đông, thì vạn vật cũng phải cần hơi ấm
chứ. Có thể trồng cây Bồ Đề nơi xứ lạnh tốn công hơn xứ nóng; nhưng hy
vọng, dầu trồng trong phòng hay ở bất cứ nơi đâu, rễ và lá cây Bồ Đề ấy
cũng sẽ được mọc dài ra và cành lá lại sum sê hơn nữa.
4. Tình người
Loài vật còn biết
che chở cho nhau khi đông về giá lạnh. Chúng thường hay tụ tập từng đoàn,
quây quần bên nhau để nương hơi thở với nhau, huống nữa là loài người. Vì
thế tôi thường bảo: "Ở xứ Đức lạnh, nhưng tình người lại ấm lắm". Không ấm
sao được, khi chúng ta không cùng màu da, huyết thống, ngôn ngữ, tập tục,
mà họ đón nhận chúng ta vào đây để tỵ nạn, giúp đỡ cho chúng ta mọi điều,
thì còn đòi hỏi gì hơn nữa. Chúng tôi vẫn thường nói rằng: "Nếu một mai
đây, biết đâu thế thường thay đổi, người Đức sẽ đi tỵ nạn, nước Việt Nam
chúng ta hòa bình, không biết lúc ấy chúng ta có đón nhận người Đức như
người Đức đã đón nhận chúng ta trong hiện tại hay không? Hay lúc đó cánh
cửa tình thương của chúng ta lại khép kín, nhường chỗ cho ích kỷ và tư lợi
cá nhân?!". Câu trả lời thường là cái mỉm cười, vì chuyện gì của tương lai
chưa xảy ra nên họ không biết được. Nhưng với tinh thần Phật Giáo thì có
lẽ chúng tôi sẽ không bao giờ quên ơn ấy. Vì Đức Phật có dạy rằng: Đang đi
trong sa mạc; nếu có lần núp nắng dưới bóng cây, là đệ tử của Phật, phải
nhớ ơn cây ấy bằng cách lấy nước tưới vào thân cây vậy. Đối với thực vật
người Phật Tử còn có tình thương thay. Huống lại là tình người như người
Đức nói riêng hay nhân dân tự do của thế giới ngày nay nói chung đã giúp
đỡ người tỵ nạn Việt Nam chúng tôi như vậy.
5. Văn Hóa
Theo Việt Nam tự
điển của Thanh Nghị định nghĩa: Văn là văn minh. Hóa là sự giáo hóa. Như
vậy Văn Hóa nghĩa chung là sự giáo hóa của văn minh vậy.
Á Châu có văn minh
của Phật Giáo, Khổng Giáo và Lão Giáo. Ba tôn giáo nầy đã tồn tại qua 25
thế kỷ tại Á Châu.
Âu Châu cũng có
nhiều nền văn hóa của Ai Cập, La Mã và Thiên Chúa Giáo. Trong 3 trào lưu
văn hóa nầy, chúng tôi nhận thấy rằng các Dân Tộc Âu-Mỹ ảnh hưởng rất sâu
đậm trong đời sống hằng ngày bởi văn minh và văn hóa của Thiên Chúa Giáo
rất nhiều và dù muốn dù không Thiên Chúa Giáo cũng đã đóng góp một vai trò
quan trọng tại nơi đây.
Ngày nay có nhiều
nước chỉ có văn minh mà không có văn hóa. Văn minh được định nghĩa là văn
vẻ, dáng dẻ. Minh có nghĩa là sáng sủa. Nói chung lại văn minh là cái văn
vẻ, sắc thái sáng sủa, lối sinh hoạt của loài người khi đã ra khỏi thời kỳ
man muội, khi đã được khai hóa tới chỗ sáng sủa. Văn minh gồm những lý
thuyết, tư tưởng, phong tục, tập quán của nhân loại sống trong xã hội đã
được tổ chức mà con người đã biết giao hảo với nhau thường thường (theo
Thanh Nghị - Việt Nam Tự Điển). Như vậy trong văn hóa đã bao hàm ý nghĩa
của văn minh rồi. Nếu văn minh mà không có sự giáo hóa của Đạo Đức thì văn
minh đó rất vô cùng nguy hiểm. Nhưng ở đây, các nước Âu Châu, nhất là nước
Đức đã có một nền văn hóa tổng hợp; nên thế đứng khá vững vàng suốt trong
dòng lịch sử vừa qua và hy vọng trong tương lai sẽ triển khai nhiều hơn
nữa với sự dung hợp các trào lưu tư tưởng của văn hóa Á Châu, trong đó có
văn hóa của Phật Giáo. Văn hóa của tình thương, văn hóa của bất bạo động
và bình đẳng trong mọi lãnh vực của cuộc đời.
Thật ra Phật Giáo đã
có mặt tại xứ Đức nầy vào hậu bán thế kỷ thứ 19 chứ không phải cho đến nay
mới hiện hữu. Nhưng giai đoạn đầu chỉ là giai đoạn tiếp xúc, làm quen với
văn hóa tại đây. Có thể cả hằng bao nhiêu thế kỷ nữa Phật Giáo mới ảnh
hưởng sâu rộng tại xứ nầy. Nhưng như trên đã trình bày nếu không có những
viên gạch đầu tiên ấy, thì nền tảng của Phật Giáo tại đây sẽ không có
được. Cũng như Đạo Phật đã truyền vào Trung Hoa từ thế kỷ thứ I mà mãi đến
thế kỷ thứ VI mới phát triển mạnh mẽ tại đó và tại Việt Nam cũng thế, mặc
dầu Đạo Phật đã truyền vào đây từ thế kỷ thứ I nhưng mãi đến thế kỷ thứ IX
và thứ X mới triển khai hết được văn hóa của Phật Giáo kể từ khi du nhập
cho đến triều đại Lý, Trần.
Ở Âu Châu đã có văn
hóa của 3 trào lưu tư tưởng bên trên làm gốc; nếu có thêm được văn hóa của
Phật Giáo góp mặt vào. Quả thật đấy là một phước duyên cho những dân tộc
Âu Châu nầy, trong đó có nước Đức.
6. TÔN GIÁO
Như trên đã trình
bày văn hóa chính của Âu Châu nếu không có sự góp mặt của Thiên Chúa Giáo
thì văn minh và văn hóa ở đây có một khoảng trống to lớn vô cùng,
Các nhà làm chính
trị ngày nay thường hay nói: "Tôn giáo biệt lập khỏi chính trị". Có lẽ vì
ngày xưa tôn giáo đã xen vào chính trị hơi nhiều, nên ngày nay người ta
muốn độc lập chăng? Nhưng chúng ta cũng đừng quên rằng khi mà văn minh của
loài người chưa tiến bộ, nhất là về phương diện khoa học, kỹ thuật như
ngày nay, thì tôn giáo ở những giai đoạn về trước quả thật rất cần thiết.
Nếu khoa học phát triển mà tôn giáo dừng lại thì chính tôn giáo đó phải
đặt lại vấn đề để tiến thân. Nếu không, tôn giáo đó sẽ bị bánh xe luân
chuyển của dòng đời cuốn phăng vào sự chi phối của tạo vật. Nếu khoa học
càng tiến triển bao nhiêu mà những giáo điều của tôn giáo ấy còn có giá
trị thì chúng ta nên tiếp tục thừa hưởng giá trị tinh thần nầy mà phát
triển hơn lên.
Người Việt Nam khi
đến tỵ nạn tại xứ Đức đã mang theo một Đạo. Đó là Đạo Phật. Có nhiều người
Âu Châu chưa hiểu Đạo Phật là gì nên có vẻ còn dè dặt và hồ nghi. Điều đó
cũng có lý thôi. Vì Phật Giáo quá mới mẻ tại quê hương nầy. Nhưng có một
điều đáng mừng là dầu cho tôn giáo nào đi nữa các đấng giáo chủ của họ
cũng đã dạy cho họ rằng: Hãy tự yêu thương chính mình và hãy yêu thương
đồng loại như chính thân mình. Vì thế cho nên dầu chúng ta có khác tôn
giáo với nhau đi chăng nữa, chúng ta cũng có thể sống hòa mình nhau trong
một quốc gia để phát triển quốc gia ấy.
Phải thành thật quan
niệm rằng: Sự hiện hữu của tôn giáo không phải là một gánh nặng của quốc
gia mà còn ngược lại là đằng khác. Vì tôn giáo sẽ giúp cho tín đồ hiểu
được nhân quả luân hồi, biết được tội lỗi và phước thiện; giúp đỡ, cải
thiện con người xấu trở thành tốt, làm cho an ninh trật tự của xã hội được
yên ổn, há điều ấy không ích lợi sao?
Phật Giáo luôn luôn
hiếu hòa và chủ trương từ chối bạo lực. Do đó Phật Giáo sẽ là một chất
liệu dưỡng sinh cho bao nhiêu tâm hồn biết hướng thượng vị tha. Chúng ta
cũng không nên sợ vì sự hiện diện của tôn giáo khác mà giá trị hoặc tín đồ
của tôn giáo khác mà giá trị hoặc tín đồ của tôn giáo mình lại kém đi. Nếu
quả thật như vậy thì chính tôn giáo của mình phải cần xét lại.
Chúng tôi xin nhấn
mạnh lại một lần nữa là Phật Giáo không đi chi phối ai cả, mà chỉ nhằm đi
tô bồi và cống hiến những tinh hoa của Phật Giáo và Dân Tộc cho xứ ấy mà
thôi. Đó là đặc điểm của Phật Giáo vậy.
Chúng tôi cũng rất
vô cùng cảm ơn quý vị Đại Diện các cơ quan Caritas, Tin Lành v.v... đã
không vì sự phân biệt tôn giáo mà đã giúp đỡ chúng tôi trong nhiều phương
diện để hiện hữu với quý vị cho đến ngày hôm nay vậy.
7. Chính trị
Người Nhật thường
bảo rằng: "Nếu kẻ nào không có thủ đoạn thì không nên làm chính trị". Nếu
quả thật chính trị là những sự lừa lọc, bạc đãi như vậy thì người làm Tôn
Giáo không nên làm chính trị. Vì Tôn Giáo khước từ những sự tệ hại đó.
Nhưng nếu đem phân tách từng chữ theo nghĩa của chữ Hán thì chúng ta sẽ
thấy như sau: Chính là chính sách, chính đáng, những việc cần phải làm.
Trị là giữ yên. Như vậy định nghĩa chung lại chúng ta sẽ thấy rằng: Chính
trị là giữ yên một sự chính đáng. Đó gọi là chính trị. Nhưng người đời nay
quan niệm về chính trị một cách sai lầm, nên khi nghĩ đến chính trị tức
đồng hóa với những thủ đoạn, lừa đảo đối phương, để khi thắng thế thì lên
nắm quyền.
Cũng vì chính sách
không công bằng, không tự do, tôn giáo bị đàn áp do người Cộng Sản Việt
Nam chủ trương nên chúng ta mới bỏ quê cha đất tổ để ra đi tìm tự do. Nếu
người Cộng Sản biết dừng lại những chính sách phi chính trị thì dân tộc
chúng ta đã không lầm than khổ sở như ngày hôm nay. Thân phận chúng ta
chẳng khác nào một quả bóng đá. Người ta để yên, chúng ta yên. Người ta
đuổi thì chúng ta bị động. Hãy xem mấy trăm ngàn người Việt hiện đang tạm
cư tại các nước Đông Nam Á Châu thì rõ. Mà ngay cả thân phận của chúng ta
ở đây cũng vậy. Vì ở đây dẫu có được bình an, chúng ta vẫn là những người
ngoại quốc. Mà đã là người ngoại quốc thì có kẻ thương người ghét. Nhưng
dầu thương hay ghét chúng ta vẫn sẵn sàng cống hiến những tinh hoa của
Phật Giáo cho xứ nầy như là một hình thức đóng góp những gì quý báu nhất
cho quê hương nơi chúng ta đang tạm dung thân, nhằm đáp lại phần nào tấm
chân tình mà người Đức đã đối xử với chúng ta trên đường đi tỵ nạn.
Kẻ nào chưa mất quê
cha thì không thể nào biết được thế nào là sự ray rứt khi không trở lại
thăm quê hương mình được, mặc dầu quê hương mình vẫn còn đó. Cũng như có
khát nước, mới thấy nước là có giá trị. Những người đang ở một nơi yên ổn
có thể chẳng hiểu gì về những người trôi nổi trên đại dương để tìm lối
sống và cũng thế, trên cuộc đời nầy cái gì cũng phải thể nghiệm qua chính
bản thân mình thì cái ấy có giá trị đích thực hơn.
8. NHân sự
Bất cứ trong một tổ
chức, một đoàn thể nào, vấn đề nhân sự là một vấn đề then chốt nhất.
Ngày 22 tháng 4 năm
1977 một mình một bóng, tôi đã đến xứ nầy, với bao nhiêu điều mới lạ phải
học và làm quen, từ ngôn ngữ, khí hậu, phong tục, tập quán, cho đến việc
nơi ăn, chốn ở v.v... Đã có những lúc tôi muốn trở lại Nhật để tiếp tục
con đường học hành tu niệm rồi; nhưng rồi thời gian qua đi mang theo biết
bao nhiêu sự suy nghĩ. Cuối cùng, tôi đã ở lại nơi đây.
Mới đến Đức, tôi đi
một vòng thăm các Hội Sinh Viên Việt Nam lúc bấy giờ tại các thành phố lớn
như Kiel, Hannover, München, Stuttgart, Berlin, Aachen, Köln, Dortmund
v.v... để dò xét tình hình. Sau một vòng đi du thuyết và tìm hiểu sự tình
như vậy, tôi đã trở về phòng trọ trong Cư xá Sinh viên ở đường
Projendorfstr. tại Kiel; ở đó và tiếp tục học tiếng Đức để vào Đại Học sau
nầy.
Cuối cùng Đại Học
Giáo Dục Hannover đã có chỗ ghi danh và tôi đã về đây để học. Đó là lý do
chính tại sao tôi chọn đất Hannover để lập chùa mà không chọn những nơi
khác.
Đến Hannover vào
tháng 2 năm 1978 để lo chuyện học hành. Lúc bấy giờ tôi chưa nghĩ đến
chuyện lập Niệm Phật Đường hay chùa chiền gì cả. Nhưng có một số anh em
Sinh viên Việt Nam đề nghị là phải nên làm cái gì đó cho có nơi chốn để
Phật Tử đến lễ bái nguyện cầu, nên mới chung sức cùng nhau đóng góp mỗi
người 10 đồng, 20 đồng, thuê một nơi tại đường Kestnerstr. số 37 để làm
chỗ ở và nơi lễ bái cho Phật Tử Việt Nam.
Một tượng Phật độ
chừng 30 cm tôi đã thỉnh từ chùa Khánh Anh bên Pháp về, một bàn thờ nho
nhỏ xinh xinh ba tầng, tượng trưng cho 3 ngôi Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng,
đã được sửa soạn xong xuôi đâu đó, tôi đã thảo giấy mời gởi đến một số
Phật Tử quen biết mời về tham dự lễ An vị Phật Niệm Phật Đường Viên Giác
tại Hannover. Hôm đó là ngày 2 tháng 4 năm 1978 và đến 2.4.1988 nầy là
đúng 10 năm. Lễ An vị Phật vào ngày đó có Thượng Tọa Thích Minh Tâm, tọa
chủ chùa Khánh Anh tại Pháp đến chứng minh buổi lễ và có chừng 20 Phật Tử
đến tham dự lễ nầy.
Diện tích căn phòng
rộng độ chừng 20 thước vuông dùng làm chánh điện và một phòng phụ dùng để
tiếp khách cũng như chỗ ngủ, nghỉ v.v... Một nhà bếp nho nhỏ, một phòng
tắm xinh xinh. Mỗi tháng giá thuê độ chừng 180 Đức Mã. Mùa hè thì trong
nhà lạnh hơn ngoài vườn. Mùa đông đến, sưởi bao nhiêu cũng không thấm vào
đâu cả. Vì nhà quá cũ. Nhưng được một cái là những người láng giềng Đức
quá tốt, không có một tiếng nhỏ to với chúng tôi. Mặc dầu đôi khi có lễ
lộc hay làm ồn họ.
Năm 1978 nhân sự rất
ít, nhưng sau 10 năm số nhân sự ấy có thể nhân lên 100 hoặc 1000 lần nữa.
Nếu tôi kể hết vào đây chắc rằng giấy mực sẽ không đủ chỗ để dung chứa.
Mong rằng những vị đã đương và sẽ đóng góp cho sự phát triển của Phật Giáo
tại xứ nầy hiểu và thông cảm cho tôi điều nầy.
Phật sự ngày nay tại
Tây Đức có vững vàng hay không, đều lệ thuộc vào những nhân tố chính bên
trên. Nếu không có được sự thống nhất ý chí, giúp đỡ tận tình, hy sinh xả
kỷ của mọi người, chắc rằng tôi vẫn chưa hoặc không làm nên được một việc
gì cả tại xứ nầy.
Một chiếc xe dầu đầu
máy có mạnh bao nhiêu đi chăng nữa mà kéo theo một số toa xe cũ mục, hư
nát, chắc rằng chả có lợi ích. Vì thế, sau 10 năm sự thành đạt của Phật
Giáo nơi đây là do công sức của mọi người Tăng sĩ cũng như Phật Tử mà có
được vậy.
9. Tài chánh
Nếu một chiếc xe có
dàn máy tốt mà không có xăng thì sẽ không bao giờ chạy được. Nguồn nhiên
liệu ấy rất cần thiết cho việc chuyên chở khách hàng. Nếu định nghĩa Đại
Thừa Phật Giáo là cỗ xe lớn để chở hành khách đến nơi an lạc giải thoát
của kiếp nhân sinh, thì chiếc xe và nhiên liệu của chùa Viên Giác cũng
phải mang ý nghĩa tương tự như vậy.
Người ta thường nói:
"Đồng tiền là huyết mạch". Tiền như là dòng máu luân lưu trong cơ thể con
người. Nếu máu không chảy về tim trở lại, xem như là sự chết đã gần kề. Ở
đây cũng thế, nếu chỉ chuyên tâm làm việc đạo mà không có những yếu tố căn
bản ấy để chuyên chở Đạo vào Đời thì cũng giống như máu không chảy trở lại
tim vậy.
Tuy nhiên Đức Phật
cũng thường hay dạy đệ tử của Ngài rằng: "Tiền là con rắn độc", Thật đúng
như vậy. Nếu chúng ta biết xử dụng tiền một cách đúng phép, thì tiền ấy
chính là phương tiện giúp chúng ta thành công được mọi việc trong cuộc
đời. Ngược lại, nếu chúng ta sống chỉ vì tiền và coi tiền trọng hơn nhân
nghĩa, quả thật tiền đã làm hại nhân phẩm của chúng ta rồi. Nên tôi có thể
nói, độc hơn là rắn độc.
Phật Giáo hầu hết
đều sống nhờ vào sự cúng dường của Phật Tử. Vì thế một ngôi chùa, một giáo
hội có vững mạnh hay không đều lệ thuộc vào năng lực của ngôi chùa đó,
giáo hội đó hấp dẫn quần chúng Phật Tử đến độ nào. Nếu một ngôi chùa,
không có hoạt động hữu hiệu và đáp ứng những nhu cầu cần thiết của quần
chúng Phật Tử, quả thật khó tồn tại với thời gian, dầu ở trong nước hay
ngoại quốc cũng vậy.
Mười năm về trước,
Niệm Phật Đường Viên Giác chỉ là một mái nhà tranh, không bàn, không ghế.
Ăn uống, tiếp khách phải ngồi dưới sàn nhà. Lễ Phật phải chịu chen chúc,
chật chội. Rồi 10 năm sau, một nơi chốn như tại đây (đường Eichelkampstr.
35a, 3000 Hannover 81) đủ chỗ dung chứa cho 300 Phật Tử lễ bái nguyện cầu
cùng một lúc; nhưng cũng trở nên chật chội lạ thường, nhất là khi có những
lễ lớn như Phật Đản, Vu Lan v.v...
Gia sản ngày nay của
chùa có được một Thư Viện với trên 2.000 quyển sách đủ loại đạo, đời. Một
bộ Đại Tạng Kinh bằng chữ Hán 100 cuốn. Một nhà máy in của Bộ Nội Vụ Tây
Đức giúp. Những tượng Phật, chuông trống bát nhã, chuông trống gia trì và
những kinh sách, pháp khí khác đều mang một giá trị vô song, không thể
tính bằng tiền được.
Tờ báo Viên Giác ra
mỗi 2 tháng 1 lần. Cách 10 năm về trước mỗi lần là 300 số. Bây giờ là
2.700 số. Con số độc giả tăng gấp 9 lần so với 10 năm về trước.
Sở dĩ chúng ta có
được những thành quả ấy đều nhờ vào sự giúp đỡ tài chánh của Bộ Nội Vụ
Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức; sự cộng tác đắc lực của các biên tập viên báo
Viên Giác và phần lớn khác nhờ vào sự đóng góp của các Phật Tử xa gần, nên
mới có được như ngày hôm nay.
Giá trị vật chất quý
nhưng chưa bằng giá trị tinh thần, sau 10 năm những người hiểu đạo càng
ngày càng nhiều hơn qua các kinh sách, báo chí của chùa phát hành cũng như
các khóa Giáo Lý và Thọ Bát Quan Trai qua sự hướng dẫn của quý Thầy, quý
Cô trong Chi Bộ. Khi niềm tin được củng cố bằng sự hiểu biết về Tôn Giáo
của mình thì niềm tin ấy mới vững mạnh được.
Một Hội Phật Tử Việt
Nam Tỵ Nạn tại Tây Đức đã được thành hình và các Chi Hội Phật Tử tại các
địa phương Aachen, Berlin, Hamburg, Hannover, Münster, Freiburg,
Stuttgart, München, Frankfurt, Wiesbaden, Fürth + Erlangen + Nürnberg
v.v... đã được thành lập và phát triển không ngừng. Đó không phải là điều
đáng quý biết bao.
Một Trung Tâm Văn
Hóa Phật Giáo có tầm vóc Liên Bang đã được thành lập và hiện đang giúp đỡ
cho đồng bào Phật Tử cũng như không Phật Tử về các vấn đề liên quan đến
người tỵ nạn tại đây. Đồng thời Trung Tâm cũng có một vai trò quan trọng
trong việc xuất bản các kinh sách Phật Giáo, là sợi dây liên lạc chặt chẽ
giữa các tổ chức Việt Nam cũng như người Đức tại xứ nầy.
Những Gia Đình Phật
Tử đã được lập nên. Các con em của chúng ta có cơ hội đến chùa để học hỏi
tiếng mẹ đẻ, tập tụng kinh, lễ bái và sinh hoạt chuyên môn. Đây là hình
thức tốt đẹp nhất để bảo tồn và phát huy Văn Hóa Phật Giáo cũng như Văn
Hóa Dân Tộc tại xứ người.
Chúng ta là những
người tỵ nạn tại xứ nầy. Đành rằng chúng ta phải hội nhập vào văn hóa và
làm quen với văn hóa nơi đây. Nhưng đồng thời chúng ta cũng không được
phép quên đi tiếng mẹ đẻ, Tôn Giáo và Văn Hóa của chúng ta. Một Dân Tộc mà
không còn ngôn ngữ, văn hóa nữa, tức dân tộc ấy bị đồng hóa rồi, không còn
trong ý nghĩa hội nhập nữa.
Giá trị vật chất
quan trọng, mà giá trị tinh thần lại còn quan trọng hơn như thế nữa. Vì
nếu đời sống vật chất cao mà mực sống tinh thần thấp, sẽ làm cho giá trị
của Đạo Đức và Luân Lý không còn tồn tại nữa. Ngược lại nếu đời sống tinh
thần thật dồi dào mà phương tiện vật chất lại thiếu sót; như vậy tổ chức
sẽ không bao giờ phát triển được. Vậy chúng ta có thể nói rằng vật chất và
tinh thần phải gắn bó với nhau như nước với sữa, tâm thức và tế bào. Nếu
thiếu 1 trong 2 yếu tố ấy thì cơ thể con người sẽ không phát triển được.
10. Triển vọng tương
lai
Nhìn quá khứ để biết
hiện tại và nhìn hiện tại để biết đến tương lai. Đó là một định luật tuần
hoàn của tạo hóa vậy.
Đã 10 năm trôi qua,
chúng ta có tất cả trong ý nghĩa tri túc của nó và chắc chắn rằng 10 năm
sau nữa sẽ khác với 10 năm đầu tiên tại xứ Đức rất nhiều. Nếu lấy 10 năm
đầu tiên ở xứ người để làm chuẩn, chúng ta có thể nói rằng đây là giai
đoạn hội nhập, làm quen với đời sống tại đây và 10 năm sau mới là 10 năm
phát triển Phật Giáo tại xứ nầy.
Giai đoạn sắp tới là
giai đoạn kiến thiết cơ sở, để có nơi chốn lễ bái thích hợp, đào tạo nhân
lực và có chỗ làm việc công quả cho những ai lưu tâm về Đạo.
Nhiều người Việt Nam
đã phát tâm đi xuất gia và chắc chắn rằng còn có nhiều người sắp xuất gia
nữa. Có nhiều người Đức cũng đã có cảm tình với người Việt Nam, nên đã tìm
cách làm quen với Phật Giáo. Có nhiều người Đức đã quy y theo Đạo Phật. Có
nhiều học sinh Trung Học và Đại Học Đức đến ngồi thiền, học hỏi giáo lý
của Phật Giáo Việt Nam nói riêng và Đạo Phật nói chung. Đây là niềm vui
vậy.
Như trên chúng tôi
đã trình bày, Phật Giáo đi vào mỗi dân tộc bằng con đường tự nguyện và
cũng chính từ điểm nầy đã có nhiều người giúp đỡ cũng như hòa nhịp với
chúng ta để sống chung trong cùng một lý tưởng. Đó là niềm tin nơi Đức
Phật, một sự giải thoát chính tự mình cởi bỏ mọi sự ràng buộc của thế
gian, một tình thương vô bờ bến của đấng cha lành muôn thuở luôn cận kề
bên cạnh.
Con đường chúng ta
đã đi và đã chọn, chúng ta sẽ không lùi bước, hãy cố gắng lên nhiều hơn
nữa, để xứng đáng với đại sự nầy là:
"Một cây làm chẳng
nên non
Ba cây chụm lại nên
hòn núi cao"
Tương lai có vẻ lạc
quan. Vì thế chúng ta hãy hân hoan tiến bước. Hy vọng trên đỉnh núi tương
lai kia, chúng ta sẽ bắt gặp những hạt minh châu quý giá nhất của cuộc
đời.
Kết luận
Qua 10 thể tài của
10 năm Phật Giáo Việt Nam như trên chúng tôi đã trình bày. Hy vọng đây chỉ
là một mô thức nhỏ trong sự thể tổng quát của 10 năm. Nếu quý vị còn có
những thắc mắc hoặc những đóng góp ý kiến bổ túc cho những phần trên đây,
quả là điều quý giá vô cùng.
Mong rằng với tất cả
niềm tin vào tương lai và hiện tại, chúng ta cố gắng sẽ đạt thành những
ước nguyện như chúng ta đã vạch sẵn để đi trên con đường từ bi không thù
hận ấy.
Lời cuối xin nguyện
cầu cho thế giới có một nền hòa bình vĩnh cửu, để biến trần gian thành Cực
Lạc, để cảnh máu không còn đổ, đầu không còn rơi, mà loài người hãy ngồi
gần lại với nhau như huynh đệ đại đồng.
Nguyện cầu cho đất
nước Việt Nam sớm thanh bình, không còn cảnh chém giết, cấu xé với nhau
như xưa nay nữa mà hãy lấy tình thương để rửa sạch hận thù. Vì chỉ có từ
bi mới báo đáp được oán thù. Nếu oán thù càng chồng chất thì tình thương
sẽ không bao giờ thể hiện được.
Nguyện cầu cho tất
cả chúng ta hiện ở nơi đây được "chân cứng đá mềm" để chúc nhau như người
Do Thái đã chúc nhau trong suốt 2000 năm xa nước, để mong ngày trở lại đất
mẹ thân yêu trong bao nỗi nhớ đợi chờ mong.
Xin thành thật cảm
ơn quý Đạo Hữu và quý Phật Tử xa gần đã tích cực đóng góp công cũng như
của để ngôi Viên Giác Tự bây giờ và mai hậu được thành công viên mãn.
Nam Mô A Di Đà Phật
Kỷ niệm 25
năm
Ngày xưa khi Kim
Trọng quen Thúy Kiều trong duyên hội ngộ có định sẵn và 15 năm sau lưu lạc
giang hồ khi Kim - Kiều gặp nhau còn bỡ ngỡ, cho nên nàng Kiều mới thốt
lên rằng:
"Kể từ sen ngó đào
tơ
Mười lăm năm ấy bây
giờ còn đâu"
Mười lăm năm biết
bao nhiêu là tình và 15 năm ấy biết bao nhiêu là hận sầu, bao lần ly biệt,
bao nỗi chua cay. Còn tôi, hôm nay đã kỷ niệm 25 năm gắn bó với ngôi chùa
Viên Giác nầy, với tờ báo Viên Giác, với quý vị người Việt cũng như người
Đức tại một khung cảnh ấm áp tình người như thế nầy, tôi biết nói gì đây
để đáp ứng được sự chờ mong của quý vị ? Đây là một niềm hạnh phúc, một sự
an lạc miên viễn, một cử chỉ cao cả của tất cả mọi người đã dành cho cá
nhân tôi, tốt có, xấu có, phũ phàng có mà đầy đủ ý nghĩa của tình người
cũng có. Nhân đây tôi xin viết để tặng quý vị một câu chuyện đạo đức mà
tôi đã đọc được trong báo Nguồn Đạo số 56 xuất bản vào mùa Phật Đản năm
2546 (2002) tại Washington DC, Mỹ Quốc. Câu chuyện được bắt đầu kể rằng:
"Gia đình nọ có một
người con rất khó dạy, bản tính của hắn ta hay nóng nảy, cãi cọ với người
thân và hàng xóm thường xuyên; nhưng khó ai có thể sửa đổi hắn ta. Một hôm
người cha muốn dạy con, nên kêu vào phòng và bảo:
- Nầy con! Con hãy
đến lấy túi đinh, ba để nơi góc đó, mỗi ngày mang ra bức tường bằng gỗ ở
sau nhà để đóng vào đó.
- Để làn gì vậy ba ?
Người con hỏi.
- Thì như con biết
đó, con hay nóng giận với mọi người nhiều khi vô cớ nữa. Cứ mỗi lần con
giận, con đóng vào đó một cây đinh.
- Rồi sao nữa ba ?
- Rồi con sẽ biết.
Ngày đầu người con
đóng vào tường gỗ tổng cộng là 37 cây đinh. Anh ta thấy xấu hổ quá. Đến
ngày hâm sau anh ta kềm giữ cơn giận và anh ta chỉ đóng vào đó có 30 cây.
Anh ta thấy tiến bộ rõ rệt và mình có thể kềm chế tiếp tục. Đến ngày thứ
10 thì chỉ còn có mấy cây thôi và ngày thứ 15 thì anh ta rất vui vẻ để
khoe với Ba anh ta rằng:
- Ba ơi! Cho đến hôm
nay thì con không còn phải đóng một cây đinh nào vào bức tường gỗ phía sau
nhà cả.
Người cha bảo rằng:
- Con ngoan! Thật
con đã làm một chuyện vĩ đại; nhưng này con, con hãy cảm phiền làm thêm
một công chuyện khác nữa.
- Chuyện gì vậy Ba ?
- Mỗi ngày con không
còn nóng giận thì con hãy nhổ ra một cây đinh.
- Việc ấy dễ thôi
mà! Con sẽ cố gắng.
Đến một ngày nọ
người con rất hớn hở khoe với Ba rằng:
- Con đã nhổ hết
sạch rồi Ba ơi!
- Tốt lắm! Con ngoan
của Ba.
Đoạn ông dẫn cậu ta
ra gần bức tường và bắt đầu hai cha con nói chuyện.
- Con thấy đó, mặc
dầu con đã cố gắng nhổ hết tất cả những cây đinh con đã đóng vào đấy. Có
nghĩa là những sân si, phiền não của con không còn nữa. Nhưng con thấy đó,
sau khi rút đinh ra, tại chỗ nầy chỗ kia vẫn còn lưu lại những dấu vết đó,
làm sao xóa nhòa được.
Người con bừng tỉnh
và thưa Ba:
- Vậy con phải làm
sao đây ?
- Con chẳng cần phải
làm sao cả! Nhưng con thấy đó, những sân hận, khổ đau, tội lỗi, nóng giận;
nếu có sửa đổi đi chăng nữa, những vết tích của sự khởi lên lòng sân hận,
si mê vẫn còn đó, dẫu cho con có hối cải. Vậy thì từ nay về sau con nên
khởi lên những niệm lành và những niềm vui để mang đến cho mọi người chung
quanh, thì chính những việc tác ý đó, nó sẽ xóa tan đi những vết sẹo trong
lòng con và nó sẽ để lại nhiều dấu ấn tốt trong lòng mọi người".
Câu chuyện kết cuộc
ở đó và người con đã chấp nhận cũng như thực hành lời dạy của người cha
đối với mình một bài học luân lý có một không hai trong đời như thế.
Đó chẳng phải là lời
Phật dạy. Nếu Phật dạy có lẽ cũng chỉ tương tự như thế. Cũng chẳng phải là
những lời hay ý đẹp trong "Cổ Học Tinh Hoa", mà nó là một hình ảnh sống;
hình ảnh ấy ta tiếp cận hằng ngày, mỗi người đều đã gặp và đều có thể áp
dụng để sửa chữa trở nên tốt vậy.
Hôm nay nhân viết kỷ
niệm 25 năm chùa và báo Viên Giác, tôi hiến tặng quý vị câu chuyện trên
cũng để nói lên một tấm lòng của chính mình là cảm tạ thâm ân với quý vị
dầu là người Việt hay người Đức. Biết đâu trong 25 năm ấy dầu vô tình hay
cố ý khi soạn, viết bài cho báo Viên Giác, khi kiểm duyệt trước khi đăng
tin; hoặc giả có những lời dạy dỗ quá chí tình đâm ra gắt gỏng với đệ tử
xuất gia cũng như tại gia thì tôi xin nhận lỗi về phần mình, Vì làm kẻ
lãnh đạo nhưng chưa tròn bổn phận. Vậy từ nay tôi xin trải rộng tấm lòng
của mình để chỉ gieo vào tâm thức của mọi người bằng những hình ảnh đẹp,
bằng những lời nói dịu dàng, có ý thức, để đỡ gây những hiểu lầm, hờn
giận, mà tôi chỉ muốn hóa giải những khổ đau của người đối diện để mọi
người được an lạc, hạnh phúc thì tâm tôi sẽ thanh thản nhẹ nhàng.
Ở đời, sau 25 năm
cưới hỏi chung sống với nhau, người ta tổ chức những buổi tiệc thật lớn để
cảm ơn trời đất và tình nghĩa vợ chồng đã gắn bó với nhau như thế; nhưng
đúng ra bên trong phải hiểu là: suốt 25 năm năm qua cả 2 người đều phải
nhẫn nhục chịu đựng với nhau; nên bây giờ mới được yên nhà yên cửa. Vì thế
chiếc nhẫn cưới, tượng trưng cho sự nhẫn nhục chịu đựng đó đâu có ai dám
cởi ra bao giờ. Họ sẽ giữ nó cho đến 50 năm, rồi một ngày ra đi, họ cũng
sẽ mang vào lòng đất lạnh.
Còn tôi kỷ niệm 25
năm không hẳn như thế. Vì lẽ tôi không phải chịu đựng như vợ chồng đã chịu
đựng suốt 25 năm qua. Tôi chỉ thực hiện một bổn phận là trên đền 4 ân
nặng, dưới cứu khổ muôn loài.
Đó là ơn quốc gia đã
bảo bọc che chở cho tôi được yên ổn để tu hành. Nói gần hơn là quê hương
Việt Nam đã sinh trưởng ra tôi và nước Đức đã nuôi tự do, cơm áo cho tôi
sống.
Tiếp đến là ơn sanh
thành dưỡng dục của mẹ cha tôi phải đáp đền. Nếu không có song thân, tôi
không có cơ hội để hiện hữu trên đời nầy.
Ơn thứ 3 không kém
phần quan trọng là ơn Thầy Tổ đã nuôi dạy tôi nên người, và
Ơn thứ 4 là ơn của
tín đồ đã hỗ trợ cho tôi thành tựu các công việc trong cuộc sống, trong đó
có ơn những thiện hữu trí thức và bè bạn đã giúp đỡ mình.
Đồng thời tôi cũng
không quên những người nghèo khổ hơn mình như ở Việt Nam, Ấn Độ, Phi Châu
v.v... đó là chưa nói đến những chúng sanh vô hình ở những cõi địa ngục,
ngạ quỷ và súc sanh nữa.
Ngoài ra việc lập
chùa, xây dựng cơ sở đó đây, nó cũng chỉ có một mục đích duy nhất như
trong bài Sám Khể Thủ là:
Kiến pháp tràng ư xứ
xứ
Phá nghi võng ư
trùng trùng
Hàng phục chúng ma
Thiệu long Tam Bảo
...
Nghĩa là:
Tạo chùa viện khắp
nơi nơi
Phá lòng nghi đang
bao phủ
Hàng phục ma vương
Hưng long Tam Bảo
Đó là bổn phận và
trách nhiệm của người Tăng Sĩ ở trên cõi đời nầy, đi đến đâu cũng phải nên
có nhiệm vụ như thế. Có nghĩa là xây dựng chùa chiền, đào tạo Tăng Ni,
Phật Tử chỉ nhằm một mục đích duy nhất là hiển chánh trừ tà, làm cho giáo
pháp càng ngày càng rạng rỡ, mọi người học đạo, hiểu đạo và thực hành theo
đạo ấy. Vì ma vương bên trong và ma vương bên ngoài lúc nào nó cũng đầy
dẫy chung quanh mình. Do vậy mà phải cần có chùa viện để cho mọi người lui
tới học hỏi, tu niệm, thiền tọa v.v... tất cả đó là một việc làm đáng quý,
đáng trọng chỉ để làm hưng long ngôi Tam Bảo. Đó là Phật, Pháp, Tăng,
những giá trị trân quý của cuộc đời mà ta khó có được.
Ngày mai đây ngôi
chùa Viên Giác nầy cũng có thể còn phát triển nhiều hơn nữa do Thầy Hạnh
Tấn lèo lái và sự cố vấn của tôi; nhưng cũng phải chấp nhận một điều,
không có một vấn đề gì mà tồn tại mãi với thiên thu không biến đổi. Ngay
cả giáo lý của Đức Phật còn phải biến đổi qua bốn thời kỳ, Đó là: thành,
trụ, hoại và diệt; của 3 giai đoạn chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp.
Cuộc đời của chúng
ta cũng giống như một Đạo hàm được diễn tả qua đường biểu diễn Parabol và
được giải bởi 2 hàm số là cực cọng và cực trừ. Một viên đạn bắn lên, một
phi thuyền đi vào không trung cũng thế. Nó chỉ lên thẳng đến một độ nào đó
thôi, khi tự lực của nó không kham nổi nữa thì nó sẽ theo chiều ngang để
thay đổi vị thế hoặc giả quay về vị trí cũ. Nó sẽ không mất, nó sẽ tiếp
tục để tự tồn và biến đổi như dòng điện với bóng đèn thế thôi. Do đó định
lý hợp tan, tan hợp, có không, không có, là một điều hiển nhiên mà một
người Phật Tử chúng ta khi đã hiểu giáo lý của Đức Phật rồi sẽ sẵn sàng
chấp nhận, không có gì để hối hận cả.
Hai mươi lăm năm qua
tôi đã thể hiện trọn vẹn một tấm lòng cho con người, cho quê hương và cho
đạo pháp và tôi mong rằng những tình cảm ấy vẫn còn gắn bó keo sơn để
chúng ta người xuất gia và tại gia sẽ nương tựa vào nhau mà tồn tại, cốt
làm sao cho giáo pháp của Đức Phật càng ngày càng phát triển nhiều hơn ở
nhiều khía cạnh khác nhau ngay cả trong cộng đồng người Việt cũng như
người Đức. Được như vậy quả là một phước báu vô cùng.
---o0o---
Mục Lục |
Chương I
|
Chương II
|
Chương III |
Chương IV
Chương
V |
Chương VI |
Chương VII
|
Chương VIII