TỪ SỰ
SUY VONG CỦA PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ,
NGHĨ
VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Nhất Thanh
---o0o---
… Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế
kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích
và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật
giáo Ấn Độ không đơn thuần suy vong bởi những phá hoại ấy mà do chính
những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật…
Phật giáo ví như những bó mạ được gieo trên mảnh ruộng Ấn Độ. Những cây mạ
non được nhổ đi cấy trên nhiều mảnh ruộng khác và đã tạo ra rất nhiều đồng
lúa trĩu hạt, thế mà trên mãnh ruộng gốc kia, mạ lại chẳng cho được hạt
nào. Nghĩ như thế cũng có phần hời hợt, bởi vì kỳ thực nhân sinh quan Phật
giáo đã ăn sâu vào đời sống, nếp ăn nếp nghĩ của người Ấn Độ đến mức khiến
cho người vội vàng khó nhận ra được nó. Người ta gọi đó là thứ văn hóa
chiều sâu (deep colture), còn sự phát triển trên bề mặt
(surface development) của Phật giáo Ấn Độ đến nay gần như tuyệt diệt.
Những người chủ của các đồng lúa trĩu hạt kia (như người Nhật Bản, Trung
Hoa, Thái Lan, Sri Lanka, Myanmar, Tây Tạng…) và cả những người mới nhân
giống trên mảnh đất mầu mỡ của họ (như các nước Âu Mỹ) đang đem những hạt
giống Phật giáo về gieo lại trên mảnh ruộng Ấn Độ. Nghĩa cử đó có thể là
biểu hiện của lòng nhớ nguồn nhớ cội, cũng có thể vì người ta hiểu rằng,
trên xứ sở tâm linh kia, xứ sở có một nền văn hóa lâu đời nhất thế giới,
có những con sông dài nhất thế giới, có những vĩ nhân lớn nhất thế giới,
cội nguồn của mọi tôn giáo triết học, chắc chắn hạt giống Phật giáo sẽ lại
ươm mầm mạnh mẽ nếu người ta biết chắt lọc, phân định, không để chúng lẫn
lộn với những hạt giống khác, và không để những thứ cỏ dại làm ảnh hưởng
đến hạt giống hiền hòa kia.
Trước khi tôi đi Ấn Độ, một người bạn đã bảo tôi rằng: “Đi Ấn Độ mà làm
gì! Phật giáo chẳng còn gì ở đất nước ấy cả”. Nhưng khi thong thả chu du
các vùng Nam-Bắc Ấn, tôi chợt nhận ra rằng vẫn chưa có một định nghĩa
chính xác về Ấn Độ, bởi vì Ấn Độ là một đất nước có nhiều tầng văn hóa
trong một không gian và thời gian. Nếu bạn thử dạo chơi vào một buổi chiều
ở thành cổ Ba La Nại (Vanares) hay Calcutta, bạn sẽ cảm thấy vô cùng thú
vị, khi trên cùng một đường phố dọc bờ sông Hằng (Ganga), những ngôi thành
cổ bên cạnh những tòa cao ốc cực kỳ hiện đại, trong khi bên dưới vẫn còn
những người sống một đời sống cây cỏ như cách đây mấy ngàn năm. Trên đường
còn nguyên vẹn những đường ray xe điện với những chuyến tàu ngang dọc có
thời thuộc địa Anh, trong khi dưới lòng đất là cả một hệ thống metro hiện
đại chằng chịt. Những gã nhà giàu bụng bự bóp còi xe inh ỏi chở những cô
gái mang sắc phục Hồi giáo phủ voan đen kín mặt; những đạo sĩ Hindu tay
khoát nước sông Hằng hướng về phía mặt trời cầu nguyện; những chàng trai
đạo Sikh tóc dài bới cao bởi một chiếc khăn; những chú bò đi nghênh ngang
trên đường phố đông người; những chàng Tây ba-lô lội vào các hàng quán mua
vải lụa Kasia dệt bằng máy dệt thô sơ thời trung cổ; những người kéo xe
tay, chiếc xe chri có hai cần và hai chiếc bánh to hơn bánh xe bò; và cả
những giáo sĩ đạo Kỳ na (Jainism) lõa lồ ngang nhiên trên đường phố… Tất
cả đều ở trong cùng một không gian, một thời gian … Ấn Độ.
Với những thứ người ta nhìn thấy được, đúng là Phật giáo không còn ở Ấn
Độ, ngoài Tứ động tâm (bốn thánh tích Phật giáo quan trọng) và những hang
động vùng Nam Ấn. Nhưng ngắm nhìn một cách kỹ lưỡng hơn, ta thấy Phật giáo
đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ ba
trước Tây lịch, có một vị vua tên A Dục (Akosa) đã kính ngưỡng Phật giáo
và sắc ban những đạo luật quan trọng. Rất nhiều ảnh hưởng của Phật giáo
qua vị vua này vãn còn hiện diện, như việc hết sức hạn chế không phá hoại
cây rừng, không bắn giết chim thú, thiết lập những bồn nước uống cho người
qua đường dọc các thành phố… Ngày nay, giữa thủ đô Delhi vẫn còn một mảng
rừng nguyên sinh, và người ta tôn trọng cây cối đến nỗi trên một đoạn
đường cao tốc vẫn còn những cây cổ thụ chắn ngang gtiưa đường mà không bị
đốn phá, chim thú vẫn sống xen lẫn với người, khách bộ hành không có tiền
dù đi khắp thành thành thị thôn quê vẫn không sợ khát. Đó là nói về văn
hóa vật thể, còn văn hóa phi vật thể của Phật giáo trong đời sống người
dân Ấn Độ thì rất sâu đậm như: thái độ trước cái chết, tình hiền hòa hỷ
xả, niềm tin sâu sắc vào đời sống tâm linh, xem thường vật chất, thích ăn
chay, kiêng rượu thịt…, tất cả hòa quyện vào với văn hóa Hindu, khiến
chúng ta khó lòng nhận ra màu sắc Phật giáo. Bên cạnh đó, những bữa cơm
thường ngày của người dân Ấn cũng chua dưới bảng hiệu một câu Vegand
Nonveg (chay và không chay). Thức ăn chay hầu hết dành cho dân bản xứ,
thức ăn mặn dành cho du khách. Điều ngạc nhiên nhất của tôi là khi đi vào
bất kỳ quán ăn nào ở Ấn Độ cũng thấy có sẵn đồ chay.
Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế kỷ thứ
tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích và giết
sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật giáo không
phải do suy vong ở Ấn Độ bởi những người phá hoại Phật giáo, mà do chính
những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật.
Đạo Hindu được xem như là quốc giáo của Ấn Độ, có truyền thống từ mấy
nghìn năm, trước cả khi Đức Phật ra đời. Khi còn là một thái tử, Đức Thế
Tôn cũng từng được học Tứ Phệ-đà, thánh điển của Bà La Môn. Một số quan
niệm của Phệ-đà (Veda) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) vẫn còn dấu ấn trong
kinh điển Phật giáo. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo và giáo hóa ở Ấn Độ,
người Ấn, đặc biệt là người theo Bà La Môn đã xem Đức Phật như một vị thần
trong tín ngưỡng của họ. Và người ta vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật như
thờ lạy một vị thần linh. Trong khi quan niệm của Bà La Môn là hữu ngã,
thế giới này do Brama sáng tạo ra, thì Đức Phật lại chủ trưong vô ngã, vạn
pháp duyên sinh. Thế rồi người ta chắc lọc hết những tinh ba của văn hóa
Phật giáo - ngoại trừ quan niệm về Ngã - đem vào văn hóa truyền thống của
họ, nhất là hình thức bên ngoài, dần dần được Hindu hóa. Ngay trong những
thánh tích Phật giáo quan trọng như Tứ động tâm, người ta dựng cả một đền
thờ Hindu phía trước, họ đem cả Linga vào đặt trước điện Phật, rồi hàng
ngày, bao nhiêu người lũ lượt vào lạy lục cầu nguyện, và thờ Phật theo
quan niệm Hindu.
Văn hóa có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là khi văn hóa được duy trì bằng
phương cách bảo thủ thì không có sức mạnh nào có thể phá hủy được. Những
thánh tích Phật giáo bị Hồi giáo phá hủy có thể xây dựng lại được, nhưng
văn hóa Phật giáo đã được Hindu hóa rồi thì khó nhận ra.
Từ văn hóa Phật giáo Ấn Độ, liên hệ đến văn hóa Phật giáo Việt Nam, xem
ra, với những gì người ta thấy được, Phật giáo Việt Nam cũng là một trong
những nước Phật giáo mạnh nhất thế giới.
Ở Việt Nam hiện tại có đa số dân là Phật tử hoạc tự nhận mình là Phật tử,
theo đạo Phật, khoảng 35 nghìn tu sĩ, gần 15 nghìn chùa chiền có mặt khắp
phố cùng quê. Dân tộc Việt Nam nói có tới 4.000 năm văn hiến, nhưng những
gì còn được ghi lại thực chất chỉ hơn 2.000 năm. Và ngót khoảng thời gian
ấy là có sự hiện diện của Phật giáo. Nếu không có nền văn hóa Phật giáo ăn
sâu vào tâm hồn người dân Việt, dân tộc Việt Nam hẳn đã bị Nho hóa một
cách cứng nhắc bởi 1.000 năm Bắc thụôc rồi. Thậm chí nếu không có văn hóa
Phật giáo với khả năng dung hòa và uyển chuyển, bản đồ Việt Nam cũng có
thể đã thuộc về phương Bắc. Nói như thế không phải là quá đáng, bởi vì
chúng ta bị họ đô hộ, chúng ta dùng ngôn ngữ văn tự của họ, sống theo nhân
sinh quan của họ. Nhưng có nhiều cuộc đại thắng phương Bắc của dân tộc ta
là do chính những triều đại, những ông vua Phật giáo, hoặc những ông vua
trị quốc dưới sự cố vấn của các nhà sư Phật giáo làm nên. Điều ấy là lịch
sử hiển nhiên không cần bàn cãi. Thế thì việc bảo tồn, phát huy văn hóa
Phật giáo là việc làm quan trọng để duy trì và phát triển văn hóa dân tộc,
sự tồn sinh của dân tộc. Sự bảo tồn và phát huy ấy phải nằm trong một
chiến lược lâu dài, cả vĩ mô lẫn vi mô, bằng ý thức của chính những người
lãnh đạo và khắp nhân dân.
Với văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện đại, nếu nhìn từ sự suy vong của Phật
giáo Ấn Độ, hẳn có nhiều điều để chúng ta suy ngẫm. Chúng ta tự hào là một
nước Phật giáo mạnh, nhưng thực chất nó đang mạnh trên bề mặt, còn chiều
sâu văn hóa đã dần cạn đi bởi rất nhiều lý do chủ quan và khách quan. Nếu
không khôi phục và phát huy chiều sâu văn hóa thì Phật giáo Việt Nam rồi
cũng sẽ suy vong bởi chính những người đang thờ lạy hoặc cổ xúy Phật giáo.
Đứng về mặt văn hóa vật thể mà đại biểu là kiến trúc và các thánh tích
Phật giáo, nếu chỉ so sánh với Ấn Độ thôi, chúng ta cũng chỉ là một cành
cây trụi lá giữa đồng hoang so với mảng rừng trù phú ở Ấn Độ. Ngoài Tứ
động tâm được xem là di sản văn hóa lớn của nhân loại, Ấn Độ còn có vô số
những di chỉ quan trọng khắp vùng Nam Ấn như Đại tháp Sanchi, quần thể
hang động Phật giáo giáo ở Aurangabad (như Ajanta, Ellora), Hyderabad,
Mumbai, Puné, Nagajruna v.v… Đó là những kỳ quan thế giới được tạo dựng
trên hai ngàn năm, trải qua nhiều thế hệ, bảo lưu vô số những công trình
hội họa, điêu khắc và đặc biệt là linh khí hội tụ từ lịch đại Tổ sư Phật
giáo. Hàng ngày, có hàng triệu lượt du khách từ khắp mọi nơi trên thế giới
đến chiêm bái, cầu nguyện và tham quan du lịch. Du lịch Ấn Độ là du lịch
tâm linh. Hành hương chính là hồi hương về những miền đất thánh của tâm
hồn. và điều làm tôi ngạc nhiên nhất là những du khách đến tham quan những
di tích Phật giáo Ấn Độ nhiều nhất là những người đến từ một cường quốc
kinh tế thế giới: Nhật Bản. Đất nước Nhật như chiếc thuyền con giữa đại
dương, họ hiểu hơn ai hết khi một chiếc thuyền bị nghiêng một bên thì nó
sẽ bị chìm. Nên một mặt họ phát triển kinh tế, một mặt họ tạo điều kiện
cho dân đi du lịch tâm linh khắp thế giới, hấp thụ tinh ba của nhân loại
về làm giàu cho văn hóa của họ. Chính Suzuki, một học giả người Nhật nổi
tiếng thế giới đã từng nói; Xã hội giống như một chiếc ghế ba chân, nếu cứ
kéo dài cái chân ghế kinh tế và khoa học kỹ thuật trong khi hai chân ghế
đạo đức tâm linh và thuần phong mỹ tục ngày càng ngắn lại thì chiếc ghế sẽ
mất thăng bằng, sẽ ngã đổ. Đó là những bài học quý báu trên chiến lược
phát triển văn hóa dân tộc. Ở Việt Nam, những kiến trúc Phật giáo hàng
ngàn năm còn lại chỉ là một vài, một phần do binh lửa chiến tranh, một
phần do chính con người phá hoại. Ngày nay người ta cũng có ý thức bảo
tồn, nhưng không hoàn toàn vì mục đích Phật giáo. Hàng ngày có hàng triệu
người Việt Nam đến các chùa lễ Phật, nhưng được bao nhiêu người lạy Phật
theo tinh thần Phật giáo? Sách báo thời đại thông tin lan tràn, nhưng
những gì viết về văn hóa Phật giáo hoặc đạo đức tâm linh chỉ như muối bỏ
biển. Đó là chưa nói đến sự tấn công từ nhiều mặt, sự tiếp nhận văn hóa
phương Tây một cách thiếu chọn lọc đang làm băng hoại văn hóa bản địa, héo
úa tình thương, bào mòn tính nhân bản. Để bảo tồn và phát huy văn hóa Phật
giáo, người viết xin góp vài ý kiến nhỏ nhoi:
- Đối với những di chỉ Phật giáo, hãy dành cho nó một vị trí khang trang,
xứng với tầm vóc của nó, tạo một không khí du lịch tâm linh rộng rãi.
- Khơi dậy truyền thống dân tộc, niềm tự hào dân tộc bằng chính trí tuệ,
tình yêu và tâm hồn người Việt.
- Tổ chức các đoàn thể sinh hoạt văn hóa trên cơ sở giáo lý Phật giáo,
giúp thanh thiếu niên có môi trường sinh hoạt, vui chơi giải trí lành
mạnh.
- Đăng tải trên phương tiện truyền thông đại chúng những tác phẩm, những
bài khảo cứu, bài viết có nội dung hướng về đạo hiếu nguồn ân, tránh xa
những văn hóa dục lạc, đồi trụy.
- Bồi dưỡng nhân tài, dành mọi ưu tiên cho những con người và tổ chức có
khả năng hướng đạo tâm linh.
Như trên chỉ là vài ý kiến, vi góc nhìn, mục đích chỉ là góp phần nhỏ bé
vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc,
làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội phồn vinh theo phương châm của Nhà
nước đã đề ra.
Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo số 5 (6/2005)
---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang. Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-12-2005