Mai là một loài hoa đặc biệt chỉ
khoe sắc thắm khi tiết trời quang đãng và ấm áp. Vì thế, nó
được dân tộc Việt nam yêu quí như một người bạn thân thiết,
không thể thiếu vào dịp lễ hội Tết cổ truyền của dân tộc .
Ngoài nét đặc biệt đó ra, nó còn là một biểu tượng của sự
vươn dậy sau giấc ngủ co mình trong những ngày tháng ảm đạm và
giá rét của Thu Đông.Khi nhìn thấy sắc vàng tươi thắm của hoa mai
người ta còn liên tưởng rằng, nó đồng hành với mùa xuân vào
dịp xuân sắp đến, đang đến hay mới đến. Mang lại vui tươi, hạnh
phúc, mai mắn, dồi dào, thịnh vượng,sức khoẻ, trẻ trung
Mùa của sức sống rừng rực dâng lên khiến cho
lòng người hân hoan thư thới và lạc quan yêu đời, yêu người
hơn. Vì vậy, khi mai nở, xuân về là một nguồn cảm hứng bất tận
cho những tâm hồn nhân sĩ, thi sĩ
mặc tình rong chơi hoặc tắm
mình trong thiên nhiên:
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành Lê trắng điểm một vài bông hoa
"
Từ khoảng trời mênh mông nên thơ đó, mỗi người
tự cô đọng cho mình thành những vần thơ bất hủ, những áng văn
trác tuyệt đi vào lòng người như bài thi kệ "Cáo tật thị
chúng" của Mãn Giác Thiền sư:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Đây là một trong những
bài thơ được trong giới nhà thiền hay những văn nhân
thường nhắc lại cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào
những độ xuân về.
Thông thường, hàng
năm khi đưa tay bóc đi tờ lịch cuối cùng trên vách, là
mọi người đều có cùng một ý nghĩ, xuân đã về. Và
cũng lấy đó làm cột mốc thời gian cho ba trăm sáu mươi
lăm lần vòng quay của trái đất, để đánh dấu cho ngàn
lẻ một chuyện như: Hạnh phúc, vui tươi, thành đạt, tủi
nhục, chán nản thất vọng … Nhưng tất cả đều được
gát lại với sự bằng lòng hoặc miễn cưỡng, để hòa
mình cùng sự vươn dậy của trời đất thiên nhiên
đang lay động đến muôn hoa khoe sắc thắm, nghìn lá đâm
chồi nẩy lộc mà mọi người gọi đó là biểu tượng
Kiết tường, và luôn mong mõi nó sẽ kéo dài cho những
ngày sắp tới, để bù lấp cho những điều bất như ý
không trông đợi mà nó vẫn đến! Đó là những ngày
tận hưởng hương vị của xuân hoặc vui cái Tết cổ truyền
của dân tộc. Để rồi sau đó, mọi người lại phải lăng
xăng, tất tả, ngược xuôi cho công việc của mình.
Cảm nhận xuân như
thế là xuân của thời tiết, vui xuân trong nỗi thụ động
của thế thường tình, nên Chế Lan Viên đã gom lại thành
những vần:
"
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem
chi xuân lại gợi thêm sầu
Với
tôi tất cả là vô nghĩa
Tất
cả không ngoài nghĩa khổ đau…"
Quả là, Thi nhân đã
cảm nhận được dòng sinh diệt đang vận hành một cách
tùy thuộc, vay mượn, không có tính độc lập mà con người
là nạn nhân trong guồng quay vô tận đó! Nhưng, chính tác
giả cũng không làm gì hơn, để chia xẻ với những ai có
cùng tâm tư – bâng khuâng, xao xuyến… Phải chăng, trong
cuộc sống này, tất cả chúng ta không ai thoát được
quy luật hiển nhiên khắc nghiệt đó, để phải suốt cả
một đời đuổi bắt câu vó thời gian! Nên ngay cả Thi sĩ
Mãn Giác Thiền Sư cũng để lại rằng:
Xuân đi, trăm hoa rãi
Xuân đến,trăm hoa khai
Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai.
(Thi sĩ Võ Đình dịch)
Không, mới đọc vào
hai câu đầu của Thi kệ, chúng ta đã nghe lạnh cả hư không
và tê buốt cả cõi long, vì cách sử dụng ngôn từ khúc
chiết, dè xẻn để chuyển tải ý. Mặc dù, từ ngữ hết
sức bình dị, đối với những ai ít khi dùng từ Hán-Việt
vẫn có thể hiểu một cách trọn vẹn. Nhưng nó lại mang
ý và tứ thơ vô cùng thâm viễn, chúng ta thử đọc lại
nguyên văn:
" Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai…"
Sự vận hành của
thiên nhiên là thế đấy. Khi xuân đã đi thì trăm hoa rơi
rụng, nhưng khi mùa xuân sẽ đến, đang đến thì trăm hoa
khoe sắc thắm, dưới nắng vàng dìu dịu và vài cơn
gió thoảng đung đưa cành lá. Xuân đến và đi, trong mắt
của Thiền sư là thế – thanh thoát, nhẹ nhàng, bình thản
và an lạc. Cho nên ngay cả:
" Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai …"
Cũng chẳng có gì là vướng
bận tâm hồn. Bởi, Sinh, Trụ, Dị, và Diệt là như thế,
nên cứ bình thản mà sống với hiện hữu. Những việc
qua rồi không nên nuối tiếc, những gì chưa đến thì
đừng mong cầu. Sỡ dĩ, mỗi cá nhân cảm thấy mừng,
giận, thương, sợ, yêu, ghét và muốn luôn bức bách
trong cuộc sống là vì không thể kiềm chế lòng ham muốn.
Nói như vậy, không phải triệt tiêu ý chí phấn đấu vươn
lên của cá nhân trong guồng máy xã hội. Mà ngược lại,
nó mang một chiều hướng tích cực, góp phần cho việc ổn
định, phát triển và đem lại hòa bình Thế giơiù. Bởi
mỗi cá nhân là thành viên của một quốc gia, hay nói rộng
hơn là thành viên của cộng đồng loài người, nên mỗi
cá nhân có hoàn thiện thì Thế giớ mới hòa bình, đó
là điều kiện ắt có và đủ. Chính vì thế, Mãn Giác
Thiền Sư đã khẳng định:
"
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai…"
Để cho chúng ta thấy
rằng, qui luật dời đổi tan thương của Vũ trụ chỉ là
trò đùa đối với những ai đứng bên ngoài
sự vận hành và hiểu rõ từng chuyện đời trước mắt
một cách linh hoạt, tự tại như Vạn Hạnh Thiền sư đã
từng thấy:
Thân
như bóng chớp chiều tà
Cỏ
xuân tươi tốt Thu qua rụng rời
Sá
chi suy thạnh việc đời
Thạnh
suy như hạt sương rơi đầu cành.
(Thích
Mật Thể dịch)
Đối với các ngài
là thế, bình thản trước cảnh biến đổi thời tiết và
bãi bể hóa nương dâu, nên vui buồn, được mất không
làm sao nao núng tinh thần. Trong khi đó, tâm tư của chúng
ta lúc nào cũng đầy ấp bóng dáng của khổ đau, sợ hãi,
lo âu và tránh né sự thật. Vì thế, khi được thì vui,
mất thì buồn. Biệt ly thì đau khổ, gần gũi thì hạnh phúc.
Ai khen thì nở mặt, ai chê thì ủ rũ. Vừa ý thì hân
hoan, trái ý thì cáu giận. Nên khi gặp cảnh biến thiên
của vạn hữu vũ trụ thì ngậm ngùi như Nguyễn Gia Thiều:
"Trải qua một cuộc biển dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…"
Trong khi đó, ngoài
bộ mặt đau thương biến đổi của Vô thường còn có sự
vĩnh hằng, an lạc của tâm thức và ngoại cảnh. Tuy nhiên,
chổ thâm áo này phải trầy trật lắm mới thẩm thấu
được sự thật của vấn đề. Như chúng ta đã đọc
biết bao nhiêu lần bài thi kệ của Mãn Giác Thiền sư, nhưng
vẫn không có được cái thấy tự tại, an lạc và giải
thoát như ngài. Phải chăng, đó chính là mấu chốt của
vấn đề mà ngài muốn nhắn gởi đến chúng ta, hãy tu
tập, thực hành thiền định, sống trong thiền định. Đừng
chạy theo hiện tượng thời tiết và chẻ sợi tóc ra làm
muôn mảnh để tìm sự thật trong đó!
Tóm lại, cành mai còn
sót lại trước sân chùa sau đêm giao thừa với không
khí tưng bừng của ngày lễ hội, hoặc còn sót lại cuối
mùa xuân. Thậm chí, cho đến nó không có thật trong mùa
xuân đó, thì cũng chẳng có gì để chúng ta thắc mắc.
Nhưng chỉ có điều là chúng ta phải ghi nhận là cành mai
đó nó có trong mắt của Mãn Giác Thiền sư, và không
chỉ có khi mùa xuân sắp đến, đang đến mà nó hiện hữu
hằng sát na trong ngài. Bởi vì, ngài đã từng lặng ngắm
thế sự thăng trầm như vậy nhiều năm và trực nhận
triệt để về tính cách bất biến vô sinh của chân tâm,
thấy được bản thể vốn tịch nhiên vắng lặng và bất
sinh bất diệt từ xưa đến nay và mãi mãi về sau cũng
là như vậy. Thì làm gì còn có đến, đi, tàn, phai và
héo úa của một cành mai đối với ngài. Phải chăng, đó
chỉ là cách nói thâm trầm của người Đông phương khi
muốn diễn đạt một vấn đề cho người khác cùng thấy
như mình!
Nhân mùa xuân năm
2000, mùa xuân bắt đầu của một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên đầy hứa hẹn của sự thành tựu khoa học, để
phục vụ cho con người về phương diện vật chất, người
viết mạo muội nói lên một vài cảm nhận qua bài thi kệ
của Mãn Giác Thiền sư để được dịp trao đổi cùng các
bậc thức giả, nhằm mang lại món ăn tinh thần cho dân tộc
nói riêng và cộng đồng loài người nói chung. Đang khi
cầm chung trà, miếng mứt để thưởng thức hương xuân
lan tỏa, chúng ta, đồng thời, cũng nên lẳng lặng cảm
nhận niềm an lạc, trước một mùa xuân mới, mùa xuân
của thời tiết. Nhưng nó lại mang sức sống rừng rực
dâng lên khiến cho lòng người hân hoan thư thới, lạc
quan yêu đời và ngừơi sống vì mọi người, trên tinh
thần vô ngã, vị tha và bình đẳng. Đó là qua bức thông
điệp của Mãn Giác Thiền sư đã gởi cho chúng ta từ
nhiều thế kỷ qua!
Mạc
vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Delhi, 01.11.99