13. Sinh con
Tôi sinh con đầu lòng, con gái, năm 19 tuổi. Tôi sinh đứa con nào cũng
dễ dàng, vì là một nông dân, tôi luôn làm việc chân tay. Trong suốt thời
gian mang thai tôi vẫn làm việc như những lúc khác, kể cả trong ngày
sinh con. Tôi ăn những thức ăn đặc biệt để không mắc bệnh và tôi chưa
bao giờ bị bệnh sản phụ.
Trong thời đó, tất cả những thai phụ cũng là cô đỡ của chính bản thân
mình. Không có chuyện đi tới nhà bảo sinh hay nhờ người khác đỡ đẻ. Chỉ
trong lần sinh con đầu tiên mới có một người hầu gái giúp đỡ tôi sau khi
sinh hạ. Nghe tiếng khóc của đứa trẻ, cô ta đến cắt và cột dây rún. Với
những đứa con khác, tôi tự làm hết. Tôi sinh tất cả các con ở trong
chuồng gia súc, chứ không ở trong nhà.
Thời đó người ta rất kín đáo về chuyện sinh đẻ. Đàn bà không bao giờ nói
cho người khác biết là mình sắp sinh con. Người ta chỉ biết có một đứa
trẻ đã ra đời khi nghe tiếng khóc của nó. Khi sinh con không có lễ nghi
đặc biệt nào, nhưng những người hàng xóm đã đến chúc mừng tôi, tặng quần
áo cho trẻ sơ sinh, mền và bánh mì. Họ cũng cho tôi ăn chè chà là. Một
tháng sau khi một đứa con ra đời, gia đình tôi làm tiệc mừng đầy tháng.
Con gái của tôi được một vị Lạt Ma thường tụng niệm trong nhà đặt tên là
Tsering Dolma. Mỗi tháng chúng tôi mời các vị Lạt Ma đến nhà tụng kinh
cầu an một lần.
Mẹ chồng cho tôi nghỉ làm việc một tuần sau khi sinh đứa con đầu lòng.
Khi tôi sinh mấy đứa con nữa thì bà qua đời, không có ai làm việc nhà,
vì vậy tôi chỉ có thể nghỉ một hay hai ngày rồi cõng con trên lưng để
làm công việc.
Bà Mẹ chồng nổi giận vì tôi đã sinh con gái chứ không sinh con trai, và
cơn giận của bà rơi xuống đầu của chồng tôi. Ông ta an ủi Mẹ của mình
bằng cách nói với bà rằng sinh con gái hay con trai đó là số mạng, không
phải muốn là được, nhưng bà vẫn bất mãn. Anh trai của bà, Đại Sư Taktsen
Rinpoche đã qua đời, bà rất muốn tôi sinh con trai để đứa bé có thể là
hóa thân của vị này.
Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 13
(1878-1933)
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
(sinh năm Ât Hợi - 1935)
14. Một vị Tulku ra đời
Sau khi Đại Sư Taktsen Rinpoche viên tịch, các đại biểu của Tu Viện
Kumbum đến yết kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 để tìm vị “tulku” tức là
hóa thân của vị viện trưởng Tu Viện Kumbum. Khi đến thủ đô Lhasa, họ
thỉnh cầu Đức Đạt Lai Lạt Ma làm một nghi thức “thudam” (bói toán) nhưng
Ngài nói với họ rằng lúc này chưa có vị hóa thân và họ hãy trở lại vào
năm sau.
Năm sau đó phái đoàn trở lại Lhasa. Anh chồng tôi là Ngawang Changchup
đi cùng phái đoàn như là một vị quản lý tài chánh của Tu Viện Kumbum.
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói với họ rằng vị hóa thân ra đời ở gần Kumbum, về
hướng đông, nơi có những con chó đen và ngựa đen. Một người hàng xóm của
tôi đã sinh con trai, và bé trai đó chính là vị hóa thân mới. Nhưng Đức
Đạt Lai Lạt Ma bảo họ đừng tuyên bố hay kết luận gì cả, và hãy trở lại
Lhasa vào năm tới.
Anh chồng của tôi đã bậc khóc vì tin này, vì họ đã đi Lhasa hai chuyến
rồi, và bây giờ họ phải đi một chuyến nữa. Ông ta nói với Đức Đạt Lai
Lạt Ma rằng chuyến đi rất khó khăn đối với họ, vì đường xá xa xôi. Nhưng
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng chưa đến lúc để tuyên bố vị hóa thân mới và
khuyên họ đừng khóc nữa. Anh chồng tôi nghĩ thật kỳ lạ khi Đức Đạt Lai
Lạt Ma không đưa ra một lời quyết định tối hậu, cho dù vị hóa thân mới
đã ra đời.
Trước khi lên đường trở về từ Lhasa, phái đoàn đi chiêm bái ở mấy nơi,
họ mang theo bơ để cúng dường. Tại một trong những nơi này, anh chồng
của tôi nhận thấy ngực áo nhung của mình dính bơ bị tan chảy. Không ai
làm đổ bơ, vì vậy ông ta thắc mắc tại sao có bơ trên áo của mình. Nhưng
ông không cho người hầu rửa những vết nhơ, vì ông cho rằng có thể đây là
điềm báo gì đó.
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Mẹ
Diki Tsering
Khi ông đến gần Tsongkha, các Tăng sĩ ở Tu Viện Kumbum đến tiếp đón ông
và ông hỏi họ về vị hóa thân mới. Họ nói rằng đứa trẻ đó đã chết rồi.
Lúc bấy giờ ông mới thấy sự minh triết của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Rồi ông
hỏi đứa con của tôi đã ra đời chưa và ông vui mừng khi họ cho biết là
tôi đã sinh con trai. Ông nghĩ rằng chắc chắn con trai tôi là hóa thân
của Taktsa Rinpoche. Năm đó tôi được 21 tuổi khi sinh con trai Norbu vào
năm con chó (Nhâm Tuất 1922). Một vị lạt ma đặt tên cho con trai tôi là
Tashi Tsering, nhưng sau đó được đặt tên theo tên của một vị tu sĩ là
Thubten Norbu, nên được gọi là Thubten Jigme Norbu
Năm sau đoàn đại biểu trở lại Lhasa để yết kiến Đức Đạt Lai Lạt Ma một
lần nữa. Ngài đưa cho họ một bức thư được niêm phong và bảo họ chuyển
bức thư của Ngài cho tôi, nói rằng con trai của tôi, Tashi Tserin được
chọn là Taktsen Rinpoche kế tiếp. Đã có 16 ứng viên cho vị trí này, tất
cả đều sinh cùng năm con chó. Những đứa trẻ này là con của những gia
đình mà tôi quen biết, một số là họ hàng, một số là bạn bè. Tất cả những
gia đình của các ứng viên đều được mời đến nhà chúng tôi để nghe lời
phán quyết chính thức. Bức thư được mở ra và lời phán quyết được tuyên
đọc.
Chồng tôi và tôi đều vui mừng. Chúng tôi nghĩ ngay đến bà Mẹ chồng của
tôi, người đã hết sức ước mong có một đứa con trai của chúng tôi là hóa
thân của Taktsa Rinpoche tái sinh. Bây giờ ước nguyện của bà đã trở
thành sự thật. Dù là Cha Mẹ, chúng tôi cũng phải đặt con trai của mình
lên một cái ngai rồi dâng cho con trai những chiếc khăn lễ katag. Chúng
tôi dự tính cho con đi xuất gia, nhưng bây giờ thay vì trở thành một tu
sĩ bình thường, con trai tôi được đưa lên hàng cao cấp của vị Rinpoche
tái sinh. Số mạng đã tử tế với chúng tôi, chúng tôi đã nhỏ nhiều giọt
nước mắt sung sướng. Lúc đó nó vừa được một tuổi.
Khi tôi đang ở Tsongkhapa và mang thai con trai Lobsang Samten thì Cha
tôi qua đời. Sau đó tôi nghe nói Cha tôi bị những kẻ thù nào đó đã đầu
độc ông trong một cuộc đi chơi ngoài trời. Tôi không thể về nhà dự tang
lễ được vì đang mang thai nhiều tháng, nếu đi xa có thể sinh con ở dọc
đường. Sau khi Cha tôi qua đời được 5 ngày, con trai tôi đã chào đời.
[ghi chú: Mẹ Đức Đạt Lai Lạt Ma, bà Diki Tsering sinh bốn người con
trai trước Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời năm 1935: Tsering Dolma sinh năm
1919; Thubten Jigme Norbu sinh năm 1922, Gyalo Thondrup sinh năm 1928 và
Lobsang Samten sinh năm 1933; hai người con nữa được sinh ra là Jetsun
Pema sinh năm 1940 và Tendzin Choegyal sinh năm 1946. Trong 16 người con
của bà, đây là bảy người con không chết non]
Bà Jetsun
Pema sinh năm 1940 (em gái Đức Đạt Lai Lạt Ma)
Bà Jetsun
Pema sinh năm 1940 (đứng giữa, em gái Đức Đạt Lai Lạt Ma)
Tendzin Choegyal sinh năm 1946 (bên phải) em trai của Đức Đạt Lai Lạt
Ma
Tendzin Choegyal , em trai của Đức Đạt Lai Lạt Ma
(con trai út của bà Diki Tsering)
15. Biển Trí Tuệ
Gần 3 năm sau khi Lobsang Samten ra đời, năm 1935, tôi sinh ra Lhamo
Dhondup, người con trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Chồng tôi bệnh
nằm liệt giường suốt 2 tháng trời trước khi Lhamo Dhondup chào đời. Nếu
cố gắng đứng dậy, ông sẽ thấy chóng mặt rồi bất tỉnh. Ông nói với tôi
rằng mỗi lần như vậy, ông trông thấy mặt của Cha Mẹ mình. Ban đêm ông
không ngủ được và điều này gây khó khăn vì ông làm cho tôi thức trong
khi tôi phải làm công việc vào ban ngày. Lúc đó tôi nghĩ ông chồng chơi
xấu mình, nhưng bây giờ tôi biết là không phải như vậy. Đó chỉ là một sự
kiện trong số một loạt sự kiện kỳ lạ xảy ra trong ba năm trước khi Lhamo
Dhondup ra đời.
Trong khoảng thời gian đó đàn ngựa của chúng tôi phát khùng, lần lượt
từng con một. Khi chúng tôi mang nước đến cho chúng, chúng chạy tới lăn
lộn ở trong nước, chúng không thể ăn uống gì được cả, cổ của chúng cứng
lại và cuối cùng chúng không thể đi được. Tất cả mười ba con ngựa đã
chết hết. Đây là một sự kiện đáng xấu hổ cho gia đình và là một thiệt
hại lớn, vì ngựa là tiền bạc. Sau đó là nạn đói trong ba năm. Chúng tôi
không có một giọt nước mưa, chỉ có mưa đá hủy diệt mùa màng. Mọi người
gần chết đói. Nhiều gia đình phải bỏ đi nơi khác để tìm đất sống. Trong
số bốn mươi lăm căn nhà, rốt cuộc chỉ còn lại mười ba nhà. Gia đình tôi
sống còn chỉ vì được tu Viện Kum Kum giúp đỡ và cung cấp thực phẩm.
Chúng tôi sống bằng đậu và gạo từ trong kho của tu viện.
Lhamo Dhondup được sinh ra lúc sáng sớm, trước khi mặt trời mọc. Tôi
ngạc nhiên khi thấy chồng mình đứng dậy khỏi cái giường và có vẻ như
chưa bao giờ bị bệnh. Tôi nói với ông là mình đã sinh con trai, và ông
trả lời rằng đây chắc chắn là không phải là một đứa trẻ bình thường và
chúng tôi sẽ cho con đi tu. Lúc đó Chushi Rinpoche ở Kumbum đã viên tịch
và chúng tôi hy vọng đứa con mới sinh này là hóa thân của Ngài. Sau khi
Lhamo Dhondup sinh ra, gia đình chúng tôi không có cái chết nào hay
những sự kiện kỳ lạ hoặc xui xẻo nào xuất hiện. Trời đã mưa trở lại và
sự thịnh vượng cũng đã trở lại sau những năm cơ cực.
Bố Mẹ và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14
(Ngài
được Mẹ bồng trên tay)
Ngay từ lúc đầu đứa con này đã khác với những đứa con khác của tôi. Ngài
là một đứa trẻ trầm tư, thích ở một mình trong nhà. Ngài luôn gói ghém
quần áo và những vật dụng nhỏ của mình. Khi tôi hỏi Ngài đang làm gì vậy,
Ngài nói rằng đang chuẩn bị để đi Lhasa và sẽ đưa tất cả chúng tôi đi
cùng. Khi chúng tôi đi thăm họ hàng hay bạn bè, Ngài không bao giờ uống
trà trong một cái chén nào khác ngoài cái chén trà của tôi. Ngài không
bao giờ để cho ai ngoài tôi đụng vào những cái mền của mình, và Ngài
không bao giờ để chúng ở một nơi nào khác mà chỉ để ở cạnh mền của tôi.
Nếu gặp một người gây sự, Ngài sẽ lượm một cái que và đánh người đó. Nếu
có người khách nào của chúng tôi châm thuốc lá, Ngài sẽ nổi giận. Bạn bè
nói với chúng tôi rằng vì một lý do nào đó không rõ, họ sợ Ngài, dù Ngài
còn nhỏ tuổi. Tất cả những điều này diễn ra lúc Ngài mới hơn một tuổi và
chưa biết nói nhiều.
Một hôm Ngài nói với chúng tôi rằng Ngài là người từ trên trời xuống.
Lúc đó tôi nhớ đã có một điềm báo kỳ lạ, đó là một tháng trước khi sinh
Ngài, tôi nằm mộng thấy có hai con sư tử tuyết màu lục và một con rồng
màu xanh bay ở trên không. Chúng cười với tôi và chào tôi theo kiểu Tây
Tạng truyền thống: hai bàn tay đưa lên trán. Về sau tôi được biết rằng
con rồng là Đức Đạt Lai Lạt Ma và hai con sư tử tuyết là vị tiên tri
Nechung (vị tiên tri của quốc gia Tây Tạng) hướng dẫn Đức Đạt Lai Lạt Ma
về nơi tái sinh. Sau giấc mộng này, tôi biết rằng đứa con của mình sẽ là
hóa thân của một vị lạt ma cao cấp nào đó, nhưng tôi đã không dám mơ
tưởng rằng con của mình sẽ là Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Khi Lhamo Dhondup được hơn hai tuổi một chút, phái đoàn tìm kiếm Đức Đạt
Lai Lạt Ma thứ 14 đến nhà chúng tôi ở Taktser. Những vị trong đoàn là
Lobsang, Tsewang, một “Tsedun” (viên chức chính phủ), Khetsang Rinpoche
thuộc tu viện Sera (về sau bị người Trung Quốc tra tấn đến chết) và
những người khác. Họ đến nhà chúng tôi lần đầu tiên vào tháng mười một
hay tháng mười hai, lúc trời đang mưa tuyết lớn. Tuyết phủ trên mặt đất
dầy hơn một thước và chúng tôi đang dọn tuyết khi họ đến. Chúng tôi
không nhận ra người nào trong số họ, chỉ biết rằng họ phải từ Lhasa đến,
nhưng họ không nói cho chúng tôi biết về sứ mạng của họ.
Họ biết nói rành tiếng Tsongkha, vì họ đã ở Tsongkha ba năm để tìm vị
Đức Đạt Lai Lạt Ma. Họ đã được biết rằng họ sẽ tìm thấy Đức Đạt Lai Lạt
Ma vào buổi sáng sớm ở một nơi có toàn mầu trắng. Đoàn người ngừng lại ở
trước cửa nhà chúng tôi và nói rằng họ đang ở trên đường đi tới Sanho
nhưng đã đi lầm đường. Họ xin tôi dành cho họ mấy căn phòng để nghỉ qua
đêm. Tôi mời họ dùng trà, bánh mì và thịt khô. Sáng sớm hôm sau, họ nhất
định trả tiền cho tôi vì tôi đã tiếp đãi họ và ngựa của họ đã được cho
ăn. Họ chào từ biệt rất nồng ấm. Sau khi họ đi rồi, chúng tôi được biết
đây là phái đoàn đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng không bao giờ chúng
tôi nghĩ rằng họ đến nhà chúng tôi với mục đích nào đó.
Ba tuần sau đoàn người trở lại nhà chúng tôi. Lần này họ nói rằng họ đi
tới Tsongkha và xin chúng tôi làm ơn chỉ đường cho họ. Chồng tôi chỉ dẫn
cho họ, và họ đi tiếp. Hai tuần sau họ trở lại lần thứ ba. Lần này
Khetsang Rinpoche cầm hai cây gậy khi ông đi vào hiên nhà chúng tôi, nơi
Lhamo Dhondup đang chơi đùa. Vị Rinpoche đặt hai cây gậy ở một góc. Con
trai của chúng tôi đi tới, để một cây gậy qua một bên rồi cầm cây gậy
kia lên, đánh nhẹ lên lưng của vị Rinpoche và nói rằng cây gậy là của
mình, tại sao Rinpoche lại có nó. Những người trong đoàn đưa mắt nhìn
nhau một cách đầy ý nghĩa, nhưng tôi không hiểu một lời nào trong tiếng
Lhasa mà họ nói với nhau.
Sau đó, khi tôi đang ở trong bếp, uống trà trong cái ‘kang”, Khetsang
Rinpoche đi vô. Tôi nói chuyện với ông một cách dễ dàng vì ông nói thông
thạo tiếng Tsongkha cũng như tiếng Trung Hoa. Khi chúng tôi ngồi ở đó,
Lhamo Dhondup thọc hai bàn tay của mình xuống dưới vạt áo dài bằng lông
thú của Rinpoche và giựt một trong hai cái áo ngắn bằng gấm bên trong mà
ông đang mặc. Tôi mắng con trai mình, nói rằng con đừng có nghịch phá
với vị khách. Cậu bé lại lôi một xâu chuỗi từ trong áo của Rinpoche và
nhất định nói chuỗi hạt đó là của mình. Rinpoche nhẹ nhàng nói rằng ông
sẽ cho cậu một xâu chuỗi mới, vì chuỗi hạt mà ông đang xài đã cũ rồi.
Nhưng Lhamo Dhondup đã đeo chuỗi hạt đó lên cổ của mình. Về sau tôi được
biết xâu chuỗi đó là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tặng cho Khetsang
Rinpoche.
Tối hôm đó chúng tôi được phái đoàn mời đến nói chuyện. Họ ngồi trên một
cái “Rang” ở trong phòng của họ. Ở đằng trước họ là một cái tô đựng kẹo,
hai xâu chuỗi và hai cái trống “damaru” (loại trống nhỏ có hai mặt và có
cán để cầm). Họ mời con trai chúng tôi ăn kẹo. Cậu bé chọn một cây kẹo
đưa cho tôi rồi đến ngồi với họ. Từ lúc nhỏ Lhamo Dhondup đã luôn luôn
ngồi ngang hàng với mọi người, không bao giờ ngồi dưới chân một người
nào, và vì vậy người ta nói tôi làm hư hỏng cậu bé. Rồi cậu bé chọn một
xâu chuỗi ở trên bàn và một cái trống “damaru”. Chúng tôi được biết cả
hai vật này là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.
Các vị khách tặng chồng tôi và tôi một chén trà và mấy chiếc khăn trắng
katag. Họ nhất quyết xin tôi nhận một món tiền như một cách cảm ơn tôi
đã tiếp đãi họ. Khi tôi từ chối, họ nói tôi cứ giữ món tiền đó như một
vật may mắn. Họ nói rằng họ đang tìm kiếm hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt
Ma thứ 14 mà họ biết chắc đã ra đời ở một nơi nào đó ở quận Tsongkha. Họ
nói rằng có mười sáu ứng viên, và họ đã quyết định chọn con trai tôi.
Tối hôm đó Lhamo Dhondup ngồi chơi cùng với họ trong ba tiếng đồng hồ.
Về sau họ nói với tôi rằng họ đã nói chuyện với cậu bé bằng tiếng Lhasa
và cậu bé đã trả lời không gặp khó khăn, dù trước đó cậu chưa bao giờ
nghe người ta nói loại thổ ngữ đó. Sau đó Khetsang Rinpoche nói riêng
với tôi và gọi tôi là Mẹ, rằng tôi có thể phải rời khỏi nhà và sẽ đi lên
thủ đô Lhasa. Tôi trả lời rằng tôi không muốn đi, rằng tôi không thể rời
bỏ khỏi đây mà không có ai trông coi cái nhà này. Ông đáp rằng tôi không
nên nói như vậy, vì tôi sẽ phải đi, khi đến lúc. Ông nói rằng đừng lo
nghĩ gì về nhà cửa của mình, vì nếu tôi đi, tôi sẽ được sống rất tiện
nghi và sẽ không có sự khó khăn nào cả về vật chất. Ông sẽ đi Tsongkha
để gặp viên quan cai trị địa phương, Ma Pu Fang, và nói với ông ta rằng
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ra đời ở Tsongkha và họ muốn đưa Ngài về Lhasa.
Sáng sớm hôm sau, khi họ sửa soạn đi, Lhamo Dhondup nắm áo của Khetsang
Rinpoche, khóc và xin đi theo. Rinpoche an ủi cậu, nói rằng vài ngày nữa
ông sẽ trở lại đón cậu. Rồi ông cúi chào và đặt tay lên trán con trai
tôi. Sau khi gặp Ma Pu Fang, họ trở lại một lần nữa. Họ nói rằng có ba
ứng viên cho ngôi vị Đạt Lai Lạt Ma. Ba cậu bé này sẽ phải đi Lhasa và
một cậu sẽ được chọn dưới bức hình của Tổ Sư Tsongkhapa. Tên của các cậu
sẽ được để trong một cái bình, và với một đôi đũa vàng, họ sẽ chọn tên
của một ứng viên. Sự thật là họ đã chọn con trai của tôi. Một lần nữa
tôi nói rằng tôi không thể đi, nhưng Khetsang Rinpoche thẳng thắn nói
với tôi rằng chắc chắn tôi phải đi Lhasa. Ông khẳng định rằng con trai
tôi là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, nhưng ông bảo tôi đừng nói cho bất cứ
ai biết điều này.
Con trai
Lhamo Thondup
(sau khi được thừa nhận là hậu thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13,
Ngài được đổi tên là Jamphel Ngawang Lobsang Yeshe Tenzin Gyatso)
cùng
Khetsang Rinpoche,
Lobsang & Tsewang.
Bốn ngày sau, bốn người của Ma Pu Fang tới nhà chúng tôi chụp hình ngôi
nhà và gia đình chúng tôi và nói rằng chúng tôi sẽ đi Tsongkha ngày hôm
sau, theo lệnh của Ma Pu Fang. Tôi đang có thai tháng thứ tám và tôi nói
rằng tôi không thể đi được. Nhưng họ nói rằng đó là việc quan trọng và
cưỡng bách. Gia đình của tất cả mười sáu ứng viên đã được gọi đến.
Chúng tôi đã trải qua tám giờ đi ngựa để tới Tsongkha. Trên đường đi tôi
cảm thấy khó chịu, và phải ngừng lại để nghĩ sau mỗi giờ. Ở Tsongkha
chúng tôi được đưa tới môt khách sạn. Chồng tôi và người chú của ông đưa
con trai tôi đến dinh của Ma Pu Fang. Ở đó người ta bảo tất cả bọn trẻ
ngồi trên những cái ghế xếp theo hình vòng cung. Những đứa trẻ khác khóc
và không chịu buông tay cha mẹ của mình, nhưng con trai của tôi, với vẻ
uy nghi so với tuổi non nớt của mình, đi thẳng đến chỗ trống độc nhất
rồi ngồi xuống. Khi bọn trẻ được mời kẹo, nhiều đứa trẻ lấy một nắm đầy,
còn con tôi chỉ lấy một viên kẹo và đưa ngay cho ông chú của chồng tôi.
Sau đó Ma Pu Fang hỏi cậu bé có biết mình đang nói chuyện với ai không.
Không ngập ngừng con trai tôi trả lời rằng mình đang nói chuyện với Ma
Pu Fang.
Ma Pu Fang nói rằng nếu có một vị Đạt Lai Lạt Ma thì đó là cậu bé này,
em trai của Taktse Rinpoche. Ông nói rằng cậu bé này rất khác người, với
hai con mắt lớn, lời nói và hành vi thông minh, và vẻ uy nghi cao so với
tuổi của cậu. Ông cho những gia đình kia đi về rồi nói với chồng tôi và
tôi sẽ ở lại Tsongkha vài ngày. Trong hai mươi ngày Ma Pu Fang đã tiếp
đãi chúng tôi nồng hậu. Vào ngày thứ mười bốn, tôi sinh con và đứa con
này chết non sau đó không lâu. Mỗi ngày Ma Pu Fang cho người mang thức
ăn tới cho chúng tôi, cho ngựa chúng tôi ăn và đưa tiền để chi tiêu hằng
ngày. Ông bảo chúng tôi cứ xem ông như một người bạn. Ông nói rằng chúng
tôi không phải là người thường và không phải là tù nhân của ông, và
chúng tôi sẽ đi Lhasa. Khi nghe ông nói như vậy, chúng tôi rất sung
sướng, nhưng nước mắt của chúng tôi rơi xuống vì chúng tôi vừa vui vừa
buồn. Tôi buồn vì phải xa quê hương và tất cả những gì mình đã quen
thuộc trong ba mươi lăm năm qua. Vừa lo ngại vừa hy vọng, tôi rời khỏi
Tsongkha đi tới một tương lai vô định.
Về sau tôi nghe Ma Pu Fang đòi chính phủ Tây Tạng trả một số tiền thật
lớn đổi lấy việc con trai tôi được cho đi Lhasa. Chính phủ làm theo lời
ông ta để rồi lại bị đòi một món tiền chuộc nữa. Món tiền này được mượn
từ các thương gia người Hồi Giáo đang trên đường đi hành hương đến thánh
địa Mecca, Ả Rập, ngang qua Lhasa, và họ đi cùng với chúng tôi trong
hành trình của chúng tôi đến Lhasa. Tôi cũng nghe nói Ma Pu Fang không
thỏa mãn với món tiền chuộc thứ hai này và đòi chính phủ để lại một con
tin, sẽ được thả ra khi ông ta nhận được tin Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tới
Lhasa an toàn. Vì vậy phái đoàn phải để lại Lobsang Tsewang. Sau đó vị
này trốn thoát khỏi tay của Ma Pu Fang và trở về Lhasa an toàn.
Khetsang Rinpoche cho tôi biết tất cả những việc này. Chồng tôi và tôi
nói với ông rằng họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi nói cho Ma Pu Fang
biết sự thật. Đúng ra họ nên nói với ông ta rằng chúng tôi sẽ đi hành
hương Lhasa, vì như vậy sẽ tránh được những rắc rối này. Rinpoche nhận
lỗi của mình, nhưng ông nói rằng nên nói sự thật, trong trường hợp họ bị
chặn lại trên đường đi.
Tôi đã biết Ma Pu Fang từ hồi còn nhỏ, vì ông ta quen biết hai người anh
của cha tôi. Ông ta thừa kế quyền cai trị từ cha của ông ta. Lúc đó
Trung Quốc đang rối loạn. Cuộc nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và những
người Cộng Sản đang hoành hành. Khi phe Cộng Sản chiếm quyền kiểm soát
Trung Hoa, Tsongkha rơi vào tay họ. Tôi nghe nói Ma Pu Fang trốn đi Ả
Rập, nơi ông làm công việc dạy học.
Lúc đó Ma Pu Fang cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi tới Kumbum, nơi
người ta đang sửa soạn cho chuyến đi Lhasa của chúng tôi. Ông ta tặng
chúng tôi bốn con ngựa khỏe và một cái lều, và nói rằng nếu gặp rắc rối,
chúng tôi phải cho ông ta biết. Tôi vừa sinh con, và theo tục lệ người
đàn bà không được rời khỏi nhà của mình trong vòng một tháng sau khi
sinh nở. Nhưng anh chồng của tôi ở Kumbum bảo tôi rằng đây là trường hợp
đặc biệt và tục lệ này sẽ được du di cho tôi và như vậy việc này sẽ
không vi phạm quy luật đạo đức.
Sáu ngày sau khi tôi sinh con (một con gái chết non không lâu sau đó),
chúng tôi đi tới Kumbum để ở đó ba tuần. Ở Kumbum tôi dùng nhiều thời
giờ may y phục cho mỗi người dùng trong chuyến đi Lhasa. Những người
khác ở tu viện cũng bận bịu với công việc sửa soạn.
Chồng tôi và tôi trở lại Taktser một lần cuối cùng để giải quyết công
việc ở nông trại. Ở đó tôi sửa soạn cỏ và thức ăn cho lừa và ngựa của
chúng tôi. Vì phần lớn đường đi Lhasa là vùng khô cằn, không có người ở
nên phải kiếm nhiều đồ ăn cho mấy con vật. Tôi cũng gói ghém nhiều trà
Tsongkha, bia “chang”, dấm, chà là, trái hồng và y phục mới cho gia đình
mình. Vì đối với chúng tôi Tu viện Kumbum giống như nhà của mình nên
chúng tôi để lại cho Tăng chúng Tu viện tất cả những món đồ quan trọng ở
nhà chúng tôi. Chúng tôi xin họ cầu nguyện cho chuyến đi của chúng tôi,
và chúng tôi mời tất cả họ hàng và người hàng xóm ăn tiệc tiễn hành.
Chúng tôi sắp phải rời khởi nơi đây mãi mãi.
Những người trong gia tộc chúng tôi khóc vì họ nghĩ rằng có lẽ sẽ không
bao giờ gặp lại chúng tôi nữa. Người Amdo chúng tôi nhiều tình cảm và
hay biểu lộ nỗi buồn bằng nước mắt, dù họ tránh than khóc khi người thân
qua đời. Những người thân đi cùng với chúng tôi mấy ngày rồi trở về nhà
của họ. Tôi đã khóc nhiều tới mức mắt tôi bị sưng vù trong ngày khởi
hành. Chúng tôi nghẹn ngào đến nỗi không thể nói với nhau những lời chào
từ biệt.
Sau đó chúng tôi trở lại Kumbum, một hôm có hai tu sĩ đến gặp tôi nói
rằng có tin không tốt: Lhamo Dhondup không phải là vị Đạt Lai Lạt Ma
thật, mà đó là cậu bé ở Lopon. Thực ra họ nói như vậy để trêu chọc con
trai tôi. Khi họ đi khỏi, tôi ngạc nhiên thấy con tôi khóc và thở dài
một cách khổ sở. Khi tôi hỏi tại sao, cậu bé nói hai tu sĩ đó nói không
đúng sự thật; cậu mới chính là Đạt Lai Lạt Ma thật. Tôi an ủi cậu bé và
nói rằng hai người đó chỉ nói đùa như vậy mà thôi. Sau nhiều lời dỗ dành,
cậu bé cảm thấy an tâm hơn.
Tôi hỏi Lhamo Dhondup tại sao cậu lại muốn đi Lhasa nhiều như vậy. Cậu
nói rằng cậu sẽ có nhiều quần áo đẹp để mặc và sẽ không bao giờ mặc quần
áo rách nữa. Cậu luôn luôn ghét mặc quần áo rách và không thích bụi bẩn.
Nếu có một vết bẩn trên giầy cậu cũng không chịu đi đôi giầy đó. Nếu
quần áo có chỗ rách, có khi cậu cố ý xé cho chỗ rách lớn hơn. Những lúc
như vậy tôi lại khuyên bảo cậu, nói rằng tôi không có tiền để mua quần
áo mới cho cậu và cậu đáp rằng khi lớn lên, cậu sẽ cho tôi nhiều tiền.
(trở về
mục lục sách này)
Chân dung cụ bà Diki Tsering
Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và Mẹ
Diki Tsering