Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Tập San Nghiên Cứu


...... ... .


Hội Thảo Quốc Tế
Phật Giáo Trong Thời Đại Mới

 


 

Công cuộc hoằng pháp tại Hoa Kỳ và
những đóng góp của Phật giáo Việt Nam

TT.TS. Thích Trí Hoằng, Đại học Connecticut, Hoa Kỳ

 

Tập thơ “Light of Asia” (Ánh Sáng Á Châu) xuất bản năm 1879 tại Boston, Massachusetts, nói về cuộc đời Ðức Phật của thi hào người Anh Edwin Arnold bằng những lời thơ trang trọng như một đánh dấu về công cuộc hoằng truyền của Ðạo Phật vào Tây Phương nói chung và Hoa Kỳ nói riêng. Tác phẩm ảnh hưởng mạnh tại Hoa Kỳ và Âu Châu, gây nên một phong trào học Phật. Từ đó đến nay tác phẩm đã được tái bản trên 80 lần và tổng cọng trên một triệu cuốn; và cũng đã được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ Âu Châu.

Ở đây chúng ta sẽ bàn về lịch sử hoằng pháp, kinh nghiệm hoằng pháp của các truyền thống Phật Giáo có mặt tại Hoa Kỳ và những đóng của giáo đoàn Việt Nam, cũng như tương lai Phật Giáo tại Hoa Kỳ.

 

1. Quá Trình Hoằng Pháp tại Mỹ:

Tìm hiểu lịch sử Phật Giáo Mỹ chúng ta có thể tạm thời chia làm ba giai đoạn: giai đoạn du nhập trước năm 1879, giai đoạn hình thành từ năm 1879 đến năm 1963, và giai đoạn phát triển từ năm 1963 đến nay.

1.1. Giai đoạn du nhập trước năm 1879:

Ðất nước hoa Kỳ là một xứ sở trẻ trung, được lập quốc vào năm 1776. Phật Giáo đã có mặt tại đây ngay trong những ngày trước khi người da trắng biết đến đại lục này. Những tư liệu về người đầu tiên đã mang Ðạo Phật đến Hoa Kỳ không có nhiều. Tuy nhiên có một sự kiện đáng ghi nhớ. Năm 1761, ông M. de Guignes, một học giả người Pháp đã phiên dịch và phổ biến một tài liệu trong văn khố Trung Quốc về một Tỳ Kheo người Hoa tên là Hwui Shan cùng bốn vị sư khác đến Châu Mỹ năm 458. Ðến năm 1875, Charles G. Leland xuất bản cuốn “Fu-sang on the Discovery of America by Chinese Buddhist Priests in the Fifth Century” (Fu-sang về Việc Khám Phá Châu Mỹ bởi Các Tăng Sĩ Phật Giáo Người Hoa trong Thế Kỷ Thứ Năm) ủng hộ quan điểm của Guignes. Năm 1885, Edward Payson Vining xuất bản cuốn “An Inglorious Columbus” (Một Columbus không được vinh danh) hay “Evidence that Hwui Shan and a Party of Buddhist Monks from Afghanistan Discovered America in the Fifth Century A.D.” (Bằng Chứng về Hwui Shan và Các Tăng Sĩ Phật Giáo từ Afghanistan đã Khám Phá Châu Mỹ vào Thế Kỷ Thứ Năm sau Công Nguyên). Tác giả trích dẫn tài liệu báo cáo của Tỳ Kheo Hwui Shan với chi tiết cuộc hành trình đến Châu Mỹ, về nếp sống của dân bản xứ, về đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, tập quán, tín ngưỡng và kết luận: “Trước đây quốc độ này không biết gì về Phật Giáo, nhưng vào triều nhà Tống năm 458, có năm vị sư từ nước Ki-pin (Kabul, Afghanistan) đã du hành sang nước ấy, mang theo kinh điển, hình tượng và giáo hóa dân chúng quy y theo Phật, từ bỏ thói hư tật xấu.” Vết tích của công cuộc hoằng pháp này được tìm thấy năm 1914 về tảng đá có chạm hình chữ Vạn tại Lakeside Mountains, gần thung lũng San Jacinto, California. Năm 1953, Gordon Ekholm viết bài biên khảo về những tương đồng giữa nghệ thuật Phật Giáo, Ấn Ðộ và Mexico như bệ đá tòa sen, bình bát, mặt trời, rồng, rắn.. Những biểu tượng này xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm, thời điểm mà vị sư Trung Hoa có mặt tại Tân Thế Giới.

Năm 1826, Eugene Bournouf soạn cuốn Essai sur le Pali (Văn Phạm Pali), dịch Kinh Diệu Pháp Liên Hoa sang tiếng Pháp. H.D. Thoreau (1817-1862) dịch Kinh Pháp Hoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Sau đó nhà Ấn Ðộ Học người Hà Lan, ông Kern, đã nghiên cứu và dịch Kinh Pháp Hoa từ nguyên bản tiếng Sanskrit sang tiếng Anh. Ngoài ra những tác phẩm dịch thuật của The Sacred Books of the East (Thánh Thư Phương Ðông) do Max Miller chủ biên, đã gây những ảnh hưởng lớn trong giới trí thức trong việc tìm hiểu văn hóa Á Ðông.

Vấn đề giao lưu giữa Âu Châu và Á Châu có thể bắt nguồn từ xa xưa qua những chuyến buôn bán theo đường tơ lụa, cuộc viễn chinh của Alexandre the Great cho đến chuyến du hành của Marco Polo ở thế kỷ thứ mười ba. Phương Ðông luôn luôn là thế giới huyền bí hấp dẫn. Nhưng từ thế kỷ thứ mười lăm trở đi người Tây Phương đến Á Châu thường xuyên hơn. Họ đến với hai mục đích là chiếm thuộc địa và truyền đạo. Năm 1497, Vasco de Gama đến Ấn Ðộ. Sau đó là đoàn quân xâm lược, các giáo sĩ, thương gia đến Á Châu với huyền thoại “Khai Hóa”. Phật Giáo bị xuyên tạc và nhìn như một tôn giáo ma quỷ. Bồ Ðào Nha chiếm Tích Lan năm 1501 cùng với các giáo sĩ. Họ chủ trương: “Trước hết dùng hình thức giảng đạo để chuyển hóa, nếu không thành công dùng gươm đao.” Kết quả họ đã chém giết dân Sinhalese dã man, đốt phá các tự viện Phật Giáo thành tro bụi. Hà Lan thay thế Bồ Ðào Nha ra đạo luật cấm những người không rửa tội, không được sở hữu tài sản đất đai.

Năm 1549, Francis Xavier đến Nhật. Một hôm ông đến chùa gặp thiền sư Nanjo, một vị sư thông thái và hài hước. Thấy các sư đang thiền, Xavier hỏi: “Các sư đang ngồi nghĩ chuyện gì?” Sư đáp: “Một số đông chúng tôi ngồi tính nhẩm tháng qua nhận được bao nhiêu tiền cúng dường, một số khác tính toán xem mua sắm ở đâu giá rẻ, một số khác nữa tìm kiếm nơi du hí. Nghĩa là họ nghĩ chuyện không đâu!”

Người Pháp cũng đã đưa quân đến Việt Nam năm 1858 với danh nghĩa bảo vệ các nhà truyền giáo Thiên Chúa và đã đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm.

Ngoài những động cơ chiếm đất thuộc địa với những tài nguyên phong phú của các nước Á Châu, tính cách huyền bí và nền văn minh sáng chói của các xứ này cũng là động lực hấp dẫn. Sau đó họ đã khám phá Phật Giáo như một giáo thuyết giác ngộ giải thoát. Những nghiên cứu dịch thuật của các học giả Âu Châu đã khiến Phương Tây thần tượng nền văn hóa Phương Ðông. Họ tìm hiểu văn hóa Á Châu với ba mục đích:

1. phục vụ cho mục đích cai trị,

2. phục vụ cho mục đích truyền đạo,

3. đáp ứng nhu cầu tâm linh vì không thỏa mãn với văn hóa Tây Phương.

Học giả Thomas Rhys Davids là người nổi tiếng về những nghiên cứu dịch thuật văn học Pali. Lúc đầu có mục đích dịch các văn kiện luật lệ phục vụ cho chính quyền thuộc địa, nhưng sau đó ông đã khám phá ra kho tàng kinh điển Pali. Ông ta cũng là người đã sáng lập The Pali Text Society (Hội Nghiên Cứu Pali) năm 1881 và Hội đã phiên dịch toàn bộ Tam Tạng Kinh Ðiển Pali sang tiếng Anh.

Cho mục đích truyền đạo, chúng ta thấy có những tác phẩm xuyên tạc Phật Giáo như “Phép Giảng Tám Ngày” của giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes đã nhục mạ các tôn giáo Ðông Phương như Phật, Khổng và Lão. Nhưng sau đó cũng có những tác phẩm nghiêm túc như: La Traité de la Grand Sagesse (Ðại Trí Ðộ Luận) do giáo sĩ dòng Tên Etienne Lamotte dịch từ nhiều bản ngôn ngữ khác nhau như tiếng Sanskrit, tiếng Hoa, tiếng Tây Tạng, tiếng Nhật.. sang tiếng Pháp trong vòng ba mươi năm, tập đầu xuất bản năm 1949 và tập cuối cùng năm 1979. Lúc ban đầu dĩ nhiên giáo sĩ Lamotte nghiên cứu Phật Giáo không phải để xiển dương Phật Pháp, nhưng mục đích để tìm cách đánh đổ giáo lý nhà Phật và tuyên dương thần học Thiên Chúa. Dần dần những tư tưởng giác ngộ giải thoát của Phật Giáo đã chuyển hóa ông ta từ lúc nào. Tác phẩm này được dịch thuật hết sức công phu và chuẩn xác. Ngoài ra ông còn có những công trình nghiên cứu về lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ. Trong giới nghiên cứu Phật Học tôn xưng ông là tái sinh của một vị Bồ Tát.

Những tác phẩm này đã ảnh hưởng sâu đậm trong giới trí thức, nhất là trong lãnh vực triết lý. Bắt đầu với Arthur Schopenhauer (1788-1860) chịu ảnh hưởng triết học Phật Giáo về Dục. Sau đó là những triết gia khác như Bergson, nhà văn hóa Helena Blavatsky, Rickert, Jaspers, Wittgenstein, Heidegger..

Trong giai đoạn này, Phật Giáo được chấp nhận như một tôn giáo của trí tuệ và khoa học mà sự ra đời của thi phẩm Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu) năm 1879 đánh dấu sự thành tựu văn học lớn lao khi Phương Tây bắt đầu tiếp xúc với Phật Giáo và Phật Giáo trở thành nguồn cảm hứng tâm linh phong phú cho người đương thời.

1.2. Giai Ðoạn Hình Thành từ 1879 đến 1963:

Dưới đây là những sự kiện ảnh hưởng mạnh đến công cuộc hoằng pháp tại Tây Phương: những hoạt động của Ðại Tá H. Olcott, công trình phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh, nổ lực Mỹ hóa đạo Phật của Paul Carus và công trình hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki.

1.2.1. Những hoạt động của Ðại Tá Henry Olcott:

Ông sinh năm 1832 tại New Jersey và mất năm 1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Ông là người có công trong việc hoằng pháp tại Hoa Kỳ, chấn hưng Phật Giáo Tích Lan và đóng góp nhiều công sức trong việc phục hưng Phật Giáo tại các nước Á Châu khác. Năm 1875 ông cùng bà Helena Blavatski thành lập Hội Thông Thiên Học (The Theosophical Society) để học hỏi Phật Pháp cùng các tôn giáo khác và khoa học. Ngày nay Hội trở thành một hội quốc tế với chi nhánh trên 60 quốc gia.

Năm 1880 ông cùng bà Blavatski sang Tích Lan. Lúc đó chính quyền thực dân Anh đang tìm cách khống chế Phật Giáo và các đoàn truyền giáo ngoại quốc đang tìm cách Thiên Chúa Giáo hóa Tích Lan. Trước tình thế đó, cả hai nguyện sẽ làm cái gì để cứu vãn Phật Giáo Tích Lan. Năm 1881 ông và bà Blavatski quy y Tam Bảo. Buổi lễ thật cảm động dưới sự chứng minh của hàng ngàn vị tăng. Ðiều này đã hổ trợ tinh thần mạnh mẽ cho dân Tích Lan trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo. Sau đó hai người đã đi khắp các làng quê kêu gọi thành lập trường học Phật Giáo, nhà xuất bản.. Ông cũng vận động thành lập các trường học Phật Giáo tại các nước khác như Nhật Bản, Thái Lan, Miến Ðiện Ấn Ðộ.. Ông vận động phục hồi lễ rước kiệu Phật trong ngày Phật Ðản, trùng tu chùa chiền. Phật Giáo Tích Lan nhờ thế đã phục hồi trong thời gian ngắn. Năm 1891 ông cùng Ðại Sư Anagarika Dharmapala thành lập hội Mahabodhi để phục hưng Phật Giáo Ấn Ðộ. Với sự hổ trợ của nhiều trí thức người Anh, trong đó có thi hào Edwin Arnold, vận động với chính quyền để yêu cầu trả lại những Phật tích đang nằm trong sự cai quản của một giáo phái Ấn Ðộ.

Năm 1889, ông cùng Thượng Tọa Sumangala, phỏng theo sáu màu hào quang của Ðức Phật đã phác họa ra cờ Phật Giáo. Cờ này được Tích Lan công nhận làm giáo kỳ. Ðến năm 1950 tại Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of Buddhist) lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo, Tích Lan với sự tham dự của 26 nước, lá cờ này được công nhận là cờ Phật Giáo Thế Giới. Phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Hòa Thượng Tố Liên lãnh đạo.

Ông mất năm 1907 tại Adgar, Ấn Ðộ, hưởng thọ 75 tuổi. Suốt 38 năm ròng rã ông đã bỏ hết thời giờ của mình cho công cuộc phục hưng Phật Giáo tại Tích Lan và các nước Á Châu khác.

1.2.2. Việc phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh:

Công việc phiên dịch này do Hội Nghiên Cứu Pali (The Pali Text Society) đảm trách. Hội được thành lập năm 1881. Hội trưởng là ông T. W. Davids. Hội đã quy tụ được nhiều học giả Pali và tiến hành công cuộc dịch thuật. Sau khi ông Davids qua đời, vợ ông đảm nhận chức vụ hội trưởng và tiếp tục công cuộc nghiên cứu và dịch thuật. Ngày nay tạng kinh Pali đã được dịch sang Anh ngữ. Những kinh sách bằng tiếng Anh này đã giúp cho giới trí thức phương tây có phương tiện đi sâu vào giáo lý Phật Ðà.

1.2.3. Nổ lực Mỹ hóa đạo Phật của Paul Carus (1852-1919):

Paul Carus là một Phật tử gốc Ðức, con của một mục sư Tin Lành. Sau khi tốt nghiệp tiến sĩ ngôn ngữ học, ông ta thất vọng với truyền thống Cơ Ðốc Giáo và mất niềm tin. Ông sang Mỹ và sống tại New York, giúp việc cho một tờ báo tiếng Ðức. Năm 1893 tại Ðại Hội Tôn Giáo Thế Giới (The World Parliament of Religions) tổ chức ở Chicago, Paul Carus có cơ hội tiếp xúc học hỏi với các cao tăng thạc đức Phật Giáo, ông ta đã khám phá đạo Phật và từ đó đã phụng sự đạo Phật với tất cả lòng hăng say và nhiệt thành của mình. Với ông Phật Giáo là con đường đúng đắn để phát triển tâm linh, là tôn giáo dựa vào lý trí, thực nghiệm và khoa học. Năm 1894, Carus sáng tác Gospel of Buddha (Phúc Âm của Phật) và Karma (Nghiệp) với mục đích hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật hòa vào văn hóa tư tưởng Tây Phương. Với 38 tác phẩm ông đều nhắm đến mục đích chứng minh cho người Tây Phương thấy giá trị của đạo Phật trong vấn đề đáp ứng nhu cầu tâm linh mà người Tây Phương đang cần đến.

Năm 1899, Paul Carus đã viết cho Daniel C. Beard, giáo sư mỹ thuật tại New York, đề nghị tạc một pho tượng Phật với đức tính từ bi độ lượng của Á Ðông và với đặc tính giản dị, sống động của nghệ thuật Tây Phương. Carus dùng âm nhạc Victorian để soạn kịch, sám nguyện Phật Giáo cho các buổi lễ.

Carus đã không ngần ngại sử dụng những hình thức Cơ Ðốc Giáo quen thuộc với người Tây Phương để chuyển tải triết lý và phương pháp tu trì của đạo Phật. Ông nhìn thấy bản tính Ðức Phật A Di Ðà của Tịnh Ðộ Tông có thể thay thế hình ảnh Thượng Ðế hữu hình: “A Di Ðà là trật tự thế giới, là chân lý tuyệt đối có thể điều hành luật tiến hóa..”

Trong ước muốn phổ cập đạo Phật với quần chúng Hoa Kỳ, ông đã bảo trợ cho đại sư Dharmapala sang Hoa Kỳ hoằng pháp trong nhiều năm, cũng như hổ trợ công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki.

1.2.4. Công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki (1870-1966):

Thiền sư Suzuki đến Mỹ năm 1897, tá túc tại nhà Paul Carus 11 năm. Hai người đã hợp tác phiên dịch nhiều kinh sách sang tiếng Anh và tiếng Nhật. Giới thiệu tư tưởng Ðông Phương và Phật giáo đến với giới trí thức Phương Tây. Năm 1911, Suzuki thành hôn với Beatrice Erskine Lane, hội viên Hội Thông Thiên Học. Hai vợ chồng hợp tác nhau xuất bản đặc san The Eastern Buddhist (Phật Tử Phương Ðông). Suzuki viết nhiều sách về Thiền, phiên dịch các kinh điển Ðại Thừa. Những tác phẩm của ông ta như những luồng gió mát, đem lại những sinh khí mới cho giới trí thức phương Tây. Trong thế kỷ 19, Âu Mỹ biết nhiều đến Phật Giáo Nam Truyền nhờ sự phiên dịch kinh Pali của Hội Pali Text Society, còn sự hiểu biết về Ðại Thừa rất khiêm nhường vì chỉ có vài cuốn kinh được dịch ra ngôn ngữ Âu Châu mà thôi. Do đó khi những cuốn sách của Suzuki viết về Thiền, cũng như Phật Giáo Bắc Truyền đã đưa tâm thức Tây Phương tiếp xúc với chân trời mênh mông của Ðại Thừa. Tinh thần phóng khoáng, tự do, vô chấp, giải thoát của Thiền đã gây hứng thú kinh ngạc cho độc giả Âu Mỹ, giúp họ tìm thấy lối thoát trong sự khủng hoảng của triết học và thần học Tây Phương trước sự phát triển của khoa học. Những cuốn sách của Suzuki rất được mọi giới trân trọng và tạo nên một phong trào học Thiền trong những thập niên 50 và 60. Danh từ Zen (Thiền) được Suzuki giới thiệu và trở thành danh từ phổ biến đồng nghĩa với chữ Phật Giáo vì người Tây Phương khi nói đến Phật Giáo người ta chỉ biết đến Thiền. Suzuki giảng dạy Phật Pháp và Thiền tại Ðại Học Columbia và nhiều trường đại học khác, gây ảnh hưởng rất mạnh với Carl Jung, Kaen Honey, Erich Fromm, Martin Heidegger, Thomas Merten, Allen Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Gary Snyder. Lynn White Jr., một sử gia, đã tán dương Suzuki là người đã giúp Tây Phương phá vỡ bức thành ngăn cách, vượt qua những hạn hẹp khu vực để phóng tầm nhìn ra chân trời bao la của thế giới.

Trong giai đoạn này, người Tây Phương đã tiếp xúc với Phật Giáo qua kinh điển. Nhiều kinh sách Nam Truyền và Bắc Truyền đã được phiên dịch. Những tư tưởng thâm sâu của triết học Phật Giáo đã làm cho người Tây Phương sửng sờ thích thú. Trên phương diện trí thức có thể nói Phật Giáo đã ảnh hưởng đến văn hóa Tây Phương trên nhiều phương diện từ văn chương đến khoa học nghệ thuật. Ngoài những triết gia chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo, chúng ta còn thấy những tác phẩm văn học đã xuất hiện. Sự ra đời của tác phẩm văn học đoạt giải thưởng Nobel Sidhartha của Herman Hesse đánh dấu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo như một nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật.

Cũng trong giai đoạn này, sự kiện những công nhân Trung Hoa sang làm đường xe hỏa tại Mỹ cho công ty Central Pacific từ những năm 1860 đã góp phần không nhỏ vào công cuộc hoằng pháp tại đây.

1.3. Giai Ðoạn Phát Triển từ 1963 đến nay:

Dấu mốc 1963 là một thời điểm quan trọng bắt đầu giai đoạn phát triển của Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Năm 1963 có một sự kiện làm thế giới bàng hoàng xúc động, đó là sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại Sài Gòn để cầu nguyện cho hòa bình và công bằng xã hội. Hình ảnh một vị sư ngồi kiết già an nhiên tự tại trong ngọn lửa hồng, đã chứng minh sức mạnh nội tâm của đạo Phật và đã chấn động lương tri nhân loại. Thế giới bắt đầu phản tỉnh.

Cuộc chiến tại Việt Nam càng ngày càng khốc liệt, những hình ảnh tang thương của chiến tranh đã gây nên phong trào phản chiến khắp nơi tại Hoa Kỳ. Kèm vào đó sự khủng hoảng về văn hóa, đạo đức, tâm linh tại Tây Phương trước sự phát triển của khoa học với sự nổi loạn của phong trào sinh viên, phong trào hippies trong những thập niên 60 chống đối lại những giá trị cổ điển, chống đối lại quyền lực xã hội đương thời trong ước muốn xây dựng một trật tự xã hội mới. Những cuộc cách mạng của giới trẻ thực hiện trong những cuộc biểu tình phản chiến tại Woodstock, tiểu bang New York cũng như khắp nơi trên nước Mỹ; phong trào nhạc trẻ với ban nhạc Beattles chịu ảnh hưởng đạo học Ðông Phương đã làm thay đổi tận gốc rễ xã hội Hoa Kỳ. Trước những xáo trộn xã hội, tâm trạng hoang mang cùng cực của con người, những giá trị đạo đức đảo lộn, những giáo điều bị sụp đỗ, đạo Phật có mặt như một giải đáp.

1.3.1. Các vị đạo sư:

Cũng trong thời gian đó, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng đã rời thủ đô Lhasa năm 1959 cùng với mấy trăm ngàn dân Tây Tạng sang tỵ nạn tại Ấn Ðộ. Sự có mặt của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và chư tăng Tây Tạng đã đóng góp tích cực cho sự phát triển đạo Phật tại Phương Tây.

Chưa bao giờ mà nước Mỹ có nhiều bậc đạo sư phương Ðông, nhiều cao tăng thạc đức Phật Giáo đến giảng dạy như giai đoạn này. Các vị như: Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Hòa Thượng Tuyên Hóa, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, Thiền Sư Sungsan.. Trong giai đoạn này chú tâm nhiều vào sự tu tập. Rất nhiều trung tâm tu tập được thiết lập lên khắp nơi với những khóa tu từ một hai ngày đến hàng tuần, hàng tháng hay nhiều năm liên tục. Nếu trong giai đoạn trước đạo Phật được biết đến trên phương diện kiến thức thì giai đoạn này Phật tử Mỹ đã chú trọng vào sự thực tập.

Sự tu tập Phật Giáo không những đem lại sự an vui giải thoát cho mai hậu, và đem lại an lạc cho cuộc sống hiện tại. Cuộc sống tại Mỹ quá căng thẳng do đó những khóa tu đã đem lại sự thư giản, quân bình cho đời sống tâm lý, con người cảm thấy lạc quan hơn và tỉnh táo hơn sau những khóa tu, cũng như cảm nhận được những niềm vui sâu sắc trong lúc thiền tập. Vì lẽ đó mà những trung tâm tu tập lúc nào cũng đông người tham dự. Những áp dụng thiền tập vào khoa tâm lý trị liệu càng ngày càng phổ biến và đã mang lại những kết quả khả quan. Có những bệnh viện đã áp dụng thiền tập để chữa trị nhưng bác sĩ không nói đó là thiền vì muốn tránh đi những thành kiến tôn giáo trở ngại cho công cuộc điều trị.

1.3.2. Giới Trẻ:

Ðạo Phật đã hấp dẫn giới trẻ Hoa Kỳ với nhiều lý do:

- Không thỏa mãn với truyền thống tôn giáo cố hữu

- Tinh thần tự do, phóng khoáng, khoan dung của đạo Phật

- Các nhạc sĩ đã dùng phương tiện âm nhạc để quảng bá đạo Phật.

- Những phim ảnh của Hollywood đã thực hiện về những đề tài Phật Giáo: Little Buddha, Seven Years in Tibet, Kundun..

- Những ca sĩ nổi danh, các tài tử thượng tặng là những Phật tử thuần thành như: Richard Geere, Tina Turner..

- Ảnh hưởng của những vụ loạn dâm của các linh mục.

1.3.3. Từ Thiện Xã Hội: 

Ðạo Phật Hoa Kỳ đã nhập thế với những hoạt động xã hội như:

- The Buddhist Alliance for Social Engagement (Liên Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã Hội): các thiện nguyện viên làm việc trong các bệnh viện, nhà tù, giúp người vô gia cư..

- Greyston Mandala: đuợc thành lập bởi thiền sư Bernard Glassman tại thành phố New York để giúp những người vô gia cư. Họ có những lò bánh mì để tạo công ăn việc làm, những khu nhà cho người vô gia cư trú ngụ..

- Zen Hospice Project: giúp những người sắp qua đời được chết trong bình an.

1.3.4. Ðào Tạo:

Ý thức rằng công việc truyền thừa là nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì và Phát huy Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Các truyền thống đều có những chương trình đào tạo, nhưng chỉ có tính cách nội bộ. Có một vài trung tâm có những chương trình đào tạo quy mô:

- Barre Center for Buddhist Studies: tổ chức mỗi năm hai tuần tu học.

- Ngoài ra còn có Ðại Học Phật Giáo Naropa tại Boulder, tiểu bang Colorado; Ðại Học Phật Giáo Tây Lai Tự ở Los Angeles, California; Ðại Học Phật Giáo Dharma Realm University tại Talmage, California; Phật Học Viện Làng Mai, Pháp. Các đại học lớn của Mỹ như Harvard, Yale, Columbia, Berkeley, Wisconsin.. đều có chương trình Phật Học.

Trong giai đoạn này đạo Phật thật sự bén rễ vào xã hội Hoa Kỳ. Các truyền thống Phật Giáo đều có mặt tại Mỹ với những đóng góp tích cực trong công cuộc hoằng truyền Phật Pháp. Ngoài những cộng đồng người Hoa, còn có các cộng đồng Á Châu khác của người Nhật, Tây Tạng, Việt, Thái, Lào, Cam Bô Chia, Miến Ðiện, Tích Lan, Triều Tiên.. với những sinh hoạt cá biệt đã làm cho Phật Giáo Mỹ có những màu sắc phong phú.

 

2. Kinh Nghiệm Hoằng Pháp của Các Truyền Thống Phật Giáo tại Hoa Kỳ:

2.1. Truyền Thống Theravada:

Nam Truyền Phật Giáo đã đến Hoa Kỳ rất sớm. Năm 1893 Ðại Sư Anagarika Dharmapala đã đến Hoa Kỳ hoằng pháp cho đến đầu thế kỷ 20. Tuy có những thuận duyên như kinh tạng Pali đã được dịch sang tiếng Anh, nhưng sau ngài Dharmapala công cuộc hoằng pháp bị gián đoạn vì thiếu các sư thông thạo Anh ngữ sang hoằng hóa.

Mãi đến năm 1966, The Buddhist Vihara Society of Washington được thành lập. Sau đó các chùa Thái, Miến Ðiện, Tích Lan lần lượt được thành lập. Thiền viện Stillpoint (Tịnh Ðiểm) do một thanh niên người Mỹ thành lập tại San Jose, California năm 1971.

Thiền Vipassana (Minh Sát) đến Mỹ năm 1980 do những người học trò của Thiền Sư Mahasi Sayadaw khởi xướng. Chủ trương không chú trọng nhiều đến hình thức sinh hoạt của Nam Tông như: nghi lễ, tụng kinh, giảng dạy, làm phước.. nhưng chú trọng vào hành thiền để giúp ngườI bớt căng thẳng, khổ đau, thêm tự tin, tăng trí tuệ. Nhóm này do những thiền sư cư sĩ chủ trương. Họ thoát ra khỏi hình thức của Phật Giáo Nam Tông để hoạt động độc lập, chú trọng đến cư sĩ. Có những trung tâm lớn như:

-  The Insight Meditation Society (IMS) tại Barre, Massachusetts, do Joseph Goldstein, Jack Kornfield, Sharon Salzberg điều hành. Trung tâm tổ chức những khóa tu quanh năm, muốn tham dự phải ghi tên và đóng lệ phí trước cả nửa năm vì quá đông người tham dư.

-  Spirit Rock Meditation Center tại Marin, California: đây là chi nhánh của IMS, do Jack Kornfield, James Baraz, Sylvia Boorstein và Anna Douglas.

-  Vipassana Center của S.N. Goenka tại Shelburne Falls, Massachusetts. Trung tâm này thường xuyên tổ chức khóa tu 10 ngày với những kỷ luật khắc khe. Thực tập nhiều hơn giáo lý. Chủ trương không xen lẫn trong sự thực tập với những phương pháp thiền khác.

Sau chiến tranh Việt Nam, những cộng đồng Ðông Nam Á di cư đến Mỹ ngày càng nhiều do đó những ngôi chùa đã được thành lập để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Trên toàn nước Mỹ có khoảng 100 chùa Nam Tông do các Phật tử Thái, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Kam Pu Chia thành lập.

Vì những khắc khe trong vấn đề hành trì nên Phật Giáo Nam Truyền không tồn tại được trong một địa phương không có một cộng đồng Phật Giáo hổ trợ. Do đó tuy đến Mỹ rất sớm nhưng không duy trì và phát triển được. Các sư Nam Tông cũng rất khó khăn trong vấn đề đi lại vì giới luật Nam Tông không cho phép các sư tự nấu ăn, lái xe.. Những người như Jack Kornfield vốn là tu sĩ tại Thái Lan trước đây, nhưng khi về lại Hoa Kỳ không thể tiếp tục được cuộc sống xuất gia, đành phải hoàn tục. Ông cùng với những cư sĩ khác hoạt động Phật sự độc lập với truyền thống Nam Tông.

2.2. Truyền Thống Trung Hoa:

Năm 1848 khi vàng được tìm thấy tại San Francisco, người Trung Hoa đã sang Mỹ để làm phu mỏ. Từ năm 1860 đến cuối thế kỷ có khoảng 63 ngàn công nhân Trung Hoa để làm việc cho công ty đường sắt. Thế hệ của những người Hoa đầu tiên này vì nhớ quê hương đã thành lập mấy trăm ngôi chùa nhỏ nơi họ sinh sống để làm nơi nương tựa về tâm linh. Những ngôi chùa này sau đó đã không duy trì được. Ngày nay chỉ còn một vài ngôi còn tồn tại ở thành phố San Francisco. Lý do:

-  Không có sư trụ trì bảo quản và duy trì

-  Vì ngôn ngữ bất đồng do đó không có Phật tử bản địa tiếp nối

-  Phật Giáo bị kỳ thị

-  Thế hệ trẻ không được giáo dục về Phật Giáo và bị Mỹ hóa

-  Chùa chỉ chú trọng về tín ngưỡng, thiếu phần tu học

Tuy tín tâm của người Hoa rất mạnh và ý thức về truyền thống vững chãi, nhưng thế hệ của đợt di cư đầu tiên của người Hoa không thành công trong việc duy trì văn hóa tín ngưõng của mình. Nhưng từ sau năm 1949, đợt di cư thứ hai gồm những người có tài sản và học thức. Họ xây dựng những ngôi chùa lớn có tăng ni hướng dẫn, tổ chức những khóa tu học cho người lớn và trẻ em. Chùa Tây Lai ở California có Ðại Học Phật Giáo, Vạn Phật Thánh Thành có Ðại Học Dharma Realm University, Chùa Chuang Yen ở tiểu bang New York đã đưa Ðại Tạng Kinh vào CD-ROM.

Bác sĩ Paul Fung thành lập Giáo Hội Phật Giáo Phổ Ðồng (Buddha’s Universal Church) tại San Francisco năm 1963. Chùa dạy giáo lý song ngữ, có ban hợp ca và sinh hoạt thanh thiếu niên.

Charles Luk (1898-1978) đệ tử Ngài Hư Vân, vâng lời chỉ giáo của sư phụ, đã dịch kinh từ tiếng Hoa sang tiếng Anh suốt 20 năm từ 1956 đến 1976.

Các danh tăng đương thời như:

-  Hòa Thượng Tuyên Hóa (1908-1985): đệ tử Ngài Hư Vân, chủ trương Thiền Tịnh song tu. Thành lập Vạn Phật Thánh Thành, dịch nhiều kinh điển sang tiếng Anh và độ cho nhiều người Mỹ xuất gia.

-  Ngoài ra có các ngài khác cũng thường xuyên sang Mỹ hoằng hóa như Hòa Thượng Tinh Vân, Hòa Thượng Thánh Nghiêm..

-  Tổng số người Hoa tại Mỹ khoảng một triệu người với 150 ngôi chùa.

2.3. Truyền Thống Nhật: 

2.3.1. Thiền:

Thiền sư Soyen Shaku đến Hoa Kỳ năm 1893 dự Hội Nghị Tôn Giáo tại Chicago và bắt đầu cuộc hoằng hóa. Sau đó có các thiền sư khác tiếp tục như: Shinryu Suzuki, Sogaku Harada.. Những nổ lực của các thiền sư Nhật đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống tín ngưỡng của Hoa Kỳ. Thiền sư D.T. Suzuki với những tác phẩm về Thiền đã chinh phục giới trí thức Mỹ và gây nên phong trào tu học Thiền trong những thập niên 50 và 60. Sau những thế hệ thiền sư Nhật, các đệ tử người Mỹ đã duy trì và phát triển các trung tâm thiền đó. Hiện nau khắp nước Mỹ có khoảng 150 trung tâm thiền.

Thiền sư Taizan Maezumi lãnh đạo trung tâm thiền ở Los Angeles, phương pháp của ông là: “Hoa Kỳ nhưng truyền thống” nghĩa là chặt chẽ trong kỷ luật, cơ cấu tổ chức cũng như hành trì.

Thiền sư Yasutani đến Hoa Kỳ năm 1962. Ðệ tử nổi tiếng của Ngài là Phillip Kapleau, kế nghiệp quản nhiệm thiền đường ở Rochester, New York. Kapleau viết cuốn The Three Pillars of Zen (Ba Trụ Thiền) năm 1965 nhấn mạnh về thiền quán và phương pháp ngồi thiền. Ông đã cố gắng Mỹ hóa cách hành trì từ nghi lễ, pháp danh, phục sức..

Ðệ tử Mỹ của thiền sư Shinryu Suzuki là Richard Baker cố gắng đưa thiền vào đời sống Hoa Kỳ, vừa phát triển đời sống khoa học kỹ thuật, vừa phát triển đời sống tâm linh. Baker làm giám đốc Trung Tâm Thiền ở San Francisco (San Francisco Zen Center).

2.3.2. Soka Gakkai:

Phát xuất từ Nhật Liên Tông, do Tsunesaburo Makiguchi và Josei Toda thành lập tại Nhật năm 1937, là một tổ chức cư sĩ lấy Kinh Pháp Hoa làm căn bản. Ðặt trọng tâm vào đức tin nơi Pháp Bảo: Kinh Pháp Hoa. Sự hành trì đơn giản giống Tịnh Ðộ Tông, nhưng thay vì niệm Phật chỉ niệm danh hiệu Namu Myoho Renge Kyo (Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh). Mục tiêu của Soka Gakkai là thực hiện một xã hội phúc lợi, tốt đẹp, hoàn mỹ cho từng cá nhân và cộng đồng. Lúc đầu hội viên của giáo phái này là những người Mỹ gốc Nhật, nhưng hiện nay Soka Gakkai có khoảng 150 ngàn tín đồ hầu hết là người Mỹ. Hội có 70 cơ sở tại Hoa Kỳ.

Sự thành công của Soka Gakkai đặt ở sự thành tâm của tín đồ trong việc thực hiện lý tưởng Phật Hóa toàn nước Nhật và mỗi thành viên đều có nhiệm vụ hoằng pháp. Do đó chỉ trong vòng 70 năm Soka Gakkai đã chinh phục được gần 20 triệu tín đồ tại Nhật.

2.4. Truyền Thống Triều Tiên:

Người Triều Tiên bắt đầu đến Mỹ sau chiến tranh kết thúc năm 1951. Những cộng đồng Triều Tiên thành lập những ngôi chùa khắp nơi, hiện nay khắp nước Mỹ có khoảng 90 cơ sở. Năm 1972, thiền sư Soen-sa-nim đến Mỹ làm việc trong tiệm giặc ở Providence, Rhode Island. Dần dần các sinh viên kéo đến học thiền và Providence Zen Center được thành lập. Hằng ngày các thiền sinh thực tập lạy 108 lạy và tụng kinh nửa giờ vì phương pháp này giúp hành giả dễ tập trung tư tưởng. Thiền sư Soen-sa-nim hay Seung Sahn sinh năm 1927 trong gia đình theo đạo Tin Lành. Tốt nghiệp đại học Dongguk. Năm 1948, không thỏa mãn với đời sống chính trị xuất gia tu tập. Ngài thành lập nhiều trung tâm thiền khắp nước Mỹ.

2.5. Truyền Thống Tây Tạng:

Sau khi Trung cọng xâm lăng Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma giả dạng làm dân quê, rời kinh thành Lhasa để sang Ấn Ðộ tỵ nạn cùng với hơn trăm ngàn dân Tây Tạng. Họ định cư tại Dharamsala. Trong số những người tỵ nạn đó có rất nhiều vị là những bậc cao tăng thạc đức của Phật Giáo Tây Tạng. Do đó bắt đầu từ những năm 60, các vị Lạt Ma Tây Tạng đã bắt đầu sang hoằng pháp tại các nước Tây Phương và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn: rất nhiều người Tây Phương xuất gia tu học. Hiện nay trên khắp nước Mỹ có trên 200 trung tâm Phật Giáo Tây Tạng, gần như tại mỗi thị trấn của 50 tiểu bang của Mỹ đều có những trung tâm tu tập Mật Tông. Trong những năm 60, 70 khi nói đến Phật Giáo là nói đến Thiền, ngày nay Tây Tạng đã thay thế địa vị đó. Phật Giáo Tây Tạng hành trì Mật Tông và phương pháp đó vẫn được duy trì tại Hoa Kỳ. Nếu có chuyển dịch chỉ là những bài tụng xưng tán hạnh đức của Phật, còn các ấn chú vẫn được mật truyền từ thầy qua trò. Phật Giáo Tây Tạng sử dụng tất cả hình tượng, màu sắc, âm thanh cho việc tu tập: những pho tượng Phật, Bồ Tát hay hộ pháp với những biểu hiện phong phú, những màu sắc rực rỡ của các tranh thờ, y phục, trang trí, những pháp khí, mùi nhang trầm tinh khiết, những giọng tụng đọc trầm hùng.. làm cho năm giác quan như mở ra  và tâm trí như đang tập trung vào bầu khí an lạc, linh thiêng của buổi lễ. Với sự có mặt của nhiều cao tăng, với truyền thống phong phú và vững mạnh, Phật Giáo Tây Tạng là giáo đoàn có ảnh hưởng mạnh nhất hiện nay. Dưới đây là những đại sư danh tiếng của Tây Tạng:

-  Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Ðại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày. Ngài nhận thấy hình thức cư sĩ thuận tiện hơn trong việc hoằng pháp, sau đó Ngài hoàn tục. Năm 1974 Ngài thành lập Học Viện Phật Giáo Naropa tại Boulder, Colorado. Khóa đầu tiên có 2000 sinh viên ghi danh. Học Viện quy tụ những giáo sư nổi tiếng như: Trungpa (dạy Kim Cang Thừa), Ram Dass (Bhagava Rita), Jack Kornfield (Phật Giáo Nguyên Thủy), Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw, Anagarika Munindra (Nguyên Thủy).

-  Ðức Karmapa Gyalwa (1923-1981): tổ sư đời thứ 16 phái Karmapa, hoằng pháp tạI Âu Mỹ từ 1974 đến 1981. Xây dựng chi nhánh tổ đình tại Woodstock, New York.

-  Kalu Rinpoche sinh năm 1905, xuất gia năm 13 tuổi. Năm 25 tuổi nhập thất 12 năm. Năm 1971 thăm viếng nước Pháp thành lập nhiều trung tâm tu học. Năm 1976 hướng dẫn khóa tu nhập thất 3 năm tại trung tâm mới thành lập tại Pháp.

-  Dudjom Rinpoche (1904-1987) đến Mỹ năm 1972 dùng phương pháp dĩ độc trị độc, tìm Niết Bàn ngay trong sinh tử, tìm giảI thoát ngay trong phiền não.

-  Tarthang Tulku phái Nyingma, sinh năm 1935, đến Mỹ năm 1968 thành lập Trung Tâm Nyingma tại Berkeley, California. Ngài là một học giả uyên thâm về Phật Học, Sanskrit. Ngài thành lập Học Viện Nyingma và phiên dịch kinh sách thuộc truyền thống Nyingma. Năm 1975 thành lập Trung Tâm Văn Hóa Odiyan trên khu đất 900 mẫu tây. Xây cất ngôi chùa trong 20 năm với công sức của giáo sư và sinh viên Ðại Học Berkeley.

-  Sakya Tridzin thuộc phái Sakya, thành lập Tu Viện Sakya tại Mussoorie năm 1964.

-  Sogyal Rinpoche sinh năm 1940, du học Anh. Năm 1975 thành lập Dzogchen Orgyen Choling tại Luân Ðôn. Giảng dạy khắp nơi, trước tác nhiều sách trong đó có cuốn The Tibetan Book of Living and Dying (Tạng Thư Sống Chết).

-  Yeshe Thubten Lama (1935-1984) thuộc phái Gelugpa, có nhiều ảnh hưởng trong giới môn sinh Âu Mỹ. Năm 1971 thành lập Tu Viện Kopan tại Kathmandu, Nepal. Cùng môn đệ thành lập 28 Trung Tâm Ðại Thừa tại 13 quốc gia.

-  Lama Osel gốc người Tây Ban Nha, sinh năm 1985 và được công nhận là tái sinh của Lama Yeshe Thubten.

 

3. Những Ðóng Góp của Phật Giáo Việt Nam:

Sau năm 1975 làn sóng người Việt sang định cư tại Hoa Kỳ càng lúc càng nhiều. Tổng số lên đến hai triệu người ở rải rác trên khắp 50 tiểu bang của Mỹ. Tập trung đông nhất ở hai tiều bang California và Texas. Sau khi cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tín ngưỡng là nhu cầu cấp thiết. Phần vì cần điểm tựa cho tinh thần nơi đất khách quê người, phần vì muốn duy trì văn hóa tín ngưỡng dân tộc, phần vì nhớ thân nhân, phần vì nhớ quê hương là những động cơ thúc đẩy người Việt lập chùa. Sau những giờ làm việc cực nhọc đến chùa gặp những người thân quen hàn huyên cho vơi đi nỗi buồn xa xứ:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Hoàng Hạc Lâu, thơ Thôi Hiệu - Tản Ðà dịch)

Từ năm 1975 đến nay khắp nước Mỹ người Việt đã xây dựng được trên 200 ngôi chùa. Nơi nào có người Việt nơi đó có chùa. Với số lượng chùa nhiều, Phật tử đông và chư tăng ni hùng hậu, Phật Giáo Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho việc hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Trong số chư tăng có những bậc cao tăng như Hòa Thượng Thích Thiên Ân, Hòa Thượng Thích Mãn Giác, Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Hòa Thượng Thích Huyền Vi, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh..

3.1. Hòa Thượng Thích Thiên Ân (1936-1980):

Là vị sư Việt Nam đầu tiên đến Hoa Kỳ hoằng pháp. Năm 1966 trong chương trình trao đổi giáo sư giữa Ðại Học UCLA và Vạn Hạnh, Hòa Thượng đã đến Mỹ và giảng dạy tại đây. Hòa Thượng tốt nghiệp học vị tiến sĩ văn chương tại Ðại Học Waseda, Tokyo năm 1962. Về nước làm Khoa Trưởng Văn Khoa tại Ðại Học Vạn Hạnh và giảng dạy tại Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn. Năm 1970 thành lập Quốc tế Thiền Viện tạI Los Angeles, California. Năm 1973 thành lập Viện Ðại Học Ðông Phương tại Los Angeles. Năm 1975, thành lập Chùa Việt Nam, ngôi chùa Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Năm 1976 thành lập Chùa A Di Ðà. Năm 1978 cùng với Hòa Thượng Mãn Giác tổ chức Ðại Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và tiến tới thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ và Ngài là vị Hội Chủ đầu tiên. Ngoài công việc giảng dạy, Ngài hướng dẫn những khóa thiền. Ngài độ cho những người Mỹ xuất gia. Những đệ tử của Ngài ngày nay đảm nhiện những thiền đường tại vùng California.

3.2. Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh:

Sinh năm 1926, xuất gia tu học tại Chùa Từ Hiếu, Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn và du học tại Ðại Học Princeton, Hoa Kỳ. Hòa Thượng là một thiền sư, nhà văn, nhà thơ. Năm 1966 rời Việt Nam sang Mỹ vận động hòa bình, sau đó bị chính quyền miền Nam cấm không cho hồi hương. Năm 2005 chính phủ Việt Nam mời Hòa Thượng về thăm quê hương.

Hòa Thượng hoằng pháp tại nhiều quốc gia Âu Mỹ cũng như Á Châu. Thành lập Làng Mai (Plum Village Meditation Center) tại Pháp, Lộc Uyển (Deer Park Monastery) tại California và Rừng Phong (Maple Forest Monastery) tại Vermont. Khoảng 100 trung tâm thiền thuộc truyền thống Làng Mai. Hoà Thượng trước tác mấy chục cuốn sách về Thiền, Phật Giáo, thơ, truyện. Cuốn Ðường Xưa Mây Trắng đang được dựng thành phim.

Tại Tây Phương Hòa Thượng cùng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là hai nhà lãnh đạo lớn của Phật Giáo có ảnh hưởng mạnh trong vấn đề hoằng pháp tại phương Tây. Sách của Hòa Thượng bày bán tại khắp các tiệm sách ở Mỹ và Âu Châu. Sách viết giản dị dễ hiểu. Với lối văn trong sáng, nhẹ nhàng, bình dị, Hòa Thượng đã giảng giải những khái niệm Phật học phức tạp. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Phương pháp tu tập của Hòa Thượng đặt căn bản trên các kinh Nam Truyền và Bắc Truyền, nhưng được đơn giản hóa và áp dụng vào cuộc sống hằng ngày. Cách hành trì được đơn giản hóa cũng như Tây hóa và không chú trọng nhiều đến hình thức. Chính vì chủ trương Tây hóa khiến một số các Phật tử Việt Nam lớn tuổi cảm thấy khó khăn trong việc hành trì. Hòa Thượng là người đã có công giới thiệu đạo Phật đến với người Tây Phương. Nhờ những sách đó mà nhiều người biết đến đạo Phật, được mệnh danh là Phật tử tiệm sách.

3.3. Các Chùa Việt Nam:

Ða số các chùa thuộc truyền thống tổng hợp Tịnh Ðộ và Thiền, một số thuộc truyền thống Thiền, một số thuộc Nam Tông và một số thuộc truyền thống Khất Sĩ. Phần lớn các chùa đều có tổ chức thanh thiếu niên như Gia Ðình Phật Tử và lớp học tiếng Việt. Trên phương diện chăm sóc đời sống tinh thần cho Phật tử Việt Nam, các chùa đã có những đóng góp đáng kể, góp phần xây dựng an lạc hạnh phúc cho xã hội. Các sinh hoạt chính đều thực hiện vào cuối tuần vì ngày thường mọi người phải đi làm. Vì thế những ngày lễ lược đề phải thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh sống.

Về kiến trúc, phần lớn các chùa đều sử dụng căn nhà có sẵn để làm nơi sinh hoạt. Chỉ có một số ít các chùa xây cất theo kiến trúc Á Ðông. Một số khác mua các nhà thờ cũ để làm chùa.

Nhìn qua chúng ta ai cũng đều có cái nhìn lạc quan về đạo tâm của Phật tử trong việc duy trì và phát huy văn hóa tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Việt. Tuy thế cũng không tránh khỏi những ưu tư về vấn đề duy trì trong tương lai:

-  Hầu hết các chùa chỉ có sinh hoạt bằng ngôn ngữ tiếng Việt cho người Việt. Trong khi đó các em nhỏ thuộc thế hệ thứ hai đã mất lần tiếng mẹ đẻ. Nếu không có những sinh hoạt song ngữ thì chúng ta khó duy trì.

-  Hầu hết các chùa không có chương trình tu học cho người Mỹ. Như thế sẽ trở ngại trong vấn đề hội nhập và khó duy trì trong tương lai một khi cộng đồng nói tiếng Việt không còn tồn tại.

-  Phần lớn các chùa đều chú trọng nhiều về mặt tín ngưỡng hơn là những sinh hoạt tu tập. Chính sự tu tập sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống và tăng trưởng tín tâm. Gần đây những phong trào tu niệm Phật được phát triển. Ðây là điểm son cho Phật Giáo Việt Nam.

-  Một số các chùa vẫn chưa có tăng ni hướng dẫn tu tập. Hy vọng trong tương lai sẽ thỉnh được các vị trụ trì.

-  Các chùa vẫn chưa có một đường hướng sinh hoạt chung, hổ trợ nhau trong việc tu học.

Với những ưu tư trên chúng ta hy vọng trong tương gần sẽ có được những giải đáp. Tình trạng các chùa Việt tại Mỹ ngày nay không ở vào hoàn cảnh cách ly như các chùa của người Hoa trong thế kỷ trước. Do đó không sợ sẽ bị rơi vào tình trạng đào thải.

3.4. Chùa Hải Ấn:

Sau đây xin giới thiệu những sinh hoạt tại Chùa Hải Ấn, tiểu bang Connecticut như một tham khảo cho nổ lực hoằng pháp tại Hoa Kỳ.

-  Lớp Thiền: hang tuần mỗi tối thứ năm từ 6.30PM đến 8.30PM. Chương trình gồm dâng hương, lễ Phật, tụng kinh, toạ thiền, kinh hành, thiền trà và pháp đàm. Thứ năm thứ nhì trong tháng có lễ tụng giới và sau đó chỉ hành thiền, không có pháp đàm.

-  Lớp Phật Pháp: chương trình ba năm. Năm đầu tiên sẽ học về những tác phẩm hiện đại để trang bị tầm nhìn tổng quát về Phật Giáo . Năm thứ hai sẽ học các kinh điển cổ thuộc các tông phái lớn như Nam Tông, Bắc Tông, và Mật Tông . Khóa học không nghiêng riêng về một tông phái nào mà sẽ trang bị một kiến thức tổng quát về các khuynh hướng chính như: Nam Tông, Mật Tông, Thiền, Tịnh Độ, v.v… Năm Thứ Ba đi sâu vào các tông phái như Duy Thức, Hoa Nghiêm, tìm hiểu những tương quan giữa Phật Giáo và Khoa học, Phật Giáo với các tôn giáo khác. Khóa học dành một phần thời gian cho những ngày thiền tập nhằm nhấn mạnh đến khía cạnh thực tập của Phật Giáo .

-  Ðào tạo giáo thọ: sau khi tốt nghiệp các học viên sẽ tham dự một chương trình đặc biệt cung cấp những kiến thức cần thiết cho một vị giáo thọ. Ðiều kiện thiết yếu để trở thành một giáo thọ là sự thành tâm và nổ lực. Sau đó sẽ được Thầy viện chủ mời tham dự chương trình đào tạo Giáo Thọ kéo dài một năm. Sự chọn lựa tùy thuộc vào sự thành tâm và những tiến bộ trên con đường tu tập Phật Pháp.

-  Phật Pháp cho tù nhân: hiện nay Chùa Hải Ấn cọng tác cùng Chuang Yen Monastery trong công tác thực hiện chương trình Phật Pháp cho tù nhân. Chương trình này do Giáo Thọ Richard Baksa đảm trách. Số ghi danh hiện nay là hơn 300 học viên. Khóa học hàm thụ, chương trình ba năm tương tự như chương trình Lớp Phật Pháp.

 

4. Phật Giáo Mỹ:

Với những đạo sư danh tiếng của thế giới đến từ những truyền thống lâu đời, Hoa Kỳ đã có diễm phúc để thâu nhận những tinh hoa đó để dung hợp thành một đạo Phật đặc thù. Sự kiện đó là điều hy vọng có thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên trong hiện tại đã có những khuynh hướng đi về nẻo đó:

- Dung hợp: ngày nay trên đất Mỹ, hầu như các truyền thống Phật Giáo đều có mặt. Ðây là một cơ hội hiếm có để chúng ta có thể học hỏi với các truyền thống khác để làm phong phú cho sự hiểu biết và hành trì của mình. Hoàn cảnh Phật Giáo tại Mỹ không cho phép tinh thần độc tôn. Phật Giáo Việt Nam với tinh thần dung hợp các truyền thống khác nhau như Tịnh Ðộ, Thiền và Mật Tông trên phương diện tu tập sẽ đóng góp tích cực vào việc hình thành một đạo Phật tổng hợp.

- Thực dụng: người Mỹ rất thực tế. Với tôn giáo cũng thế, họ luôn đặt câu hỏi tin theo một tôn giáo để được lợi ích gì? Trước những khổ đau của con người từ thể xác đến tinh thần, tôn giáo giải quyết như thế nào? Ðạo Phật với phương pháp ăn chay sẽ giúp con người tránh khỏi những cơn bệnh ngặt nghèo. Với phương pháp thiền định sẽ giúp con người tìm thấy lại sự bình an trong tâm hồn, lạc quan hơn, tự tin hơn và sáng suốt hơn.

- Khoan dung: con người càng có cơ hội tiến xúc với nhiều hoc thuyết khác nhau thì con người càng chấp nhận và kính trọng nhau hơn. Phật Giáo với tinh thần khoan dung chấp nhận mọi dị biệt trong quan niệm 84.000 pháp môn chỉ cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều con đường để đi đến chân lý.

- Tự lực: dân tộc Mỹ là một dân tộc với tinh thần tự lực rất cao. Tinh thần của đạo Phật cũng nhấn mạnh đến khía cạnh tự lực, con người tự giải thoát mình. Ðây là chỗ gặp gỡ giữa Phật Giáo và tinh thần của dân tộc Mỹ.

- Thực chứng: những kinh nghiệm bản thân về sự tu tập là những minh chứng hùng hồn cho sự chân thật của lý thuyết. Những đạo sư phải là những người biết đem giáo lý áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.

- Tự do: tinh thần yêu chuộng tự do rất cao trong cách hành xử của người Mỹ. Phật Giáo là một tôn giáo rất tự do, không bị đóng khung trong tổ chức, không bị vướng mắc vào giáo điều hay hình thức tôn giáo. Mục đích của đạo Phật cũng chỉ để đạt được sự tự do tuyệt đối ngoài sự chi phối của sinh tử.

- Cá nhân: Niềm tin tôn giáo là vấn đề cá nhân. đạo Phật chủ trương con người tự trách nhiệm lấy cuộc đời của mình trong đạo lý Nghiệp và phương pháp tu tập là phát huy khả năng cá nhân để tự giải thoát mình.

- Hình thức: chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhìn thấy những thiền sư người Mỹ để tóc dài và mặc quần jean. Về hình thức chúng ta không nên quá câu nệ, mỗi quốc độ có mỗi loại y phục khác nhau.

- Vấn đề: những vấn đề khó khăn hiện nay là: phụ nữ, đồng tính, phá thai, nhân bản (cloning), môi sinh.. Ðạo Phật với tinh thần bình đẳng, từ bi, trí tuệ sẽ giúp con người tìm thấy những giải đáp thỏa đáng.

Vì những tương đồng trên, đạo Phật đã được đón nhận từ những ngày đầu khi đến Mỹ như một tôn giáo của hoà bình, khoan dung, trí tuệ. Trong giai đoạn đầu đạo Phật được đón nhận như một tôn giáo huyền bí, giai đoạn sau đó giới trí thức được chinh phục bởi những triết lý sâu sắc và nhân bản, và giai đoạn hiện nay đạo Phật được khám phá như tr0 liệu của hạnh phúc. Những đạo sư lớn của thời đại như Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh tiêu biểu cho hai khuynh hướng hơằng pháp: truyền thống và canh tân đáp ứng được những đòi hỏi khác biệt của con người. Với tinh thần vô ngã, vị tha đạo Phật sẽ có mặt trong cuộc sống không như một thế lực tôn giáo, nhưng như là một phương pháp trị liệu giúp con người tìm thấy hoà bình, niềm vui và hạnh phúc. Ðạo Phật tại Hoa Kỳ với những giá trị cố hữu sẽ đi sâu vào lãnh vực thiền quán và đạo Phật Hoa Kỳ sẽ giúp đạo Phật Á Châu phục hồi lại giá trị của thiền định.

 

 

Sách tham khảo:

 

1.    Ricks Fields, How the Swans Come to the Lake – A Narrative History od Buddhism in America – Shambhala, Boulder, 1981.

2.  Charles S. Prebish and Kenneth K. Tanaka edited, The Faces of Buddhism in America, University of California Press: Berkeley, Los Angeles, London, 1998.

3.  Trần Quang Thuận, Phật Giáo Mỹ, Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, 2000.

 

 

 

THE PROPAGATION OF THE BUDDHISM IN AMERICA AND THE CONTRIBUTIONS OF THE IMMIGRANT-VIETNAMESE BUDDHISTS

Thích Trí Hoằng

 

Light of Asia, by English poet Edwin Arnold was published in 1879 in Boston, Massachusetts. This book, using beautiful verses, praised the life of the Buddha. It was an important document in the early propagation of Buddhism in the West in general, and in America specifically. The work had great influence in the United States as well as in Europe and promoted interest in learning about Buddhism. From that time until today, this work has been reprinted 80 times with more than one million copies and it has been translated into most of the European languages.

Here we shall discuss the history of the propagation of Buddhism in America, the experiences of the different Buddhist traditions, and the contributions of the immigrant-Vietnamese Buddhists.

I. The History of the Propagation of Buddhism in America:

 In order to understand the history of the Buddhism in America, we can devidedivide it into three periods: the period before 1879, the period from 1879 to 1963, and the period from 1963 until today. 

1. The Period before 1879:

 The United States, founded in 1776, is a young. Buddhism arrived in America two ways. First, it arrived directly with Buddhist monks. Second, it arrived indirectly through European colonists in America who had exposure to Buddhism in Europe. Buddhism came to America before the Europeans “ discovered” the continent. It is difficult to determine the first person who brought Buddhism to America because pertinent historical documents are hard to find. However, there are a few helpful ones. In 1761, M. de Guignes, a French scholar, translated and published a document found in Chinese archives about a Chinese monk named Hwui Shan (also spelled Hoei-shin or Hui-shên) who, together with four other monks, sailed to the west coast of the Americas in 458 CE. In 1875, Charles G. Leland published “Fu-sang or The Discovery of America by Chinese Buddhist Priests in the Fifth Century”, which supported the story told by Guignes. In 1885, Edward Payson Vining published “An Inglorious Columbus” or “Evidence that Hwui Shan and a Party of Buddhist Monks from Afghanistan Discovered America in the Fifth Century A.D.” This author quoted at length the report of Hwui Shan which explained the details of the trip to America, and described the ways of life of natives, including individual life, family life, social life, customs, and religion. He concluded: “This country has never known anything about Buddhism, but in 458 CE during the Song Dynasty, five Buddhist monks from Ki-pin (Kabul, Afghanistan) went to that country. They carried with them the Buddha statues, sutras, and taught those people to take refuge in the Buddha and to renounce their bad habits.”

Physical evidence of this trip was found in 1914. A swastika carved on a rock was discovered in Lakeside Mountains, near San Jacinto valley in California. (The swastika is an ancient symbol; the word itself is Sanskrit.) In 1953, Gordon Ekholm wrote an article about the similarities between the Buddhist art, Indian art and Mexican art, including the commonality of  such images as the lotus base for religious statues, the bowl, the sun, the dragon, and the snake. These images appeared in Mexico around the fifth century CE, the period during which the Chinese monks were present in America.

Buddhism also arrived in America through Europeans who were students of  Buddhism. In 1826, Eugene Bournouf compiled Essai sur le Pali (Essay on the Pali) and translated the Lotus Sutra into French. The same year, Henry David Thoreau (1817-1862) translated that same sutra into English from French. Later a Dutch Indologist,  Kern, translated the Lotus Sutra directly from Sanskrit into English. Further, the translated works included in the Sacred Books of the East edited by Max Muller, greatly inspired European intellectuals to learn the cultures of the Far East.

Contact between Europe and Asia started long ago with the conquests of Alexander the Great, and continued with commerce along the Silk Road, including the thirteenth century journeys of Marco Polo. The East seemed a mysterious and attractive world. These early trips were rare. However starting in the fifteenth century, westerners visited Asia more frequently. They came with two purposes. One was colonization/exploitation. The second was religious conversion. In 1497, Vasco de Gama arrived in India paving the way for the Catholic priests and the merchants who intended to “civilize” Asia. Buddhism was disparaged and considered a ghostly cult. Portuguese soldiers and priests occupied Sri-Lanka starting in 1501. Their philosophy was: “First use the Bible to convert, if no success then use the sword.” As a result, they cruelly killed the Sinhalese, and burned Buddhist monasteries to the ground. The Dutch later replaced the Portuguese and they issued a law that forbade those not converted to to Christianity, to own property.

The French also sent troops to Vietnam in 1858 in the name of protection of Christian missionaries and began a colonization of that country that lasted almost one hundred years.

Not all European contacts with Asia were grim. In 1549, a Catholic priest named St. Francis Xavier arrived in Japan. One day, he went to a Buddhist temple and met Zen Master Nanjo, a learned and humorous monk. St. Francis saw monks meditating and  asked Najo,

“What are they thinking?”

Nanjo replied: “Some of the monks think about how much money they have received from donations; some other monks think of a cheap place for shopping; others think of where to go for recreation. Thus, they think about nonsensical things.”

In addition to wanting to colonize in order to obtain resources, many Europeans also found attractive to the Europeans because of its mysterious nature and bright civilizations. A few Westerners discovered Buddhism as a teaching of enlightenment and liberation. The study  of and translations by European scholars of Buddhist works taught many to admire Eastern culture. Thus, European scholars studied the Asian culture to serve the following aims:

·   colonization

·   missionary work, and

·   satisfying their intellectual curiosity and spiritual needs.

T.W. Rhys Davids studied Pali in order to translate Sri Lankan laws to facilitate the rule of the  colonial government. However, he soon discovered the treasures within Pali literature. He established the Pali Text Society in 1881 members of which subsequently translated the Pali Canon into English.

There are several works by missionaries attacking Buddhism such as “Phép Gi ng Tám Ngày” (Catechism Explained in Eight Days) written by a Jesuist Priest Alexandre de Rhodes. This book attacks the Eastern religions such as Buddhism, Confucianism, and Taoism. More sympathetic works such as: La Traite de la Grand Sagesse (The Treaty of the Great Virtue) translated from different sources in Chinese, Sanskrit, Tibetan, Japanese into French by a Jesuist priest Etienne Lamotte appeared long after this era had close. The first volume was published in 1949 and the last one in 1979. In the beginning, of course Lamotte’s motive of translating this work was not for the sake of Buddhism, but to find fault and to attack it in order to promote Christianity. But the Buddhist teachings slowly transformed Lamotte. His translation was scholarly, and accurate. Further, he published other works on the history of early Indian Buddhism. In the circle of Buddhist scholars, Etienne Lamotte has been praised as a reincarnation of a Bodhisattva.

These works deeply influenced Western intellectuals, especially philosophers. Arthur Schopenhauer (1788-1860) was influenced by Buddhist teachings on desire. Other European philosophers influenced by Buddhism include Bergson, Blavatski, Rickert, Jasoers, Wittgenstein and Heidegger.

In this period, Buddhism was accepted as a religion of wisdom and reason. The publication of Light of Asia in 1879 marked a great literary achievement: the West came into contact with Buddhism and Buddhism became a rich source of spiritual inspiration for Westerners.

2. The Period from 1879 to 1963:

 The following strongly influenced the propagation of Buddhism in The West: the activities of Colonel Olcott; the translation of the Pali Canon into English; the efforts of Paul Carus, aimed at  developing an American  Buddhism; the Dharma works of D.T. Suzuki.

 

a. The Activities of Colonel Olcott:

 He was born in 1832 in New Jersey and passed away in 1907 in Adgar, India. He contributed greatly to the propagation of Buddhism in America, as well as to the revival of Buddhism in Sri-Lanka and other Asian countries. In 1875, he and Madame Blavatski established The Theosophical Society which promoted learning about Buddhism, other Asian religions and science. Today, this society has branches in 60 countries.

In 1880, Colonel Olcott went to Sri-Lanka together with Madame Blavatski. At that time the colonial government suppressed Buddhism as the foreign missionaries tried to Christianize Sri-Lanka. Disturbed by that situation, both of them wowed to save Sri-Lankan Buddhism. In 1881, they took Three Refuges. The ceremony took place in the presence of thousands of monks and was very moving. This act gave strong spiritual support to the Sri-Lankan people and inspired them to restore Buddhism. Olcott and Blavatski went to Srk Lankan villages to call for the establishment of Buddhist schools and publishing houses. Olcott also recommended the establishment of Buddhist schools in Japan, Thailand, Burma, and India, worked to restore the processions on the Buddha’s Birthday, and to rebuild temples. Thanks to their efforts, Sri Lankan Buddhism was revived relatively quickly. In 1891, he and Bhikkhu Anagarika Dharmapala established The Maha Bodhi in order to restore Buddhism in India. With the support of many English intellectuals, including Edwin Arnold, they requested that the government help return Buddhist holy places which were controlled by Hindu sects to the control of Buddhists.

In 1889, Olcott and Reverend Sumangala incorporated the six colors of  the halo of the Buddha into a Buddhist flag. This flag was soon recognized by the Sri-Lankan Buddhist Church. In 1950, at the first conference of The World Fellowship of Buddhism in Columbo, Sri-Lanka, this flag was accepted as an international Buddhist flag. There were delegations from 26 countries, including Vietnam, whose delegation was led by Master T  Liên.

When Olcott died, he had spent 38 years leading the restoration of Buddhism in Sri-Lanka and other Asian countries.

b. The Translation of the Pali Canon:

 The Pali Text Society was responsible for this translation. The Society, which  was established in 1881 with Thomas W. Davids as president,  gathered many Pali scholars who carried out the work. After Mr. Davids died, his wife continued as president of the Society. Today the whole Pali Tripitaka has been translated into English. Thanks to this translation, many scholars have benefited from deeply learning the teachings of Buddha. The Pali Text Society continues to work to spread the Dharma.

c. The Efforts of Paul Carus  to Develop an American Buddhism:

Paul Carus was a German American, son of a Protestant minister. He was dissatisfied with the Christian tradition and lost his faith. After earning a Ph.D in Linguistics, he moved to New York and worked for a German newspaper. In 1893, at the World Parliament of Religions in Chicago, he had the opportunity to meet and to learn from Buddhist masters from around the world. He used this opportunity to discover Buddhism, which changed his life. In fact, he devoted himself to serve Buddhism with great sincerity. For him, Buddhism was the  right path to develop his spiritual life because Buddhism is based on reason, empiricism, and science. In 1894, Carus wrote the Gospel of Buddha and Karma in an effort to modernize Buddhism and to make it relevant for western culture. In 38 works, he tried to demonstrate to the westerner how Buddhism could respond to the West’s need for renewed spiritual development.

In 1899, Carus wrote to Daniel C. Beard, a professor of art in New York and suggested that Beard, using the simple and lively art of the West, carve a Buddha statue exemplifying the Asian characteristics of compassion and tolerance Carus also composed Victorian-style music for chanting during the new American Buddhist the ceremonies.

Carus did not hesitate to employ Christian forms in order to make the philosophy and the practice of Buddhism more accessible to westerners. He considered Amita Buddha’s nature to be like the Christian God: “Amita is the world order, the absolute truth which conducts the evolution law.”

Carus sponsored Reverend Dharmapala’s journey to the United Stated to propagate Buddhism; he also supported Zen Master D.T. Suzuki in his Dharma work.

d. The Dharma Works of D.T. Suzuki:

Zen Master D.T. Suzuki (1870-1966) came to America in 1897, and lived in Carus’ home near Chicago for eleven years. They worked together translating sutras and other books into English. They introduced Eastern philosophy and Buddhism to the Western intelligentsia. In 1911, Suzuki married Beatrice Erskine Lane, a member of the Theosophical Society. Together they published the magazine The Eastern Buddhist. Suzuki wrote many books on Zen and translated the Mahayana sutras. His works were welcomed as a cool breeze that brought freshness to the Western intellectuals. In the nineteenth century, Westerners understood more about Theravada than Mahayana because of the translation of Pali canon. The books on Mahayana were not as available, and therefore people knew little about it. When the books of Suzuki about Zen and the Chinese Northern School appeared, they helped Westerners understand more about the Mahayana. The spirit of freedom and non-attachment of Zen helped readers to find a fresh interest in Buddhism, It also provided an answer to the Judeo-Christian philosophical and theological crises created by scientific development. In the years of 1950’s and ‘60’s, Zen’s popularity in America grew. The word “Zen” was introduced to America by Suzuki and it became a nickname for all Buddhism. He taught Buddhism and Zen at Columbia University and other universities. His works influenced Carl Jung, Erich Fromm, Karen Horney, Martin Heidegger, Thomas Merten, Allen Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, and Gary Snyder. Lynn White Jr., a historian, praised Suzuki as a person who helped westerners break down the wall of division, and free themselves from narrowness in order to look at the immense horizon.

In this period, the West came into contact with Buddhism through books. The sutras of different traditions had been translated. Buddhism influenced tEuropean culture in many ways, from literature and art and science. Buddhism not only inspired philosophy, but also literary works such as Sidhartha which won the Nobel price in  literature for Herman Hesse.

Also during this period, starting in 1860, Chinese workers arrived in the United States to work for the Central Pacific Railroad. They contributed greatly to the propagation of Buddhism.
 

3. The Period from 1963 until Today:

In 1963, in Saigon, a Vietnamese Buddhist monk named Thich Quang Duc self immolated  as a way to pray for peace and justice during the war in Vietnam.. This event marked the beginning of an important period for American Buddhism. The media brought this event to the attention of the world. The image of a monk who sat calmly in the sea of fire demonstrated the inner power of Buddhism. It shook the heart of mankind. The world was awakened.

The war in Vietnam was long and fierce. The images of suffering seen by Americans on TV sparked an antiwar movement. Furthermore, there were crises in American culture, ethics, and religion. In the 1960’s, young people, including students and hippies, opposed traditional values, authority, and society and wanted to establish a new world. The 500,000 young people who attended Woodstock, where young musicians  played the music of protest, sought to change American society at the grassroots level. In this time of social disorder, and confusion, Buddhism met a need.

                                a. The Masters: 

The Dalai Lama left Tibet in 1959. Altogether, one hundred thousand Tibetans sought refuge in India. The visibility of the Dalai Lama and the other lamas contributed greatly to spreading of Buddhism in the West in general, and in America in particular.

Never before had so many masters come to teach the Dharma in America as in this period. In addition to the Dalai Lama, many others came, including Master Hsuan Hua, Thich Nhat Hanh, and Seung Sahn. Most of them focused on meditation. Many practice centers were established in all parts of the country. Retreats varied in length from one weekend to a few months or even a few years. If in the previous period, Buddhism grew through its philosophy, then in this period is growth was largely the fruit of practice. The goal of Buddhist practice is not only liberation from birth and death, but also peace and joy in this life. American life was, (and is) stressful; in contrast, these retreats helped to balance the mind and relax the body. Participants felt calmer, happier, and more positive. They experienced the deep joy of meditation. Thus retreat centers proliferated and prospered. In addition, the application of meditation to psychotherapy became common with demonstrably good results. Soon there were hospitals using meditation as a treatment without mentioning its origin so that patients would not be biased against the “prescription” that was rooted in an Asian religion.  

b.  Young People:

 Buddhism has been attractive to young people of several generations for several reasons:

·     growing dissatisfaction with the traditional faiths (mainly Christianity and Judaism)

·     Buddhism’s spirit of freedom and tolerance

·     Popular songs with lyrics inspired by Buddhist teachings, such as “First there is a Mountain.”

·     Popular films on Buddhist themes, such as Little Buddha, Seven Years in Tibet, and Kundun.

·     An increasing number of Buddhist celebrities such as Richard Gere and Tina Turner.

·     Growing accounts of sexual abuse by Catholic priests.

c.  Charity Work:

 American Buddhism has been engaged in different social projects:

·     The Buddhist Alliance for Social Engagement: helps hospital patients, school children, and the homeless

·     Greyston Mandala: established by Zen Master Bernard Glassman in Westchester County, New York, provides jobs for the homeless in their large bakery, and homes in their apartment buildings. 

·     Zen Hospice Project: helps the dying to find peace

d.  Dharma Training:

Transmission is important in maintaining and developing the Dharma. Every Buddhist tradition has its own training programs. However, these programs are designed for followers of the sponsoring tradition. There are also several centers offering training programs to those not committed to a specific tradition. 

·     The Barre Center for Buddhist Studies offers a yearly two-week intensive course

·     Other training centers include the Naropa Institute in Boulder, Colorado; Buddhist University at the Hsi Lai Temple in Taiwan; Dharma Realm University in Talmage, California; the Buddhist Institute at Plum Village in France.

·     There are also Buddhist Studies programs at universities such as Yale, Harvard, Princeton, Columbia, Berkeley, and the University of Wisconsin.

During this period, Buddhism has become deeply rooted in American society. Many traditions have contributed to the spread Buddhism. In addition to the Chinese tradition, the Japanese, Korean, Vietnamese, Thai, Laotian, Cambodian, Burmese, Sri-Lankan and Tibetan traditions have helped make American Buddhism rich and colorful. 

II.  Contributions of Different Traditions:

1.  Theravada:

Theravada came to the United States in 1893 when Reverend Anagarika Dharmapala attended the World's Parliament of Religions  The fact that the Pali Canon was translated into English further spread the Theravadan tradition. Unfortunately there were not many monks who continued the Dharma work of Dharmapala.

In 1966 The Buddhist Vihara Society of Washington was established. Soon after, Thai, Burmese, Sri Lankan temples were built. The Still Point Retreat Center was started by a young American man in San Jose, California in 1971.

Vipassana Meditation came to The United States in 1980 with the disciples of Master Mahasi Sayadaw. His followers neglected Theravadan ceremonies, such as chanting, teaching, and earning merit.. Rather, they chose to focus on meditation in order to help people to reduce stress, free themselves from suffering, and develop insight. This group was led by lay Buddhist masters who concentrated on helping the lay people. There are several large centers:

The Insight Meditation Society (IMS) in Barre, Massachusetts was founded by Joseph Goldstein, Jack Kornfield, and Sharon Salzberg. The center organizes retreats the whole year around. People have to register six months ahead.

The Spirit Rock Meditation Center in Marin, California is a branch of IMS founded by Jack Kornfield, James Baraz, Sylvia Boorstein and Anna Douglas.

The Vipassana Center in Shelburne Falls, Massachusetts. belongs to devotees of S.N. Goenka. This center organizes regular ten-day retreat programs with strict discipline. They prefer practice more than study and prefer not to mix with other meditation techniques. 

After the Vietnam war, many Southeast Asian people emigrated to the United States. Thus many Buddhist temples were built. There are about one hundred temples in the United States established by the Buddhists from Thailand, Laos, Cambodia, Myanmar, and Sri-Lanka.

Because of strict Vinaya practice, Theravadan monks can not maintain their practice without support from a lay Buddhist community. Although Theravadan monks have come to America, they seldom live here permanently. For example, Jack Kornfield was a Theravadan monk in Thailand, but when he returned to the United States, he realized that it is impossible to continue to be a monk since monks are forbidden to cook or to drive. After disrobing, he worked together with other lay people to propagate the Dharma outside the strict Theravadan tradition. 

 

2.  The Chinese Tradition:

 In 1848 when gold was found in Sutter’s Mill, California, Chinese workers were hired to work in the gold mines.. Then, from 1860 to the end of the century, 63 thousand Chinese workers worked on the railroads. This first Chinese-American generation built a couple of hundred temples for worship, most of which do not exist today, for these reasons:

·     The shrines had no monks to maintain and continue them;

·     Buddhism was disparaged by and Buddhists were discriminated against by White Americans;

·     There were no American Buddhists to support the shrines;

·     The young generation of Chinese became Americanized and received no Buddhist education;

·     The temples focused more on worship than on meditation

Although the Chinese had a strong cultural identity, they did not succeed in maintaining their religion.

After 1949, the Chinese who came to America were those with money and education. They built the large temples for practice, under the guidance of monks and nuns. They organized retreats for adults and children. They also focused on study and inclusion of young people. For example, the His Lai Temple in Los Angeles has the Buddhist University; The City of Ten Thousand Buddhas, near San Francisco, has Dharma Realm University; the Chuang Yen Monastery, north of New York City, has a formidable library, including the Chinese Canon on CD-ROM.

Dr Paul Fung established Buddha’s Universal Church in San Francisco in 1963. It offers a bilingual Buddhist class, a chorus, and youth activities.

Charles Luk (1898-1978), a disciple of Master Hsu Yun, followed the advice of his master, and spent the years from 1956 through 1976 translating Chinese Buddhist sutras into English.

Two great masters:

·     Master Hsuan Hua (1908-1985), a disciple of Master Hsu Yun, combined the practices of Zen and Pure Land. He founded the City of Ten Thousand Buddhas and ordained many American young monks.

·     Master Hsing Yun, Sheng Yen also came to the United States to propagate Buddhism.

Today, the total number of the Chinese in the USA is around one million. 

3.  The Japanese tradition

a. Zen:

Zen Master Soyen Shaku came to the USA in 1893 for the World Parliament of Religions and began his Dharma work. Later came Shinryu Suzuki, and Sogaku Harada. The efforts of these masters left a strong mark on American Buddhism. Zen Master D.T. Suzuki’s accomplishments, including his influence on American Buddhism in the 1960’s and ‘70’s are described above.

Master Taizan Maezumi led a meditation center in Los Angeles. His method is “American but traditional.” He was strict in discipline, organization and practice.

Master Yasutani Hakuun  came to the USA in 1962. His best-known student was Phillip Kapleau who continued his Dharma work in Rochester, New York, and published The Three Pillars of Zen in 1965, emphasizing contemplation and koan study. He made an effort to Americanize various aspects of the practice from ceremonies, to Dharma names, and clothing.

A disciple of Master Shinryu Suzuki is Richard Baker Roshi who tried to bring meditation into daily American life. He believes in the importance of science and technology on the one hand, and spiritual life on the other. Baker was president of the San Francisco Zen CenterThe disciples of these masters now maintain approximately 150 Zen Centers in the United States.

b. Soka Gakkai:

Soka Gakkai is an offshoot of the Nichiren Buddhist Church. Founded by Tsunesaburo Makiguchi and Josei Toda, it was established in Japan in 1937 as a lay organization centered on faith in the Lotus Sutra. The practice is simple and is similar to Pure Land practice. They recite the name of the Lotus Sutra in Japanese: Namu Myoho Renge Kyo. Its aim is to establish a generous, virtuous, perfect society for the individual as well as the community. In the beginning, members were Japanese American, but today Soka Gakkai has 70 centers in the USA, with 150 thousand members, many of them of European and African descent.

The success of Soka Gakkai is based on the sincere desire of its members to attain the Buddha Land. Each member has the duty to spread the Dharma. Therefore within 70 years they have managed to convert 70 million Japanese. 

4.  The Korean Tradition:

After the war Korean War, Koreans started to come to the United States, building many temples. Currently there are about 90 Korean temples in the USA. In 1972, Master Soen-sa-nim or Seung Sahn went to America and worked in a laundry in Providence, Rhode Island. Slowly, students came to learn about meditation and the Providence Zen Center was established. He encouraged his students to make 108 prostrations daily and chant for half an hour. He established many Zen centers. 

5.  The Tibetan Tradition:

After the Chinese Communists invaded Tibet, many of the monks who, with the Dalai Lama, settled in Dharamsala, were high lamas. At the beginning of the 1960’s several of these lamas started to go to the West to propagate the Dharma. They had great success; many westerners were ordained as monks, or became lay practitioners. In America there are about 200 Tibetan Buddhist centers. In the ‘60’s or ‘70’s when Americans mentioned Buddhism, they meant Zen, but now they more likely refer to Tibetan Buddhism. Tibetan Buddhism belongs to the Tantrayana school. Their traditional way of practice is still intact today. Although minor changes have been made to the chanting verses, the mantras and mudras have remained unchanged and are secretly transmitted from a teacher to a student. Tantrayana uses images, colors, and sounds for practice: the statue of the Buddha, a Bodhisattva or Dharma protector, is a rich manifestation; the paintings, the costumes, the decorations, and the instruments are colorful; the incense is fragrant; the chanting voices are very low and often produce overtones. During Tibetan practice the five senses are open and the mind focused on the calm atmosphere of the ceremony.

Tibetan Buddhism has a rich tradition and a strong Sangha. The following high lamas are masters known in the West:

Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) was one of the first Tibetan lamas who taught in the West. In 1963, he attended Oxford University on a scholarship. In 1967 after graduation, he established the Meditation center Samaye-Ling in Scotland which focused on applying meditation to daily life. At that time he felt that the as a layman he could be more effective in doing Dharma work, therefore he disrobed. In 1974, he established the Naropa Institute in Boulder, Colorado. 2000 students registered in the first semester. Many well known teachers are at Naropa; Trungpa (taught Tantrayana), Ram Dass (taught/teaches Bhagava Rita), Jack Kornfield together with Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw and Anagarika Munindra (taught/teach Theravada).

His Holiness the Karmapa Gyalwa (1923-1981) was the 16th patriarch of the Karmapa tradition. He went to the West to spread the Dharma from 1974 to 1981. His North American headquarters was and is located in Woodstock, New York.

Kalu Rinpoche was born in 1905, entered the monastery at 13 years old, and had a 12-year retreat as a 25-year-old. In 1971 he visited France and established several retreat centers. In 1976 he led a 3-year retreat at a new center in France.

Dudjom Rinpoche (1904-1987) came to America in 1972. His method of practice is called “using the poison to cure the poisoned;” he taught his students how to find nirvana in samsara, happiness in suffering.

Tarthang Tulku of the Nyingma school was born in 1935, and came to America in 1968 where he established the Nyingma Center in Berkeley, California. He is a scholar, learned in Buddhism, and in Sanskrit. He established the Nyingma Institute and translated many Nyingma texts into English. In 1975 construction began on the Odiyan Cultural Center which was completed in 1995 with the help of many Berkeley professors and students.

Sakya Tridzin of the Sakya school established the Sakya Institute in Missouri in 1964.

Sogyal Rinpoche was born in 1949 and studied in England. In 1975 he established the Dzogchen Orgyen Choking in London. He has taught in many countries and wrote The Tibetan Book of Living and Dying.

Yeshe Thubten Lama (1935-1984) of the Gelugpa school had great influence on Western students. In 1971 he established the Kopan Monastery in Kathmandu, Nepal. He also established 28 other centers in 13 countries.

Spanish Lama, Osel, was born in 1985, is recognized as the reincarnation of Lama Yeshe Thubten.

6. Change Your Mind Day

Every year on the first Saturday of June people in the United States come to hundreds of parks to learn about Buddhism and its practices. This was founded in 1993 by  Tricycle Magazine which continues to sponsor it. It started in Central Park in New York City with a couple of hundred interested attendees. The aim is to introduce Buddhism to the American public in an informal way, because for many people a visit to a zendo or a Buddhist temple is a big step. Today Change Your Mind Day has spread to nearly fifty cities in the United States and it has also started in Europe, Australia and New Zealand.

The organizers invite masters from different Buddhist traditions to come to the park and give teachings and conduct meditation under the shade of large trees, just as the Buddha did many years ago. It gains popularity every year.

 

On this model of the propagation of the Dharma, the Dalai Lama has given public lectures from time to time in the Central Park. For his 2004 talk, more than seventy thousand gathered.

 

III.  The contribution of Vietnamese-American Buddhists:

 Since 1975, waves of Vietnamese immigrants have continued to settle in America. Currently, the total number of Vietnamese-Americans is approximately two million, most of them concentrated in California and Texas. After settling in the USA, they started to build temples, based on their need for worship, nostalgia, social contact, maintainance of culture, mental comfort, and spiritual development. After the traditional American working days, Monday through Friday, they come to the temple on the weekend for social contact and to support to each other:

 

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

The native country is hidden by the light at the sunset,

The smoke on the wave of the river makes one feels sad.

(Chinese poem by Thôi Hiệu - Tản Ðà translated into Vietnamese) 

From 1975 until today, the Vietnamese in America have established more than 200 temples. Where a Vietnamese community exists, there is a temple. Vietnamese-American Buddhists have greatly contributed to the propagation of Buddhism in America with these temples, numerous members, and a sizable Sangha of monks and nuns. Vietnamese high monks include: Master Thích Thiên Ân, Master Thích Mãn Giác, Master Thích Huyền Vi, and Master Thích Nhất Hạnh. 

1. Master Thích Thiên Ân (1936-1980): 

Master Thiên Ân was the first Vietnamese monk who went to the United States to spread the Dharma. In 1966, he came to California as a visiting professor and taught at UCLA. After earning a Ph.D. in literature in 1962 from Waseda University in Tokyo, Japan, he returned to Vietnam and taught at Saigon University and later at VanHanh University , also in Saigon. During the 1970’s, he established several temples in Los Angeles: in 1970 the International Meditation Center; in 1973 the Oriental Study School; In 1975, the Vietnam Temple which was the first Vietnamese temple in USA; in 1976, the Amitabha Temple. Together with Master Thích Mãn Giác, he organized a conference in Los Angeles and formed the Overseas Vietnamese Buddhist Churches in America, of which he was the first president. In addition to teaching, he also led meditation retreats and ordained many western students as monks. These monks are now the abbots at different centers in California.  

2.  Master Thích Nhất Hạnh:

He was born in 1926, entered the Từ Hiếu Temple in Huế at age 16, attended and graduated from Saigon University, and studied at Princeton University in America. He founded VanHanh University and the Youth School for Social Work in 1964. In 1966, he went to United States to campaign for peace in Vietnam at which time the government in the South forbade him to return. He has lived in exile in France for many years, but returned for a visit, at the invitation of the present Vietnamese government, for the first time in 2005.

He has taught Buddhism and meditation in the West as well as in the East, established Plum Village Meditation Center in France; Deer Park Monastery in California; Maple Forest Monastery and Green Mountain Dharma Center, both in Vermont, and is building Magnolia Village Monastery in Mississippi. There are around 100 meditation centers belonging to his tradition. He has written more than 50 books on Buddhism and Meditation.

His book Old Path White Clouds is being made into a movie.

In the West today, Master Nhat Hanh and His Holiness The Dalai Lama are the two leading figures in the Buddhist World. Of all Buddhist leaders, they have had the greatest influence on the propagation of the Dharma in the United States. Thich Nhat Hanh’s books are available at any bookshop and in many languages. Many of them are best sellers. He has used a simple and readable literary style to explain complicated Buddhist concepts.

For practice he uses methods based on the Mahayana and Theravadan texts, but has simplified them and applied them to daily American life. Further, he has Westernized many aspects of his practice. Because of this, many elder Vietnamese Buddhists find his work difficult to accept, however, he has contributed greatly to bringing Buddhism to the Westerner. Thanks to his books, many Westerners, who have been gently teased by being called “Borders Buddhists” now know about Buddhism. 

 

3.  Vietnamese-American Buddhist Temples:

 Most of the practices in Vietnamese-American Buddhist Temples combine Zen and Pure Land practices. Some temples belong to the Thiền tradition, some others are Theravadan, and some follow the Mendicant path. Many temples have youth programs and Vietnamese language classes. Temple organizers put great effort into caring for the mental and spiritual lives of Vietnamese-Americans, and also to bringing peace and joy to the larger society. Almost all the activities of the temples take place on the weekend, because people work during the week. For that reason they celebrate festival days such as New Year, Buddha’s Birthday, and Ullambana on Saturdays or Sundays.

As for architecture, some temples still try to keep the oriental style with upward curved roofs. However, most centers have no Asian architectural style because, for financial reasons, the Vietnamese-American community simply has bought a house, building, or church, erected a Buddhist altar inside, and thus transformed it into a temple

Although we admire the devotion of the Vietnamese-American Buddhists in maintaining the traditional culture and religion of Vietnam we understand that concerns need to be addressed in the future:

·     The Vietnamese language is spoken during ceremonies, but the younger generations are not learning the language. Bilingual ceremonies will be necessary in the future.

·     There are few programs for Americans interested in Buddhism. This hinders integration of Vietnamese-Americans into American society and poses an impediment to continuation of the temples.

·     Temples stress worship more than meditation practice, while meditation is vitally important to experiencing and deepening our faith. Such practice will help us to find joy, peace and happiness in life.

·     Many temples still have no teaching monks or nuns.

·     Most temples do not coordinate with one another their efforts to spread the Dharma.

 We hope to find solutions to address those concerns. Vietnamese temples in America do not face the isolation and discrimination to which the nineteenth century Chinese were subjected. Therefore, there is no need to fear the disappearance of Vietnamese Buddhism in America in the future. 

4.  The English Program at the Hải Ấn Pagoda:

 The Hải Ấn Pagoda was established in 1983 by the Vietnamese Buddhist community in New Britain, Connecticut. In addition to Vietnamese activities, there are English Programs:

·     The Hai An Sangha meets every Thursday from 6:30-8:30 p.m. Each meeting includes an incense ceremony, prostrations, recitation of the Prajnaparamita (or Heart Sutra), chanting of the mantra of Avalokiteshvara (Om Mani Padme Hum), one half hour each of sitting and walking meditation. This is typically followed by a tea ceremony and dharma talk, (except on the second Thursday of each month, when the Five Precepts are recited, and in place of the dharma talk, there is another half hour of sitting meditation).

·     The Dharma Training Class at the Pagoda is uniquely designed to produce individuals trained in Buddhism. The first year of the class concentrates on modern books that provide a broad overview of Buddhism; the second year focuses on sutras from the Theravada, Mahayana and Tantrayana traditions. The third year concentrates on the Mind-Only school, The Avatamsaka Sutra, and books comparing Buddhism with Science, and with other religions. The class is not focused on any particular school of Buddhism; it provides an overview of the main traditions of Buddhism: Theravada; Tibetan; Zen; Pure Land; and others.

·     The Dharma Teacher Program requires one additional year after graduation from the Buddhist Studies program. Students may be invited by the Abbot to participate. The invitation is based on commitment and one's progress in Buddhist practice.

·     The Correspondence Course Program for Prisoners: run by Dharma Teacher Richard Baksa is similar to The Dharma Training Class. There are more than 300 students registered for the course. The Dharma Teacher Order of the Hai An Pagoda, in partnership with the Chuang Yen Buddhist Monastery in New York State, has approved the development of the course.  The need for the course is evident in the positive responses of prisoners who have received Buddhist books and put into practice what they have learned.  They have found that Buddhism has made a positive impact on their lives through fostering an understanding of how unskillful actions have caused them and others much pain and suffering, and as a result, have participated in the Correspondence Course that aids them in the study and practice Buddhism. 

 

 

IV.  American Buddhism:

With many well known teachers who have come from all parts of  the world and from many traditions, American Buddhism has the unique opportunity to synthesize a new form of Buddhism. That vision will hopefully be fulfilled in the future. Presently, there are already certain indications that this is starting to happen:

·     Synthesis: Americans like practices, ideas and traditions that incorporate more than one source. Almost all the Buddhist traditions of the world are present in the United States, providing unique opportunities to learn from the different schools in order to enrich one’s practice and open one’s mind, thus not fostering a monopoly by one tradition. As it happens, Vietnamese Buddhism has already synthesized Zen, Pure Land and Tantrayana into one practice, and  will certainly contribute considerably to the forming of a synthesized American Buddhism.

·     Practicality: Americans are very practical. They always ask the questions, ”What kind of benefit will I get from following a religion”? and “How can religion help transform the physical and mental sufferings of mankind?” Vegetarianism is an example of a Buddhist practice that will help people improve their health; Another example is the Buddhist practice of meditation which will help minds remain calmer, more peaceful, more positive, more self-confident and more wise.

·     Tolerance: Americans who seek alternatives to the major Western religions naturally value tolerance. Buddhism’s tolerant spirit accepts all the different of teachings concerning 84 thousand ways to get into the Dharma. That means that Buddhists are very tolerant.

·     Self reliance: Americans are strongly self-reliant. This is consistent with the Buddhist teaching and practice of self-liberation.

·     Experience: Americans value their own experiential learning, including practice. The fruit of their practice proves the merit of Buddhist teaching. The good teacher applies the teachings to the individual’s experience of daily life, as the Buddha did.

·      Freedom: Americans cherish personal freedom. Buddhism is a religion of freedom. It does not subscribe to dogmas or forms. Its aim is to achieve absolute freedom – that is from the circle of life and death.

·     Individualism: Americans value individualism. And in America, faith is an individual matter. Buddha teaches that everyone should be responsible for his/her own life and that each person has to develop his/her own capacities in order to free himself/herself.

·     Form: In America, practitioners do not care much about form. For example, there are Zen masters who wear jeans and have long hair.

·     Problems to be faced: the difficult problems today include: sex discrimination, discrimination of sexual orientation, abortion, cloning. Buddhism with the spirit of equality, compassion and wisdom will certainly offer effective solutions.

·     Lay leadership: Buddhism in America has not yet established a strong monastic community. Most of the Buddhist centers are run by the lay masters or lay Dharma teachers. This form of engaged Buddhism has come from the special cultural makeup of American society. This model has involved all members of the Sangha in teaching the Dharma.

 Because of these qualities, Buddhism received a warm welcome from the very first day of its arrival in the United States as a religion of peace, tolerance and wisdom. In the period before 1879, Buddhism was considered a mysterious teaching; during the following period Buddhism was considered a religion for intellectuals; and in the current period Buddhism is viewed as a therapy for a happy life. The great masters of the century such as His Holiness the Dalai Lama and Zen Master Thích Nhất Hạnh symbolize two ways of propagating Buddhism, traditional and modern, which respond to different needs of Man. With the spirit of non-self, non-attachment, and altruism, Buddhism will be present in the world not as a religious power but as a therapeutic force, helping mankind to find peace, joy and happiness. American Buddhism with her contemplative character will deepen meditation practice and will in turn help Asian Buddhists rediscover its value.

 

 

Sources:

  1. Ricks Fields, How the Swans Come to the Lake – A Narrative History od Buddhism in America – Shambhala, Boulder, 1981.

  2. Charles S. Prebish and Kenneth K. Tanaka edited, The Faces of Buddhism in America, University of California Press: Berkeley, Los Angeles, London, 1998.

  3. Trần Quang Thuận, Phật Giáo Mỹ (The American Buddhism), Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, 2000.

 

 

 

Xem hình ảnh

 

****

Trở về Trang Hội Thảo

 

---o0o---

 

Source: http://www.vinabri.org/

---o0o---

 

Cập nhật: 01-09-2006

 


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Mục Tập San

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@tpg.com.au
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544