Công cuộc hoằng pháp tại
Hoa Kỳ và
những đóng góp của Phật giáo Việt Nam
TT.TS. Thích Trí Hoằng, Đại học Connecticut, Hoa Kỳ
Tập thơ “Light of
Asia” (Ánh Sáng Á Châu) xuất bản năm 1879 tại Boston,
Massachusetts, nói về cuộc đời Ðức Phật của thi hào người Anh
Edwin Arnold bằng những lời thơ trang trọng như một đánh dấu về
công cuộc hoằng truyền của Ðạo Phật vào Tây Phương nói chung và
Hoa Kỳ nói riêng. Tác phẩm ảnh hưởng mạnh tại Hoa Kỳ và Âu Châu,
gây nên một phong trào học Phật. Từ đó đến nay tác phẩm đã được
tái bản trên 80 lần và tổng cọng trên một triệu cuốn; và cũng đã
được dịch sang hầu hết các ngôn ngữ Âu Châu.
Ở đây chúng ta sẽ bàn về lịch sử hoằng pháp, kinh nghiệm hoằng
pháp của các truyền thống Phật Giáo có mặt tại Hoa Kỳ và những
đóng của giáo đoàn Việt Nam, cũng như tương lai Phật Giáo tại
Hoa Kỳ.
1. Quá Trình Hoằng Pháp tại Mỹ:
Tìm hiểu lịch sử Phật Giáo Mỹ chúng ta có thể tạm thời chia làm
ba giai đoạn: giai đoạn du nhập trước năm 1879, giai đoạn hình
thành từ năm 1879 đến năm 1963, và giai đoạn phát triển từ năm
1963 đến nay.
1.1. Giai đoạn du nhập trước năm 1879:
Ðất nước hoa Kỳ là
một xứ sở trẻ trung, được lập quốc vào năm 1776. Phật Giáo đã có
mặt tại đây ngay trong những ngày trước khi người da trắng biết
đến đại lục này. Những tư liệu về người đầu tiên đã mang Ðạo
Phật đến Hoa Kỳ không có nhiều. Tuy nhiên có một sự kiện đáng
ghi nhớ. Năm 1761, ông M. de Guignes, một học giả người Pháp đã
phiên dịch và phổ biến một tài liệu trong văn khố Trung Quốc về
một Tỳ Kheo người Hoa tên là Hwui Shan cùng bốn vị sư khác đến
Châu Mỹ năm 458. Ðến năm 1875, Charles G. Leland xuất bản cuốn “Fu-sang
on the Discovery of America by Chinese Buddhist Priests in the
Fifth Century” (Fu-sang về Việc Khám Phá Châu Mỹ bởi Các
Tăng Sĩ Phật Giáo Người Hoa trong Thế Kỷ Thứ Năm) ủng hộ quan
điểm của Guignes. Năm 1885, Edward Payson Vining xuất bản cuốn “An
Inglorious Columbus” (Một Columbus không được vinh danh) hay
“Evidence that Hwui Shan and a Party of Buddhist Monks from
Afghanistan Discovered America in the Fifth Century A.D.”
(Bằng Chứng về Hwui Shan và Các Tăng Sĩ Phật Giáo từ Afghanistan
đã Khám Phá Châu Mỹ vào Thế Kỷ Thứ Năm sau Công Nguyên). Tác giả
trích dẫn tài liệu báo cáo của Tỳ Kheo Hwui Shan với chi tiết
cuộc hành trình đến Châu Mỹ, về nếp sống của dân bản xứ, về đời
sống cá nhân, gia đình, xã hội, tập quán, tín ngưỡng và kết
luận: “Trước đây quốc độ này không biết gì về Phật Giáo, nhưng
vào triều nhà Tống năm 458, có năm vị sư từ nước Ki-pin (Kabul,
Afghanistan) đã du hành sang nước ấy, mang theo kinh điển, hình
tượng và giáo hóa dân chúng quy y theo Phật, từ bỏ thói hư tật
xấu.” Vết tích của công cuộc hoằng pháp này được tìm thấy năm
1914 về tảng đá có chạm hình chữ Vạn tại Lakeside Mountains, gần
thung lũng San Jacinto, California. Năm 1953, Gordon Ekholm viết
bài biên khảo về những tương đồng giữa nghệ thuật Phật Giáo, Ấn
Ðộ và Mexico như bệ đá tòa sen, bình
bát, mặt trời, rồng, rắn..
Những biểu tượng này xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ năm, thời
điểm mà vị sư Trung Hoa có mặt tại Tân Thế Giới.
Năm 1826, Eugene
Bournouf soạn cuốn Essai sur le Pali (Văn Phạm Pali),
dịch Kinh Diệu Pháp Liên Hoa sang tiếng Pháp. H.D. Thoreau
(1817-1862) dịch Kinh Pháp Hoa từ tiếng Pháp sang tiếng Anh. Sau
đó nhà Ấn Ðộ Học người Hà Lan, ông Kern, đã nghiên cứu và dịch
Kinh Pháp Hoa từ nguyên bản tiếng Sanskrit sang tiếng Anh. Ngoài
ra những tác phẩm dịch thuật của The Sacred Books of the East
(Thánh Thư Phương Ðông) do Max Miller chủ biên, đã gây những ảnh
hưởng lớn trong giới trí thức trong việc tìm hiểu văn hóa Á
Ðông.
Vấn đề giao lưu giữa
Âu Châu và Á Châu có thể bắt nguồn từ xa xưa qua những chuyến
buôn bán theo đường tơ lụa, cuộc viễn chinh của Alexandre the
Great cho đến chuyến du hành của Marco Polo ở thế kỷ thứ mười
ba. Phương Ðông luôn luôn là thế giới huyền bí hấp dẫn. Nhưng từ
thế kỷ thứ mười lăm trở đi người Tây Phương đến Á Châu thường
xuyên hơn. Họ đến với hai mục đích là chiếm thuộc địa và truyền
đạo. Năm 1497, Vasco de Gama đến Ấn Ðộ. Sau đó là đoàn quân xâm
lược, các giáo sĩ, thương gia đến Á Châu với huyền thoại “Khai
Hóa”. Phật Giáo bị xuyên tạc và nhìn như một tôn giáo ma quỷ. Bồ
Ðào Nha chiếm Tích Lan năm 1501 cùng với các giáo sĩ. Họ chủ
trương: “Trước hết dùng hình thức giảng đạo để chuyển hóa, nếu
không thành công dùng gươm đao.” Kết quả họ đã chém giết dân
Sinhalese dã man, đốt phá các tự viện Phật Giáo thành tro bụi.
Hà Lan thay thế Bồ Ðào Nha ra đạo luật cấm những người không rửa
tội, không được sở hữu tài sản đất đai.
Năm 1549, Francis
Xavier đến Nhật. Một hôm ông đến chùa gặp thiền sư Nanjo, một vị
sư thông thái và hài hước. Thấy các sư đang thiền, Xavier hỏi:
“Các sư đang ngồi nghĩ chuyện gì?” Sư đáp: “Một số đông chúng
tôi ngồi tính nhẩm tháng qua nhận được bao nhiêu tiền cúng
dường, một số khác tính toán xem mua sắm ở đâu giá rẻ, một số
khác nữa tìm kiếm nơi du hí. Nghĩa là họ nghĩ chuyện không đâu!”
Người Pháp cũng đã
đưa quân đến Việt Nam năm 1858 với danh nghĩa bảo vệ các nhà
truyền giáo Thiên Chúa và đã đô hộ Việt Nam gần cả trăm năm.
Ngoài những động cơ
chiếm đất thuộc địa với những tài nguyên phong phú của các nước
Á Châu, tính cách huyền bí và nền văn minh sáng chói của các xứ
này cũng là động lực hấp dẫn. Sau đó họ đã khám phá Phật Giáo
như một giáo thuyết giác ngộ giải thoát. Những nghiên cứu dịch
thuật của các học giả Âu Châu đã khiến Phương Tây thần tượng nền
văn hóa Phương Ðông. Họ tìm hiểu văn hóa Á Châu với ba mục đích:
1. phục vụ cho mục
đích cai trị,
2. phục vụ cho mục
đích truyền đạo,
3. đáp ứng nhu cầu tâm linh vì không thỏa mãn với văn hóa Tây
Phương.
Học giả Thomas Rhys
Davids là người nổi tiếng về những nghiên cứu dịch thuật văn học
Pali. Lúc đầu có mục đích dịch các văn kiện luật lệ phục vụ cho
chính quyền thuộc địa, nhưng sau đó ông đã khám phá ra kho tàng
kinh điển Pali. Ông ta cũng là người đã sáng lập The Pali Text
Society (Hội Nghiên Cứu Pali) năm 1881 và Hội đã phiên dịch toàn
bộ Tam Tạng Kinh Ðiển Pali sang tiếng Anh.
Cho mục đích truyền
đạo, chúng ta thấy có những tác phẩm xuyên tạc Phật Giáo như “Phép
Giảng Tám Ngày” của giáo sĩ dòng Tên Alexandre de Rhodes đã
nhục mạ các tôn giáo Ðông Phương như Phật, Khổng và Lão. Nhưng
sau đó cũng có những tác phẩm nghiêm túc như: La Traité de la
Grand Sagesse (Ðại Trí Ðộ Luận) do giáo sĩ dòng Tên Etienne
Lamotte dịch từ nhiều bản ngôn ngữ khác nhau như tiếng Sanskrit,
tiếng Hoa, tiếng Tây Tạng, tiếng Nhật.. sang tiếng Pháp trong
vòng ba mươi năm, tập đầu xuất bản năm 1949 và tập cuối cùng năm
1979. Lúc ban đầu dĩ nhiên giáo sĩ Lamotte nghiên cứu Phật Giáo
không phải để xiển dương Phật Pháp, nhưng mục đích để tìm cách
đánh đổ giáo lý nhà Phật và tuyên dương thần học Thiên Chúa. Dần
dần những tư tưởng giác ngộ giải thoát của Phật Giáo đã chuyển
hóa ông ta từ lúc nào. Tác phẩm này được dịch thuật hết sức công
phu và chuẩn xác. Ngoài ra ông còn có những công trình nghiên
cứu về lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ. Trong giới nghiên cứu Phật Học
tôn xưng ông là tái sinh của một vị Bồ Tát.
Những tác phẩm này đã
ảnh hưởng sâu đậm trong giới trí thức, nhất là trong lãnh vực
triết lý. Bắt đầu với Arthur Schopenhauer (1788-1860) chịu ảnh
hưởng triết học Phật Giáo về Dục. Sau đó là những triết gia khác
như Bergson, nhà văn hóa Helena Blavatsky, Rickert, Jaspers,
Wittgenstein, Heidegger..
Trong giai đoạn này,
Phật Giáo được chấp nhận như một tôn giáo của trí tuệ và khoa
học mà sự ra đời của thi phẩm Light of Asia (Ánh Sáng Á
Châu) năm 1879 đánh dấu sự thành tựu văn học lớn lao khi Phương
Tây bắt đầu tiếp xúc với Phật Giáo và Phật Giáo trở thành nguồn
cảm hứng tâm linh phong phú cho người đương thời.
1.2. Giai Ðoạn Hình Thành từ 1879 đến 1963:
Dưới đây là những sự kiện ảnh hưởng mạnh đến công cuộc hoằng
pháp tại Tây Phương: những hoạt động của Ðại Tá H. Olcott, công
trình phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh, nổ lực Mỹ hóa
đạo Phật của Paul Carus và công trình hoằng pháp của thiền sư
D.T. Suzuki.
1.2.1. Những hoạt động của Ðại Tá Henry Olcott:
Ông sinh năm 1832 tại
New Jersey và mất năm 1907 tại Adgar, Ấn Ðộ. Ông là người có
công trong việc hoằng pháp tại Hoa Kỳ, chấn hưng Phật Giáo Tích
Lan và đóng góp nhiều công sức trong việc phục hưng Phật Giáo
tại các nước Á Châu khác. Năm 1875 ông cùng bà Helena Blavatski
thành lập Hội Thông Thiên Học (The Theosophical
Society) để học hỏi Phật
Pháp cùng các tôn giáo khác và khoa học. Ngày nay Hội trở thành
một hội quốc tế với chi nhánh trên 60 quốc gia.
Năm 1880 ông cùng bà
Blavatski sang Tích Lan. Lúc đó chính quyền thực dân Anh đang
tìm cách khống chế Phật Giáo và các đoàn truyền giáo ngoại quốc
đang tìm cách Thiên Chúa Giáo hóa Tích Lan. Trước tình thế đó,
cả hai nguyện sẽ làm cái gì để cứu vãn Phật Giáo Tích Lan. Năm
1881 ông và bà Blavatski quy y Tam Bảo. Buổi lễ thật cảm động
dưới sự chứng minh của hàng ngàn vị tăng. Ðiều này đã hổ trợ
tinh thần mạnh mẽ cho dân Tích Lan trong công cuộc chấn hưng
Phật Giáo. Sau đó hai người đã đi khắp các làng quê kêu gọi
thành lập trường học Phật Giáo, nhà xuất bản.. Ông cũng vận động
thành lập các trường học Phật Giáo tại các nước khác như Nhật
Bản, Thái Lan, Miến Ðiện Ấn Ðộ.. Ông vận động phục hồi lễ rước
kiệu Phật trong ngày Phật Ðản, trùng tu chùa chiền. Phật Giáo
Tích Lan nhờ thế đã phục hồi trong thời gian ngắn. Năm 1891 ông
cùng Ðại Sư Anagarika Dharmapala thành lập hội Mahabodhi để phục
hưng Phật Giáo Ấn Ðộ. Với sự hổ trợ của nhiều trí thức người
Anh, trong đó có thi hào Edwin Arnold, vận động với chính quyền
để yêu cầu trả lại những Phật tích đang nằm trong sự cai quản
của một giáo phái Ấn Ðộ.
Năm 1889, ông cùng
Thượng Tọa Sumangala, phỏng theo sáu màu hào quang của Ðức Phật
đã phác họa ra cờ Phật Giáo. Cờ này được Tích Lan công nhận làm
giáo kỳ. Ðến năm 1950 tại Ðại Hội Phật Giáo Thế Giới (The World
Fellowship of Buddhist) lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo,
Tích Lan với sự tham dự của 26 nước, lá cờ này được công nhận là
cờ Phật Giáo Thế Giới. Phái đoàn Phật Giáo Việt Nam do Hòa
Thượng Tố Liên lãnh đạo.
Ông mất năm 1907 tại
Adgar, Ấn Ðộ, hưởng thọ 75 tuổi. Suốt 38 năm ròng rã ông đã bỏ
hết thời giờ của mình cho công cuộc phục hưng Phật Giáo tại Tích
Lan và các nước Á Châu khác.
1.2.2. Việc phiên dịch kinh tạng Pali sang tiếng Anh:
Công việc phiên dịch
này do Hội Nghiên Cứu Pali (The Pali Text Society) đảm trách.
Hội được thành lập năm 1881. Hội trưởng là ông T. W. Davids. Hội
đã quy tụ được nhiều học giả Pali và tiến hành công cuộc dịch
thuật. Sau khi ông Davids qua đời, vợ ông đảm nhận chức vụ hội
trưởng và tiếp tục công cuộc nghiên cứu và dịch thuật. Ngày nay
tạng kinh Pali đã được dịch sang Anh ngữ. Những kinh sách bằng
tiếng Anh này đã giúp cho giới trí thức phương tây có phương
tiện đi sâu vào giáo lý Phật Ðà.
1.2.3. Nổ lực Mỹ hóa đạo Phật của Paul Carus (1852-1919):
Paul Carus là một
Phật tử gốc Ðức, con của một mục sư Tin Lành. Sau khi tốt nghiệp
tiến sĩ ngôn ngữ học, ông ta thất vọng với truyền thống Cơ Ðốc
Giáo và mất niềm tin. Ông sang Mỹ và sống tại New York, giúp
việc cho một tờ báo tiếng Ðức. Năm 1893 tại Ðại Hội Tôn Giáo Thế
Giới (The World Parliament of Religions) tổ chức ở Chicago, Paul
Carus có cơ hội tiếp xúc học hỏi với các cao tăng thạc đức Phật
Giáo, ông ta đã khám phá đạo Phật và từ đó đã phụng sự đạo Phật
với tất cả lòng hăng say và nhiệt thành của mình. Với ông Phật
Giáo là con đường đúng đắn để phát triển tâm linh, là tôn giáo
dựa vào lý trí, thực nghiệm và khoa học. Năm 1894, Carus sáng
tác Gospel of Buddha (Phúc Âm của Phật) và Karma
(Nghiệp) với mục đích hiện đại hóa đạo Phật và đem đạo Phật hòa
vào văn hóa tư tưởng Tây Phương. Với 38 tác phẩm ông đều nhắm
đến mục đích chứng minh cho người Tây Phương thấy giá trị của
đạo Phật trong vấn đề đáp ứng nhu cầu tâm linh mà người Tây
Phương đang cần đến.
Năm 1899, Paul Carus
đã viết cho Daniel C. Beard, giáo sư mỹ thuật tại New York, đề
nghị tạc một pho tượng Phật với đức tính từ bi độ lượng của Á
Ðông và với đặc tính giản dị, sống động của nghệ thuật Tây
Phương. Carus dùng âm nhạc Victorian để soạn kịch, sám nguyện
Phật Giáo cho các buổi lễ.
Carus đã không ngần
ngại sử dụng những hình thức Cơ Ðốc Giáo quen thuộc với người
Tây Phương để chuyển tải triết lý và phương pháp tu trì của đạo
Phật. Ông nhìn thấy bản tính Ðức Phật A Di Ðà của Tịnh Ðộ Tông
có thể thay thế hình ảnh Thượng Ðế hữu hình: “A Di Ðà là trật tự
thế giới, là chân lý tuyệt đối có thể điều hành luật tiến hóa..”
Trong ước muốn phổ cập đạo Phật với quần chúng Hoa Kỳ, ông đã
bảo trợ cho đại sư Dharmapala sang Hoa Kỳ hoằng pháp trong nhiều
năm, cũng như hổ trợ công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T.
Suzuki.
1.2.4. Công cuộc hoằng pháp của thiền sư D.T. Suzuki
(1870-1966):
Thiền sư Suzuki đến
Mỹ năm 1897, tá túc tại nhà Paul Carus 11 năm. Hai người đã hợp
tác phiên dịch nhiều kinh sách sang tiếng Anh và tiếng Nhật.
Giới thiệu tư tưởng Ðông Phương và Phật giáo đến với giới trí
thức Phương Tây. Năm 1911, Suzuki thành hôn với Beatrice Erskine
Lane, hội viên Hội Thông Thiên Học. Hai vợ chồng hợp tác nhau
xuất bản đặc san The Eastern Buddhist (Phật Tử Phương
Ðông). Suzuki viết nhiều sách về Thiền, phiên dịch các kinh điển
Ðại Thừa. Những tác phẩm của ông ta như những luồng gió mát, đem
lại những sinh khí mới cho giới trí thức phương Tây. Trong thế
kỷ 19, Âu Mỹ biết nhiều đến Phật Giáo Nam Truyền nhờ sự phiên
dịch kinh Pali của Hội Pali Text Society, còn sự hiểu biết về
Ðại Thừa rất khiêm nhường vì chỉ có vài cuốn kinh được dịch ra
ngôn ngữ Âu Châu mà thôi. Do đó khi những cuốn sách của Suzuki
viết về Thiền, cũng như Phật Giáo Bắc Truyền đã đưa tâm thức Tây
Phương tiếp xúc với chân trời mênh mông của Ðại Thừa. Tinh thần
phóng khoáng, tự do, vô chấp, giải thoát của Thiền đã gây hứng
thú kinh ngạc cho độc giả Âu Mỹ, giúp họ tìm thấy lối thoát
trong sự khủng hoảng của triết học và thần học Tây Phương trước
sự phát triển của khoa học. Những cuốn sách của Suzuki rất được
mọi giới trân trọng và tạo nên một phong trào học Thiền trong
những thập niên 50 và 60. Danh từ Zen (Thiền) được Suzuki giới
thiệu và trở thành danh từ phổ biến đồng nghĩa với chữ Phật Giáo
vì người Tây Phương khi nói đến Phật Giáo người ta chỉ biết đến
Thiền. Suzuki giảng dạy Phật Pháp và Thiền tại Ðại Học Columbia
và nhiều trường đại học khác, gây ảnh hưởng rất mạnh với Carl
Jung, Kaen Honey, Erich Fromm, Martin Heidegger, Thomas Merten,
Allen Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Gary Snyder. Lynn
White Jr., một sử gia, đã tán dương Suzuki là người đã giúp Tây
Phương phá vỡ bức thành ngăn cách, vượt qua những hạn hẹp khu
vực để phóng tầm nhìn ra chân trời bao la của thế giới.
Trong giai đoạn này, người Tây Phương đã tiếp xúc với Phật Giáo
qua kinh điển. Nhiều kinh sách Nam Truyền và Bắc Truyền đã được
phiên dịch. Những tư tưởng thâm sâu của triết học Phật Giáo đã
làm cho người Tây Phương sửng sờ thích thú. Trên phương diện trí
thức có thể nói Phật Giáo đã ảnh hưởng đến văn hóa Tây Phương
trên nhiều phương diện từ văn chương đến khoa học nghệ thuật.
Ngoài những triết gia chịu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo, chúng
ta còn thấy những tác phẩm văn học đã xuất hiện. Sự ra đời của
tác phẩm văn học đoạt giải thưởng Nobel Sidhartha của
Herman Hesse đánh dấu ảnh hưởng tư tưởng Phật Giáo như một nguồn
cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật.
Cũng trong giai đoạn
này, sự kiện những công nhân Trung Hoa sang làm đường xe hỏa tại
Mỹ cho công ty Central Pacific từ những năm 1860 đã góp phần
không nhỏ vào công cuộc hoằng pháp tại đây.
1.3. Giai Ðoạn Phát Triển từ 1963 đến nay:
Dấu mốc 1963 là một
thời điểm quan trọng bắt đầu giai đoạn phát triển của Phật Giáo
tại Hoa Kỳ. Năm 1963 có một sự kiện làm thế giới bàng hoàng xúc
động, đó là sự tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tại Sài
Gòn để cầu nguyện cho hòa bình và công bằng xã hội. Hình ảnh một
vị sư ngồi kiết già an nhiên tự tại trong ngọn lửa hồng, đã
chứng minh sức mạnh nội tâm của đạo Phật và đã chấn động lương
tri nhân loại. Thế giới bắt đầu phản tỉnh.
Cuộc chiến tại Việt
Nam càng ngày càng khốc liệt, những hình ảnh tang thương của
chiến tranh đã gây nên phong trào phản chiến khắp nơi tại Hoa
Kỳ. Kèm vào đó sự khủng hoảng về văn hóa, đạo đức, tâm linh tại
Tây Phương trước sự phát triển của khoa học với sự nổi loạn của
phong trào sinh viên, phong trào hippies trong những thập niên
60 chống đối lại những giá trị cổ điển, chống đối lại quyền lực
xã hội đương thời trong ước muốn xây dựng một trật tự xã hội
mới. Những cuộc cách mạng của giới trẻ thực hiện trong những
cuộc biểu tình phản chiến tại Woodstock, tiểu bang New York cũng
như khắp nơi trên nước Mỹ; phong trào nhạc trẻ với ban nhạc
Beattles chịu ảnh hưởng đạo học Ðông Phương đã làm thay đổi tận
gốc rễ xã hội Hoa Kỳ. Trước những xáo trộn xã hội, tâm trạng
hoang mang cùng cực của con người, những giá trị đạo đức đảo
lộn, những giáo điều bị sụp đỗ, đạo Phật có mặt như một giải
đáp.
1.3.1. Các vị đạo sư:
Cũng trong thời gian đó, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của Tây Tạng đã rời
thủ đô Lhasa năm 1959 cùng với mấy trăm ngàn dân Tây Tạng sang
tỵ nạn tại Ấn Ðộ. Sự có mặt của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma và chư tăng
Tây Tạng đã đóng góp tích cực cho sự phát triển đạo Phật tại
Phương Tây.
Chưa bao giờ mà nước Mỹ có nhiều bậc đạo sư phương Ðông, nhiều
cao tăng thạc đức Phật Giáo đến giảng dạy như giai đoạn này. Các
vị như: Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Hòa Thượng Tuyên Hóa, Thiền Sư Thích
Nhất Hạnh, Thiền Sư Sungsan.. Trong giai đoạn này chú tâm nhiều
vào sự tu tập. Rất nhiều trung tâm tu tập được thiết lập lên
khắp nơi với những khóa tu từ một hai ngày đến hàng tuần, hàng
tháng hay nhiều năm liên tục. Nếu trong giai đoạn trước đạo Phật
được biết đến trên phương diện kiến thức thì giai đoạn này Phật
tử Mỹ đã chú trọng vào sự thực tập.
Sự tu tập Phật Giáo
không những đem lại sự an vui giải thoát cho mai hậu, và đem lại
an lạc cho cuộc sống hiện tại. Cuộc sống tại Mỹ quá căng thẳng
do đó những khóa tu đã đem lại sự thư giản, quân bình cho đời
sống tâm lý, con người cảm thấy lạc quan hơn và tỉnh táo hơn sau
những khóa tu, cũng như cảm nhận được những niềm vui sâu sắc
trong lúc thiền tập. Vì lẽ đó mà những trung tâm tu tập lúc nào
cũng đông người tham dự. Những áp dụng thiền tập vào khoa tâm lý
trị liệu càng ngày càng phổ biến và đã mang lại những kết quả
khả quan. Có những bệnh viện đã áp dụng thiền tập để chữa trị
nhưng bác sĩ không nói đó là thiền vì muốn tránh đi những thành
kiến tôn giáo trở ngại cho công cuộc điều trị.
1.3.2. Giới Trẻ:
Ðạo Phật đã hấp dẫn
giới trẻ Hoa Kỳ với nhiều lý do:
- Không thỏa mãn với
truyền thống tôn giáo cố hữu
- Tinh thần tự do,
phóng khoáng, khoan dung của đạo Phật
- Các nhạc sĩ đã dùng
phương tiện âm nhạc để quảng bá đạo Phật.
- Những phim ảnh của
Hollywood đã thực hiện về những đề tài Phật Giáo: Little Buddha,
Seven Years in Tibet, Kundun..
- Những ca sĩ nổi
danh, các tài tử thượng tặng là những Phật tử thuần thành như:
Richard Geere, Tina Turner..
- Ảnh hưởng của những
vụ loạn dâm của các linh mục.
1.3.3. Từ Thiện Xã Hội:
Ðạo Phật Hoa Kỳ đã
nhập thế với những hoạt động xã hội như:
- The Buddhist
Alliance for Social Engagement (Liên Hội Phật Giáo Phụng Sự Xã
Hội): các thiện nguyện viên làm việc trong các bệnh viện, nhà
tù, giúp người vô gia cư..
- Greyston Mandala:
đuợc thành lập bởi thiền sư Bernard Glassman tại thành phố New
York để giúp những người vô gia cư. Họ có những lò bánh mì để
tạo công ăn việc làm, những khu nhà cho người vô gia cư trú
ngụ..
- Zen Hospice
Project: giúp những người sắp qua đời được chết trong bình an.
1.3.4. Ðào Tạo:
Ý thức rằng công việc
truyền thừa là nhiệm vụ quan trọng trong việc duy trì và Phát
huy Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Các truyền thống đều có những chương
trình đào tạo, nhưng chỉ có tính cách nội bộ. Có một vài trung
tâm có những chương trình đào tạo quy mô:
- Barre Center
for Buddhist Studies: tổ chức mỗi năm hai tuần tu học.
- Ngoài ra còn có Ðại
Học Phật Giáo Naropa tại Boulder, tiểu bang Colorado; Ðại Học
Phật Giáo Tây Lai Tự ở Los Angeles, California; Ðại Học Phật
Giáo Dharma Realm University tại Talmage, California; Phật Học
Viện Làng Mai, Pháp. Các đại học lớn của Mỹ như Harvard, Yale,
Columbia, Berkeley, Wisconsin.. đều có chương trình Phật Học.
Trong giai đoạn này
đạo Phật thật sự bén rễ vào xã hội Hoa Kỳ. Các truyền thống Phật
Giáo đều có mặt tại Mỹ với những đóng góp tích cực trong công
cuộc hoằng truyền Phật Pháp. Ngoài những cộng đồng người Hoa,
còn có các cộng đồng Á Châu khác của người Nhật, Tây Tạng, Việt,
Thái, Lào, Cam Bô Chia, Miến Ðiện, Tích Lan, Triều Tiên.. với
những sinh hoạt cá biệt đã làm cho Phật Giáo Mỹ có những màu sắc
phong phú.
2.
Kinh Nghiệm Hoằng Pháp của Các Truyền Thống Phật Giáo tại Hoa
Kỳ:
2.1. Truyền Thống Theravada:
Nam Truyền Phật Giáo
đã đến Hoa Kỳ rất sớm. Năm 1893 Ðại Sư Anagarika Dharmapala đã
đến Hoa Kỳ hoằng pháp cho đến đầu thế kỷ 20. Tuy có những thuận
duyên như kinh tạng Pali đã được dịch sang tiếng Anh, nhưng sau
ngài Dharmapala công cuộc hoằng pháp bị gián đoạn vì thiếu các
sư thông thạo Anh ngữ sang hoằng hóa.
Mãi đến năm 1966, The
Buddhist Vihara Society of Washington được thành lập. Sau đó các
chùa Thái, Miến Ðiện, Tích Lan lần lượt được thành lập. Thiền
viện Stillpoint (Tịnh Ðiểm) do một thanh niên người Mỹ thành lập
tại San Jose, California năm 1971.
Thiền Vipassana (Minh
Sát) đến Mỹ năm 1980 do những người học trò của Thiền Sư Mahasi
Sayadaw khởi xướng. Chủ trương không chú trọng nhiều đến hình
thức sinh hoạt của Nam Tông như: nghi lễ, tụng kinh, giảng dạy,
làm phước.. nhưng chú trọng vào hành thiền để giúp ngườI bớt
căng thẳng, khổ đau, thêm tự tin, tăng trí tuệ. Nhóm này do
những thiền sư cư sĩ chủ trương. Họ thoát ra khỏi hình thức của
Phật Giáo Nam Tông để hoạt động độc lập, chú trọng đến cư sĩ. Có
những trung tâm lớn như:
- The Insight
Meditation Society (IMS) tại Barre, Massachusetts, do Joseph
Goldstein, Jack Kornfield, Sharon Salzberg điều hành. Trung tâm
tổ chức những khóa tu quanh năm, muốn tham dự phải ghi tên và
đóng lệ phí trước cả nửa năm vì quá đông người tham dư.
- Spirit Rock
Meditation Center tại Marin, California: đây là chi nhánh của
IMS, do Jack Kornfield, James Baraz, Sylvia Boorstein và Anna
Douglas.
- Vipassana Center
của S.N. Goenka tại Shelburne Falls, Massachusetts. Trung tâm
này thường xuyên tổ chức khóa tu 10 ngày với những kỷ luật khắc
khe. Thực tập nhiều hơn giáo lý. Chủ trương không xen lẫn trong
sự thực tập với những phương pháp thiền khác.
Sau chiến tranh Việt Nam, những cộng đồng Ðông Nam Á di cư đến
Mỹ ngày càng nhiều do đó những ngôi chùa đã được thành lập để
phục vụ nhu cầu tín ngưỡng. Trên toàn nước Mỹ có khoảng 100 chùa
Nam Tông do các Phật tử Thái, Miến Ðiện, Tích Lan, Lào, Kam Pu
Chia thành lập.
Vì những khắc khe
trong vấn đề hành trì nên Phật Giáo Nam Truyền không tồn tại
được trong một địa phương không có một cộng đồng Phật Giáo hổ
trợ. Do đó tuy đến Mỹ rất sớm nhưng không duy trì và phát triển
được. Các sư Nam Tông cũng rất khó khăn trong vấn đề đi lại vì
giới luật Nam Tông không cho phép các sư tự nấu ăn, lái xe..
Những người như Jack Kornfield vốn là tu sĩ tại Thái Lan trước
đây, nhưng khi về lại Hoa Kỳ không thể tiếp tục được cuộc sống
xuất gia, đành phải hoàn tục. Ông cùng với những cư sĩ khác hoạt
động Phật sự độc lập với truyền thống Nam Tông.
2.2. Truyền Thống Trung Hoa:
Năm 1848 khi vàng
được tìm thấy tại San Francisco, người Trung Hoa đã sang Mỹ để
làm phu mỏ. Từ năm 1860 đến cuối thế kỷ có khoảng 63 ngàn công
nhân Trung Hoa để làm việc cho công ty đường sắt. Thế hệ của
những người Hoa đầu tiên này vì nhớ quê hương đã thành lập mấy
trăm ngôi chùa nhỏ nơi họ sinh sống để làm nơi nương tựa về tâm
linh. Những ngôi chùa này sau đó đã không duy trì được. Ngày nay
chỉ còn một vài ngôi còn tồn tại ở thành phố San Francisco. Lý
do:
- Không có sư trụ
trì bảo quản và duy trì
- Vì ngôn ngữ bất
đồng do đó không có Phật tử bản địa tiếp nối
- Phật Giáo bị kỳ
thị
- Thế hệ trẻ không
được giáo dục về Phật Giáo và bị Mỹ hóa
- Chùa chỉ chú trọng
về tín ngưỡng, thiếu phần tu học
Tuy tín tâm của người
Hoa rất mạnh và ý thức về truyền thống vững chãi, nhưng thế hệ
của đợt di cư đầu tiên của người Hoa không thành công trong việc
duy trì văn hóa tín ngưõng của mình. Nhưng từ sau năm 1949, đợt
di cư thứ hai gồm những người có tài sản và học thức. Họ xây
dựng những ngôi chùa lớn có tăng ni hướng dẫn, tổ chức những
khóa tu học cho người lớn và trẻ em. Chùa Tây Lai ở California
có Ðại Học Phật Giáo, Vạn Phật Thánh Thành có Ðại Học Dharma
Realm University, Chùa Chuang Yen ở tiểu bang New York đã đưa
Ðại Tạng Kinh vào CD-ROM.
Bác sĩ Paul Fung
thành lập Giáo Hội Phật Giáo Phổ Ðồng (Buddha’s Universal
Church) tại San Francisco năm 1963. Chùa dạy giáo lý song ngữ,
có ban hợp ca và sinh hoạt thanh thiếu niên.
Charles Luk
(1898-1978) đệ tử Ngài Hư Vân, vâng lời chỉ giáo của sư phụ, đã
dịch kinh từ tiếng Hoa sang tiếng Anh suốt 20 năm từ 1956 đến
1976.
Các danh tăng đương
thời như:
- Hòa Thượng Tuyên
Hóa (1908-1985): đệ tử Ngài Hư Vân, chủ trương Thiền Tịnh song
tu. Thành lập Vạn Phật Thánh Thành, dịch nhiều kinh điển sang
tiếng Anh và độ cho nhiều người Mỹ xuất gia.
- Ngoài ra có các
ngài khác cũng thường xuyên sang Mỹ hoằng hóa như Hòa Thượng
Tinh Vân, Hòa Thượng Thánh Nghiêm..
- Tổng số người Hoa
tại Mỹ khoảng một triệu người với 150 ngôi chùa.
2.3. Truyền Thống Nhật:
2.3.1. Thiền:
Thiền sư Soyen Shaku
đến Hoa Kỳ năm 1893 dự Hội Nghị Tôn Giáo tại Chicago và bắt đầu
cuộc hoằng hóa. Sau đó có các thiền sư khác tiếp tục như:
Shinryu Suzuki, Sogaku Harada.. Những nổ lực của các thiền sư
Nhật đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống tín ngưỡng
của Hoa Kỳ. Thiền sư D.T. Suzuki với những tác phẩm về Thiền đã
chinh phục giới trí thức Mỹ và gây nên phong trào tu học Thiền
trong những thập niên 50 và 60. Sau những thế hệ thiền sư Nhật,
các đệ tử người Mỹ đã duy trì và phát triển các trung tâm thiền
đó. Hiện nau khắp nước Mỹ có khoảng 150 trung tâm thiền.
Thiền sư Taizan
Maezumi lãnh đạo trung tâm thiền ở Los Angeles, phương pháp của
ông là: “Hoa Kỳ nhưng truyền thống” nghĩa là chặt chẽ trong kỷ
luật, cơ cấu tổ chức cũng như hành trì.
Thiền sư Yasutani đến
Hoa Kỳ năm 1962. Ðệ tử nổi tiếng của Ngài là Phillip Kapleau, kế
nghiệp quản nhiệm thiền đường ở Rochester, New York. Kapleau
viết cuốn The Three Pillars of Zen (Ba Trụ Thiền) năm
1965 nhấn mạnh về thiền quán và phương pháp ngồi thiền. Ông đã
cố gắng Mỹ hóa cách hành trì từ nghi lễ, pháp danh, phục sức..
Ðệ tử Mỹ của thiền sư
Shinryu Suzuki là Richard Baker cố gắng đưa thiền vào đời sống
Hoa Kỳ, vừa phát triển đời sống khoa học kỹ thuật, vừa phát
triển đời sống tâm linh. Baker làm giám đốc Trung Tâm Thiền ở
San Francisco (San Francisco Zen Center).
2.3.2. Soka Gakkai:
Phát xuất từ Nhật
Liên Tông, do Tsunesaburo Makiguchi và Josei Toda thành lập tại
Nhật năm 1937, là một tổ chức cư sĩ lấy Kinh Pháp Hoa làm căn
bản. Ðặt trọng tâm vào đức tin nơi Pháp Bảo: Kinh Pháp Hoa. Sự
hành trì đơn giản giống Tịnh Ðộ Tông, nhưng thay vì niệm Phật
chỉ niệm danh hiệu Namu Myoho Renge Kyo (Nam Mô Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh). Mục tiêu của Soka Gakkai là thực hiện một xã hội
phúc lợi, tốt đẹp, hoàn mỹ cho từng cá nhân và cộng đồng. Lúc
đầu hội viên của giáo phái này là những người Mỹ gốc Nhật, nhưng
hiện nay Soka Gakkai có khoảng 150 ngàn tín đồ hầu hết là người
Mỹ. Hội có 70 cơ sở tại Hoa Kỳ.
Sự thành công của
Soka Gakkai đặt ở sự thành tâm của tín đồ trong việc thực hiện
lý tưởng Phật Hóa toàn nước Nhật và mỗi thành viên đều có nhiệm
vụ hoằng pháp. Do đó chỉ trong vòng 70 năm Soka Gakkai đã chinh
phục được gần 20 triệu tín đồ tại Nhật.
2.4. Truyền Thống Triều Tiên:
Người Triều Tiên bắt
đầu đến Mỹ sau chiến tranh kết thúc năm 1951. Những cộng đồng
Triều Tiên thành lập những ngôi chùa khắp nơi, hiện nay khắp
nước Mỹ có khoảng 90 cơ sở. Năm 1972, thiền sư Soen-sa-nim đến
Mỹ làm việc trong tiệm giặc ở Providence, Rhode Island. Dần dần
các sinh viên kéo đến học thiền và Providence Zen Center được
thành lập. Hằng ngày các thiền sinh thực tập lạy 108 lạy và tụng
kinh nửa giờ vì phương pháp này giúp hành giả dễ tập trung tư
tưởng. Thiền sư Soen-sa-nim hay Seung Sahn sinh năm 1927 trong
gia đình theo đạo Tin Lành. Tốt nghiệp đại học Dongguk. Năm
1948, không thỏa mãn với đời sống chính trị xuất gia tu tập.
Ngài thành lập nhiều trung tâm thiền khắp nước Mỹ.
2.5. Truyền Thống Tây Tạng:
Sau khi Trung cọng
xâm lăng Tây Tạng, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma giả dạng làm dân quê, rời
kinh thành Lhasa để sang Ấn Ðộ tỵ nạn cùng với hơn trăm ngàn dân
Tây Tạng. Họ định cư tại Dharamsala. Trong số những người tỵ nạn
đó có rất nhiều vị là những bậc cao tăng thạc đức của Phật Giáo
Tây Tạng. Do đó bắt đầu từ những năm 60, các vị Lạt Ma Tây Tạng
đã bắt đầu sang hoằng pháp tại các nước Tây Phương và đạt được
rất nhiều thành tựu to lớn: rất nhiều người Tây Phương xuất gia
tu học. Hiện nay trên khắp nước Mỹ có trên 200 trung tâm Phật
Giáo Tây Tạng, gần như tại mỗi thị trấn của 50 tiểu bang của Mỹ
đều có những trung tâm tu tập Mật Tông. Trong những năm 60, 70
khi nói đến Phật Giáo là nói đến Thiền, ngày nay Tây Tạng đã
thay thế địa vị đó. Phật Giáo Tây Tạng hành trì Mật Tông và
phương pháp đó vẫn được duy trì tại Hoa Kỳ. Nếu có chuyển dịch
chỉ là những bài tụng xưng tán hạnh đức của Phật, còn các ấn chú
vẫn được mật truyền từ thầy qua trò. Phật Giáo Tây Tạng sử dụng
tất cả hình tượng, màu sắc, âm thanh cho việc tu tập: những pho
tượng Phật, Bồ Tát hay hộ pháp với những biểu hiện phong phú,
những màu sắc rực rỡ của các tranh thờ, y phục, trang trí, những
pháp khí, mùi nhang trầm tinh khiết, những giọng tụng đọc trầm
hùng.. làm cho năm giác quan như mở ra và tâm trí như đang tập
trung vào bầu khí an lạc, linh thiêng của buổi lễ. Với sự có mặt
của nhiều cao tăng, với truyền thống phong phú và vững mạnh,
Phật Giáo Tây Tạng là giáo đoàn có ảnh hưởng mạnh nhất hiện nay.
Dưới đây là những đại sư danh tiếng của Tây Tạng:
- Chogyam Trungpa
Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên
mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học
tại Ðại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập
Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền
áp dụng vào đời sống hàng ngày. Ngài nhận thấy hình thức cư sĩ
thuận tiện hơn trong việc hoằng pháp, sau đó Ngài hoàn tục. Năm
1974 Ngài thành lập Học Viện Phật Giáo Naropa tại Boulder,
Colorado. Khóa đầu tiên có 2000 sinh viên ghi danh. Học Viện quy
tụ những giáo sư nổi tiếng như: Trungpa (dạy Kim Cang Thừa), Ram
Dass (Bhagava Rita), Jack Kornfield (Phật Giáo Nguyên Thủy),
Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw, Anagarika Munindra (Nguyên
Thủy).
- Ðức Karmapa Gyalwa
(1923-1981): tổ sư đời thứ 16 phái Karmapa, hoằng pháp tạI Âu Mỹ
từ 1974 đến 1981. Xây dựng chi nhánh tổ đình tại Woodstock, New
York.
- Kalu Rinpoche sinh
năm 1905, xuất gia năm 13 tuổi. Năm 25 tuổi nhập thất 12 năm.
Năm 1971 thăm viếng nước Pháp thành lập nhiều trung tâm tu học.
Năm 1976 hướng dẫn khóa tu nhập thất 3 năm tại trung tâm mới
thành lập tại Pháp.
- Dudjom Rinpoche
(1904-1987) đến Mỹ năm 1972 dùng phương pháp dĩ độc trị độc, tìm
Niết Bàn ngay trong sinh tử, tìm giảI thoát ngay trong phiền
não.
- Tarthang Tulku
phái Nyingma, sinh năm 1935, đến Mỹ năm 1968 thành lập Trung Tâm
Nyingma tại Berkeley, California. Ngài là một học giả uyên thâm
về Phật Học, Sanskrit. Ngài thành lập Học Viện Nyingma và phiên
dịch kinh sách thuộc truyền thống Nyingma. Năm 1975 thành lập
Trung Tâm Văn Hóa Odiyan trên khu đất 900 mẫu tây. Xây cất ngôi
chùa trong 20 năm với công sức của giáo sư và sinh viên Ðại Học
Berkeley.
- Sakya Tridzin
thuộc phái Sakya, thành lập Tu Viện Sakya tại Mussoorie năm
1964.
- Sogyal Rinpoche
sinh năm 1940, du học Anh. Năm 1975 thành lập Dzogchen Orgyen
Choling tại Luân Ðôn. Giảng dạy khắp nơi, trước tác nhiều sách
trong đó có cuốn The Tibetan Book of Living and Dying
(Tạng Thư Sống Chết).
- Yeshe Thubten Lama
(1935-1984) thuộc phái Gelugpa, có nhiều ảnh hưởng trong giới
môn sinh Âu Mỹ. Năm 1971 thành lập Tu Viện Kopan tại Kathmandu,
Nepal. Cùng môn đệ thành lập 28 Trung Tâm Ðại Thừa tại 13 quốc
gia.
- Lama Osel gốc
người Tây Ban Nha, sinh năm 1985 và được công nhận là tái sinh
của Lama Yeshe Thubten.
3.
Những Ðóng Góp của Phật Giáo Việt Nam:
Sau năm 1975 làn sóng
người Việt sang định cư tại Hoa Kỳ càng lúc càng nhiều. Tổng số
lên đến hai triệu người ở rải rác trên khắp 50 tiểu bang của Mỹ.
Tập trung đông nhất ở hai tiều bang California và Texas. Sau khi
cuộc sống đã ổn định, nhu cầu tín ngưỡng là nhu cầu cấp thiết.
Phần vì cần điểm tựa cho tinh thần nơi đất khách quê người, phần
vì muốn duy trì văn hóa tín ngưỡng dân tộc, phần vì nhớ thân
nhân, phần vì nhớ quê hương là những động cơ thúc đẩy người Việt
lập chùa. Sau những giờ làm việc cực nhọc đến chùa gặp những
người thân quen hàn huyên cho vơi đi nỗi buồn xa xứ:
Quê hương khuất
bóng hoàng hôn,
Trên sông khói
sóng cho buồn lòng ai.
(Nhật mộ hương quan
hà xứ thị,
Yên ba giang thượng
sử nhân sầu.
Hoàng Hạc Lâu, thơ
Thôi Hiệu - Tản Ðà dịch)
Từ năm 1975 đến nay
khắp nước Mỹ người Việt đã xây dựng được trên 200 ngôi chùa. Nơi
nào có người Việt nơi đó có chùa. Với số lượng chùa nhiều, Phật
tử đông và chư tăng ni hùng hậu, Phật Giáo Việt Nam đã có những
đóng góp đáng kể cho việc hoằng pháp tại Hoa Kỳ. Trong số chư
tăng có những bậc cao tăng như Hòa Thượng Thích Thiên Ân, Hòa
Thượng Thích Mãn Giác, Hòa Thượng Thích Tâm Châu, Hòa Thượng
Thích Huyền Vi, Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh..
3.1. Hòa Thượng Thích Thiên Ân (1936-1980):
Là vị sư Việt Nam đầu
tiên đến Hoa Kỳ hoằng pháp. Năm 1966 trong chương trình trao đổi
giáo sư giữa Ðại Học UCLA và Vạn Hạnh, Hòa Thượng đã đến Mỹ và
giảng dạy tại đây. Hòa Thượng tốt nghiệp học vị tiến sĩ văn
chương tại Ðại Học Waseda, Tokyo năm 1962. Về nước làm Khoa
Trưởng Văn Khoa tại Ðại Học Vạn Hạnh và giảng dạy tại Ðại Học
Văn Khoa Sài Gòn. Năm 1970 thành lập Quốc tế Thiền Viện tạI Los
Angeles, California. Năm 1973 thành lập Viện Ðại Học Ðông Phương
tại Los Angeles. Năm 1975, thành lập Chùa Việt Nam, ngôi chùa
Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Năm 1976 thành lập Chùa A Di Ðà. Năm
1978 cùng với Hòa Thượng Mãn Giác tổ chức Ðại Hội Phật Giáo Việt
Nam tại Hoa Kỳ và tiến tới thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam
tại Hoa Kỳ và Ngài là vị Hội Chủ đầu tiên. Ngoài công việc giảng
dạy, Ngài hướng dẫn những khóa thiền. Ngài độ cho những người Mỹ
xuất gia. Những đệ tử của Ngài ngày nay đảm nhiện những thiền
đường tại vùng California.
3.2. Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh:
Sinh năm 1926, xuất
gia tu học tại Chùa Từ Hiếu, Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Văn Khoa
Sài Gòn và du học tại Ðại Học Princeton, Hoa Kỳ. Hòa Thượng là
một thiền sư, nhà văn, nhà thơ. Năm 1966 rời Việt Nam sang Mỹ
vận động hòa bình, sau đó bị chính quyền miền Nam cấm không cho
hồi hương. Năm 2005 chính phủ Việt Nam mời Hòa Thượng về thăm
quê hương.
Hòa Thượng hoằng pháp
tại nhiều quốc gia Âu Mỹ cũng như Á Châu. Thành lập Làng Mai
(Plum Village Meditation Center) tại Pháp, Lộc Uyển (Deer Park
Monastery) tại California và Rừng Phong (Maple Forest Monastery)
tại Vermont. Khoảng 100 trung tâm thiền thuộc truyền thống Làng
Mai. Hoà Thượng trước tác mấy chục cuốn sách về Thiền, Phật
Giáo, thơ, truyện. Cuốn Ðường Xưa Mây Trắng đang được
dựng thành phim.
Tại Tây Phương Hòa
Thượng cùng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là hai nhà lãnh đạo lớn của Phật
Giáo có ảnh hưởng mạnh trong vấn đề hoằng pháp tại phương Tây.
Sách của Hòa Thượng bày bán tại khắp các tiệm sách ở Mỹ và Âu
Châu. Sách viết giản dị dễ hiểu. Với lối văn trong sáng, nhẹ
nhàng, bình dị, Hòa Thượng đã giảng giải những khái niệm Phật
học phức tạp. Sách được dịch ra nhiều thứ tiếng. Phương pháp tu
tập của Hòa Thượng đặt căn bản trên các kinh Nam Truyền và Bắc
Truyền, nhưng được đơn giản hóa và áp dụng vào cuộc sống hằng
ngày. Cách hành trì được đơn giản hóa cũng như Tây hóa và không
chú trọng nhiều đến hình thức. Chính vì chủ trương Tây hóa khiến
một số các Phật tử Việt Nam lớn tuổi cảm thấy khó khăn trong
việc hành trì. Hòa Thượng là người đã có công giới thiệu đạo
Phật đến với người Tây Phương. Nhờ những sách đó mà nhiều người
biết đến đạo Phật, được mệnh danh là Phật tử tiệm sách.
3.3. Các Chùa Việt Nam:
Ða số các chùa thuộc
truyền thống tổng hợp Tịnh Ðộ và Thiền, một số thuộc truyền
thống Thiền, một số thuộc Nam Tông và một số thuộc truyền thống
Khất Sĩ. Phần lớn các chùa đều có tổ chức thanh thiếu niên như
Gia Ðình Phật Tử và lớp học tiếng Việt. Trên phương diện chăm
sóc đời sống tinh thần cho Phật tử Việt Nam, các chùa đã có
những đóng góp đáng kể, góp phần xây dựng an lạc hạnh phúc cho
xã hội. Các sinh hoạt chính đều thực hiện vào cuối tuần vì ngày
thường mọi người phải đi làm. Vì thế những ngày lễ lược đề phải
thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh sống.
Về kiến trúc, phần
lớn các chùa đều sử dụng căn nhà có sẵn để làm nơi sinh hoạt.
Chỉ có một số ít các chùa xây cất theo kiến trúc Á Ðông. Một số
khác mua các nhà thờ cũ để làm chùa.
Nhìn qua chúng ta ai
cũng đều có cái nhìn lạc quan về đạo tâm của Phật tử trong việc
duy trì và phát huy văn hóa tín ngưỡng truyền thống của dân tộc
Việt. Tuy thế cũng không tránh khỏi những ưu tư về vấn đề duy
trì trong tương lai:
- Hầu hết các chùa
chỉ có sinh hoạt bằng ngôn ngữ tiếng Việt cho người Việt. Trong
khi đó các em nhỏ thuộc thế hệ thứ hai đã mất lần tiếng mẹ đẻ.
Nếu không có những sinh hoạt song ngữ thì chúng ta khó duy trì.
- Hầu hết các chùa
không có chương trình tu học cho người Mỹ. Như thế sẽ trở ngại
trong vấn đề hội nhập và khó duy trì trong tương lai một khi
cộng đồng nói tiếng Việt không còn tồn tại.
- Phần lớn các chùa
đều chú trọng nhiều về mặt tín ngưỡng hơn là những sinh hoạt tu
tập. Chính sự tu tập sẽ mang lại lợi ích thiết thực cho cuộc
sống và tăng trưởng tín tâm. Gần đây những phong trào tu niệm
Phật được phát triển. Ðây là điểm son cho Phật Giáo Việt Nam.
- Một số các chùa
vẫn chưa có tăng ni hướng dẫn tu tập. Hy vọng trong tương lai sẽ
thỉnh được các vị trụ trì.
- Các chùa vẫn chưa
có một đường hướng sinh hoạt chung, hổ trợ nhau trong việc tu
học.
Với những ưu tư trên
chúng ta hy vọng trong tương gần sẽ có được những giải đáp. Tình
trạng các chùa Việt tại Mỹ ngày nay không ở vào hoàn cảnh cách
ly như các chùa của người Hoa trong thế kỷ trước. Do đó không sợ
sẽ bị rơi vào tình trạng đào thải.
3.4. Chùa Hải Ấn:
Sau đây xin giới thiệu những sinh hoạt tại Chùa Hải Ấn, tiểu
bang Connecticut như một tham khảo cho nổ lực hoằng pháp tại Hoa
Kỳ.
- Lớp Thiền: hang
tuần mỗi tối thứ năm từ 6.30PM đến 8.30PM. Chương trình gồm dâng
hương, lễ Phật, tụng kinh, toạ thiền, kinh hành, thiền trà và
pháp đàm. Thứ năm thứ nhì trong tháng có lễ tụng giới và sau đó
chỉ hành thiền, không có pháp đàm.
- Lớp Phật Pháp:
chương trình ba năm. Năm đầu tiên sẽ học về những tác phẩm hiện
đại để trang bị tầm nhìn tổng quát về Phật Giáo . Năm thứ hai sẽ
học các kinh điển cổ thuộc các tông phái lớn như Nam Tông, Bắc
Tông, và Mật Tông . Khóa học không nghiêng riêng về một tông
phái nào mà sẽ trang bị một kiến thức tổng quát về các khuynh
hướng chính như: Nam Tông, Mật Tông, Thiền, Tịnh Độ, v.v… Năm
Thứ Ba đi sâu vào các tông phái như Duy Thức, Hoa Nghiêm, tìm
hiểu những tương quan giữa Phật Giáo và Khoa học, Phật Giáo với
các tôn giáo khác. Khóa học dành một phần thời gian cho những
ngày thiền tập nhằm nhấn mạnh đến khía cạnh thực tập của Phật
Giáo .
- Ðào tạo giáo thọ:
sau khi tốt nghiệp các học viên sẽ tham dự một chương trình đặc
biệt cung cấp những kiến thức cần thiết cho một vị giáo thọ.
Ðiều kiện thiết yếu để trở thành một giáo thọ là sự thành tâm và
nổ lực. Sau đó sẽ được Thầy viện chủ mời tham dự chương trình
đào tạo Giáo Thọ kéo dài một năm. Sự chọn lựa tùy thuộc vào sự
thành tâm và những tiến bộ trên con đường tu tập Phật Pháp.
- Phật Pháp cho tù
nhân: hiện nay Chùa Hải Ấn cọng tác cùng Chuang Yen Monastery
trong công tác thực hiện chương trình Phật Pháp cho tù nhân.
Chương trình này do Giáo Thọ Richard Baksa đảm trách. Số ghi
danh hiện nay là hơn 300 học viên. Khóa học hàm thụ, chương
trình ba năm tương tự như chương trình Lớp Phật Pháp.
4.
Phật Giáo Mỹ:
Với những đạo sư danh
tiếng của thế giới đến từ những truyền thống lâu đời, Hoa Kỳ đã
có diễm phúc để thâu nhận những tinh hoa đó để dung hợp thành
một đạo Phật đặc thù. Sự kiện đó là điều hy vọng có thể xảy ra
trong tương lai. Tuy nhiên trong hiện tại đã có những khuynh
hướng đi về nẻo đó:
- Dung hợp: ngày nay
trên đất Mỹ, hầu như các truyền thống Phật Giáo đều có mặt. Ðây
là một cơ hội hiếm có để chúng ta có thể học hỏi với các truyền
thống khác để làm phong phú cho sự hiểu biết và hành trì của
mình. Hoàn cảnh Phật Giáo tại Mỹ không cho phép tinh thần độc
tôn. Phật Giáo Việt Nam với tinh thần dung hợp các truyền thống
khác nhau như Tịnh Ðộ, Thiền và Mật Tông trên phương diện tu tập
sẽ đóng góp tích cực vào việc hình thành một đạo Phật tổng hợp.
- Thực dụng: người Mỹ
rất thực tế. Với tôn giáo cũng thế, họ luôn đặt câu hỏi tin theo
một tôn giáo để được lợi ích gì? Trước những khổ đau của con
người từ thể xác đến tinh thần, tôn giáo giải quyết như thế nào?
Ðạo Phật với phương pháp ăn chay sẽ giúp con người tránh khỏi
những cơn bệnh ngặt nghèo. Với phương pháp thiền định sẽ giúp
con người tìm thấy lại sự bình an trong tâm hồn, lạc quan hơn,
tự tin hơn và sáng suốt hơn.
- Khoan dung: con
người càng có cơ hội tiến xúc với nhiều hoc thuyết khác nhau thì
con người càng chấp nhận và kính trọng nhau hơn. Phật Giáo với
tinh thần khoan dung chấp nhận mọi dị biệt trong quan niệm
84.000 pháp môn chỉ cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều con
đường để đi đến chân lý.
- Tự lực: dân tộc Mỹ
là một dân tộc với tinh thần tự lực rất cao. Tinh thần của đạo
Phật cũng nhấn mạnh đến khía cạnh tự lực, con người tự giải
thoát mình. Ðây là chỗ gặp gỡ giữa Phật Giáo và tinh thần của
dân tộc Mỹ.
-
Thực chứng: những kinh
nghiệm bản thân về sự tu tập là những minh chứng hùng hồn cho sự
chân thật của lý thuyết. Những đạo sư phải là những người biết
đem giáo lý áp dụng vào cuộc sống hằng ngày.
- Tự do: tinh thần
yêu chuộng tự do rất cao trong cách hành xử của người Mỹ. Phật
Giáo là một tôn giáo rất tự do, không bị đóng khung trong tổ
chức, không bị vướng mắc vào giáo điều hay hình thức tôn giáo.
Mục đích của đạo Phật cũng chỉ để đạt được sự tự do tuyệt đối
ngoài sự chi phối của sinh tử.
- Cá nhân: Niềm tin
tôn giáo là vấn đề cá nhân. đạo Phật chủ trương con người tự
trách nhiệm lấy cuộc đời của mình trong đạo lý Nghiệp và phương
pháp tu tập là phát huy khả năng cá nhân để tự giải thoát mình.
- Hình thức: chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhìn thấy những
thiền sư người Mỹ để tóc dài và mặc quần jean. Về hình thức
chúng ta không nên quá câu nệ, mỗi quốc độ có mỗi loại y phục
khác nhau.
- Vấn đề: những vấn đề khó khăn hiện nay là: phụ nữ, đồng tính,
phá thai, nhân bản (cloning), môi sinh.. Ðạo Phật với tinh thần
bình đẳng, từ bi, trí tuệ sẽ giúp con người tìm thấy những giải
đáp thỏa đáng.
Vì những tương đồng
trên, đạo Phật đã được đón nhận từ những ngày đầu khi đến Mỹ như
một tôn giáo của hoà bình, khoan dung, trí tuệ. Trong giai đoạn
đầu đạo Phật được đón nhận như một tôn giáo huyền bí, giai đoạn
sau đó giới trí thức được chinh phục bởi những triết lý sâu sắc
và nhân bản, và giai đoạn hiện nay đạo Phật được khám phá như
tr0 liệu của hạnh phúc. Những đạo sư lớn của thời đại như Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma và Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh tiêu biểu cho hai
khuynh hướng hơằng pháp: truyền thống và canh tân đáp ứng được
những đòi hỏi khác biệt của con người. Với tinh thần vô ngã, vị
tha đạo Phật sẽ có mặt trong cuộc sống không như một thế lực tôn
giáo, nhưng như là một phương pháp trị liệu giúp con người tìm
thấy hoà bình, niềm vui và hạnh phúc. Ðạo Phật tại Hoa Kỳ với
những giá trị cố hữu sẽ đi sâu vào lãnh vực thiền quán và đạo
Phật Hoa Kỳ sẽ giúp đạo Phật Á Châu phục hồi lại giá trị của
thiền định.
Sách
tham khảo:
1. Ricks Fields, How the Swans Come
to the Lake – A Narrative History od Buddhism in America –
Shambhala, Boulder, 1981.
2. Charles S. Prebish and Kenneth K.
Tanaka edited, The Faces of Buddhism in America,
University of California Press: Berkeley, Los Angeles, London,
1998.
3. Trần Quang Thuận, Phật Giáo Mỹ,
Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, 2000.
THE
PROPAGATION OF THE BUDDHISM IN AMERICA AND THE CONTRIBUTIONS OF
THE IMMIGRANT-VIETNAMESE BUDDHISTS
Thích Trí
Hoằng
Light of Asia,
by English poet Edwin Arnold was published in 1879 in Boston,
Massachusetts. This book, using beautiful verses, praised the
life of the Buddha. It was an important document in the early
propagation of Buddhism in the West in general, and in America
specifically. The work had great influence in the United States
as well as in Europe and promoted interest in learning about
Buddhism. From that time until today, this work has been
reprinted 80 times with more than one million copies and it has
been translated into most of the European languages.
Here we shall discuss the history
of the propagation of Buddhism in America, the experiences of
the different Buddhist traditions, and the contributions of the
immigrant-Vietnamese Buddhists.
I.
The History of the Propagation of Buddhism in America:
In order to understand the history
of the Buddhism in America, we can devidedivide it into
three periods: the period before 1879, the period from 1879 to
1963, and the period from 1963 until today.
1.
The Period before 1879:
The United States, founded in 1776, is a
young. Buddhism arrived in America two ways. First, it arrived
directly with Buddhist monks. Second, it arrived indirectly
through European colonists in America who had exposure to
Buddhism in Europe. Buddhism came to America before the
Europeans “ discovered” the continent. It is difficult to
determine the first person who brought Buddhism to America
because pertinent historical documents are hard to find.
However, there are a few helpful ones. In 1761,
M. de
Guignes, a French scholar, translated and published a
document found in Chinese archives about a Chinese monk named
Hwui Shan (also spelled
Hoei-shin
or Hui-shên) who,
together with four other monks, sailed to the west coast of the
Americas in 458 CE. In 1875, Charles G. Leland published “Fu-sang
or The Discovery of America by Chinese Buddhist Priests
in the Fifth Century”, which supported the story told by
Guignes. In 1885, Edward Payson Vining published “An
Inglorious Columbus” or “Evidence that Hwui Shan and a
Party of Buddhist Monks from Afghanistan Discovered America in
the Fifth Century A.D.” This author quoted at length the
report of Hwui Shan which explained the details of the trip to
America, and described the ways of life of natives, including
individual life, family life, social life, customs, and
religion. He concluded: “This country has never known anything
about Buddhism, but in 458 CE during the Song Dynasty, five
Buddhist monks from Ki-pin (Kabul, Afghanistan) went to that
country. They carried with them the Buddha statues, sutras, and
taught those people to take refuge in the Buddha and to renounce
their bad habits.”
Physical evidence of this
trip was found in 1914. A swastika carved on a rock was
discovered in Lakeside Mountains, near San Jacinto valley in
California. (The swastika is an ancient symbol; the word itself
is Sanskrit.) In 1953, Gordon Ekholm wrote an article about the
similarities between the Buddhist art, Indian art and Mexican
art, including the commonality of such images as the
lotus base for religious statues, the bowl, the sun, the dragon,
and the snake. These images appeared in Mexico around the fifth
century CE, the period during which the Chinese monks were
present in America.
Buddhism also arrived in America
through Europeans who were students of Buddhism. In
1826, Eugene Bournouf compiled Essai sur le Pali (Essay
on the Pali) and translated the Lotus Sutra
into French. The same year, Henry David Thoreau (1817-1862)
translated that same sutra into English from French. Later a
Dutch Indologist, Kern, translated the Lotus Sutra
directly from Sanskrit into English. Further, the translated
works included in the Sacred Books of the East edited by
Max Muller, greatly inspired European intellectuals to learn the
cultures of the Far East.
Contact between Europe and Asia
started long ago with the conquests of Alexander the Great, and
continued with commerce along the Silk Road, including the
thirteenth century journeys of Marco Polo. The East seemed a
mysterious and attractive world. These early trips were rare.
However starting in the fifteenth century, westerners visited
Asia more frequently. They came with two purposes. One was
colonization/exploitation. The second was religious conversion.
In 1497, Vasco de Gama arrived in India paving the way for the
Catholic priests and the merchants who intended to “civilize”
Asia. Buddhism was disparaged and considered a ghostly cult.
Portuguese soldiers and priests occupied Sri-Lanka starting in
1501. Their philosophy was: “First use the Bible to
convert, if no success then use the sword.” As a result, they
cruelly killed the Sinhalese, and burned Buddhist monasteries to
the ground. The Dutch later replaced the Portuguese and they
issued a law that forbade those not converted to to
Christianity, to own property.
The French also sent troops to
Vietnam in 1858 in the name of protection of Christian
missionaries and began a colonization of that country that
lasted almost one hundred years.
Not all European contacts with Asia
were grim. In 1549, a Catholic priest named St. Francis Xavier
arrived in Japan. One day, he went to a Buddhist temple and met
Zen Master Nanjo, a learned and humorous monk. St. Francis saw
monks meditating and asked Najo,
“What are they thinking?”
Nanjo replied: “Some of the monks
think about how much money they have received from donations;
some other monks think of a cheap place for shopping; others
think of where to go for recreation. Thus, they think about
nonsensical things.”
In addition to wanting to colonize
in order to obtain resources, many Europeans also found
attractive to the Europeans because of its mysterious nature and
bright civilizations. A few Westerners discovered Buddhism as a
teaching of enlightenment and liberation. The study of and
translations by European scholars of Buddhist works taught many
to admire Eastern culture. Thus, European scholars studied the
Asian culture to serve the following aims:
·
colonization
·
missionary work, and
·
satisfying their intellectual curiosity and spiritual needs.
T.W. Rhys Davids studied Pali in
order to translate Sri Lankan laws to facilitate the rule of
the colonial government. However, he soon discovered the
treasures within Pali literature. He established the Pali Text
Society in 1881 members of which subsequently translated the
Pali Canon into English.
There are several works by
missionaries attacking Buddhism such as “Phép Gi ng Tám Ngày”
(Catechism Explained in Eight Days) written by a Jesuist
Priest Alexandre de Rhodes. This book attacks the Eastern
religions such as Buddhism, Confucianism, and Taoism. More
sympathetic works such as: La Traite de la Grand Sagesse
(The Treaty of the Great Virtue) translated from
different sources in Chinese, Sanskrit, Tibetan, Japanese into
French by a Jesuist priest Etienne Lamotte appeared long after
this era had close. The first volume was published in 1949 and
the last one in 1979. In the beginning, of course Lamotte’s
motive of translating this work was not for the sake of
Buddhism, but to find fault and to attack it in order to promote
Christianity. But the Buddhist teachings slowly transformed
Lamotte. His translation was scholarly, and accurate. Further,
he published other works on the history of early Indian
Buddhism. In the circle of Buddhist scholars, Etienne Lamotte
has been praised as a reincarnation of a Bodhisattva.
These works deeply influenced
Western intellectuals, especially philosophers. Arthur
Schopenhauer (1788-1860) was influenced by Buddhist teachings on
desire. Other European philosophers influenced by Buddhism
include Bergson, Blavatski, Rickert, Jasoers, Wittgenstein and
Heidegger.
In this period, Buddhism was
accepted as a religion of wisdom and reason. The publication of
Light of Asia in 1879 marked a great literary
achievement: the West came into contact with Buddhism and
Buddhism became a rich source of spiritual inspiration for
Westerners.
2.
The Period from 1879 to 1963:
The following strongly influenced the
propagation of Buddhism in The West: the activities of Colonel
Olcott; the translation of the Pali Canon into English; the
efforts of Paul Carus, aimed at developing an American
Buddhism; the Dharma works of D.T. Suzuki.
a.
The Activities of Colonel Olcott:
He was born in 1832 in New Jersey and
passed away in 1907 in Adgar, India. He contributed greatly to
the propagation of Buddhism in America, as well as to the
revival of Buddhism in Sri-Lanka and other Asian countries. In
1875, he and Madame Blavatski established The Theosophical
Society which promoted learning about Buddhism, other Asian
religions and science. Today, this society has branches in 60
countries.
In 1880, Colonel Olcott went to
Sri-Lanka together with Madame Blavatski. At that time the
colonial government suppressed Buddhism as the foreign
missionaries tried to Christianize Sri-Lanka. Disturbed by that
situation, both of them wowed to save Sri-Lankan Buddhism. In
1881, they took Three Refuges. The ceremony took place in the
presence of thousands of monks and was very moving. This act
gave strong spiritual support to the Sri-Lankan people and
inspired them to restore Buddhism. Olcott and Blavatski went to
Srk Lankan villages to call for the establishment of Buddhist
schools and publishing houses. Olcott also recommended the
establishment of Buddhist schools in Japan, Thailand, Burma, and
India, worked to restore the processions on the Buddha’s
Birthday, and to rebuild temples. Thanks to their efforts, Sri
Lankan Buddhism was revived relatively quickly. In 1891, he and
Bhikkhu Anagarika Dharmapala established The Maha Bodhi in order
to restore Buddhism in India. With the support of many English
intellectuals, including Edwin Arnold, they requested that the
government help return Buddhist holy places which were
controlled by Hindu sects to the control of Buddhists.
In 1889, Olcott and Reverend
Sumangala incorporated the six colors of the halo of the Buddha
into a Buddhist flag. This flag was soon recognized by the
Sri-Lankan Buddhist Church. In 1950, at the first conference of
The World Fellowship of Buddhism in Columbo, Sri-Lanka, this
flag was accepted as an international Buddhist flag. There were
delegations from 26 countries, including Vietnam, whose
delegation was led by Master T Liên.
When Olcott died, he had spent 38
years leading the restoration of Buddhism in Sri-Lanka and other
Asian countries.
b.
The Translation of the Pali Canon:
The Pali Text Society was
responsible for this translation. The Society, which was
established in 1881 with Thomas W. Davids as president,
gathered many Pali scholars who carried out the work. After Mr.
Davids died, his wife continued as president of the Society.
Today the whole Pali Tripitaka has been translated into English.
Thanks to this translation, many scholars have benefited from
deeply learning the teachings of Buddha. The Pali Text Society
continues to work to spread the Dharma.
c.
The Efforts of Paul Carus to Develop an American Buddhism:
Paul Carus was a German American,
son of a Protestant minister. He was dissatisfied with the
Christian tradition and lost his faith. After earning a Ph.D in
Linguistics, he moved to New York and worked for a German
newspaper. In 1893, at the World Parliament of Religions in
Chicago, he had the opportunity to meet and to learn from
Buddhist masters from around the world. He used this opportunity
to discover Buddhism, which changed his life. In fact, he
devoted himself to serve Buddhism with great sincerity. For him,
Buddhism was the right path to develop his spiritual life
because Buddhism is based on reason, empiricism, and science. In
1894, Carus wrote the Gospel of Buddha and Karma
in an effort to modernize Buddhism and to make it relevant for
western culture. In 38 works, he tried to demonstrate to the
westerner how Buddhism could respond to the West’s need for
renewed spiritual development.
In 1899, Carus wrote to Daniel C.
Beard, a professor of art in New York and suggested that Beard,
using the simple and lively art of the West, carve a Buddha
statue exemplifying the Asian characteristics of compassion and
tolerance Carus also composed Victorian-style music for chanting
during the new American Buddhist the ceremonies.
Carus did not hesitate to employ
Christian forms in order to make the philosophy and the practice
of Buddhism more accessible to westerners. He considered Amita
Buddha’s nature to be like the Christian God: “Amita is the
world order, the absolute truth which conducts the evolution
law.”
Carus sponsored Reverend
Dharmapala’s journey to the United Stated to propagate Buddhism;
he also supported Zen Master D.T. Suzuki in his Dharma work.
d.
The Dharma Works of D.T. Suzuki:
Zen Master D.T. Suzuki (1870-1966)
came to America in 1897, and lived in Carus’ home near Chicago
for eleven years. They worked together translating sutras and
other books into English. They introduced Eastern philosophy and
Buddhism to the Western intelligentsia. In 1911, Suzuki married
Beatrice Erskine Lane, a member of the Theosophical Society.
Together they published the magazine The Eastern Buddhist.
Suzuki wrote many books on Zen and translated the Mahayana
sutras. His works were welcomed as a cool breeze that brought
freshness to the Western intellectuals. In the nineteenth
century, Westerners understood more about Theravada than
Mahayana because of the translation of Pali canon. The books on
Mahayana were not as available, and therefore people knew little
about it. When the books of Suzuki about Zen and the Chinese
Northern School appeared, they helped Westerners understand more
about the Mahayana. The spirit of freedom and non-attachment of
Zen helped readers to find a fresh interest in Buddhism, It also
provided an answer to the Judeo-Christian philosophical and
theological crises created by scientific development. In the
years of 1950’s and ‘60’s, Zen’s popularity in America grew. The
word “Zen” was introduced to America by Suzuki and it became a
nickname for all Buddhism. He taught Buddhism and Zen at
Columbia University and other universities. His works influenced
Carl Jung, Erich Fromm, Karen Horney, Martin Heidegger, Thomas
Merten, Allen Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, and Gary
Snyder. Lynn White Jr., a historian, praised Suzuki as a person
who helped westerners break down the wall of division, and free
themselves from narrowness in order to look at the immense
horizon.
In this period, the West came into
contact with Buddhism through books. The sutras of different
traditions had been translated. Buddhism influenced tEuropean
culture in many ways, from literature and art and science.
Buddhism not only inspired philosophy, but also literary works
such as Sidhartha which won the Nobel price in
literature for Herman Hesse.
Also during this period, starting
in 1860, Chinese workers arrived in the United States to work
for the Central Pacific Railroad. They contributed greatly to
the propagation of Buddhism.
3.
The Period from 1963 until Today:
In 1963, in Saigon, a Vietnamese Buddhist
monk named Thich Quang Duc self immolated as a way to pray for
peace and justice during the war in Vietnam.. This event marked
the beginning of an important period for American Buddhism. The
media brought this event to the attention of the world. The
image of a monk who sat calmly in the sea of fire demonstrated
the inner power of Buddhism. It shook the heart of mankind. The
world was awakened.
The war in Vietnam was long and
fierce. The images of suffering seen by Americans on TV sparked
an antiwar movement. Furthermore, there were crises in American
culture, ethics, and religion. In the 1960’s, young people,
including students and hippies, opposed traditional values,
authority, and society and wanted to establish a new world. The
500,000 young people who attended Woodstock, where young
musicians played the music of protest, sought to change
American society at the grassroots level. In this time of social
disorder, and confusion, Buddhism met a need.
a. The Masters:
The Dalai Lama left Tibet in 1959.
Altogether, one hundred thousand Tibetans sought refuge in
India. The visibility of the Dalai Lama and the other lamas
contributed greatly to spreading of Buddhism in the West in
general, and in America in particular.
Never before had so many masters
come to teach the Dharma in America as in this period. In
addition to the Dalai Lama, many others came, including Master
Hsuan Hua, Thich Nhat Hanh, and Seung Sahn. Most of them focused
on meditation. Many practice centers were established in all
parts of the country. Retreats varied in length from one weekend
to a few months or even a few years. If in the previous period,
Buddhism grew through its philosophy, then in this period is
growth was largely the fruit of practice. The goal of Buddhist
practice is not only liberation from birth and death, but also
peace and joy in this life. American life was, (and is)
stressful; in contrast, these retreats helped to balance the
mind and relax the body. Participants felt calmer, happier, and
more positive. They experienced the deep joy of meditation. Thus
retreat centers proliferated and prospered. In addition, the
application of meditation to psychotherapy became common with
demonstrably good results. Soon there were hospitals using
meditation as a treatment without mentioning its origin so that
patients would not be biased against the “prescription” that was
rooted in an Asian religion.
b.
Young People:
Buddhism has been attractive to young
people of several generations for several reasons:
·
growing dissatisfaction with
the traditional faiths (mainly Christianity and Judaism)
·
Buddhism’s spirit of freedom
and tolerance
·
Popular songs with lyrics
inspired by Buddhist teachings, such as “First there is a
Mountain.”
·
Popular films on Buddhist
themes, such as Little Buddha, Seven Years in Tibet,
and Kundun.
·
An increasing number of
Buddhist celebrities such as Richard Gere and Tina Turner.
·
Growing accounts of sexual
abuse by Catholic priests.
c.
Charity Work:
American Buddhism has been engaged
in different social projects:
·
The Buddhist Alliance for
Social Engagement: helps hospital patients, school children, and
the homeless
·
Greyston Mandala:
established by Zen Master Bernard Glassman in Westchester
County, New York, provides jobs for the homeless in their large
bakery, and homes in their apartment buildings.
·
Zen Hospice Project: helps
the dying to find peace
d.
Dharma Training:
Transmission is important in
maintaining and developing the Dharma. Every Buddhist tradition
has its own training programs. However, these programs are
designed for followers of the sponsoring tradition. There are
also several centers offering training programs to those not
committed to a specific tradition.
·
The Barre Center for
Buddhist Studies offers a yearly two-week intensive course
·
Other training centers
include the Naropa Institute in Boulder, Colorado; Buddhist
University at the Hsi Lai Temple in Taiwan; Dharma Realm
University in Talmage, California; the Buddhist Institute at
Plum Village in France.
·
There are also Buddhist
Studies programs at universities such as Yale, Harvard,
Princeton, Columbia, Berkeley, and the University of Wisconsin.
During this period, Buddhism has
become deeply rooted in American society. Many traditions have
contributed to the spread Buddhism. In addition to the Chinese
tradition, the Japanese, Korean, Vietnamese, Thai, Laotian,
Cambodian, Burmese, Sri-Lankan and Tibetan traditions have
helped make American Buddhism rich and colorful.
II.
Contributions of
Different Traditions:
1.
Theravada:
Theravada came to the United States
in 1893 when Reverend Anagarika Dharmapala attended the World's
Parliament of Religions The fact that the Pali Canon was
translated into English further spread the Theravadan tradition.
Unfortunately there were not many monks who continued the Dharma
work of Dharmapala.
In 1966 The Buddhist Vihara Society
of Washington was established. Soon after, Thai, Burmese, Sri
Lankan temples were built. The Still Point Retreat Center was
started by a young American man in San Jose, California in 1971.
Vipassana Meditation came to The
United States in 1980 with the disciples of Master Mahasi
Sayadaw. His followers neglected Theravadan ceremonies, such as
chanting, teaching, and earning merit.. Rather, they chose to
focus on meditation in order to help people to reduce stress,
free themselves from suffering, and develop insight. This group
was led by lay Buddhist masters who concentrated on helping the
lay people. There are several large centers:
The Insight Meditation Society
(IMS) in Barre, Massachusetts was founded by Joseph Goldstein,
Jack Kornfield, and Sharon Salzberg. The center organizes
retreats the whole year around. People have to register six
months ahead.
The Spirit Rock Meditation Center
in Marin, California is a branch of IMS founded by Jack
Kornfield, James Baraz, Sylvia Boorstein and Anna Douglas.
The Vipassana Center in Shelburne
Falls, Massachusetts. belongs to devotees of S.N. Goenka. This
center organizes regular ten-day retreat programs with strict
discipline. They prefer practice more than study and prefer not
to mix with other meditation techniques.
After the Vietnam war, many
Southeast Asian people emigrated to the United States. Thus many
Buddhist temples were built. There are about one hundred temples
in the United States established by the Buddhists from Thailand,
Laos, Cambodia, Myanmar, and Sri-Lanka.
Because of strict Vinaya practice,
Theravadan monks can not maintain their practice without support
from a lay Buddhist community. Although Theravadan monks have
come to America, they seldom live here permanently. For example,
Jack Kornfield was a Theravadan monk in Thailand, but when he
returned to the United States, he realized that it is impossible
to continue to be a monk since monks are forbidden to cook or to
drive. After disrobing, he worked together with other lay people
to propagate the Dharma outside the strict Theravadan
tradition.
2.
The Chinese Tradition:
In 1848 when gold was found in Sutter’s
Mill, California, Chinese workers were hired to work in the gold
mines.. Then, from 1860 to the end of the century, 63 thousand
Chinese workers worked on the railroads. This first
Chinese-American generation built a couple of hundred temples
for worship, most of which do not exist today, for these
reasons:
·
The shrines had no monks to
maintain and continue them;
·
Buddhism was disparaged by
and Buddhists were discriminated against by White Americans;
·
There were no American
Buddhists to support the shrines;
·
The young generation of
Chinese became Americanized and received no Buddhist education;
·
The temples focused more on
worship than on meditation
Although the Chinese had a strong
cultural identity, they did not succeed in maintaining their
religion.
After 1949, the Chinese who came to
America were those with money and education. They built the
large temples for practice, under the guidance of monks and
nuns. They organized retreats for adults and children. They also
focused on study and inclusion of young people. For example, the
His Lai Temple in Los Angeles has the Buddhist University; The
City of Ten Thousand Buddhas, near San
Francisco, has Dharma Realm University; the Chuang Yen
Monastery, north of New York City, has a formidable library,
including the Chinese Canon on CD-ROM.
Dr Paul Fung established Buddha’s
Universal Church in San Francisco in 1963. It offers a bilingual
Buddhist class, a chorus, and youth activities.
Charles Luk (1898-1978), a disciple
of Master Hsu Yun, followed the advice of his master, and spent
the years from 1956 through 1976 translating Chinese Buddhist
sutras into English.
Two great masters:
·
Master Hsuan Hua
(1908-1985), a disciple of Master Hsu Yun, combined the
practices of Zen and Pure Land. He founded the
City of Ten Thousand Buddhas and
ordained many American young monks.
·
Master Hsing Yun, Sheng Yen
also came to the United States to propagate Buddhism.
Today, the total number of the
Chinese in the USA is around one million.
3.
The Japanese tradition
a. Zen:
Zen Master Soyen Shaku came to the USA in
1893 for the World Parliament of Religions and began his Dharma
work. Later came Shinryu Suzuki, and Sogaku Harada. The efforts
of these masters left a strong mark on American Buddhism. Zen
Master D.T. Suzuki’s accomplishments, including his influence on
American Buddhism in the 1960’s and ‘70’s are described above.
Master Taizan Maezumi led a
meditation center in Los Angeles. His method is “American but
traditional.” He was strict in discipline, organization and
practice.
Master Yasutani Hakuun came to the
USA in 1962. His best-known student was Phillip Kapleau who
continued his Dharma work in Rochester, New York, and published
The Three Pillars of Zen in 1965, emphasizing
contemplation and koan study. He made an effort to Americanize
various aspects of the practice from ceremonies, to Dharma
names, and clothing.
A disciple of Master Shinryu Suzuki
is Richard Baker Roshi who tried to bring meditation into daily
American life. He believes in the importance of science and
technology on the one hand, and spiritual life on the other.
Baker was president of the San Francisco Zen Center. The
disciples of these masters now maintain approximately 150 Zen
Centers in the United States.
b. Soka Gakkai:
Soka Gakkai is an offshoot of the
Nichiren Buddhist Church. Founded by Tsunesaburo Makiguchi and
Josei Toda, it was established in Japan in 1937 as a lay
organization centered on faith in the Lotus Sutra. The
practice is simple and is similar to Pure Land practice. They
recite the name of the Lotus Sutra in Japanese: Namu
Myoho Renge Kyo. Its aim is to establish a generous,
virtuous, perfect society for the individual as well as the
community. In the beginning, members were Japanese American, but
today Soka Gakkai has 70 centers in the USA, with 150 thousand
members, many of them of European and African descent.
The success of Soka Gakkai is based
on the sincere desire of its members to attain the Buddha Land.
Each member has the duty to spread the Dharma. Therefore within
70 years they have managed to convert 70 million Japanese.
4.
The Korean Tradition:
After the war Korean War, Koreans
started to come to the United States, building many temples.
Currently there are about 90 Korean temples in the USA. In 1972,
Master Soen-sa-nim or Seung Sahn went to America and worked in a
laundry in Providence, Rhode Island. Slowly, students came to
learn about meditation and the Providence Zen Center was
established. He encouraged his students to make 108 prostrations
daily and chant for half an hour. He established many Zen
centers.
5.
The Tibetan Tradition:
After the Chinese Communists
invaded Tibet, many of the monks who, with the Dalai Lama,
settled in Dharamsala, were high lamas. At the beginning of the
1960’s several of these lamas started to go to the West to
propagate the Dharma. They had great success; many westerners
were ordained as monks, or became lay practitioners. In America
there are about 200 Tibetan Buddhist centers. In the ‘60’s or
‘70’s when Americans mentioned Buddhism, they meant Zen, but now
they more likely refer to Tibetan Buddhism. Tibetan Buddhism
belongs to the Tantrayana school. Their traditional way of
practice is still intact today. Although minor changes have been
made to the chanting verses, the mantras and mudras have
remained unchanged and are secretly transmitted from a teacher
to a student. Tantrayana uses images, colors, and sounds for
practice: the statue of the Buddha, a Bodhisattva or Dharma
protector, is a rich manifestation; the paintings, the costumes,
the decorations, and the instruments are colorful; the incense
is fragrant; the chanting voices are very low and often produce
overtones. During Tibetan practice the five senses are open and
the mind focused on the calm atmosphere of the ceremony.
Tibetan Buddhism has a rich
tradition and a strong Sangha. The following high lamas are
masters known in the West:
Chogyam Trungpa Rinpoche
(1939-1987) was one of the first Tibetan lamas who taught in the
West. In 1963, he attended Oxford University on a scholarship.
In 1967 after graduation, he established the Meditation center
Samaye-Ling in Scotland which focused on applying meditation to
daily life. At that time he felt that the as a layman he could
be more effective in doing Dharma work, therefore he disrobed.
In 1974, he established the Naropa Institute in Boulder,
Colorado. 2000 students registered in the first semester. Many
well known teachers are at Naropa; Trungpa (taught Tantrayana),
Ram Dass (taught/teaches Bhagava Rita), Jack Kornfield together
with Joseph Goldstein, Mahasi Sayadaw and Anagarika Munindra
(taught/teach Theravada).
His Holiness the Karmapa Gyalwa
(1923-1981) was the 16th patriarch of the Karmapa
tradition. He went to the West to spread the Dharma from 1974 to
1981. His North American headquarters was and is located in
Woodstock, New York.
Kalu Rinpoche was born in 1905,
entered the monastery at 13 years old, and had a 12-year retreat
as a 25-year-old. In 1971 he visited France and established
several retreat centers. In 1976 he led a 3-year retreat at a
new center in France.
Dudjom Rinpoche (1904-1987) came to
America in 1972. His method of practice is called “using the
poison to cure the poisoned;” he taught his students how to find
nirvana in samsara, happiness in suffering.
Tarthang Tulku of the Nyingma
school was born in 1935, and came to America in 1968 where he
established the Nyingma Center in Berkeley, California. He is a
scholar, learned in Buddhism, and in Sanskrit. He established
the Nyingma Institute and translated many Nyingma texts into
English. In 1975 construction began on the Odiyan Cultural
Center which was completed in 1995 with the help of many
Berkeley professors and students.
Sakya Tridzin of the Sakya school
established the Sakya Institute in Missouri in 1964.
Sogyal Rinpoche was born in 1949
and studied in England. In 1975 he established the Dzogchen
Orgyen Choking in London. He has taught in many countries and
wrote The Tibetan Book of Living and Dying.
Yeshe Thubten Lama (1935-1984) of
the Gelugpa school had great influence on Western students. In
1971 he established the Kopan Monastery in Kathmandu, Nepal. He
also established 28 other centers in 13 countries.
Spanish Lama, Osel, was born in
1985, is recognized as the reincarnation of Lama Yeshe Thubten.
6. Change Your Mind Day
Every
year on the first Saturday of June people in the United States
come to hundreds of parks to learn about Buddhism and its
practices. This was
founded in 1993 by Tricycle
Magazine which continues to sponsor it. It started in Central
Park in New York City with a couple of hundred interested
attendees. The aim is to introduce Buddhism to the American
public in an informal way, because for many people a visit to a
zendo or a Buddhist temple is a big step. Today Change Your Mind Day has
spread to nearly fifty cities in the United States and it has
also started in Europe, Australia and New Zealand.
The
organizers invite masters from different Buddhist traditions to
come to the park and give teachings and conduct meditation under
the shade of large trees, just as the Buddha did many years ago.
It gains popularity every year.
On
this model of the propagation of the Dharma, the Dalai Lama has
given public lectures from time to time in the Central Park. For
his 2004 talk, more than seventy thousand gathered.
III.
The contribution of
Vietnamese-American Buddhists:
Since 1975, waves of Vietnamese
immigrants have continued to settle in America. Currently, the
total number of Vietnamese-Americans is approximately two
million, most of them concentrated in California and Texas.
After settling in the USA, they started to build temples, based
on their need for worship, nostalgia, social contact,
maintainance of culture, mental comfort, and spiritual
development. After the traditional American working days, Monday
through Friday, they come to the temple on the weekend for
social contact and to support to each other:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai.
The native country is hidden by the
light at the sunset,
The smoke on the wave of the river
makes one feels sad.
(Chinese poem by Thôi Hiệu - Tản Ðà
translated into Vietnamese)
From 1975 until today, the
Vietnamese in America have established more than 200 temples.
Where a Vietnamese community exists, there is a temple.
Vietnamese-American Buddhists have greatly contributed to the
propagation of Buddhism in America with these temples, numerous
members, and a sizable Sangha of monks and nuns. Vietnamese high
monks include: Master Thích Thiên Ân, Master Thích Mãn Giác,
Master Thích Huyền Vi, and Master Thích Nhất Hạnh.
1. Master Thích Thiên Ân
(1936-1980):
Master Thiên Ân was the first
Vietnamese monk who went to the United States to spread the
Dharma. In 1966, he came to California as a visiting professor
and taught at UCLA. After earning a Ph.D. in literature in 1962
from Waseda University in Tokyo, Japan, he returned to Vietnam
and taught at Saigon University and later at VanHanh University
, also in Saigon. During the 1970’s, he established several
temples in Los Angeles: in 1970 the International Meditation
Center; in 1973 the Oriental Study School; In 1975, the Vietnam
Temple which was the first Vietnamese temple in USA; in 1976,
the Amitabha Temple. Together with Master Thích Mãn Giác, he
organized a conference in Los Angeles and formed the Overseas
Vietnamese Buddhist Churches in America, of which he was the
first president. In addition to teaching, he also led meditation
retreats and ordained many western students as monks. These
monks are now the abbots at different centers in California.
2.
Master Thích Nhất Hạnh:
He was born in 1926, entered the Từ
Hiếu Temple in Huế at age 16, attended and graduated from Saigon
University, and studied at Princeton University in America. He
founded VanHanh University and the Youth School for Social Work
in 1964. In 1966, he went to United States to campaign for peace
in Vietnam at which time the government in the South forbade him
to return. He has lived in exile in France for many years, but
returned for a visit, at the invitation of the present
Vietnamese government, for the first time in 2005.
He has taught Buddhism and
meditation in the West as well as in the East, established Plum
Village Meditation Center in France; Deer Park Monastery in
California; Maple Forest Monastery and Green Mountain Dharma
Center, both in Vermont, and is building Magnolia Village
Monastery in Mississippi. There are around 100 meditation
centers belonging to his tradition. He has written more than 50
books on Buddhism and Meditation.
His book Old Path White Clouds
is being made into a movie.
In the West today, Master Nhat Hanh
and His Holiness The Dalai Lama are the two leading figures in
the Buddhist World. Of all Buddhist leaders, they have had the
greatest influence on the propagation of the Dharma in the
United States. Thich Nhat Hanh’s books are available at any
bookshop and in many languages. Many of them are best sellers.
He has used a simple and readable literary style to explain
complicated Buddhist concepts.
For practice he uses methods based
on the Mahayana and Theravadan texts, but has simplified them
and applied them to daily American life. Further, he has
Westernized many aspects of his practice. Because of this, many
elder Vietnamese Buddhists find his work difficult to accept,
however, he has contributed greatly to bringing Buddhism to the
Westerner. Thanks to his books, many Westerners, who have been
gently teased by being called “Borders Buddhists” now know about
Buddhism.
3.
Vietnamese-American
Buddhist Temples:
Most of the practices in
Vietnamese-American Buddhist Temples combine Zen and Pure Land
practices. Some temples belong to the Thiền tradition, some
others are Theravadan, and some follow the Mendicant path. Many
temples have youth programs and Vietnamese language classes.
Temple organizers put great effort into caring for the mental
and spiritual lives of Vietnamese-Americans, and also to
bringing peace and joy to the larger society. Almost all the
activities of the temples take place on the weekend, because
people work during the week. For that reason they celebrate
festival days such as New Year, Buddha’s Birthday, and Ullambana
on Saturdays or Sundays.
As for architecture, some temples
still try to keep the oriental style with upward curved roofs.
However, most centers have no Asian architectural style because,
for financial reasons, the Vietnamese-American community simply
has bought a house, building, or church, erected a Buddhist
altar inside, and thus transformed it into a temple
Although we admire the devotion of
the Vietnamese-American Buddhists in maintaining the traditional
culture and religion of Vietnam we understand that concerns need
to be addressed in the future:
·
The Vietnamese language is
spoken during ceremonies, but the younger generations are not
learning the language. Bilingual ceremonies will be necessary in
the future.
·
There are few programs for
Americans interested in Buddhism. This hinders integration of
Vietnamese-Americans into American society and poses an
impediment to continuation of the temples.
·
Temples stress worship more
than meditation practice, while meditation is vitally important
to experiencing and deepening our faith. Such practice will help
us to find joy, peace and happiness in life.
·
Many temples still have no
teaching monks or nuns.
·
Most temples do not
coordinate with one another their efforts to spread the Dharma.
We hope to find solutions to
address those concerns. Vietnamese temples in America do not
face the isolation and discrimination to which the nineteenth
century Chinese were subjected. Therefore, there is no need to
fear the disappearance of Vietnamese Buddhism in America in the
future.
4.
The English Program at
the Hải Ấn Pagoda:
The Hải Ấn Pagoda was established
in 1983 by the Vietnamese Buddhist community in New Britain,
Connecticut. In addition to Vietnamese activities, there are
English Programs:
·
The Hai An Sangha meets every
Thursday from 6:30-8:30 p.m. Each meeting includes an incense
ceremony, prostrations, recitation of the Prajnaparamita
(or Heart Sutra), chanting of the mantra of
Avalokiteshvara (Om Mani Padme Hum), one half hour each of
sitting and walking meditation. This is typically followed by a
tea ceremony and dharma talk, (except on the second Thursday of
each month, when the
Five Precepts
are recited, and in place of the dharma talk, there is another
half hour of sitting meditation).
·
The Dharma Training Class at
the Pagoda is uniquely designed to produce individuals trained
in Buddhism. The first year of the class concentrates on modern
books that provide a broad overview of Buddhism; the second year
focuses on sutras from the Theravada, Mahayana and Tantrayana
traditions. The third year concentrates on the Mind-Only school,
The Avatamsaka Sutra, and books comparing Buddhism
with Science, and with other religions. The class is not focused
on any particular school of Buddhism; it provides an overview of
the main traditions of Buddhism: Theravada; Tibetan; Zen; Pure
Land; and others.
·
The Dharma Teacher Program
requires one additional year after graduation from the Buddhist
Studies program. Students may be invited by the Abbot to
participate. The invitation is based on commitment and one's
progress in Buddhist practice.
·
The Correspondence Course
Program for Prisoners: run by Dharma Teacher Richard Baksa is
similar to The Dharma Training Class. There are more than 300
students registered for the course. The Dharma Teacher Order of
the Hai An Pagoda, in partnership with the Chuang Yen Buddhist
Monastery in New York State, has approved the development of the
course. The need for the course is evident in the positive
responses of prisoners who have received Buddhist books and put
into practice what they have learned. They have found that
Buddhism has made a positive impact on their lives through
fostering an understanding of how unskillful actions have caused
them and others much pain and suffering, and as a result, have
participated in the Correspondence Course that aids them in the
study and practice Buddhism.
IV.
American Buddhism:
With many well known teachers who
have come from all parts of the world and from many traditions,
American Buddhism has the unique opportunity to synthesize a new
form of Buddhism. That vision will hopefully be fulfilled in the
future. Presently, there are already certain indications that
this is starting to happen:
·
Synthesis: Americans like
practices, ideas and traditions that incorporate more than one
source. Almost all the Buddhist traditions of the world are
present in the United States, providing unique opportunities to
learn from the different schools in order to enrich one’s
practice and open one’s mind, thus not fostering a monopoly by
one tradition. As it happens, Vietnamese Buddhism has already
synthesized Zen, Pure Land and Tantrayana into one practice, and
will certainly contribute considerably to the forming of a
synthesized American Buddhism.
·
Practicality: Americans are
very practical. They always ask the questions, ”What kind of
benefit will I get from following a religion”? and “How
can religion help transform the physical and mental sufferings
of mankind?” Vegetarianism is an example of a Buddhist
practice that will help people improve their health; Another
example is the Buddhist practice of meditation which will help
minds remain calmer, more peaceful, more positive, more
self-confident and more wise.
·
Tolerance: Americans who
seek alternatives to the major Western religions naturally value
tolerance. Buddhism’s tolerant spirit accepts all the different
of teachings concerning 84 thousand ways to get into the Dharma.
That means that Buddhists are very tolerant.
·
Self reliance: Americans are
strongly self-reliant. This is consistent with the Buddhist
teaching and practice of self-liberation.
·
Experience: Americans value
their own experiential learning, including practice. The fruit
of their practice proves the merit of Buddhist teaching. The
good teacher applies the teachings to the individual’s
experience of daily life, as the Buddha did.
·
Freedom: Americans cherish
personal freedom. Buddhism is a religion of freedom. It does not
subscribe to dogmas or forms. Its aim is to achieve absolute
freedom – that is from the circle of life and death.
·
Individualism: Americans
value individualism. And in America, faith is an individual
matter. Buddha teaches that everyone should be responsible for
his/her own life and that each person has to develop his/her own
capacities in order to free himself/herself.
·
Form: In America,
practitioners do not care much about form. For example, there
are Zen masters who wear jeans and have long hair.
·
Problems to be faced: the
difficult problems today include: sex discrimination,
discrimination of sexual orientation, abortion, cloning.
Buddhism with the spirit of equality, compassion and wisdom will
certainly offer effective solutions.
·
Lay leadership: Buddhism in
America has not yet established a strong monastic community.
Most of the Buddhist centers are run by the lay masters or lay
Dharma teachers. This form of engaged Buddhism has come from the
special cultural makeup of American society. This model has
involved all members of the Sangha in teaching the Dharma.
Because of these qualities,
Buddhism received a warm welcome from the very first day of its
arrival in the United States as a religion of peace, tolerance
and wisdom. In the period before 1879, Buddhism was considered a
mysterious teaching; during the following period Buddhism was
considered a religion for intellectuals; and in the current
period Buddhism is viewed as a therapy for a happy life. The
great masters of the century such as His Holiness the Dalai Lama
and Zen Master Thích Nhất Hạnh symbolize two ways of propagating
Buddhism, traditional and modern, which respond to different
needs of Man. With the spirit of non-self, non-attachment, and
altruism, Buddhism will be present in the world not as a
religious power but as a therapeutic force, helping mankind to
find peace, joy and happiness. American Buddhism with her
contemplative character will deepen meditation practice and will
in turn help Asian Buddhists rediscover its value.
Sources:
-
Ricks Fields, How the Swans Come to
the Lake – A Narrative History od Buddhism in America –
Shambhala, Boulder, 1981.
-
Charles S. Prebish and Kenneth K.
Tanaka edited, The Faces of Buddhism in America,
University of California Press: Berkeley, Los Angeles,
London, 1998.
-
Trần Quang Thuận, Phật Giáo Mỹ
(The American Buddhism), Trung Tâm Học Liệu Phật Giáo, 2000.
|