Lý
luận dịch
Kinh của các Đại sư Trung Quốc
HT. Thích Phước Sơn, Phó viện trưởng VNCPHVN, Việt Nam
Khát vọng bức thiết
nhất của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam hiện nay là có được một bộ
Tam tạng Thánh giáo bằng tiếng Việt. Niềm thao thức ấy lâu nay
đã được các vị tôn túc đáp ứng bằng cách ra sức phiên dịch một
số Kinh, Luật, Luận. Số Kinh, Luật, Luận này tuy chưa đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của độc giả Việt Nam, nhưng đó là những công
trình rất quý báu và đáng trân trọng. Sự nghiệp ấy cần được tiếp
tục và khẩn trương hơn nữa. Thiết nghĩ, muốn cho công trình
phiên dịch đạt được chất lượng tốt nhất, có lẽ chúng ta cũng nên
tham khảo và học hỏi những kinh nghiệm quý báu của các bậc tiền
bối. Những kinh nghiệm này đã được các Đại sư chủ dịch tại các
dịch trường đúc kết thành những công thức gọi là Lý luận dịch
kinh. Sau đây người viết xin trình bày Lý luận dịch kinh của các
Đại sư Trung Quốc – qua những công trình vĩ đại và sự nghiệp bất
hủ của các ngài để lại.
Lý luận dịch kinh là
quy ước dịch kinh của giới Tăng lữ do tham dự công việc thực tế
lâu ngày rồi đúc kết thành những nguyên tắc. Qua thời gian,
những nguyên tắc này dần dần được điều chỉnh hợp lý, chẳng hạn
Đạo An có “ngũ thất bản, tam bất dị”, Ngạn Tôn có “bát bị”,
Huyền Tráng có “Ngũ Chủng bất phiên”, Tán Ninh có “Lục Lệ”.
Lý luận dịch kinh và
sự dịch kinh quan hệ với nhau rất mật thiết. Ta có thể liên
tưởng đến quá trình phát triển văn học thì sẽ thấy rõ: Tác phẩm
văn học có trước rồi mới phát sinh lý luận văn học. Sự dịch kinh
và lý luận dịch kinh cũng tương tự như vậy. Đề xuất lý luận dịch
kinh là do những người chuyên môn dịch thuật, chẳng hạn La Thập,
Huyền Tráng là những vị Đại sư chủ dịch tối ưu, còn Đạo An, Ngạn
Tôn cũng là những nhân vật chủ não của dịch trường. Những lý
luận mà họ nêu ra là bàn về những kinh nghiệm trong công tác
thực tế.
1. LÝ LUẬN DỊCH KINH CỦA ĐẠO AN (312-385)
“Ngũ thất bản, tam
bất dị” là lý luận dịch kinh rất cụ thể mà Đạo An đã trình bày
trong bài tựa bộ Ma-ha-bát-nhã ba-la-mật kinh sao vào năm
Kiến Nguyên 18 (382). Trước hết chúng ta hãy bàn về Ngũ thất bản
(5 điều mất gốc). Đạo An cho rằng dịch văn Tây Trúc sang văn
Trung Hoa có 5 điều mất gốc, đó là:
1. Văn Tây Trúc đảo
lộn vị trí mà chuyển sang tiếng Trung
Hoa phải theo thể thức của Trung Hoa, đó là điều mất gốc thứ
nhất.
2. Kinh văn Tây Trúc
chuộng thực chất mà người Trung Quốc thì thích văn hoa, có văn
hoa mới dễ dàng thâm nhập tâm hồn mọi người, nếu không văn hoa
thì không thích hợp, đó là điều mất gốc thứ 2.
3. Kinh văn của Tây
Trúc rất rốt ráo, đến như những lời ngâm vịnh mà lặp đi lặp lại
đến 3, 4 lần cũng không ngại phiền phức, mà khi dịch thì phải
cắt bỏ, đó là điều mất gốc thứ 3.
4. Kinh văn Tây Trúc
thường kèm theo giải thích ý nghĩa, có vẻ rườm rà, lặp lại những
điều đã nói ở trước, văn cũng không khác nhau, mà khi dịch phải
cắt bỏ tất cả, đó là điều mất gốc thứ tư.
5. Khi việc đã hoàn
thành, nói sang đoạn tiếp cũng lập lại những lời trước đó, nhưng
khi dịch thì phải loại bỏ những thứ ấy, đó là điều mất gốc thứ
5.
Gần đây, Lữ Trừng đã
giải thích về “ngũ thất bản” trong sách “Trung Quốc Phật học Tư
tưởng khái luận, chương ba” của ông:
- Nói một cách đơn
giản thì có 5 tình huống làm cho bản dịch không thể nhất trí với
nguyên bản:
1. Về mặt ngữ pháp,
cần phải thích hợp với kết cấu của Trung văn.
2. Về mặt văn tự, cần
phải trau chuốt lời văn để thích hợp với tập quán thích văn hoa
của người Trung Quốc.
3. Đối với những câu
trùng phức của loại kệ tụng cần phải gia tâm cắt bỏ bớt.
4. Phải gọt dũa những
kệ tụng được lặp đi lặp lại nhiều lần.
5. Vấn đề đã nói qua
rồi, đến khi đề cập sang vấn đề khác còn lặp lại đoạn văn trên
một lần nữa, trường hợp này cũng phải cắt bỏ.
Đó là cách giải thích cho dễ hiểu của Lữ Trừng về “ngũ thất
bản”.
Bây giờ trở lại cách
thuyết minh về “tam bất dị” của Đạo An. Ông cho rằng phiên dịch
kinh điển từ Phạn sang Hán có “ba việc chẳng dễ”:
1. Như kinh Bát Nhã,
bậc Thánh giả tùy theo thời đại, dùng cái tâm “tam đạt” (chỉ cho
ba minh của Phật), dùng cái lưỡi “Phú diện” (chỉ cho cái lưỡi
rộng dài của Phật) để diễn tả, mà phong tục mỗi thời mỗi khác,
nay phải cắt bỏ những khái niệm cổ kính, thanh nhã ấy để thích
hợp với đương thời, đó là điều không dễ thứ nhất.
2. Ngu trí cách nhau
nghìn trùng, Thánh nhân thuộc một lĩnh vực riêng, mà muốn đem
lời nói vi diệu cao cả của nghìn năm trước chuyển dịch cho phù
hợp với phong tục thấp kém của trăm họ ngày nay, đó là điều
không dễ thứ 2.
3. A-nan kết tập kinh
điển, cách Phật chưa lâu, tôn giả Đại Ca-diếp lãnh đạo 500 vị
La-hán lục thông, xét duyệt nhiều lần rồi
mới ghi chép. Ngày nay cách xa hàng ngàn năm mà muốn đem ý riêng
thô thiển lượng định, cắt bỏ khi phiên dịch; các bậc A-la-hán
kia trang nghiêm dường ấy, trái lại những kẻ còn bị sinh tử tầm
thường thế này, há có thể làm cho những người không biết pháp
phấn chấn được ư? Đó là điều không dễ thứ 3 vậy.
Lữ Trừng giải thích
về “ba điều không dễ” đối với tình huống phiên dịch:
1. Kinh điển là Thánh
giáo Phật tùy theo đời đại thuyết giảng, mà thời thế phong tục
xưa nay không giống nhau, nếu muốn cho phong tục thời xưa thích
hợp với thời nay là điều không dễ chút nào.
2. Muốn đem những lời
nói vi diệu, nghĩa lý sâu xa của bậc Thánh trí ra phiên dịch cho
hàng phàm phu lãnh hội – mà thời gian cách xa ngần ấy – là điều
không phải dễ.
3. Khi xưa những
người chép kinh đều là những bậc đại trí có thần thông, mà nay
đưa cho một nhóm người bình thường phiên dịch, đó là một việc
làm không phải dễ dàng.
Xuất Tam Tạng ký
tập quyển 15, truyện của Đạo An viết: “Đạo An thông thạo các
sách vở ngoại điển, rất giỏi văn chương, con em của các quan
chức ở Trường An có làm thi phú đều lấy Đạo An làm chuẩn mực và
rất ca ngợi ông. Khi ông cùng với học sĩ Dương Hoằng Trung luận
bàn thi phú thì rất phong nhã và đạt đến chỗ tột cùng của nghĩa
lý”. Thế nên, người thời bấy giờ có lời truyền rằng “học bất sư
An, nghĩa bất trung nan” (học mà không học Đạo An, thì ý nghĩa
khó mà biết cho đúng !)
Qua đó ta thấy học
vấn của Đạo An rất uyên thâm, những bài tựa và bạt của ông hiện
còn toàn dùng thể văn biền ngẫu, điển nhã để viết, thể hiện
phong cách của văn phái đời Lục Triều, có thể nói là văn đến mức
tột đỉnh.
Tuy đề xuất “ngũ thất
bản, tam bất dị” nhưng khi bàn về phương pháp dịch thuật thì ông
bảo là có thể tùy thời tu chỉnh, không nhất thiết phải tuân theo
những quy tắc cứng nhắc.
Tóm tắt đôi nét tiểu sử của Đạo An:
- Đạo An sinh tại
huyện Phù Liễu, Thường Sơn vào năm Vĩnh Gia thứ 6 (312) đời vua
Hoài Đế nhà Tấn.
- Năm Hàm Khang
nguyên niên (335) đời vua Thành Đế đời Tấn, lúc 23 tuổi, ông thờ
Phật Đồ Trừng làm thầy và theo học kinh điển.
- Năm Vĩnh Hòa thứ 10
(354) đời vua Mục Đế đời Tấn, lúc 42 tuổi, ông lập chùa tại Hằng
Sơn Thái Hành, sau đó vâng chiếu đến Vũ Aáp.
- Năm Kiến Nguyên thứ
15 (379) đời vua Phù Kiên, Đạo An vào Trường An mới bắt đầu kết
duyên với việc dịch kinh. Từ trước đến nay, những Phật điển mà
ông nghiên cứu đều là những bản dịch của người trước, vì bản
thân của Đạo An vốn không thông Phạn văn.
- Năm Kiến Nguyên thứ
21 (385) đời vua Phù Kiên, ông viên tịch tại Trường An, hưởng
thọ 74 tuổi.
2. LÝ LUẬN
DỊCH KINH CỦA CƯU-MA-LA-THẬP (344-413)
Cưu Ma La Thập theo
Lữ Quang đến Kinh Châu vào năm Thái Nguyên thứ 10 (385), cư trú
ở đây đến 17 năm. Vì cha con Lữ Quang không tin Phật pháp, nên
La Thập chỉ có thể ôm ấp kiến giải sâu sắc của mình mà không có
cơ hội thi thố. Đến ngày 20 tháng 12 năm Hoằng Thỉ thứ 3 (401)
đời Diêu Tần, Diêu Hưng mời La Thập về Trường An, từ đó mới bắt
đầu công việc dịch kinh hoằng pháp tại Trung Quốc. Lúc này Đạo
an đã vãng sinh tịnh độ (385) được 17 năm, nhưng các bậc thạc
học cao đức đệ tử của Đạo An vẫn còn đó, họ chính là những thành
viên cơ hữu trợ giúp La Thập trong công trình vĩ đại này. Công
việc dịch kinh tiếp tục đến năm Hoằng Thỉ thứ 11 (409), khi La
Thập nhập diệt mới đình chỉ. Như vậy, sự nghiệp dịch kinh của
La Thập tại Trường An được duy trì và phát huy rực rỡ suốt chừng
ấy năm, điều mà trước đây chưa từng có.
Bản dịch của La Thập
được lưu truyền rất rộng rãi và rất được ca ngợi, về phương diện
phổ cập thì quả thật các đại sư dịch kinh đời sau không thể nào
sánh kịp. Trong Kim Cương kinh toản yếu san định ký,
quyển 1 viết: “Bản kinh này do La Thập phiên dịch, câu văn lưu
loát, khiến người ta thích nghe, cho đến nay già trẻ lớn bé
khắp hoàn vũ không ai là không thọ trì kinh này. Bộ kinh này có
6 người dịch, mà La thập giữ vai trò lãnh tụ trong các dịch giả
ấy. Câu văn lưu loát, từ lý thông suốt, khiến người ta thích
nghe chính là một trong những nét đặc sắc của bản dịch Ngài La
Thập. Ta không lạ gì ông được mọi người sùng thượng tột bực”.
Mặc dù đạt được thành quả lớn lao như vậy, nhưng ông hoàn toàn
không tỏ ra kiêu hãnh. Không những ông có trình độ Phật học uyên
thâm, có thái độ dịch kinh cần mẫn, mà còn có kiến giải dịch
kinh siêu việt hơn tiền nhân.
Một hôm luận bàn với
các đệ tử, ông nói: “Dịch từ Phạn sang Hán làm mất đi cái văn
vẻ, tuy được đại ý nhưng văn thể thì cách xa, tựa hồ nhai cơm mà
sú cho người khác, không những mất hết hương vị, mà còn khiến
cho người ta buồn nôn” (Truyện của ông trong Cao Tăng Truyện
quyển 2). Lời ấy nói lên đức khiêm tốn và tính cẩn thận của ngài
La Thập.
Trong bài tựa của
Tăng Duệ viết về kinh Duy-ma-cật có đoạn: “Pháp Sư La
Thập dịch lại chánh văn, nhờ giỏi phương ngôn, vận dụng kiến
thức cao siêu, thầm hợp với sự thật, nên đạt đến chỗ rốt ráo,
viên mãn. Bấy giờ, tay ngài cầm bản văn Tây Vức, miệng đọc lời
dịch, đạo tục đều thành kính, một lời dịch lập lại 3 lần, gọt bỏ
rườm rà, cầu được tinh túy, phù hợp với Thánh ý. Lời văn giản dị
mà thấu đáo, yếu chỉ lung linh mà sáng tỏ, những lời nói sâu xa
đến đây đều hiển hiện.”
Lý luận dịch kinh của
La Thập có thể quy nạp thành 3 điểm:
1. Xem trọng văn hoa.
2. Cắt giảm và tăng
bổ kinh điển.
3. Đính chính tên gọi
cho đúng sự thật.
Về vấn đề cắt giảm và
tăng bổ kinh điển, La Thập dựa và 3 nguyên tắc sau đây:
1. ĐỂ CHO BẢN DỊCH PHÙ HỢP VỚI HÌNH THỨC CỦA NGUYÊN ĐIỂN
Những bản kinh mà La
Thập phiên dịch phần lớn là những bản dịch lại. Các bậc tiền
nhân khi dịch kinh thường dùng những bản văn do người Tây Vức
mang đến chứ chẳng phải trực tiếp sử dụng tài liệu bằng tiếng
Phạn của người Thiên Trúc (Ấn Độ). Khi tham khảo các bản cựu
dịch, La Thập dùng bản tiếng phạn của Thiên Trúc để đối chiếu,
ông thấy rằng những bản kinh sau khi truyền vào Tây Vức, người
Tây Vức đã dùng ý riêng của mình để thêm bớt kính điển. Gặp
trường hợp như thế, La Thập đều phục hồi lại bản lai diện mục
của chúng. Điển hình như Đại Phẩm Kinh. Trước thời La
Thập, Đại Phẩm Kinh có 2 bản dịch nổi tiếng nhất là Quang
Tán và Phóng Quang. Nguyên điển của chúng đều từ nước Vu Điền
của Tây Vức mà Đạo An đã từng nhiều lần so sánh đối chiếu. La
Thập cho rằng phẩm mục của bộ kinh này là do người Hồ tăng thêm,
cho nên ông cắt bỏ hầu hết để phục hồi lại diện mạo nguyên thủy
của bản chữ Phạn.
2. CHÂM CHƯỚC CHO PHÙ HỢP VỚI NHU CẦU CỦA NGƯỜI HÁN
Đối với nội dung của
Luận thư, La Thập không dựa vào nguyên bản để dịch đầy đủ mà chỉ
tuyển chọn những bản trọng yếu nào đó rồi ra sức phiên dịch, như
trong bài tựa của Luận Đại Trí Độ mà Tăng Duệ đã viết:
“Văn của người Hồ rườm rà, đều giống như phẩm đầu, Pháp sư (La
Thập) nghĩ rằng người Tần (Trung Quốc) ưa giản dị nên lược bỏ
đi, nếu dịch đầy đủ văn ấy thì cũng hơn 1000 quyển.” Còn Đại
Trí Độ luận ký thì nói: “Từ phẩm 2 trở đi, Pháp sư lược bỏ
bớt, chỉ giữ lại những điểm cốt yếu, đủ để giải thích ý văn mà
thôi, không dịch tất cả mà đến 100 quyển, nếu dịch đầy đủ, e gấp
10 lần như thế.
3. CẮT BỚT HOẶC BỔ SUNG NGUYÊN ĐIỂN ĐỂ CHO BẢN DỊCH ĐƯỢC LƯU
LOÁT VÀ SÁNG SỦA
Tác giả nguyên điển
của các luận thư do trình độ đầu tư không đồng, văn chương mỗi
người mỗi khác, khi La Thập phiên dịch chú trọng nghĩa lý và
trau chuốt ngôn từ, để tránh cho bản dịch khỏi khô khan khó đọc.
Trong bài tựa của
Trung luận, Tăng Duệ viết: “Bộ luận này do Bồ Tát Long Thọ
trứ tác, tên đầy đủ của nó là Trung Quán luận, tương
truyền gồm 500 bài tụng, nhưng bản dịch của La Thập mà Đại
Chính tạng ghi lại chỉ có 446 bài tụng”, rồi Tăng Duệ dẫn
lời của La Thập nói: “Giới học giả có tiếng tăm của các nước
Thiên Trúc không ai là không thưởng thức bộ luận này, xem nó như
là sách gối đầu giường, và số người giải thích nó cũng không
phải là ít”.
La Thập dịch Kinh,
hoặc cắt bỏ những chỗ trùng lập của nguyên văn, hoặc không theo
đúng thể thức của nguyên văn, hoặc thay đổi nguyên văn? đây xin
lấy nguyên bản tiếng phạn của Đại Trang Nghiêm Kinh Luận,
đối chiếu với bản dịch để chứng minh:
a/ Cắt bớt nguyên
bản: Nếu đem tiết cuối, thiên cuối, quyển 10 của bản dịch Đại
Trang Nghiêm kinh luận so với Phạn văn thì rất là đơn giản.
Còn tiết cuối của thiên đầu quyển 11 thì bản dịch hoàn toàn
không có. Đây là minh chứng cho sự cắt bớt nguyên văn.
b/ Thêm văn vào
nguyên bản: Văn của Dụ Man Luận gồm 2 thể là tản văn và
Kệ tụng, khi dịch hết phần tản văn, La Thập thêm vào mấy chứ
“thuyết kệ ngôn” để nối tiếp phần kệ tụng. Mấy chữ này không có
trong nguyên bản tiếng Phạn, nhưng La Thập thêm vào để phân biệt
giữa 2 thể tản văn và kệ tụng.
c/ Không câu nệ thể
thức của nguyên văn: Một đoạn trong Dụ Man Luận quyển 11,
nguyên bản bằng tản văn, nhưng khi phiên dịch thì La Thập dịch
thành thể kệ:
“Các vị Sa-di kia,
Khi vừa được thần
thông,
Hóa thành những cụ
già,
Tóc bạc, mặt nhăn
nheo”
d/ Thay đổi nguyên
văn: Trong quyển 4 Dụ Man luận có một tiết nói “Ông như
tổ kiến mà muốn so sánh với núi Tu-di, để xem cao thấp”. Chữ
“Tu-di” nguyên bản chữ Phạn viết là Mandara, hoặc Vandhya là tên
của một dãy núi mà người Tần không biết, nên khi dịch La Thập
đổi ra chữ “Tu-di” mà người Tần đã biết, cho độc giả dễ hiểu.
Phần lớn những kinh
của La Thập dịch là những bản dịch lại, phương pháp hiệu chỉnh
của La Thập dựa trên 3 nguyên tắc như Tăng Duệ đã trình bày
trong bài tựa của Đại phẩm kinh: “Nếu âm Hồ sai thì dùng âm
Thiên Trúc đính chính; nếu tên của Tần mà lầm thì dùng nghĩa của
chữ để quyết định; chừng nào không thể thay đổi được nữa thì mới
viết ra. Do vậy mà những tên mới thành ra hoa mỹ, những âm không
chính xác đã được loại bỏ gần hết. Đây quả thật là công lao của
bậc thầy vĩ đại và là sự thận trọng đặc biệt của người biên
chép.”
Trong sách Trung
Quốc Phật học Tư tưởng khái luận chương 5, Lữ Trừng cũng nêu
ra nhận xét: “Chúng ta biết rằng diện mạo bản dịch lại của La
Thập so với bản dịch cũ khác nhau rất nhiều. Về phương diện ý
dịch thì cố gắng làm cho danh và thật đạt đến độ chính xác. Về
phương diện âm dịch thì dùng âm Thiên Trúc để sửa cho đúng. Thái
độ dịch kinh thận trọng như thế không những khiến cho người
đương thời và muôn nghìn người đời sau ngưỡng mộ, mà chính bản
thân dịch giả cũng lấy đó làm tự hào, nên gọi những kinh điển do
mình phiên dịch là Tân kinh. Trong thư phúc đáp cho sư phụ của
ông là Tỳ-ma-la-xoa, có đoạn viết: “Ở đất Hán kinh luật chưa đầy
đủ, Tân kinh và luật phần lớn do Thập phiên dịch”. Khi viết Xuất
Tam Tạng ký tập, luật sư Tăng Hựu đời Lương đã đánh giá La Thập
rất cao: “Ôi, Pháp sư La Thập thần thái sáng rực như vàng, những
vị Tăng nước Tần như Dung và Triệu trí tuệ siêu việt, cho nên
tỏa sáng huy hoàng, làm rõ được nghĩa ẩn của kinh, ngôn từ sâu
xa của Đại thừa đến đây là rực rỡ”.
Ông Trần Dần Khác
cũng tán thán La Thập như sau: “Tôi từng cho rằng công lao phiên
dịch của Cưu Ma La Thập trong vòng ngàn năm qua, chỉ có Huyền
Tráng là có thể sánh được với ông. Ngày nay các bản kinh Phật
được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc như kinh pháp Hoa… không
loại nào là không do ông phiên dịch. Cho nên về phương diện phổ
cập thì dù Từ Ân (Huyền Tráng) cũng không thể sánh kip” (Đồng
Thọ Dụ Man luận Phạn văn tàn bản bạt).
Tóm lại, hoạt động
dịch kinh của La Thập thật là nghiêm túc, vì ông có trình độ
phật học uyên thâm, nắm vững nghĩa lý của kinh điển, đạt đến mức
độ “Tùng tâm sở dục nhi bất du củ” (Theo ý muốn của mính mà
không trái với quy củ), và lý luận dịch kinh của ông cũng lấy đó
làm điểm xuất phát.
3. LÝ LUẬN
DỊCH KINH CỦA NGẠN TÔN (557-610)
Ngạn Tôn sinh năm Cao
Tường Thiên Bảo thứ 8 (557) đời vua Văn Tuyên Đế Bắc Tề, người
đời gọi ông là Y Quan, người nhà gọi là Giáp Tộc. Lúc trẻ, ông
đã thông tuệ, có tài năng tiết tháo khác thường, hiểu thấu những
điều huyền vi, tâm tính tương ứng với Thánh đạo, gặp vật là biết
liền, ít khi phải xem lại. Lúc đầu, ông thọ giáo với Pháp sư
Tăng Biên ở Tín Đô, nhân thầy bảo đọc kinh Tu Đại Noa, gồm 7000
chữ, mà ông chỉ đọc trong một ngày là xong.
Vào năm đầu Võ Bình
(570) đời vua Cao Vĩ Hậu chúa Bắc Tề, ông được 14 tuổi, Hoàng
hậu mời ông vào điện Tuyên Đức giảng kinh Nhân Vương, Quốc
Thống, Tăng Đô đều theo phục vụ ông. Thính giả chừng 200 người
mà toàn là những bậc tài danh. Nhà vua thân hành đến nghe giảng,
văn võ các quan đều theo hầu, Hoàng thái hậu và phi tần 6 cung
đều tham dự Pháp hội. Vua ra lệnh quan Thị trung Cao Nguyên Hải
rước Ngạn Tôn lên Pháp Tòa, rồi đứng hầu một bên.
Năm Võ Bình thứ 3
(572), ông 16 tuổi, được đặc cách thọ giới Cụ túc, rồi chuyên
tâm học Luật, nhiệt tâm chấn hưng Tam bảo, mỗi lần tổ chức trai
tăng đều tỏ bày sám hối. Nhà vua đích thân bưng lư hương theo
sau Ngạn Tôn, hướng dẫn dân chúng khôi phục kỷ cương phép nước.
Ngày 24 tháng 7 năm
Đại Nghiệp thứ 6 (610) đời vua Tùy Dương Đế Dương Quảng, ông
viên tịch tại phiên kinh quán, hưởng dương 54 tuổi.
Tuy Ngạn Tôn chỉ hưởng dương 54 tuổi nhưng từng trải qua 3 triều
đại Bắc Tề, Bắc Chu và nhà Tùy; nhờ trí tuệ phát triển sớm, lại
nhận được sự đãi ngộ đặc biệt của các vua chúa, các bậc hiển quý
và văn sĩ, nên danh tiếng ông vang lừng trong thiên hạ.
Ngạn Tôn bắt đầu công
việc dịch kinh từ lúc 27 tuổi. Tại dịch trường, ngoài việc đối
chiếu Phạn bản và chỉnh lý văn nghĩa, thì ông chỉ là người trợ
dịch. Việc viết tựa các kinh tựa hồ là chuyên trách của ông, còn
bản thân ông hoàn toàn không có bản dịch nào truyền lại ở đời.
Lý luận dịch kinh của ông là do việc tham gia phiên dịch mà đúc
kết, có phần nào giống với Đạo An.
Sách Biện Chính luận
do Ngạn Tôn trứ tác, trong đó phần bàn về lý luận dịch kinh được
tóm tắt thành “Bát bị” (Tám việc hoàn bị), nội dung như sau:
1. Thành tâm yêu
pháp, chí nguyện lợi người, không ngại thời gian, là bị thứ
nhất.
2. Muốn sang bờ giác,
trước phải giữ giới, không sợ chê bai, là bị thứ hai.
3. Tinh thông Tam
tạng, hiểu rõ 2 thừa, không có ngu tối, là bị thứ 3.
4. Đọc khắp sách sử,
trau dồi điển chương, không để thiếu sót, là bị thứ 4.
5. Trong lòng an
tịnh, khí độ ung dung, không hay chấp trước, là bị thứ 5.
6. Đắm mình vào đạo,
lạnh nhạt lợi danh, không thích khoe khoang, là bị thứ 6.
7. Học vấn uyên bác,
thông hiểu tiếng Phạn, phiên dịch chính xác, là bị thứ 7.
8. Thường xem thương
nhã, hiểu rõ triện lệ, am tường văn lý, là bị thứ 8.
Tám điều trên đây đầy
đủ, mới xứng đáng là một dịch giả lịch lãm. Đây chính là những
tiêu chuẩn cần thiết để tuyển chọn nhân viên làm việc tại dịch
trường.
Chúng ta có thể tóm
tắt nội dung Bát bị thành 3 điểm chính yếu như sau:
1. Dịch giả cần phải
hội đủ những đức tính cao quí của một Tăng sĩ (gồm các điều 1,
2, 5 và 6).
2. Dịch giả cần phải
tinh thông Phật học (điều thứ 3).
3. Dịch giả phải tinh
thông văn tự của Phạn và Hán (các
điều 4, 7 và 8)
4. LÝ LUẬN DỊCH KINH CỦA HUYỀN TRÁNG (601-664)
Đại sư Huyền Tráng
sau khi du học Ấn Độ trở về Trường An vào năm Trinh Quán 19
(645), liền bắt đầu sự nghiệp dịch kinh của mình cho đến lúc
vãng sanh ngày 5 tháng 2 năm Lân Đức thứ nhất (664) mới chấm
dứt, trước sau gần 20 năm. Trong thời gian ấy chưa từng gián
đoạn một ngày, dịch được 73 bộ, 1330 quyển kinh luận. Căn cứ vào
sự đồ sộ của số quyển mà nói thì quả thật xưa nay ông là người
số một. Trong gần 20 năm sinh hoạt dịch kinh, lý luận dịch kinh
của Huyền Tráng đại khái có thể đúc kết thành 3 điểm:
1. Tìm cầu những
bản kinh nguyên vẹn.
2. Tuyệt đối
trung thành với nguyên điển.
3. Có 5 trường
hợp không thể phiên dịch.
Hai điểm 1 và 2 có
thể gộp chung lại để luận bàn, nhân vì ông bất mãn với những bản
cựu dịch mà phát sinh.
Đại sư Huyền Tráng đã
có những bất mãn về những bản dịch cũ từ lâu. Trước khi sang Ấn
Độ cầu pháp, ông đã từng đi tham vấn các danh Tăng trong nước,
dấu chân từng trải khắp các nơi như Lạc Dương, Trường An, Thành
Đô, Tương Châu (Hà Nam), Triệu Châu (Hà Bắc), gần như hầu hết
học thuyết và kinh điển đang lưu hành từ Nam đến Bắc lúc bấy
giờ, ông đều tham học tất cả. Dù du học khắp nơi trong nước, ông
vẫn chưa thỏa mãn được nguyện vọng tìm hiểu của mình. Chuyện của
ông trong Tục Cao Tăng truyện quyển 4 viết:
“Tôi đi khắp Ngô
Thục, lần đến Triệu Ngụy, cuối cùng đi tới Chu Tần, nghe đâu có
trường giảng đều đến tham dự, những lời dạy bảo đã ban ra, đều
ôm ấp vào lòng, còn những gì chưa nói ra, thì không có cách nào
để hiểu. Nếu không liều chết bỏ mạng, thề đến Thánh địa thì làm
sao thấy được chân kinh, hiểu biết thấu đáo, tận mắt nhìn được
pháp sáng, văn gốc và nghĩa mầu…”
Sở dĩ Huyền Tráng xem
thường những bản dịch cũ có thể là do ông căn cứ vào 2 nhân tố
dưới đây:
1. Vì những bản dịch
cũ không phải là những bản nguyên vẹn.
2. Vì những bản dịch
cũ không trung thành với nguyên điển.
Trước hết hãy bàn về
sự đánh giá của Huyền Tráng đối với những bản dịch không đầy đủ.
Huyền Tráng hoạt động dịch kinh trước sau gần 20 năm, đại khái
có thể chia làm 3 giai đoạn:
1. Sáu năm đầu
(645-650) lấy việc dịch Du-già Sư địa luận làm trung tâm,
đồng thời dịch những trước tác liên quan đến bộ luận này.
2. Mười năm giữa
(651-660), lấy việc phiên dịch Luận Câu-xá làm trung tâm,
và dịch những trước tác liên quan đến Câu-xá.
3. Bốn năm sau cùng
(660-664), lấy việc phiên dịch kinh Đại Bát-nhã làm trung
tâm. (Trích dẫn Trung Quốc Phật học tư tưởng khái luận, chương 8
của Lữ Trừng).
Một sự kiện xảy ra
khi ngài Huyền Tráng chuẩn bị dịch bộ kinh Đại Bát-nhã:
Vào ngày mồng một tháng giêng, mùa xuân, năm Hiển Khánh thứ 5
(660), ông bắt đầu dịch kinh Bát-nhã. Bản chữ Phạn tổng cộng gồm
200.000 bài tụng, văn từ quá bao la, nên đồ chúng yêu cầu ông
cắt lược bớt. Pháp sư định tùy theo ý nguyện của đồ chúng, như
cách phiên dịch của La Thập, bỏ rườm rà, cắt trùng lập. Nhưng
khi mới nghĩ như vậy thì ban đêm nằm mộng thấy những việc cực kỳ
đáng sợ, nhằm để cảnh tỉnh: như thấy đi qua những chỗ nguy
hiểm, hoặc thấy mãnh thú bắt người, khiến ông run rẩy toát mồ
hôi, rồi mới thoát được. Khi thức dậy hoảng sợ, kể lại giấc mộng
vừa rồi với đại chúng, rồi theo như trước phiên dịch đầy đủ, thì
đêm ấy ông thấy chư Phật Bồ-tát phóng hào quang từ giữa 2 hàng
lông mày, ánh sáng chạm đến thân mình, tâm ý thư thái. Pháp sư
lại thấy tay mình cầm đèn hoa, cúng dường chư Phật; hoặc lên tòa
cao, thuyết pháp cho đại chúng, có nhiều người vây quanh, khen
ngợi cung kính; hoặc mộng thấy có người biếu mình những trái cây
đặc biệt. Khi tỉnh giấc rất hoan hỷ, không dám cắt xén mà dịch
đúng như bản chữ Phạn. (Đại từ Ân tự Tam Tạng Pháp sư truyện,
quyển nhất)
Lý do vì sao Ngài
Huyền Tráng không thể dịch bộ kinh Đại Bảo Tích: Ngày
mồng một tháng giêng mùa xuân năm Lân Đức thứ nhất, các Đại Đức
dịch kinh cùng với Tăng chúng chùa Ngọc Hoa ân cần thỉnh cầu
dịch kinh Đại Bảo Tích, Pháp sư thấy tấm lòng Tăng chúng
rất chí thành, miễn cưỡng dịch được mấy hàng, liền xếp bản chữ
Phạn lại, dừng nghỉ bảo với mọi người: Bộ Kinh này dung lượng
bằng kinh Đại Bát-nhã, Huyền Tráng tự lượng khí lực của
mình, sẽ không làm xong bộ này, ngày chết sắp đến, chẳng còn bao
xa, nay muốn đến các cốc Lan Chi v.v., lễ bái từ giã Cu-chi Phật
tượng.” Thế rồi, cùng với môn nhân ra đi, Tăng chúng nhìn nhau,
không ai là không cảm thấy bùi ngùi. Khi đảnh lễ xong, trở về
chùa, chuyên tinh hành đạo, rồi chấm dứt hẳn việc phiên dịch.
(cùng quyển như trên)
“Ngũ chủng bất phiên”
là lý luận dịch kinh cụ thể nhất của Huyền Tráng được ghi chép
trong Nam Tông Pháp Vân Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập, quyển
một, như sau:
1. Vì bí mật nên
không phiên dịch, ví dụ như Đà-la-ni (thần chú)
2. Vì hàm súc nhiều
nghĩa, nên không phiên dịch, như Bạc-già-phạm, bao hàm đến 6
nghĩa.
3. Vì ở Trung Hoa
không có, nên không dịch, như cây Diêm-phù chẳng hạn.
4. Vì theo người xưa
nên không dịch, như A-nậu, Bồ-đề – Thực ra những chữ này có thể
dịch được, nhưng từ Ma-đằng trở đi đều giữ nguyên âm Phạn cho
nên không dịch.
5. Vì để phát sinh
điều lành nên không dịch, như để nguyên Phạn âm “Bát-nhã” thì có
vẻ trân trọng, còn dịch thành “trí tuệ” thì có vẻ bình thường;
vì muốn cho người ta sinh lòng tôn kính, cho nên không dịch.
Theo nội dung của
“ngũ chủng bất phiên” thì hoàn toàn thuộc về vấn đề dịch âm các
danh tướng của Phật giáo. Huyền Tráng tổng kết ý kiến của người
trước, hiệu đính thành 5 nguyên tắc cơ bản của việc dịch âm. Xưa
nay, những thuật ngữ của Phật giáo thường mang nhiều ý nghĩa hàm
súc, nên khi muốn dịch âm, phải chọn một chữ Hán nào đó đủ sức
biểu âm, mà không liên quan gì đến ý nghĩa để chuyển dịch. Nhưng
những chữ đồng âm của Trung Quốc thì quá nhiều, cho nên, cùng
một danh tướng (thuật ngữ) mà do người dịch khác nhau nên có
nhiều tên dịch khác nhau. Do vậy rất dễ dẫn đến tình trạng sai
lầm do xem văn mà liên tưởng đến ý nghĩa.
Giờ đây xin giải
thích rộng về “Ngũ chủng bất phiên” của Huyền Tráng:
1. Vì bí mật nên
không phiên dịch, như Đà-la-ni (thần chú) chẳng hạn.
Nguyên tác Phạn văn
của Đà-la-ni là “dhàrani”, có chỗ dịch là “đà-la-na”,
“đà-lân-ni” v.v., chia thành 4 loại là: Pháp đà-la-ni, Nghĩa
đà-la-ni, Chú đà-la-ni và Nhẫn đà-la-ni. Ý nghĩa ban đầu là
“Trì, tổng trì, năng trì, năng già”, thông thường gọi thần chú
là Đà-la-ni. Bất cứ tôn giáo nào cũng đều có tính chất thần bí,
chú ngữ là một trong những loại đó, phải trì tụng đúng nguyên âm
thì mới phát huy được năng lực thần thông lớn lao của chú ngữ.
Trong Thông Chí lược lục thư Hoa Phạn của Trịnh Tiều, nói: “Nay
Phạm tăng chú mưa thì có mưa rơi, chú rồng thì có rồng hiện, chỉ
trong khoảnh khắc, theo âm thanh mà biến hóa. Nhưng Tăng sĩ
Trung Hoa cũng học âm thanh ấy mà không linh nghiệm, là vì chưa
đạt đến trình độ âm thanh chính xác vậy.” Đại khái Huyền Tráng
vì lý do bảo tồn nguyên âm của chú ngữ, cho nên chủ trương dịch
âm chú ngữ, như chú ngữ sau cùng trong bản dịch
Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh của ông:
“Yết đế yết đế, ba la
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
Nguyên tác Phạn văn:
“Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi Svàhà”.
Ý dịch của đoạn chú
ngữ này là: “Đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, tất cả qua bờ
bên kia, hướng đến giác ngộ mà đi”
Trước thời Huyền
Tráng, La Thập dịch Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật đại minh chú kinh,
đoạn chú ngữ này cũng được dịch âm.
2. Vì hàm súc nhiều
nghĩa nên không dịch, như Bạc-già-phạm, bao hàm đến 6 nghĩa.
Nguyên tác chữ Phạn
Bạc-già-phạm là “Bhagavat”, có nhiều tên dịch như: Bà-già-bạn,
Bà-già-phạn, bạc-a-phạn, bà-già-bà, bà-già-bạt-đế v.v., nguyên ý
là “Thế Tôn”, là tôn hiệu của Phật. Huyền Ứng Nhất Thiết Kinh âm
nghĩa quyển 3 nói: “Bà-già-bà, bản cũ gọi là công đức lớn, tên
gọi bậc Chí Thánh, gọi đúng là Bạc-già-phạm”. Tuệ Lâm, Nhất
Thiết kinh âm nghĩa quyển 10, nói: “Bạc-già-bạn, Phạn ngữ hoặc
gọi là Bạc-già-phạm, Bà-già-bà, Bạc-già-bạt-đế, đều là đức hiệu
thứ 10 của Phật”. Phật địa luận quyển 1, nói: “Bạc-già-phạm bao
hàm 6 nghĩa sau đây: 1/ Tự tại; 2/ Xí thịnh; 3/ Đoan nghiêm; 4/
Danh xưng; 5/ Cát tường; 6/ Tôn quí.”
Vì “Bạc-già-phạm” bao
hàm nhiều nghĩa, nếu dịch 1 nghĩa nào đó thì không bao gồm hết
các nghĩa khác, nên dịch âm là thỏa đáng nhất.
Trong Niết-bàn
Kinh Du Ý của Cát Tạng, nói: “Chẳng hạn chữ “Ma-ha”, vốn là
phiên âm của chữ Mahà, dịch nghĩa là “đại”. Nhưng đại có 6
nghĩa: 1/ Thường hằng; 2/ Rộng rãi; 3/ Cao siêu; 4/ Sâu xa; 5/
Phong phú; 6/ Thắng diệu.”
3. Vì ở Trung Quốc
không có nên không dịch, như cây diêm-phù.
Cây diêm-phù nguyên
văn tiếng Phạn là Jambù. Phật học Đại từ điển của Đinh Phúc Bảo
giải thích: “Một loại cây cao tại Ấn Độ, tên khoa học của nó là
Eugeniajambolana, tuy là một loại thực vật rụng lá, nhưng thời
gian rụng lá rất ngắn, lá non liền mọc ra ngay, lá ấy thẳng và
nhọn, nở hoa vào khoảng tháng tư, tháng 5, có màu vàng trắng
nhạt, hình dáng nhỏ nhắn, quả mới ra có màu vàng trắng, dần dần
biến thành màu đỏ tía, và chín thì có màu đen hoặc là tía đậm,
hình thù cỡ trứng chim sẻ, có vị chát hơi chua và ngọt. Kinh
Niết-bàn bản Nam truyền, nói: “Cây am-la và cây diêm-phù, mỗi
năm thay lá 3 lần.”
Vì Trung Quốc không
có cây diêm-phù, nên chỉ có thể dịch âm tên của nó. Hễ gặp những
gì ở Trung Quốc không có như thế thì Huyền Tráng đều theo tiêu
chuẩn này.
4. Dựa theo người xưa
nên không dịch, như a-nậu, bồ-đề. Thực ra 2 chữ này có thể dịch
được, nhưng từ Ma-đằng đến nay đều giữ nguyên âm Phạn nên noi
theo đó mà không dịch.
Chữ a-nậu nguyên văn
tiếng Phạn là anu, có chỗ dịch âm là a-thỏ, a-nỗ v.v., nguyên ý
là “rất nhỏ”. Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương quyển 5 của Khuy Cơ đời
Đường giải thích: “A-nỗ nghĩa là cực kỳ bé nhỏ, nên gọi tên nó
là cực vi”. Bồ-đề nguyên chữ Phạn là bodhi, cách dịch cũ gọi là
đạo, cách dịch mới gọi là giác. Luận Đại Trí Độ nói: “Bồ-đề,
tiếng nước Tần gọi là trí tuệ vô thượng”. Những chữ vừa nêu trên
đều có thể dịch ý, nhưng vì từ Ca-diếp-ma-đằng thời Đông Hán trở
đi, đều dùng cách dịch âm, đã trở thành quy ước thông tục, ai
nấy đều hiểu, không cần sáng tạo thêm một tên dịch mới, nên
không dịch. Khi gặp các trường hợp tương tự như thế, Huyền Tráng
đều chủ trương “theo xưa” không dịch.
5. Vì để phát sinh
điều lành nên không dịch, như dùng từ Bát-nhã thì có vẻ trân
trọng, còn dịch thành trí tuệ thì có vẻ tầm thường. Vì muốn
người ta sinh lòng cung kính nên không dịch.
Chữ bát-nhã nguyên
tác tiếng Phạn là prajnã, có các tên dịch như ban-nhã, ba-nhã,
bát-la-nhã, bát-thích-nhã, bát-la-chỉ-nương, bát-lại-nhã,
ba-lại-nhã, bát-thận-nhương, ba-la-xương v.v. Nguyên ý là tuệ,
trí tuệ, sáng suốt. Đối với Phật giáo, trí tuệ được phân biệt
thành nhiều tầng bậc cạn sâu, nhưng Bát-nhã là đệ nhất, vô
thượng, vô tỷ, vô đẳng, không gì hơn trong các loại trí tuệ
(Luận Đại Trí Độ quyển 4, đoạn 13). Nếu như chỉ dịch bát-nhã là
“tuệ, trí tuệ, sáng suốt”, thì không đủ để biểu đạt các khái
niệm “đệ nhất, vô thượng, vô tỷ, vô đẳng và không gì hơn”. Khi
gặp những trường hợp như vậy, Huyền Tráng cho rằng nên dùng cách
dịch âm, mới có thể khiến người ta sinh lòng cung kính.
Nói tóm lại, tìm kiếm
những bản kinh nguyên vẹn, trung thành với nguyên điển, có 5
trường hợp không dịch, đó chính là trọng tâm lý luận dịch kinh
của Huyền Tráng. Sự thành tựu về những phương diện này hết sức
khả quan. Luật sư Đạo Tuyên đời Đường đánh giá ông rất cao: “Ở
đời có Trang Công, cao trội hơn đồng loại, đi về chấn động, đã
từng kinh lịch qua hơn trăm nước, quân thần đều tôn kính, tiếp
xúc luận bàn, vạch rõ những yếu chỉ sâu xa, khiến cho người Hoa,
Nhung đều vui thích. Thế nên vào đời Đường, ông thuộc về những
người dịch kinh lớp sau mà không cần bắt chước người trước, cầm
bản Phạn văn lên so sánh thẩm định, đã sửa chữa nhiều chỗ sơ
suất của người trước.” (Tục Cao Tăng truyện quyển 4, Huyền
Tráng bản truyện luận)
5. LÝ LUẬN DỊCH KINH
CỦA TÁN NINH (919-999)
Đại sư họ Cao, pháp
danh là Tán Ninh, nguyên quán ở Bột Hải, vào cuối đời Tùy dời
đến ở huyện Đức Thanh thuộc quận Ngô Hưng. Ông nội tên Huyền,
cha tên Thẩm, đều ở ẩn giữ đức không ra làm quan. Mẹ ông họ Chu.
Ông sinh tại nhà riêng ở núi Kim Vũ, vào năm Kỷ Mão (919), niên
hiệu Trinh Minh thứ 7 đời nhà Lương. Ông xuất gia trong khoảng
năm Thiên Thành (926 - 930) đời Hậu Đường. Vào đầu năm Thanh
Thái (934) ông vào núi Thiên Thai thọ giới Cụ Túc, học luật Tứ
Phần, tinh thông luật của Nam Sơn (Đạo Tuyên). Sau đó Ngô Việt
Trung Ý Vương tấn phong Tán Ninh làm Lưỡng nhai Tăng Thống, hiệu
là Minh Nghĩa Tôn Văn Đại Sư.
Theo Thích Thị Kê
cổ, quyển 4 thì Tán Ninh viên tịch tháng 2, mùa xuân, năm
Hàm Bình thứ 2 (999), hưởng thọ 81 tuổi, đến tháng 3 nhập tháp
tại chùa Thiên Thọ. Đến năm Thiên Thánh thứ 7 (1029) người chắt
của ông là Tôn Thạnh mở tháp đem nhục thân Trà Tỳ, thu di hài xá
lợi mang về an táng tại quê nhà là Tiền Đường.
Sách Tương Sơn Dã
lục, quyển hạ viết: “Tăng Lục Tán Ninh có học thức sâu rộng,
thông bác mọi việc xưa nay, viết hàng trăm quyển sách, Võ Xưng
Vương Nguyên, Từ Kỵ Tỉnh Huyền hễ có nghi nghờ điều gì đều đến
hỏi ông, và hết sức thán phục ông”.
Lý luận dịch kinh của
Tán Ninh được ghi chép trong Tống Cao Tăng truyện quyển
3, do ông biên soạn như sau: Tôi thấy Đạo An soạn “Ngũ thất bản,
tam bất dị”, Ngạn Tôn nêu ra “Bát bị”, Minh Tắc thì soạn phiên
kinh nghi thức, còn Huyền Tráng thì đề xuất “Ngũ chủng bất
phiên”, những loại này tương tự như những tổng kết của Tả Thị,
giống như thể lệ của các sử gia. Giờ đây tôi đúc kết lý luận
phiên dịch thành “Tân ý lục lệ” như sau:
1. Dịch chữ, dịch
âm.
2. Hồ ngữ, Phạn
ngữ.
3. Dịch lại, dịch
thẳng.
4. Thô ngôn, tế
ngữ.
5. Hoa ngôn, nhã
tục.
6. Trực ngữ, mật
ngữ.
Tán Ninh sáng tạo ra
“Tân ý lục lệ” (Sáu quy tắc mới mẻ) là bắt chước việc làm của
tiền nhân.
Các quy tắc trên được
ông giải thích đại khái như sau:
1. Dịch chữ, dịch âm:
Đây là văn dịch kinh điển của chữ Hán, đầy đủ cả âm và nghĩa,
chính là yếu tố tiên quyết của việc dịch kinh.
2. Hồ ngữ, Phạn âm:
Tại Ngũ Thiên Trúc (Ấn Độ) thuần túy Phạn ngữ, còn miền Bắc
Tuyết Sơn thuộc về Hồ. Khi kinh luật của Thiên Trúc truyền đến
nước Quy Tư, người Quy Tư không nói được tiếng Thiên Trúc, gọi
Thiên Trúc là nước Đặc Già, rồi đem kinh luật ấy dịch ra tiếng
nước Hồ (Quy Tư), nếu chỗ nào không hiểu thì giữ nguyên tiếng
Phạn, do đó mà cả Hồ và Phạn lẫn lộn với nhau.
3. Dịch lại, dịch
thẳng: Như kinh điển truyền đến Lĩnh Bắc, Lâu Lan, Yên Kỳ, nơi
đây không biết tiếng Thiên Trúc, họ bèn dịch sang Hồ ngữ. Sau đó
kinh điển này truyền sang Đông Hạ (Trung Hoa), rồi người Trung
Hoa dịch sang tiếng nước mình. Đó là dịch lại. Còn trường hợp
kinh điển từ Thiên Trúc đem đến Đông Hạ, rồi người Đông Hạ đem
dịch ra tiếng bản địa. Đó gọi là dịch thẳng.
4. Thô ngôn, tế ngữ:
Như dùng những lời nói phổ thông của thời đại để dịch kinh, đó
gọi là thô ngôn. Còn khi dùng những ngôn ngữ tế nhị, tao nhã để
biểu đạt ý kinh thì gọi là tế ngữ.
5. Hoa ngôn, nhã tục:
Như dùng văn tự để ghi lại lời nói là nhã, còn dùng ngôn ngữ
thông dụng để nói là tục. Nhã ngữ như các loại văn chương ngày
xưa của Trung Quốc được dùng trong Kinh Thư, Tử Thư, Chu Dịch,
Lão Trang v.v. Còn tục ngữ là chỉ cho người dịch kinh dùng những
ngôn ngữ phổ thông đương hiện hành để dịch kinh. Loại này tương
tự như thô ngôn đã nói ở trên.
6. Trực ngữ, mật ngữ:
Căn cứ vào ý nghĩa của văn tự tiếng Phạn mà phiên dịch là trực
ngữ. Còn căn cứ vào ý nghĩa tế nhị tiềm ẩn của Phạn văn mà phiên
dịch là mật ngữ. Chẳng hạn tiếng phạn “Bà-lưu-sa” mà dịch là
“Đừng ác khẩu” là trực ngữ, còn dịch thành “Bồ tát biết được bờ
bên kia” là mật ngữ. Người nghiên cứu Phật điển Hán dịch cần
phải hiểu những điểm ấy, nếu không thì rất dễ ngộ nhận ý nghĩa
của kinh, phạm sai lầm “Trông gà hóa cuốc”.
Trên đây, chúng tôi
đã trình bày những lý luận dịch kinh khá cô đọng và súc tích
theo tiến trình thời gian của các Đại sư Đạo An, La Thập, Ngạn
Tôn, Huyền Tráng và Tán Ninh. Hy vọng những tư liệu này có thể
giúp ích được phần nào cho các dịch giả Phật giáo Việt Nam đang
tiến hành chuyển ngữ Tam Tạng Thánh giáo chữ Hán và các ngôn ngữ
khác sang tiếng Việt - là tiếng nói của dân tộc mình. Một công
trình mà các nước bạn Phật giáo láng giềng Việt Nam đã thực hiện
từ lâu.
TƯ LIỆU ĐƯỢC SỬ
DỤNG:
- Phật Điển Hán dịch
chi nghiên cứu, Vương Văn Nhan trước, Đài Bắc xuất bản 1984;
- Xuất Tam Tạng ký
tập, Tăng Hựu soạn, Đại Chính Tạng tập 55;
- Các tư liệu khác.
|