Giáo dục:
Nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam
ĐĐ.NCS.
Thích Hạnh Bình, Đại học Hoa Phạm, Đài Loan
Cho
đến nay, chưa có một con số thống kê nào cụ thể và chính xác về
vấn đề Việt Nam có bao nhiêu người dân theo đạo Phật, nhưng cho
dù có diễn biến như thế nào đi nữa, người dân Việt nam theo đạo
Phật vẫn chiếm đa số, chưa kể đến số lượng người được gọi là
theo đạo Ông Bà cũng chịu ảnh hường khá sâu đậm về văn hoá
truyền thống giáo dục của Phật giáo. Qua chứng tích của lịch sử
cho thấy, Phật giáo đóng vai trò khá quan trọng trong quá trình
hình thành nền văn hóa của dân tộc, từ văn hóa hình tượng như
thi ca, mỹ thuật cho đến các loại văn hoá phi hình tượng, như
đạo đức phong tục tập quán, bao gồm cả truyền thống yêu nước của
dân tộc. Có thể nói đây là điểm đặc thù của truyền thống văn hoá
của dân tộc Việt nam không ai có thể phủ nhận điều đó.
Thời
đại mà chúng ta đang sống là thời đại khoa học kỷ thuật tiên
tiến, nhất là ngành viễn thông, đã làm cho thế giới thu hẹp lại,
không còn sự ngăn cách, một thông tin từ bên đây quả địa cầu
cũng trong giây phút bên kia kia địa cầu đều biết. Tôi tin rằng,
trong tương lai sự dị biệt về văn hoá truyền thống của từng dân
tộc cũng theo đó mất dần. Định hướng phát triển kinh tế cho đất
nước việt Nam không thể không tuân thủ những nguyên tắc chung
của thế giới. Do vậy, trong những năm gần đây Việt nam tất bậc
trong công việc sửa đổi và biên soạn pháp luật, đôi bên cùng
thương lượng và cam kết để trước khi Việt nam gia nhập vào sân
chơi chung của thế giới. Sự hội nhập này có ý nghĩa tích cực
trong việc phát triển nền kinh tế Việt nam, và cũng từ đó, nó
làm đoàn bẩy kích thích cho mọi mặc khác của xã hội phát triển,
trong đó có cả vấn đề tôn giáo….Tất nhiên sự hội nhập này, không
sao tránh khỏi những mặt trái của nó, những loại văn hoá phi đạo
đức phi dân tộc làm băng hoại xã hội cũng theo đó du nhập. Thế
thì chúng ta bằng cách nào để ngăn chận những loại văn hoá này ?
Theo tôi, đây không phải là vấn đề riêng của nhà nước mà là vấn
đề của dân tộc. Nếu như Phật giáo Việt nam là một tôn giáo lớn
của dân tộc thì Phật giáo cũng phải có trọng trách trong vấn đề
này. Nếu tôi nghĩ không lầm chủ đề hội thảo hôm nay mà Viện đã
đề ra nói lên ý nghĩa đó. Với chủ đề hội thảo này, tôi chỉ thảo
luận chung quanh một vấn đề nhỏ là, trứơc bối cảnh đó Phật giáo
chúng ta cần làm gì ? Câu trả lời của tôi là công việc giáo dục
và đào tạo.
Nếu
như Phật giáo là một Tôn giáo lớn của dân tộc Việt Nam, thì vấn
đề chung của dân tộc, nhất là mặt văn hoá đạo đức, Phật giáo
không thể là kẻ bàn quan, đứng ngoài cuộc, phải chung vai gánh
vác với dân tộc. Vì sự tồn tại dân tộc là sự tồn tại Phật giáo;
sự phát triển Phật giáo biểu thị sự lớn mạnh của văn hoá dân tộc
và ngược lại. Do đó, Phật giáo phải có bổn phận và trách nhiệm
bảo vệ truyền thống văn hoá của dân tộc, giữ gìn và phát huy mối
quan hệ gắn bó giữa Phật giáo và dân tộc. Muốn hoàn thành trách
nhiệm đó, bản thân Phật giáo phải ý thức rõ câu “Tùy duyên bất
biến, bất biến tùy duyên” trong kinh Viên giác. Điều đó có nghĩa
là Bản chất truyền thống văn hoá và và tinh thần gắn bó giữa
Phật giáo và dân tộc là cái không thay đổi, tức là cái ‘bất biến’,
nhưng khi xã hội chuyển sang một hình thức sinh hoạt mới, Phật
giáo cũng phải thay đổi cách suy tư và phương pháp làm việc của
mình, để thích nghi với xã hội mới, đó là cái ‘tùy duyên’. Nếu
như ngày xưa ngôi chùa là cơ sở giáo dục cho dân làng, hình thức
giáo dục của Tăng già mang tính gia giáo, thầy truyền cho trò
thì vào những năm 1950~60 hình thức Phật Học Viện đã ra đời. Có
thể nói hình thức giáo dục này đã mang lại cho Phật giáo Việt
nam một bộ mặt mới, tiến bộ hơn, hiệu quả hơn. Năm 1964 Đại học
Vạn hạnh ra đời, là Đại học đầu tiên của Phật giáo, nó đã góp
phần không nhỏ cho cho sự nghiệp tô bồi làm phong phú thêm nền
văn hóa của dân tộc, nhưng đến năn 1975 vì yếu tố đặc thù của
lịch sử, Ðại Học Vạn Hạnh đã ngưng hoạt động, cho đến nay vẫn
chưa được phục hồi, Giáo dục Phật giáo sinh hoạt dưới hình thức
giáo dục Phật Học Viện cho đến ngày nay. Nhưng với tình hình
phát triển và hội nhập của xã hội Việt Nam hiện nay, hình thức
giáo dục Phật Học Viện của Phật giáo còn nhiều hạn chế, rất trở
ngại trong vấn đề hành chánh, cản trở cho sự phát triển Phật
giáo trong lãnh vực giáo dục đào tạo và nghiên cứu. Do vậy Phật
giáo Việt nam có nhu cầu hình thành trường Đại học họp pháp là
nhu cầu hết sức chính đáng và quan trọng, không những nó giải
quyết những vấn đề khó khăn của Phật giáo mà tích cực góp phần
xây dựng cho xã hội ngày càng phồn vinh và ổn định.
Nếu
như nhà nước quản lý xã hội bằng luật pháp thì Tôn giáo quản lý
con người bằng niềm tin và đạo đức. Có nghĩa là luật pháp chỉ
trừng phạt, khi con người vi phạm luật pháp, bằng hành vi cụ thể
được biểu hiện bên ngoài, nhưng luật pháp không thể cấm đoán con
người suy tư phi pháp ở bên trong. Ngược lại, cách giáo dục của
tôn giáo, nhất là Phật giáo không những khuyên con người không
được làm ác mà còn khuyên con người không được suy nghĩ bất
thiện, từ trong ý thức. Từ những yếu tố này, nó cho chúng ta
nhận thức, giáo dục Tôn giáo là một công cụ khá tích cực trong
việc giúp cho nhà nước ngăn chận hành vi bất chính, phi đạo đức
của con người, nó không phải hoàn toàn chỉ mang ý nghĩa xấu như
một số người tưởng.
Việt
Nam là một đất nước thuộc vùng Đông Nam Á, Bắc giáp Trung Quốc,
Tây giáp Lào và Campuchia, Nam giáp Thái Lan là những đất nước
lấy Phật giáo là quốc giáo hay có đa số người dân theo đạo Phật.
Cũng vậy, ở Việt Nam Phật giáo cũng được đa số người dân tin
theo, vì Phật giáo hòa mình cùng với dân tộc, cùng cam cọng khổ
với dân với nước, lấy sự ưu lo của dân tộc làm sự ưu lo của Phật
giáo. Trải qua bao thăng trầm, vinh nhục của non sông, suốt mấy
ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc và Phật giáo vẫn giữ một
tấm lòng keo sơn, không thể chia cắt, và cho đến thời điểm hiện
nay, Phật giáo và dân tộc Việt Nam vẫn còn giữ nguyên tinh thần
đó. Do vậy chúng ta cần phải duy trì và phát huy tinh thần đó.
“Lấy
Giáo Dục và Đào Tạo làm nền tảng cho sự phát triển Phật GiáoViệt
Nam” là đề tài tác giả tham dự hội thảo. Với nội dung bài viết
này, tác giả thảo luận gồm những vấn đề: Thứ nhất: Đặc tính
giáo dục của Phật giáo; Thứ hai: Sự gắn kết giữa Phật giáo và
văn hoá dân tộc; Thứ ba: Hiện tình Phật giáo Việt Nam và những
nhu cầu của nó; Thứ tư: Sự ra đời Trường Đại Học Phật Giáo là
phương án thích đáng cho sự phát triển Phật giáo và dân tộc. Đây
là toàn bộ nội dung của bài viết. Rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các Giáo sư, các nhà nghiên cứu.
1. Đặc
tính giáo dục của Phật giáo
Phật
giáo là một trong những tôn giáo của Ấn độ, nhưng bản thân Phật
giáo không đồng tình các lễ nghi cúng tế phiền toái vô ích của
Bà-la môn(1), cũng không chấp nhận những quan điểm phi đạo đức,
bất hợp lý của các phái ngoại đạo(2); Phật giáo không chấp nhận
lối sống khổ hạnh(3), cũng không đồng tình với đời sống hưởng
thụ thấp hèn(4); Phật giáo là một Tôn giáo nhưng không đề cao
niềm tin(5), ngược lại Phật giáo xem trọng vai trò hiểu biết,
tức ‘trí tuệ’ (panna)(6), vì Phật giáo lấy sự giác ngộ và giải
thoát là mục tiêu hướng đến của Phật giáo. Có nghĩa là ai muốn
được giải thoát thì trước tiên người ấy phải có sự giác ngộ,
không có giác ngộ thì không thể có sự giải thoát. Đây là biện
chứng giải thoát trong đạo Phật. Trong quá trình tu tập của Phật
giáo, niềm tin chỉ là bước đầu tiên trong tiến trình tu tập (5
căn: tín, tấn, niệm, định và tuệ), tuệ là kết quả của việc tu
tập. Như vậy, niềm tin là phương tiện, trí tuệ là mục đích. Đây
chính là lý do tại sao Phật giáo đề cao vai trò trí tuệ, lấy trí
tuệ làm sự nghiệp. Để minh chứng cho quan điểm này, chúng ta cần
tìm hiểu đoạn kinh dưới đây:
“Này
các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết,
cho người thấy, không phải cho người không biết, cho người không
thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc
cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý
tác ý. Này các Tỷ kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc
chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng
trưởng. Này các Tỷ kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa
sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.”(7)
Qua
đoạn kinh vừa dẫn, đức Phật xác định giáo lý mà Ngài nói ra là
giáo lý dành cho ‘người thấy’(passato) và ‘người biết’(jnato),
không phải là ‘người không thấy’ (apassato) và ‘người không
biết’ (ajnato).
Ở đây, danh từ jnato
có nguồn gốc từ động từ là passati, có nghĩa là ‘thấy’ ‘biết’,
thuộc về nhận thức suy luận của ý thức, không phải đơn thuần chỉ
là thị giác. Như vậy, hai từ này mang ý nghĩa chỉ cho người có
suy tư, có hiểu biết, không phải là người không biết suy tư, nói
bừa nói càn, không tôn trọng đạo lý. Thật ra, quan điểm này là
quan điểm mà đức Phật phản bác lối giáo dục truyền thống của Bà
la môn, đề cao việc tế tự, với lễ nghi phiền toái, hoặc các học
thuyết phi đạo lý của 6 phái ngoại đạo(8), vì cách giáo dục này
không mang lại lợi ích cho con người, dù có lập đàng tràng cúng
tế cầu nguyện, nhưng lòng tham sân si không đoạn trừ thì sự cúng
tế ấy trở thành vô ích; Dù có chủ trương cho rằng, không có nhân
quả nghiệp báo, nhưng khi con người làm những việc bất thiện thì
hậu quả xấu sẽ đến với người ấy và ngược lại. Đó là lý do tại
sao đức Phật không đồng tình lối giáo dục của Bà la môn cũng như
6 phái triết học.
Thế
thì cách giáo dục của đức Phật như thế nào? Cũng qua đoạn kinh
vừa dẫn trên, đức Phật chỉ ra phương pháp giáo dục của Ngài
chính là: Yoniso manasikara, HT Minh Châu dịch là ‘như lý tác
ý’. Thật ra, câu này Hoà thượng đã vay mượn cách dịch của người
Hoa vốn chữ Hán là
如理作意
(yoniso=如理,manasikara=作意).
Cách vay mượn này, mặc dù người Việt đọc hơi khó hiểu, nhưng nó
diễn đạt trọn ý nghĩa của câu Pli,
nếu câu này dịch sang tiếng Việt có nghĩa là ‘đạo lý của nó như
thế nào thì (chúng ta) suy nghĩ như thế ấy’. Đây là phương pháp
đánh giá nhận xét vấn đề rất khoa học của đức Phật, Ngài không
chấp nhận lối suy tư mơ hồ không thật tiễn. Bản thân của sự việc
như thế nào, thì chúng ta suy tư đánh giá như thế ấy, không thêm
cũng không bớt. Bản thân mình có khuyết tật gì, nếu muốn sửa
chửa nó, thì chính mình cần phải thấy rõ khuyết tật ấy. không
nên che dấu, hoặc biện minh như thế này hay thế khác. Có thể nói
đây là nguyên lý giáo dục của đạo Phật, nó không những chỉ có
giá trị trong quá khứ, mà còn có giá trị ở hiện tại và tương
lai; cũng không phải chỉ có giá trị cho dân Ấn, mà cho tất cả
mọi người và ở mọi nơi. Những người làm công việc lảnh đạo xã
hội cũng có thể vận dụng phương pháp này, để giải quyết những
vấn đề nan giải từ xã hội. Chúng ta có thể xem câu này như là
một phương pháp nghiên cứu khoa học, cũng là đường hướng giáo
dục của Phật giáo.
Thật
vậy, nếu chúng ta suy tư về việc gì một cách qua loa, không căn
cứ vào đạo lý của nó, thì việc ấy chắc chắn sẽ không được rõ
ràng. Cái gì không rõ ràng mà vẫn quyết định làm thì tính nguy
hiểm của nó rất cao, phiền não khổ đau cũng từ đó phát sanh. Đó
chính là ý nghĩa của câu: ‘… do không như lý tác ý, các lậu hoặc
chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng
trưởng’ . Ngược lại, chúng ta suy tư công việc một cách cẩn
thận, căn cứ vào đạo lý của nó mà hành sử, việc ấy chắc chắn sẽ
được rõ ràng. Việc gì đã rõ ràng minh bạch, khó có thể vấp phải
sai lầm, có nghĩa là phiền não khổ đau không phát sinh từ việc
ấy. Đây là ý nghĩa của câu: ‘do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa
sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.’
Từ ý
nghĩa này, nó cho chúng ta nhận thức, Phật giáo là một Tôn giáo,
nhưng Phật giáo vốn không đặt nặng niềm tin, ngược lại Phật giáo
đề cao vai trò ‘tri tuệ’ là sự hiểu biết. Theo tôi, đây là một
trong những lý do mà nhà vua A Dục (A§oka)
lấy Phật giáo làm quốc giáo, mặc dù Phật giáo là một Tôn giáo
rất nhỏ so với Ấn giáo hay Kỳ na giáo là những Tôn giáo lớn của
Ấn độ. Tại sao nhà vua không chọn lấy những tôn giáo truyền
thống làm quốc giáo mà lấy Phật giáo làm quốc giáo? Có lẽ mọi
người sẽ có câu trả lời khác nhau, riêng người viết cho rằng,
theo nhà vua, trong hệ thống giáo lý của những tôn giáo truyền
thống không giúp được nhà vua trong chính sách cai trị của mình
là: Bảo vệ sự thống nhất và chính sách phát triển đất nước.
Trong yếu tố thứ nhất, nếu như một trong những tôn giáo truyền
thống này trở thành quốc giáo, tôn giáo đó sẽ có ý tưởng loại
trừ những tôn giáo khác, nó là nhân tố dẫn đến sự bất hoà giữa
các tôn giáo, là nguyên nhân dẫn đến đất nước sẽ rơi vào loạn ly
hoặc chia cắt; Ở yếu tố thứ hai là chính sách phát triển đất
nước. Trên nguyên tắc chung, bất cứ quốc gia nào muốn nền kinh
tế phát triển, quốc gia đó phải có chính sách tốt về đường hướng
giáo dục, tức là đề cao vai trò trí thức, người dân biết suy tư
và nhận thức chính là nhân tố cơ bản để đưa xã hội phát triển.
Thế thì, ở hai yếu tố này không thể có trong những tôn giáo
truyền thống, ngược lại Phật giáo đề cao vai trò ‘trí tuệ’ và
tinh thần ‘bao dung’ là hai yếu tố mà nhà vua A Dục cần. Đó là
lý do tại sao nhà vua lấy Phật giáo làm quốc giáo. Có lẽ cũng
chính từ điểm này mà Albert Einstein đã đánh giá chỉ có hệ thống
giáo lý của Đạo Phật mới phù hợp ở thời đại khoa học(9).
Đức
Phật cho rằng, nguồn gốc đau khổ của con người là do vô minh,
tức là thiếu sự hiểu biết. Thế nào gọi là thiếu hiểu biết? Nói
một cách dễ hiểu là những gì xuất phát từ lòng tham lam, giận
hờn và mê muội là những nguyên nhân mang lại sự khổ đau cho con
người. Thật ra, lòng tham và sân là sự thể hiện tính hai mặt của
lòng ngu si. Ví dụ, khi chúng ta tiếp xúc với đối tượng đẹp, dễ
thương nào đó, thì chúng ta thường có thái độ muốn chiếm đoạt
đối tượng ấy, do vậy lòng tham xuất hiện; Ngược lại, khi chúng
ta tiếp xúc với đối tượng không tốt đẹp nào, chúng ta thường có
thái độ không muốn tiếp xúc với đối tượng ấy, không muốn mà nó
vẫn hiện hữu cho nên lòng sân hận xuất hiện. Cả hai trạng thái
tham và sân này đều có nguồn gốc từ lòng ngu si, vì không biết
khả năng của mình cho nên tham xuất hiện; vì không biết sự hình
thành của các pháp là do nhân duyên (prat´tya-samutpda),
nhân duyên của nó vẫn còn mà ý thức chúng ta không muốn nó hiện
hữu mà nó vẫn hiện hữu, cho nên sân xuất hiện, do vậy khổ sanh.
Như vậy, ngu si là nguồn gốc của khổ đau. Phật giáo giáo dục con
người diệt trừ lòng ngu si, điều đó cũng có nghĩa là lối giáo
dục của Phật giáo mang tính chất tiến bộ, thúc đẩy xã hội phát
triển.
Giáo
lý ‘Tứ đế’ (catvri-ryasatyani)
đức Phật cho rằng, cuộc đời là khổ (duúkha-satya),
nó không mang ý nghĩa, đức Phật khuyên chúng ta nên từ bỏ lẩn
tránh thế giới này, đi tìm một thế giới xa lạ nào khác mà đức
Phật khuyên chúng ta nên hành trì giáo lý ‘Bát chánh đạo’(10),
để chúng ta đạt được trạng thái Niết bàn (nirvna),
là cuộc sống đã chấm dứt trạng thái khổ đau, không còn tham lam
thù hận và si mê. Như vậy, cảnh giới Niết bàn không phải là
cảnh giới nào xa lạ, chính là cảnh giới của những người đã đoạn
trừ lòng tham, sân, và si. Bất cứ ai có trí tuệ thì người ấy có
hạnh phúc an lạc, người nào có an lạc, người ấy không còn tham
sân si; Bất cứ nơi nào, người sống ở trong ấy không còn tham sân
si thì nơi ấy là thế giới của Niết bàn, Cực lạc.
Từ ý
nghĩa giáo dục trong đạo Phật mà chúng ta vừa tìm hiểu, nó gợi ý
cho chúng ta hiểu rõ một vấn đề quan trọng: Mục tiêu mà đạo Phật
hướng đến là giác ngộ và giải thoát, đối tượng giáo dục của đạo
Phật là con người. Như vậy, giáo lý mà đã được đức Phật thuyết
giảng, nó có mối quan hệ thiết thân với con người, không phải là
những lời nói vô nghĩa, hay chỉ để thờ phụng và lễ lạy, chúng ta
cần phải hiểu và thực hành nó. Cũng vậy, phương pháp giáo dục
của nhà Phật không phải là lối giáo dục thuần túy tín ngưỡng, đề
cao vai trò thần linh, lễ lạy van xin, mà là giáo lý đề cao vai
trò sự hiểu biết, có bổn phận và trách nhiệm (11), xem ‘như lý
tác ý’ là phương pháp để dứt trừ mọi khổ đau phiền lụy từ cuộc
sống.
Tôi
cho rằng, mục đích và phương pháp giáo dục của đạo Phật, không
những phù hợp với khuynh hướng giáo dục của các nước tiên tiến
trên thế giời, mà còn đáp ứng những nhu cầu cho con người và đất
nước Việt Nam nói chung và Phật giáo nói riêng, nhất là thế hệ
trẻ ở thời đại khoa học kỷ thuật hôm nay.
Nếu
như nạn tham nhũng (tham lam) đang là bức tường cản trở cho sự
phát triển nền kinh tế của đất nước; Lòng sân hận không những
chỉ phá vỡ niềm vui và hạnh phúc của chính mình, đôi khi nó còn
có tác hại đến xã hội; Tâm trí ngu muội thiếu sáng suốt là nhân
tố cho mọi sự thất bại và mầm mống cho mọi khổ đau, thì giáo dục
Phật giáo là loại giáo dục ngăn chận lòng tham lam, sân hận và
ngu si của con người. Do vậy, quan điểm và đường hướng giáo dục
Phật giáo không những là nhu cầu riêng cho Phật giáo, mà còn là
nhu cầu chung cho đất nước và dân tộc Việt nam. Nếu như thế giới
hiện nay đang âu lo về tình trạng khủng bố, phát triển vũ khí
giết người hàng loạt, thì Phật giáo là một tôn giáo yêu chuộng
sự hòa bình và mở rộng lòng bao dung; Nếu như mê tín dị đoan và
yếu tố tâm lý nương tựa vào kẻ khác, không làm chủ chính mình,
có thể dẫn đến làm chậm phát triển xã hội thì Phật giáo là tôn
giáo đề cao vai trò trí tuệ. Như vậy, giáo dục Phật giáo là
đường hướng giáo dục giáo phù hợp với quan điểm thời đại, ích
nước lợi dân, là bức tường vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ nền
văn hóa của dân tộc Việt Nam và sự hoà bình trên toàn Thế giới.
2. Sự
gắn kết giữa Phật giáo và văn hoá dân tộc
Phật
giáo đã có mặt trên đất nước Việt Nam gần 2000 năm lịch sử. Với
chiều dài lịch sử ấy, nó cũng đủ chứng minh cho chúng ta thấy
rằng, Phật giáo và dân tộc thật sự đã có mối quan hệ thân thiết
như keo sơn, không thể phân chia cách biệt. Nếu chúng ta quan
sát từ các mặt sinh hoạt của xã hội Việt Nam, thì mặt nào trong
ấy không ít thì nhiều cũng ẩn chứa đậm nét văn hóa Phật giáo.
Chúng ta có thể ngang qua những mặt khác nhau trong xã hôi để
hiểu về mối quan hệ này.
Về
giáo dục - đạo đức
Giáo
dục là một ngành rất quan trọng cho việc phát triển đất nước,
chính sách giáo dục tốt hay xấu là nguyên nhân dẫn đến xã hội đó
chậm tiến hay phát triển. Có thể nói giáo dục là đòn bẩy kích
thích cho mọi mặt hoạt động xã hội phát triển. Trong ngành giáo
dục lại được phân hai lãnh vực: Khoa học tự nhiên và khoa học
nhân văn tư tưởng. Ở lãnh vực khoa học tự nhiên, nó không phải
là đối tượng nghiên cứu của Phật giáo, nhưng quan điểm chung vẫn
đề cao vai trò hiểu biết, lấy tư duy và sự hiểu biết định hướng
cho sự phát triển xã hội. Trong lãnh vực nhân văn tư tưởng, đạo
đức chính là mối quan tâm của Phật giáo, cụ thể là xã hội Việt
Nam. Ở đây chúng ta không cần viện dẫn những hệ thống triết lý
sâu xa của Phật giáo, chỉ nêu ra quan niệm đạo đức Phật giáo
được nhân dân Việt Nam thực thi và được xem như là triết lý
sống, đạo lý làm người của người dân Việt Nam. Nó không phân
biệt là Bắc hay Nam là già hay trẻ, nam hay nữ, người theo đạo
Phật hay không theo đạo Phật, bất cứ ai cũng phải biết, và tuân
theo đạo lý đó. Như là ‘Ở hiền gặp lành’, ‘Nhân nào quả nấy’,
‘tu nhân tích đức’… Quan điểm đạo đức này rõ ràng chịu ảnh hưởng
thuyết ‘nhân quả nghiệp báo’ trong đạo Phật rất sâu đậm. Thật ra
lý thuyết ‘nhân quả’ và ‘Nghiệp’ (kamma) của Phật giáo hàm chứa
triết lý khá sâu sắc, nhưng ở đây nhân dân Việt nam tiếp thu nó
như là một đạo lý làm người, nói lên một quan điểm sống phân
biệt rạch ròi giữa phải và quấy, giữa đúng và sai, giữa thiện và
ác; biết tôn trọng lẽ phải, khinh chê hành vi sai quấy, ca ngợi
người làm lành, quở trách kẻ sống ác. Đó là quan niệm đạo đức
của người dân Việt nam, bất cứ ai cũng phải tôn trọng đạo lý
này.
Mỗi
người dân đều nhận thức đạo lý nhân quả nghiệp báo như vậy, cho
nên nếu người nào có đời sống bất hạnh, họ không oán trách ai,
ngược lại cho rằng, nguyên nhân của bất hạnh này do kiếp trước
không ‘tu nhân tích đức’, không ăn hiền ở lành, cho nên gặp phải
quả báo như vậy. Tự mình kiểm điểm và cố gắng vươn lên, làm điều
lành lánh điều dữ, ra sức giúp đỡ người khác. Và ngược lại, ai
đó được giàu sang phú quí, cho rằng do ăn hiền ở lành, tu nhân
tích phước mà được. Do vậy, cần phải tiếp tục làm phước thiện để
kiếp sau tiếp tục có được cuộc sống tốt đẹp. Có thể nói đây là
một quan niệm sống của dân tộc Việt nam, bất cứ sống ở đâu cũng
mang trong lòng nguyên tắc sống đó. Nếu nguyên tắc này bị phá
vỡ, không tuân thủ thì mọi người sẽ nguyền rủa, nào là loài ‘súc
sinh’, chết sẽ bị ‘đoạ vào địa ngục’. Súc sinh là gì, địa ngục ở
đâu, cũng không ai tra hỏi làm gì, chỉ cần hiểu đó là những hình
phạt của hành vi bất thiện, và cũng đơn giản chỉ có thế mà người
dân Việt Nam ai cũng tôn trọng đạo lý nhân quả nghiệp báo. Sợ
nhân quả nghiệp báo mà người dân không làm bậy, nổi sợ ấy là tốt
hay xấu? là mê tín hay chánh tín? Dù được hiểu như thế nào đi
nữa, tôi cho rằng nổi sợ đó là tốt, quan niệm sống đó là lành
mạnh, cách giáo dục đó mang tính tích cực, cần được phát huy
trong lòng xã hội Việt nam.
Ngày
xưa luật pháp Việt Nam còn rất lỏng lẻo, không nhiều như ngày
nay, thế mà cuộc sống đạo đức xã hội vẫn được tôn trọng, không
phức tạp như ngày hôm nay. Có thể nói đây là sự thành công của
lối giáo dục Phật giáo, chính quan điểm giáo dục này đã gián
tiếp giúp cho các triều đại giữ được kỷ cương, xã hội không bị
rối loạn. Đây không phải là sự đóng góp của Phật giáo trong sự
nghiệp giáo dục, giữ gìn những thuần phong mỹ tục của nền văn
hoá Việt Nam sao?
b. Về
kiến trúc - mỹ thuật
Nói
đến những công trình văn hoá kiến trúc cổ của Việt Nam, chúng ta
không thể không nói đến nền văn hóa văn bia chùa tháp. Việt nam
không giống như Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, hay Miến Điện,
là những nước có những công trình kiến trúc Chùa Tháp vĩ đại,
Phật giáo ở Việt nam có tính cách khiêm nhường hơn, khi Phật
giáo được truyền vào Việt Nam thì những ngôi chùa tháp cũng dần
theo thời gian và không gian được xuất hiện, với mục đích làm
nơi lễ bái và cơ sở giáo dục cho dân làng, không mang tính dành
cho giới quí tộc hay vua chúa. Do vậy, nó mang đậm nét bình dị
mộc mạc của người dân hơn là công trình kiến trúc quốc gia. Vượt
qua thời gian, cùng với tuế nguyệt tồn tại, cho đến nay, không
ít những ngôi chùa tháp này đã trở thành những công trình kiến
trúc mang tính đặc trưng tiêu biểu cho nền văn hoá dân tộc, và
được xếp vào di tích văn hóa tầm cỡ quốc gia. Như Chùa Dâu (Thế
kỷ III), chùa Bút Tháp, Chùa Keo, Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa
Hàng (Thế kỷ XIII) ở Hải Phòng, Chùa Trấn Quốc, Chùa Tây Phương,
Chùa Thiên Mụ, Chùa Thập Tháp, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên,
Chùa Phụng Sơn...Trong đó mỗi ngôi chùa lại là một viện bảo tàng
nho nhỏ của Phật giáo, giữ lại những nét đặc thù văn hoá của dân
tộc. Ngoài những danh lam cổ tự này, còn có biết bao ngôi chùa
khác nữa cũng mang đậm nét văn hoá dân tộc.
Ngoài
yếu tố yếu tố di sản văn hoá của dân tộc, ngôi chùa còn có một
loại di sản văn hoá không thể diễn tả bằng lời, không thể dùng
mắt để thấy, mà bằng trái tim thương yêu, thật sự ngôi chùa đã
để lại trong lòng mỗi người dân Việt một ấn tượng thật đẹp. Nếu
ai đó đã rời xa quê hương, chắc chắn sẽ cảm nhận được điều đó.
Nhắc đến quê hương là nhắc đến bụi tre, khóm chuối, ngôi chùa…
là những hình ảnh không thể quên. Những người Việt sống xa quê
hương, hình ảnh ngôi chùa xưa thân thương chỉ có còn lưu lại
trong ký ức. Mặc dù cuộc sống thật là bận rộn, thế nhưng không
phải vì vậy mà ngôi chùa không còn nữa, mọi người cùng nhau góp
phần tái tạo ngôi chùa thân thương ấy ngay nơi mình đang sống,
để hoài cố hương. Ở đây ngôi chùa trở thành không những chỉ là
nơi lễ bái tín ngưỡng, còn là trung tâm văn hoá của cộng đồng
người Việt, là ngôi trường Việt ngữ. Tóm lại là nơi để bảo vệ
truyền thống văn hoá của dân tộc. Mỗi ngày lễ hay ngày tết,
người Việt đến chùa dâng hương cúng Phật, để hoài niệm về quê
hương về cha ông đất tổ, cầu nguyện cho người thân, cho họ hàng
cho cho đất nước được bình yên.
Ngôi
chùa với người dân Việt Nam có mối thâm tình như vậy, thâm tình
đó thật đẹp và thật có ý nghĩa, nói lên tính keo sơn giữa Phật
giáo và dân tộc. Có lẽ chính vì vậy mà người dân Việt Nam có
câu: Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ
tiên. Thử hỏi, cái gì có thể thay được thâm tình đó?
c. Về
mặt văn học - thi ca
Trong
những tác phẩm văn học và thi ca Việt nam, có không ít tác phẩm
liên hệ đến Phật giáo. Ví dụ, tập “Văn thơ Lý Trần” là một điển
hình cụ thể, nó là tác phẩm gồm nhiều tác giả, là những nhân vật
nổi tiếng trong văn học của thời Lý Trần, trong đó không ít nhà
thơ là những Thiền sư. Họ không những chỉ cống hiến cho dân tộc
những bài thơ hay mà còn để lại cho dân tộc một quan điểm sống
thật lạc quan, có ảnh hưởng rất sâu đậm đến hậu thế. Như bài thơ
‘nhâm vận’ của Mãn giác Thiền sư (1052-1096).
Xuân
khứ bách hoa lạc,
Xuân
đáo bách hoa khai.
Sự
trục nhãn tiền quá,
Lão
tùng đầu thượng lai,
Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận,
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Nội
dung và ý nghĩa bài thơ này, có lẽ mỗi người có những cảm xúc
khác nhau, nhìn nhận khác nhau. Ở đây, theo người viết, bài thơ
này nói lên nhân sinh quan của Thiền sư hay nói đúng hơn là nhân
sinh quan của Phật giáo. Vì Phật giáo không có bi quan như một
số người đã lầm tưởng, Phật giáo thừa nhận một thực tại thiên
biến vạn hóa, nhưng không phải vì thế mà bi quan yếm thế. Cuộc
đời có đổi thay, từ giàu đền nghèo, từ làm quan vị đến làm dân,
nhưng khi gặp cảnh bất hạnh, không nên vì thế mà buồn khổ, nên
nghĩ rằng chúng ta vẫn còn có nhiều cơ hội để tiến thân, chỉ cần
chúng ta biết kiểm điểm nhìn nhận những nguyên nhân đưa đến thất
bại, và nổ lực tạo điều kiện những yếu tố tốt đẹp kết duyên thì
cái xuất hiện mới đó phải là cái thiện cái tốt. Đó chính là ý
nghĩa của hai câu thơ cuối:
Mạc vị
xuân tàn hoa lạc tận,
Đình
tiền tạc dạ nhất chi mai.
Ngoài
ra, tác phẫm “Tuyện Kiều” của Nguyễn Du (?) cũng là một tác phẩm
có nội dung tư tưởng chứa đựng tư tưởng của Phật giáo. Ví dụ
câu:
Đã
mang lấy nghiệp vào thân
….
Rõ
ràng đây chính là quan điểm nghiệp lực của Phật giáo. Nếu như
Nguyên Du làngười không chịu ảnh hưởng quan điểm giáo dục của
Phật giáo, tôi tin rằng Nguyễn Du không thể đưa quan điểm nghiệp
lực vào thi ca của mình. Ngoài ra còn có biết bao tác phẩm tác
giả có liên hệ đến văn hoá Phật giáo.
Ngoài
những tác phẩm văn học và thi ca, trong cuộc sống hằng ngày của
người dân Việt nam còn có một loại văn học thuộc về tục ngữ ca
dao. Trong đó có biết bao nhiêu là câu tục ngữ ca dao mang đâm
nét Phật giáo.
Từ đó,
nó gợi ý cho chúng ta thấy, quan điểm tư tưởng của Phật giáo
không chỉ được thấy qua những di tích lịch sử mà nó đã ăn sâu
vào lòng người vào lòng dân tộc, và trở thành một loại văn hoá
của dân tộc. Biểu thị văn hoá Phật giáo và văn hoá dân tộc đã
quyện chặt vào nhau, không thể chia cắt.
3.
Hiện tình Phật giáo Việt Nam và những nhu cầu của nó
Đất
nước Việt Nam đang thay đổi, kinh tế đang trên đà phát triển,
tiến trình cam kết hội nhập WTO cũng đến hồi kết, mở cửa cho
Việt nam vào sân chơi chung của thế giới. Tất nhiên bất cứ một
vấn đề gì bao giờ nó cũng mang tính hai mặt được và mất, nhưng
dù gì đi nữa nó cũng là cơ hội tốt cho nền kinh tế Việt nam phát
triển, và nó cũng là đòn bẩy kích thích cho mọi lãnh vực xã hội
khác cũng theo đó phát triển. Một chứng minh cụ thể là trong
thời gian qua ở Việt nam, các mặt hoạt động xã hội yêu cầu sự
thay đổi về cách suy tư quản lý và phương pháp làm việc, trong
đó có ngành giáo dục và đào tạo. Xã hội đang từ ngày thay đổi,
nhận thức của con người cũng theo đó đổi thay, Phật giáo có thể
tồn tại trong xã hội mới với lối suy tư và phương pháp làm việc
xưa cũ sao ? Theo tôi, Phật giáo chúng ta có chấp nhận hay không
chấp sự diễn biến của xã hội thì xã hội cũng sẽ diễn biến theo
qui luật riêng của nó,. Do vậy, Phật giáo chúng ta cần phải tùy
theo thời thế và căn cơ của chúng sinh, lựa chọn nền giáo lý
thích nghi và phương pháp làm việc hữu hiệu, để đưa đạo Phật vào
cuộc sống của xã hội đó. Thế thì chúng ta cần phải làm gì trong
xã hội mới ? Theo tôi, trước nhất chúng ta cần phải tìm hiểu
hiện tình sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như thế nào
? mặt yếu kém là gì ? cần sửa dổi ra sao ? Đây là những điểm cần
được thảo luận. Dưới đây là một số mặt hoạt động của Giáo hội
cần được mổ xẻ và thảo luận.
Phiên dịch và biên tập Đại tạng kinh Việt Nam
Hầu
như tác phẩm nào viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng đều cho
rằng, Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, vào thế kỷ thứ II
SCN, có những nhà nghiên cứu còn đưa ra giả thuyết sớm hơn thời
gian này. Đồng thời, nói đến Phật giáo Việt Nam ai cũng cho
rằng, thời đại Lý Trần là thời đại vàng son của Phật giáo… Nhưng
tôi tự hỏi: tại sao Phật giáo được truyền vào nước ta rất sớm,
gần 2000 năm lịch sử, lại có những triều đại ủng hộ Phật giáo
như thế, nhưng cho đến nay Phật giáo Việt Nam vẫn chưa có bộ Đại
Tạng Kinh bằng tiếng Việt, tại sao? Lý giải vấn đề này, có lẽ
mỗi người có cách giải thích khác nhau, nhưng cho dù như thế nào
đi nữa, chúng ta vẫn không phủ nhận sự thật là cho đến nay Phật
giáo Việt Nam vẫn chưa có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ. Nếu
như trước đây vì lý do nào đó Phật giáo chưa làm được, thì hôm
nay Phật giáo chúng ta phải tiến hành thực thi công việc này. Nó
là công việc trọng đại nhất cho Phật giáo Việt Nam, vì nó là cơ
sở vững chắc nhất để định hướng cho sự phát triển của Phật giáo
Việt Nam, là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất để cho giới nghiên
cứu và Phật tử người Việt tìm hiểu về đạo Phật.
Theo
được biết, từ năm 19…Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã thành
lập một ban chuyên trách làm việc này, với danh xưng là: “Ban
phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt nam”, cho đến nay đã
phát hành 35 tập, nội dung và hình thức trình bày có nhiều vấn
đề cần phải được thảo luận và chỉnh sửa. Ngoài ra, các tổ chức
cá nhân cũng đang tiến hành phiên dịch và biên tập, nhưng kết
quả như thế nào chúng ta vẫn còn chờ đợi.
Theo
người viết, công trình phiên dịch và biên tập Bộ Đại Tạng Kinh
Việt Nam là công trình lớn của Phật giáo Việt Nam, có thể nói là
công trình của quốc gia, nó không phải là một cá nhân nào, vì
qua đó nó biểu thị tinh thần, phương pháp làm việc và trình độ
chuyên môn của Phật giáo Việt nam, do vậy, chúng ta cần phải
nghiêm túc trong công việc này. Theo tôi, Phật giáo Việt nam cần
phải tổ chức những cuộc hội thảo chuyên đề, mới các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước tham dự, lắng nghe những nhà nghiên cứu
phát biểu. Từ những góp ý xây dựng đó chúng ta mới tiến hành tổ
chức công việc phiên dịch và biên tập Đại Tạng Kinh Việt nam.
Theo tôi, rút ra từ kinh nghiệm bản thân, công việc phiên dịch
kinh điển Hán tạng, không thể biết chữ Hán là có thể dịch được,
đòi hỏi cần phải có trình độ chuyên môn về Phật học, không những
người dịch chỉ am tường các hệ tư tưởng của Phật giáo Ấn Độ mà
còn phải hiểu về văn hoá Trung Quốc, để tránh trường hợp chuyển
dịch sai ý so với nguyên bản, đồng thời phát hiện những điểm sai
của bản Hán. Do vậy, đòi hỏi người làm công tác phiên dịch phải
có kiến thức chuyên môn về mặt tư tưởng sử. Từ đó nó gợi ý cho
chúng ta một nhận thức trước tiên là Giáo Hội cần phải gấp rút
đào tạo những người chuyên môn này.
Tóm
lại, công việc phiên dịch và biên tập Đại Tạng Kinh Việt Nam là
trọng tách của Giáo hội, cần phải tiến hành, để làm cơ sở cho
công việc nghiên cứu, nâng cao kiến thức Phật học cho Phật tử
Việt nam.
Vấn đề giáo dục và đào tạo
Phật
giáo Viện Nam hiện nay có 3 Học Viện, được phân phối ở 3 miền:
Bắc, Trung và Nam, đặc biệt ở TP Hồ Chí Minh có thêm một trường
với danh xưng Cao Đẳng Phật học, và hầu như mỗi Tỉnh, Thành đều
có tối thiểu là 1 trường cơ bản Phật học, chuyên đào tạo Sơ cấp
và Trung cấp Phật học. Ngoài cơ sở giáo dục, Phật giáo Việt Nam
còn có Viện Nghiên cứu Phật học cũng được phân chia làm 3 miền,
Bắc Trung và Nam, nhưng trên thực tế Viện vẫn chưa phát huy chức
năng của mình.
Thật
tế, các cơ sở giáo dục này chỉ có giá trị nội bộ trong Phật
giáo, giống như hình thức Phật học viện trước đây, chỉ đào tạo
cho giới xuất gia, không đào tạo cho giới cư sĩ. Nói cách khác,
những cơ sở giáo dục này vẫn chưa đươc Bộ Giáo dục Việt Nam chấp
nhận, cho nên các Tăng, Ni sinh sau khi tốt nghiệp, không được
tiếp tục học các chương trình kế tiếp, mặc dù một số học viên có
đủ trình độ học tập ở trong nước cũng như nước ngoài.
Về mặt
giáo dục, chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy đều
mang tính tùy tiện, không thống nhất. Giáo hội vẫn chưa định
hướng cho việc giáo dục và nghiêm túc biên soạn chương trình
giáo dục cho các cấp, đào tạo giáo sư chuyên ngành cho các cấp
học. Do vậy, vấn đề giáo dục của Phật giáo Việt Nam cần phải cải
cách, để đáp ứng cho nhu cầu của thời đại.
Vấn đề hành chánh tổ chức và nhân sự của Giáo hội
Chúng
ta cần xác định rằng, Giáo hội là một cơ quan cao nhất của Phật
giáo, chuyên quản lý và điều hành các mặt hoạt động của Phật
giáo Việt Nam bằng nội quy và nghị quyết, không phải quản lý
theo hình thức của tự viện, đồng thời có bổn phận, trách nhiệm
quan hệ với nhà nước và các cơ quan có liên hệ, cũng như quan hệ
quốc tế. Do vậy, người giữ vai trò lãnh đạo và tổ chức hành
chánh của giáo hội cần phải tương xứng với danh xưng và đáp ứng
những nhu cầu của Giáo Hội. Đối với việc này, người viết có vài
nhận định mang tính cá nhân như sau:
Thứ
nhất, việc đề cử nhân sự của Giáo Hội, chúng ta thường chú trọng
đến mặt đạo đức, yếu tố năng lực và tuổi tác thường không chú ý
đến. Từ thực tế cho thấy, người lãnh đạo Giáo hội dĩ nhiên là
người phải có phẩm hạnh đạo đức tốt, bên cạnh đó yếu tố ‘năng
lực’ và ‘tuổi tác’ không thể không đề cập, nó là yếu tố rất quan
trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của Giáo hội. Muốn
đảm trách công việc này, Giáo hội cần chọn người biết nhìn xa
thấy rộng, hoạch định xu hướng phát triển cho giáo hội, có bổn
phận và trách nhiệm, biết trọng dụng nhân tài, biết cấu trúc tổ
chức và phân bổ công việc hợp lý. Do vậy, chúng ta cần phải cân
nhắc khi tuyển chọn người lãnh đạo giáo hội hay cho một một cơ
quan tổ chức nào.
Thứ
hai, vấn đề kiêm nhiệm chức vụ. Nếu tôi nói không lầm, Phật giáo
chúng ta đang tồn tại một thói quen ‘bệnh tôn sùng’ thái quá. Ví
dụ, tôi thấy thầy A gỏi việc gỏi về thuyết giảng, vì phục tài
thuyết giảng của ông, cho nên chúng ta lại đề cử ông ta làm chức
vụ khác, nhưng công việc đó, không liên hệ gì đến khả năng
chuyên môn của ông. Việc kiêm nhiệm nhiều chức vụ cũng xuất phát
từ quan điểm này, nó là một trong những nhân tố chính yếu dẫn
đến công việc trì trệ cho Giáo hội. Hơn nữa, sức người có giới
hạn, mỗi ngày chúng ta chỉ có 8 giờ làm việc, thế thì sức lực
đâu, thời gian đâu chúng ta làm những công việc khác? sức khỏe
yếu lại không có thời gian thì ai là người làm thay công việc
cho mình? Không làm việc mà muốn công việc thành công là điều
không thể có; không làm mà nhận chức vụ là ôm đồm, là thái độ
xem thường tổ chức và người khác; công việc không thành công mà
không nhìn nhận là thái độ bưng bít và thiếu trách nhiệm. Đó là
nguyên nhân của mọi sự thất bại. Tôi nghĩ rằng, không một ai
trong chúng ta không nhận thấy điều đó. Chúng ta không thể viện
dẫn người lãnh đạo không cần làm việc theo thời gian. Theo tôi,
cách giải thích nghe ra có phần hợp lý, nhưng không đúng với
thực tế, vì không có một công việc nào lại không cần đến thời
gian, có thể người lãnh đạo không ràng buột vào nơi làm việc,
nhưng nó không đồng nghĩa là người lãnh đạo không cần thời gian
nghiên cứu suy tư cho công việc đó. Ở xã hội, người lãnh đạo cho
một cơ quan nào, người đó phải chịu trách nhiệm cho sự thành
công hay thất bại của nó, nếu qua một thời gian làm việc, nhưng
công việc không hiệu quả thì vị lãnh đạo đó phải từ chức, thế
nhưng trong Phật giáo thì không như vậy, tại sao ? Do vậy, sự
kiêm nhiệm nhiều chức vụ, nó mang ý nghĩa tiêu cực hơn là tích
cực, nó là một trong những nguyên nhân đưa đến sự trì trệ các
mặt hoạt động của giáo hội.
Thứ
ba, về mặt hành chánh và tổ chức. Nhìn chung cách cơ cấu tổ
chức của Giáo hội hay các ban ngành trực thuộc giáo hội còn quá
nặng nề về mặt hình thức, không mang tính thực tiễn, nhiều ban
nhiều chức vụ, nhưng trên thực chất không hoạt động. Ví dụ, tại
sao Học Viện Phật giáo VN phải cần đến 3 vị phó Viện trưởng, và
cho đến 5 phó Tổng thư ký ? tại sao phải có chức vụ Tổng thư ký
và phó Tổng thư ký ? công việc của chức vụ này như thế nào? cách
cấu trúc nhân sự này dựa vào điều kiện thực tế nào? Đây chỉ là
một ví dụ điển hình, trên thực tế đây không chỉ có Viện Nghiên
cứu mà là vấn đề phổ biến các ban ngành trong Giáo hội.
Giáo
hội có những ban ngành thừa người thừa việc, nhưng trong Phật
giáo còn cókhá nhiều lãnh vực vẫn chưa đưa vào hành động của
Giáo hội. Ví dụ, tình trạng xây cất và sửa sang các tu viện
trong Phật giáo hiện nay rất tùy tiện, sửa như thế nào, cất như
thế nào, kiến trúc sa sao? dường như Giáo hội vẫn thả lỏng không
quản lý; Trong đời sống Tăng Ni thường phát sinh các chứng bịnh
như là gan, bao tử... Lý do tại sao? nó xuất phát từ đâu? Phải
chăng do thức ăn, uống, sử dụng chung dao cạo đầu?... vẫn chưa
có người nghiên cứu, và đề xuất biện pháp; Âm nhạc là phương
tiện truyền giáo rất có hiệu quả, các vị Tổ ngày xưa đã vay mượn
nhạc cụ dân gian để biến thành lễ nhạc Phật giáo, là những bài
tán tụng trong nhà chùa, rất có hiệu quả trong cách truyền giáo
ở ngày xưa, nhưng nó không còn hấp dẫn trong thời đại ngày nay.
Nếu nó là mặt mạnh trong công việc truyền giáo, tại sao Phật
giáo không đào tạo người chuyên nghiên cứu về âm nhạc Phật giáo,
để tiếp tục sự nghiệp hoằng dương chánh pháp, đưa Phật giáo vào
xã hội ?
Vấn đề
Tăng Ni sinh đi du học nước ngoài cũng là một trong những vấn đề
cần được nêu ra đây. Thật tế mà nói, cho đến nay Giáo hội vẫn
chưa có kế hoạch cụ thể đối với việc đưa tăng ni sinh đi du học.
Học ở đâu, học ngành gì, đều do tăng ni sinh quyết định, cho đến
nay vẫn chưa có sự hướng dẫn nào từ Giáo hội. Sự học này sẽ
không làm sao tránh khỏi việc thừa việc thiếu, dẫm chân lẫn nhau
trong tương lai. Đây chỉ là một vài ví dụ điển hình và trọng
yếu, trước mắt Giáo hội Phật giáo Việt cần phải khắc phục, tạo
điều kiện cho Phật giáo phát triển.
Những
gì vừa được trình bày là thực trạng của Phật giáo Việt Nam, Phật
giáo muốn được phát triển cùng với con người trong xã hội mới,
chúng ta cần phải đối điện vấn đề và giải quyết. Thế thì giải
quyết như thế nào ? Theo tôi, muốn giải quyết một vấn gì, công
việc trước tiên vẫn là vấn đề con người, có nghĩa là ai thực thi
hiệu quả những công việc đó ? chắc chắc phải là người có trình
độ chuyên môn và có tấm lòng. Người này từ đâu có ? không thể từ
trên trời rơi xuống, phải là từ công việc giáo dục và đào tạo.
Như vậy vấn đề then chốt vẫn là vấn đề giáo dục và đào tạo, nó
là nơi cung ứng nhân sự cho các mặt hoạt động khác nhau của Phật
giáo.
4. Sự
ra đời Trường Đại học Phật giáo là phương án thích đáng và hữu
hiệu nhất cho sự phát triển Phật giáo Việt nam.
Như
tôi vừa trình bày qua, Phật giáo Việt Nam có chiều dài gần 2.000
năm lịch sử, luôn luôn gắn bó, cùng cam cọng khổ với dân tộc.
Phật giáo đến với dân tộc không làm tổn hại đến nền văn hoá
truyền thống của dân tộc, ngược lại Phật giáo tô bồi cho nền văn
hoá đó càng tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể ngang qua những di tích
lịch sử chứng minh điều đó và ngay cả cách suy tư, giáo dục con
người đều mang trong đó những dấu tích của Phật giáo. Như vậy
văn hoá Phật giáo là một bộ phận không nhỏ của văn hoá truyền
thống dân tộc. Nếu như chúng ta đồng ý quan điểm này, thì sự
phát triển Phật giáo có nghĩa là chúng ta đang phát huy truyền
thống văn hoá của dân tộc. Sự củng cố và phát huy văn hoá truyền
thống dân tộc là bức tường vững chắc nhất cho sự nghiệp bảo vệ
truyền thống văn hoá Việt nam và nền độc lập và thống nhất của
dân tộc, là vũ khí sắc bén nhất để đẩy lùi những suy tư phi dân
tộc.
Thời
gian chiến tranh đã qua, hơn 30 đất nước sống trong hoà bình độc
lập, những gian nan cam khổ rồi cũng qua đi, nền kinh tế đất
nước đang từng bước ổn định và phát triển. Nếu như Phật giáo là
một tôn giáo của dân tộc, là một Tôn giáo được đa số người dân
tin theo, tư tưởng văn hoá của dân tộc và Phật giáo đã quyện
chặt vào nhau thành một khối, thì tạo chúng ta không tạo điều
kiện cho Phật giáo phát triển, cùng nhau tạo dựng trường Đại học
cho Phật giáo ? Tôi tin rằng, nó sẽ là đòn bẩy kích thích cho
mọi mặt hoạt động của Phật giáo cùng phát triển. Thử hỏi một đất
nước không có cơ sở giáo dục thì đất nước đó đi về đâu? Phải
chăng là một đất nước có nền kinh tế lạc hậu và xã hội rối loạn
? Cũng vậy, nếu Phật giáo không có cơ sở giáo dục đào tạo họp
lý, không sao tránh khỏi những hoạt động yếu kém. Nếu như trong
thời gian qua các mặt hoạt động của Phật giáo còn trì trệ, Giáo
hội không chủ động được những công việc của mình. Theo tôi
nguyên nhân chính vẫn là vấn đề nhân sự.
Phật
giáo tuy đã có các cơ sở giáo dục, từ sơ cấp đến cao cấp, nhưng
chỉ sinh hoạt dưới hình thức Phật học viện mang tính nội bộ,
chưa được chấp nhận của ngành giáo dục quốc gia. Hình thức giáo
dục này không thể đáp ứng được những nhu cầu của Phật giáo trong
xã hội hiện đại. Hơn nữa, sinh hoạt Phật giáo không còn mang ý
nghĩa đơn thuần chỉ là người ẩn dật tu tập, phần lớn là những
người hoạt động xã hội, do vậy người đó không thể thiếu kiến
thức xã hội. Mặt khác những cơ sở giáo dục này vì chưa được bộ
giáo dục thừa nhận, điều đó trở ngại cho nhu cầu tiếp tục học
tập của các Tăng Ni sinh. Do vậy, sự hình thành trường Đại học
Phật giáo là nhu cầu cần thiết và hết sức bức bách của Phật giáo
Việt Nam nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Nó không
những chỉ có lợi cho Phật giáo trong sự nghiệp truyền bá chánh
pháp, còn có bổn phận phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, góp
phần xây dựng xã hội, nâng cao trình độ nhân thức cho thế hệ
trẻ, huấn luyện kiến thức chuyên môn để đáp ứng nhu cầu của Phật
giáo và xã hội trong thời đại mới.
Tính
đặc thù của Trường Đại học Phật giáo chuyên đào tạo và nghiên
cứu các lãnh vực thuộc về nhân văn tư tưởng. Như Phật học, Việt
Nam học, Ấn Ðộ học, Trung Quốc học, tôn giáo học, đạo đức học,
xã hội học, dân tộc học, ngôn ngữ học và những ngành liên quan
đến Phật giáo Việt Nam và văn hoá Việt Nam. Ngoài ra, đại học
Phật giáo còn có thể đào tạo các ngành khoa học về tự nhiên, nếu
có thể. Trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo các chuyên viên
phiên dịch và biên tập bộ “Đại Tạng Kinh Việt Nam”. Những sinh
viên, nghiên cứu sinh tốt nghiệp trường này sẽ là những chuyên
viên cho các mặt hoạt động của Phật giáo, không những chỉ giới
hạn trong Phật giáo mà còn cung ứng cho xã hội những ngành có
liên quan, như công tác tôn giáo, công tác từ thiện xã hội….
Ngoài
ra, Trường Đại học Phật giáo xúc tiến nghiên cứu các ngành liên
quan đến Phật học, tôn giáo và xã hội, nhằm để cống hiến cho xã
hội có cái nhìn đúng đắng hơn đối vớn vấn đề tôn giáo, và sự ảnh
hưởng của nó đối với xã hội. Đồng thời, trường Đại học Phật giáo
còn có chức năng giao lưu với các Đại học Phật giáo trên thế
giới, thường xuyên tổ chức những hội thảo chuyên đề, nhằm tạo
điều kiện cho đôi bên có cơ hội trao đổi và tìm hiểu lẫn nhau
trong lãnh vực nghiên cứu khoa học. Có thể nói đây là xu hướng
chung của Phật giáo thế giới. Các nước như Thái Lan, Tích lan,
Taiwan… đều có trường Đại học Phật giáo. Việt Nam là một nước có
nền văn hoá gắng liền với Phật giáo, đại đa số người dân theo
đạo Phật thì thật là vô lý chúng ta không đủ sức để hình thành
trường Đại học Phật giáo.
5. Kết
luận
Phật
giáo là một trong những Tôn giáo lớn của Thế giới, sau khi Phật
giáo truyền vào Việt Nam được đa số người dân tin theo và mau
chóng thành một tôn giáo của đại bộ phận dân tộc. Phật giáo là
một tôn giáo thuộc văn hoá Ấn độ, nhưng khi Phật giáo truyền vào
Việt nam không làm nguy hiểm đến văn hoá và nền độc lập dân tộc.
Ngược lại Phật giáo vun bồi và phát huy truyền thống văn hoá dân
tộc, không những chỉ có thế Phật giáo luôn luôn gắn bó cùng với
nhân dân Việt nam bảo vệ nền độc lập và thống nhất của dân tộc.
Trải
qua gần 2000 năm lịch sử Phật giáo đã để lại cho dân tộc không
biết bao nhiên công trình văn hoá quí giá, từ vật chất cho đến
tinh thần. Cho đến nay, văn hoá Phật giáo trở thành một bộ Phật
văn hoá của dân tộc, hay nói một cách khác, nói đến văn hoá Việt
nam không thể không đề cập đến văn hoá Phật giáo. Do vậy tạo
điều kiện cho Phật giáo phát triển, điều đó đồng nghĩa tạo điều
kiện cho nên văn hoá dân tộc phát triển; Giữ gìn văn hoá truyền
thống dân tộc có nghĩa là giữ gìn văn hóa Phật giáo.
Phật
giáo là một tôn giáo, nhưng Phật giáo không lấy ‘niềm tin’ làm
mục đích cho sự giáo dục, mà Phật giáo lấy giác ngộ (sự hiểu
biết) làm mục đích. Do vậy, giáo dục Phật giáo không làm cản trở
cho sự phát triển xã hội, ngược lại lối giáo dục Phật giáo không
những giúp cho con người có suy tư tốt, làm cơ sở cho sự phát
triển mà còn giúp cho xã hội sinh hoạt trong sự hoà bình tương
than tương ái.
Thời
đại mà chúng ta đang sống là thời đại khoa học kỷ thuật, trình
độ nhận thức của con người được trang bị khá tốt. Xu hướng phát
triển của xã hội Việt nam cũng sẽ theo qui luật chung này. Đứng
trước thời đại mới con người mới này, với phương pháp làm việc
của Phật giáo Việt Nam hiện nay không thể đáp ứng những nhu cầu
mới của thời đại. Phật giáo muốn tiếp tục tồn tại và phát triển
cùng với xã hội mới đó, phật giáo không thể không thay đổi cách
suy nghĩ và phương pháp làm việc. Theo tôi, Phật giáo muốn làm
được điều này, điều trước tiên phải có nhân sự. Nhân sự đó không
thể tự nhiên mà có, bắt nguồn từ giáo dục. Nói đến giáo dục và
đào tạo là nói đến tính hợp pháp của trường Đại học, như vậy sự
hình thành trường Đại học Phật giáo là nhu cầu hết sức bức bách,
nó là cơ sở là nền tảng để giải quyết mọi vấn đề trong Phật
giáo.
Nếu
như Phật giáo là một tôn giáo lớn của Việt Nam, được đa số người
dân tin theo thì nhu cầu hình thành trường Đại học Phật giáo là
nhu cầu chung của đại đa số nhân dân Việt nam; Nếu nền văn hoá
dân tộc và văn hoá Phật giáo có mối quan hệ mất thiết thì nhu
cầu hình thành trường Đại học Phật giáo là nhu cầu chính đáng,
để duy trì và phát huy văn hoá dân tộc; Nếu như Phật giáo là một
tôn giáo có công bảo vệ nền độc lập và thống nhất của dân tộc
thì trường Đại học Phật giáo là nơi giáo dục con người tiếp nối
truyền thống tốt đẹp đó.
KINH
SÁCH THAM KHẢO
- HT.
Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, 2 Viện NCPHVN Ấn
hành.
- HT.
Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT.
Minh Châu dịch, “Kinh Trường Bộ” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT.
Minh Châu dịch, “Kinh Tăng Chi Bộ” tập 2, Viện NCPHVN ấn hành.
- HT.
Thiện Siêu dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành.
- Viện
CĐPH Hải Đức NT dịch, “Kinh Trung A-hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn
hành.
- Viện
CĐPH Huệ Nghiêm dịch, “Kinh Trường A-hàm” tập 2, Viện NCPHVN ấn
hành.
- Lê
Mạnh Thát, “Lịch sử Phật giáo Việt nam” tập 1, Huế, NXB Thuận
Hoá.
-
Thích Hạnh Bình, “Tìm hiểu đạo Phật Nguyên Thủy”, Hà nội, NXB
Tôn giáo.
-
Thích Hạnh Bình, “Đạo Phật xưa và nay”, Hà Nội, NXB Tôn giáo.
- Võ
Văn Tường, “Việt nam Danh lam Cổ tự”, Hà Nội, NXB Khoa học Xã
hội.
Chú thích
1.
HT. Thiện Siêu dịch,
“Kinh Tạp A-hàm” tập 1,’Kinh số 89,
90, 93…’ Viện NCPHVN ấn hành, 1994.
2. HT. Thiện Siêu
dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, ‘Kinh số
154~165’ Viện NCPHVN ấn hành, 1994.
3. HT.Minh Châu dịch,
“Kinh Trung Bộ” (Majjhima-Nikya)
tập 1, ‘Đại Kinh Sư Tử Hống’ (Mahsihandasuttam),
Viện NCPHVN ấn hành, 1992, trang 161~191.
4. HT. thiện Siêu
dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 3, ‘Kinh số
912’ Viện NCPHVN ấn hành, 1995, trang 284-290.
5. HT Minh Châu dịch,
“Kinh Tăng Chi Bộ” tập 2, Viện NCPHVN
ấn hành, 1996 , trang 185: “Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe
truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì
nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ
có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo lập
trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin
phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nới có uy
quyền; chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của mình. Nhưng này
Bhaddiya, khi nào ông tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này là
bất thiện; các pháp này là có tội; các pháp này bị người trí chỉ
trích; các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh
khổ đau”, thờpi này Bhaddiya, ông hãy từ bỏ chúng.”
6. HT Minh Châu dịch,
“Kinh Tương Ưng Bộ” tập 3, Viện NCPHVN
ấn hành, 1993, trang 271~273 “Này các Tỷ-kheo, không thắng tri,
không liễu tri, không ly tham, không từ bỏ tất cả, thời không có
thể đoạn tận khổ đau.”.
7. HT Minh Châu dịch,
“Kinh Trung Bộ” (Majjhima Nikya)
tập 1 , Viện NCPHVN ấn hành 1992 , trang 19~20
8. Xin tham khảo ‘Kinh
Sa Môn Quả’ (Sma��aphala
Sutta) trong “Kinh Trường Bộ” (D´gha
Nikaya),
tương đương ‘Kinh Sa Môn Quả’ (沙門果經)
trong “Kinh Trường A Hàm” (長阿含經).
9. K. Sri
Dhammananda, “Buddhism in the Eyes of Intellectuals”
(Copyright by Buddhist Missionary Society. Malaysia. P. 21).
‘The religion of the future will be a cosmic religion. It should
transcend a personal God and avoid dogmas and theology. Covering
both the natural and the spiritual, it should be based on a
religious sense arising from the experience of all things,
natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers
this description’
10. 1. Chánh kiến là
quan điểm đứng, 2. Chánh tư duy là cách suy tư đúng, 3. Chánh
ngữ là lời nói đứng và chân thật, 4. Chánh nghiệp là có việc làm
chân chánh, 5. Chánh mạng là đời sống chân chánh, 6. Chánh tinh
tấn là sự nổ lực cố gắng họp lý và đúng, 7. Chánh niệm là sự chú
ý chuyên tâm chân chánh, 8. Chánh định là thiền định chân chánh.
11. HT. Thiện Siêu
dịch, “Kinh Tạp A-hàm” tập 1, ‘Kinh số
36’ ghi: “Hãy trú trên hoàn đảo của chính mình, trú trên chỗ
nương tựa của chính mình; trú trên hoàn đảo chánh pháp, trú trên
nương tựa chánh pháp, chứ đừng trú trên hoàn đảo khác, chỗ nương
tựa nào khác” Viện NCPHVN ấn hành, 1994, trang 74.
|