Nền tảng Kinh tế học từ cái nhìn
Phật giáo
TT.
Thích Tuệ Sỹ, Việt Nam
I.
Xác định giới hạn
Con người
không bao giờ ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập
được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu
thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải
đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi
nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá
chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn. Để hưởng
thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể. Đói và khát không
ngừng thôi thúc nó phải chuyển động. Thế mà cơn đói chưa bao giờ
được thỏa, và nỗi khát cũng chưa từng lắng dịu. Các nguồn tài
nguyên có vẻ bất tận trong tầm nhìn, nhưng lại khan hiếm trong
tầm với. Điều nó phải học hỏi để làm là phân phối các nguồn tài
nguyên ấy một cách hợp lý.
Trước khi
học cách làm này, nó phải biết học cái gì. Nó được thuyết phục
để tin tưởng thế giới này do ai tạo ra, và được tạo ra thế nào.
Mặt khác, đời sống con người lại tưởng như vô nghĩa. Sống và
chết một cách ngẫu nhiên, phi lý, và vô mục đích. Nếu Thánh kinh
không có sách Sáng thế, có lẽ người ta không thể biết được diện
mạo thế giới sẽ như thế nào, tốt hơn hay xấu hơn, khi họ nghĩ vế
hôm nay. Tuy nhiên, một vấn đề như thế, những người Phật tử để
qua một bên.
Ngày xưa
một vị tăng trẻ tên Màlunkya đã hỏi thách đức Thế tôn, muốn xem
Ngài biết hay không biết thế giới này là thường hay vô thường,
hữu hạn hay vô hạn; thân thể và linh hồn có phải đồng nhất hay
không, v.v... Thay vì giải thích thế giới được tạo ra thế nào,
và tạo ra để làm gì, Đức Phật đã khuyến cáo vị tu sĩ trẻ đừng
phí thì giờ của mình cho những câu hỏi ở ngoài tầm nhận thức con
người, mà nên tập trung để nhận thức những điều kiện thực tiễn
của chính mình. Ngài đưa ra một thí dụ: Một người bị bắn trúng
một mũi tên độc. Ông ta không có thì giờ để hỏi mũi tên ấy từ
đâu đến, được làm bằng loại gỗ gì, và ai đã bắn nó. Việc quan
trọng thúc bách nhất ông ta phải làm trước hết là nhổ mũi tên
độc ra và chữa trị vết thương. Sống còn là ưu tiên một, điều
khác tính sau.
Trong một
bản kinh, khi giải thích cho một tu sĩ Bà la môn nghe về ý nghĩa
thật sự, và cách thức tế lễ, một đại tế quan trọng của đạo Bà la
môn bấy giờ, Đức Phật dẫn dụ một câu chuyện trong quá khứ. Có
lần một vị vua muốn tổ chức một lễ đại tế để cầu phúc lợi cho
vương quốc mình. Vua hỏi ý kiến một vị tu sĩ cao nhất. Vị này đã
giảng dạy cho vua phải làm gì trước tiên. Vương quốc ấy bấy giờ
đang khốn khổ vì nghèo đói và bất ổn, trộm cướp và giặc giả
hoành hành. Nếu làm cho dân chúng có công ăn việc làm thì sự
trộm cướp và nỗi loạn sẽ giảm thiểu.
Như chúng
ta thấy, tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho ổn định và thanh
bình của xã hội, vì vậy sự phát triển của nó bao hàm việc mở
rộng sự hành đạo. Khía cạnh này trong giáo lý đức Phật rất
thường bị bỏ qua, mà hầu như hoàn toàn chỉ chú trọng đến hành xử
đạo đức. Sự hoàn thiện đạo đức dĩ nhiên là mục đích cao quí của
sự tu tập trong Phật giáo, nhưng bị bỏ đói thì không ai tài nào
hành thiền được. Điều này được ám chỉ đến trong một câu nói của
đức Phật: “mọi chúng sinh đều do thực phẩm mà tồn tại”. Theo
quan điểm hiện đại, lời dạy này có thể được xem là bối cảnh kinh
tế của Phật giáo.
II. Sản xuất cái gì: Giáo lý về dinh dưỡng
Vậy thì,
hẵn phải có kinh tế học Phật giáo. Nó không những dạy con người
cách thức kiếm sống theo chánh pháp, nghĩa là hợp pháp và lương
thiện, mà còn dạy cách xử dụng lợi nhuận thế nào để có lợi ích
cho bản thân và người khác. Vì vậy nó không được bỏ qua vấn đề
sản xuất và tiêu thụ.
Con người,
thường biết đến như là một hợp thể tinh vi và phức tạp này của
vật chất và tinh thần, là động lực đầu tiên và nguyên nhân cứu
cánh của mọi hoạt động của con người. Thực tế, con người cần
thực phẩm vật chất để duy trì thân thể vật lý của nó, và cần
thực phẩm tinh thần cho sự phát triển tâm linh. Dù tiến hoa cao
đến đâu trong suốt dòng lịch sử, con người có vẻ vẫn phải bắt
đầu đời sống từ phôi thai, mà ngay trong khoảnh khắc đầu tiên
thụ thai nó chỉ là một giọt vật chất. Vấn đề phải chăng đời sống
con người bắt đầu từ phôi thai là vấn đề tranh luận của tôn giáo
và đạo đức, kinh tế học không quan tâm. Nhưng với chủ đích ở
đây, chúng ta sẽ đề cập đến phôi thai như là người tiêu thụ độc
lập.
Về căn
bản, con người cần lương thực vật chất cho đời sống vật chất của
mình. Nhu cầu này bắt đầu từ khoảnh khắc mới có tri giác cho đến
khi lâm chung. Vào thời kỳ đầu tiên của cuộc đời, con người chưa
có khả năng sản xuất, vì vậy nó phải sống nhờ vào nền kinh tế
cấp dưỡng. Nói theo kinh tế học, nó là kẻ đi vay. Cái gì nó đã
vay hôm qua, hôm nay nó phải trả. Và cái gì hôm nay nó làm, ngày
mai sẽ được hoàn báo. Đó là quy luật hoạt động, và sự hoàn báo
ấy đặt cơ sở trên giáo lý về nghiệp.
Bây giờ,
vần đề đặt ra là: con người cần cái gì để nó có thể tồn tại và
phát triển? Trước hết, với tư cách là một sinh vật, nó chỉ cần
lương thực vật chất. Khi tiến hóa thành một động vật, nó cần
thêm một loại lương thực nữa: lương thực tiếp xúc. Đến một trình
độ tồn tại cao hơn, là một con người, nó cần 4 loại lương thực
cả thảy: lương thực vật chất, lương thực tiếp xúc, lương thực
tinh thần, và lương thực nhận thức. Điều này được nói đến trong
một bản kinh: “đây là 4 loại thức ăn dùng để duy trì các chúng
sanh nào đã sanh khởi, hoặc để hổ trợ các chúng sanh nào đang
tìm chỗ sanh ra. 4 loại gì? đoàn thực, thô hoặc tế; thứ hai là
xúc thực, thứ ba là tư thực và thứ tư là thức thực.”
III. Sản xuất cho ai: các giai tầng tồn tại
Trong mỗi
giai đoạn phát triển, nhận thức khởi lên ngay khi có sự tương
tác giữa ngoại cảnh và giác quan. Nhưng ở trình độ thấp, nhận
thức xuất hiện còn yếu đến độ khó nhận biết được thế giới. Ở
trình độ này, nhận thức chỉ là một ý chí tồn tại mù quáng.
Khi các
giác quan đạt đến độ chín chắn, hình ảnh thế giới được phản
chiếu rõ ràng và rành mạch hơn, và nhận thức về nó có luận lý
hơn, hệ thống hơn. Ở một cấp độ cao hơn trong tiến trình nầy,
nhận thức phát triển thành tự ý thức, nhận biết sự tồn tại của
thế giới bên ngoài cũng như sự tồn tại của chính mình. Nhận thức
như là loại thức ăn thứ tư cần thiết cho giai đoạn tiến hóa này.
Sự phát
triển tinh thần tùy thuộc vào sự tích lũy các kinh nghiệm. Nếu
việc xử lý sự tích lũy này bị hỏng, thì sự hoạt động của các
giác quan không tạo ra một hiệu quả tốt nào cho trí óc. Điều này
có nghĩa, các dữ kiện như là thức ăn tinh thần đã không được
cung cấp đầy đủ, hoặc cấu trúc giác quan đã từ chối loại thức ăn
này. Ta có thể gọi loại lương thực thứ ba này là lưong thực cho
tư tưởng. Còn lương thực để duy trì và phát triển văn minh là
nhận thức.
Theo
truyền thống Phật giáo, như được thuật lại trong kinh
Aggaññasutta, thuở đầu tiên, con người thu thập các nguồn thiên
nhiên dùng làm thực phẩm và áo quần, “sống nhờ một loại lúa chín
tự nhiên không cần nấu”. Chúng ta có thể tượng tượng ra rằng
nguồn thiên nhiên được đề cập đến ở đây mà những người tiền sử
thu thập là thứ không thể tích trữ, “thứ gì họ thu lượm được
trong buổi chiều cho bữa ăn chiều sẽ mọc lại và chín vào buổi
sáng; thứ gì họ thu lượm được trong buổi sáng cho bữa ăn sáng sẽ
mọc lại và chín vào buổi chiều.” Phải đến một giai đoạn tiến hóa
nhất định nào đó về sau con người mới bắt đẩu nảy lên trong đầu
óc mình cái ý tưởng: “Tại sao ta phải thu lượm lúa vào buổi
chiều cho bữa ăn chiều và vào buổi sáng cho buổi săn sáng?” Ý
tưởng tích lũy dẫn đến sự đầu cơ. Dần dần sự đấu tranh giữa các
đối thủ trong cộng đồng khởi lên, và xã hội nguyên thủy của loài
người bắt đầu một khúc quanh mới bị lôi cuốn vào xung đột xã
hội.
Theo lẽ
thông thường, người ta cho sự tích lũy trong thời tiền sử là bị
thúc đẩy bởi tính làm biếng của con người. Khi trí óc phát triển
đủ để quyết định phải thu thập cái gì và thu thập cách nào có
lợi cho tác nhân của nó, bấy giờ con người phải đối diện với sự
hạn chế về thời gian. Nó phải phân phối thời gian của mình một
cách tối ưu giữa lao động và nhàn rỗi. Nó phải học cách chọn
lựa. Trên phương diện này chúng ta đưa cả sự tiêu dùng và nghỉ
ngơi vào thời gian nhàn rỗi. Đến một mức độ tiến hóa cao hơn,
thời gian nhàn rỗi được dành trọn cho việc hưởng thụ 4 loại thức
ăn. Bánh mì, và những thứ tương tự, được tiêu thụ để duy trì cơ
thể sinh học và trạng thái ổn định của nội tạng. Nhìn và nghe
được dùng làm xúc thực để tích lũy kinh nghiệm nhờ đó tăng cường
khả năng phán đoán và chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu. Suy nghĩ
và ước muốn được nuôi dưỡng bằng tư thực, loại lương thực thứ
ba, mà nhờ phẩm tính của nó hoạt động của con người cất cánh
hướng đến mục đích tối hậu. Hơn nữa, tương lai của con người tùy
thuộc vào những gì nó đang làm trong hiện tại. Nói theo kinh tế
học, con người phải học cách phân phối các tài nguyên qua thời
gian.
Niềm vui
thích nghe và nhìn khi nhàn rỗi, được thiên nhiên thụ động in
dấu lại, không còn đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu tích lũy các
kinh nghiệm để dùng làm nguồn năng lượng cho việc thúc đẩy cấu
trúc tinh thần hoạt động. Các vật liệu dùng làm xúc thực phải
được sản xuất thành các món hàng hóa. Dầu vậy, thực phẩm vật
chất cần thiết để duy trì cơ thể sinh học không thể bị cắt giảm.
Vì thế, con người hoặc phải tăng gấp đôi thời gian làm việc,
hoặc phải cải thiện kỹ năng sản xuất. Con người thời tiền sử,
được nói đến trong bản kinh dẫn trên, đã tăng gấp đôi sản phẩm
của nó, nhưng không một ám chỉ gì cho thấy nó đã xoay xở cách
nào để làm được như vậy.
IV. Phương thức sản xuất
Mặc dầu bị
huyền thoại hóa dưới hình thức truyện cổ tích được bản kinh kể
lại bằng loại phương ngữ, một số mô hình kinh tế thực sự có thể
đã được cấu trúc dựa vào tác nhân thời tiền sử. Kẻ đối tác của
nó trong một hệ thống kinh tế khác là Robinson Crusoe, người
khởi đầu cuộc sống của mình trên một hải đảo hoang vu, ở đó
trong những ngày đầu của mình, anh chàng chỉ có độc nhất sự lao
động của chính bản thân nhờ sử dụng hai bàn tay và những thứ
thiên nhiên giới hạn xung quanh anh ta cung cấp. Hàng hóa được
sản xuất bằng hỗn hợp lao động và các yếu tố thiên nhiên cung
cấp dĩ nhiên là không thể tích trữ được. Trong toàn bộ thời gian
bị hạn chế vào ban ngày, ngay cả được phân chia một cách hợp lý
và cân xứng giữa làm việc và nghỉ ngơi, anh ta cũng buộc phải
cắt bớt quỹ thời gian chi tiêu cho việc thu thập lương thực để
chi cho việc dựng lên một túp lều. Trong vô thức, đầu óc anh ta
đã thiết lập giới tuyến của khả tính sản xuất mà nó phân phối
một cách tối ưu các nguồn tài nguyên khan hiếm của mình.
Ẩn dụ
Robinson Crusoe có khả năng giúp chúng ta diễn dịch ra cách gia
tăng năng suất của người tiền sử – tăng gấp đôi lượng lúa gạo
thu lượm được đủ tiêu dùng cho hai ngày thay vì chỉ một ngày.
Xét hàm số sản xuất, nếu những thứ khác luôn được giữ nguyên:
đất và lao động trong bối cảnh hiện tại không đổi, thì một sự
thay đổi trong kỹ thuật sẽ làm thay đổi sản phẩm.
Liên hệ
đến điều này, dựa vào lý thuyết Phật giáo về 4 loại thức ăn, thì
nhu cầu vế hàng hóa tiêu dùng thuộc loại thực phẩm vật lý, giả
như ở trong một nền kinh tế dài hạn, khi đạt tới đơn vị cuối
cùng của tính hữu dụng tới hạn của nó, sẽ luôn được giữ nguyên
suốt một thời kỳ rồi rới xuống cùng với sự hủy diệt của đời sống
con người vốn lệ thuộc quy luật thế giới vật chất. Ba loại thức
ăn khác, cơ bản trước hết được xem chỉ là thực ăn bổ túc cho
thực phẩm vật lý, sẽ giảm thiểu khi cơ thể, cái mà nó, hủy hoại.
Trong câu
chuyện về người tiền sử nêu lên ở trên, nó kể rằng khi người ta
giành giật nhau thu gom lúa gạo để tích trữ cho tiêu dùng trong
tương lai, thì lúa gạo chín tự nhiên không cần nấu biến mất, và
một loại lúa gạo mới đòi hỏi con người phải làm lụng để sản xuất
thay thế nó. So với hoàn cảnh của Robinson Crusoe như các nhà
kinh tế ưa dùng, trong đó mọi thứ gì nó có thể có được trong tay
đều là những yếu tố do thiên nhiên cung cấp, không một dụng cụ
gì có sẵn ngoài sự lao động của chính bản thân để sản xuất những
thứ cần thiết nhằm thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu, anh ta buộc
phải chọn lựa hoặc tiêu thụ đến hết mọi thứ kiếm được trong ngày
nay, hoặc giảm bớt một phần để dành cho ngày mai; trong trường
hợp người tiền sử, họ không để dành bằng cách cắt giảm tiêu dùng
hôm nay cho tiêu dùng ngày mai, mà bằng cách tăng thêm lượng sản
phẩm nhờ vào việc cải thiện hiệu năng sản xuất.
Trong hoàn
cảnh hiện nay, theo quan điểm Phật giáo như đã phát biểu trong
bản kinh dẫn trên, ta có thể thừa nhận rằng ngay từ đầu con
người thấy sự gia tăng trong sản phẩm là lựa chọn tốt nhất của
mình, trước khi tưởng tượng ra được bất cứ một kiểu mẫu kinh tế
nào khi đối mặt với giới hạn của môi trường và sự khan hiếm của
các phương tiện ngoại tại để thỏa mãn nhu cầu của mình.
Vấn đề tất
yếu theo sau là, sự tiêu thụ vật chất có tính hữu ích tới hạn
của nó, nhưng nhu cầu con người thích hợp với sự tiến hóa cao
hơn nhiều thì không giới hạn, vì vậy, con người phải sắp xếp
giảm bớt thời gian làm việc cho sự gia tăng hàng hóa vật chất để
có thể dành nhiều thì gian hơn cho sự nuôi dưỡng kiến trúc tinh
thần và địa tầng tâm thức. Theo hệ quả luận lý, không phải chỉ
sự giàu có nơi số lượng vất chất, mà trong một mức độ nào đó
được đánh giá là sự tăng trường kinh tế, nhưng chính phẩm chất
của sự tiêu thụ trong lãnh vực tinh thần, được cung cấp bằng
thực phẩm dành cho kiến trúc tinh thần và địa tầng tâm thức, là
cái biểu thị sự tiến bộ xã hội và sự nâng cao tiêu chuẩn cuộc
sống.. Tuy nhiên điều này không có nghĩa, sản xuất vật chất nên
được bỏ lơ, trái lại, nó phải làm điểm tựa cho sự tiêu thụ trong
lĩnh vực tinh thần. Vì vậy, tăng trưởng vật chất phải tương xứng
với phát triển tinh thần.
Thật ra,
trong việc xử lý vấn đề khan hiếm, quả thật không đúng chút nào
khi cho rằng, như một số nhà kinh tế từng tuyên bố, cách giải
quyết của Phật giáo là “thay đổi bản chất và mức độ các ham
muốn…” Nghĩa là giảm bớt ham muốn và nhu cầu của họ.
Khỏi cần
bàn luận, nhất định khoa học kinh tế ấy được lập mô hình theo
khung sườn đầu óc phương Tây.
Mặc dù
những thành tựu vật chất như được nhìn thấy hiện nay ở phương
Tây từ thời chủ nghĩa thực dân cho đến cuộc chiến chống khủng bố
ngày nay, văn minh phương Tây có vẻ chứng tỏ ưu thế của mình đối
với cách hành xử kinh tế của phưong đông, tiến bộ kỹ thuật của
nó đã cải thiện tiêu chuẩn cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa dân chúng được hạnh phúc hơn. Thay vào đó, sự thành tựu
đầy kinh ngạc về khoa học và kỹ thuật đang đẩy nhân loại đến bờ
vực hủy diệt hàng lọat.
V.
Sản xuất và tiêu thụ
Một bản
kinh kể rằng trong thời xa xưa, hoặc trong thời kỳ dân chúng đạt
đến sự phát triển cao nhất theo truyền thuyết, chỉ có 3 loại nhu
cầu: ham muốn, đói khát và tuổi già. Thời gian trôi qua, khi xã
hội con người bị xung đột một cách khốc liệt, thêm nhiều loại
nhu cầu khác xuất hiện. Theo kinh Esukàrì sutta, vào thời đức
Phật, của cải được phân loại theo 4 phạm trù, y theo đó xác định
giai cấp xã hội. Theo đó, của cải của một người là toàn bộ những
gì anh ta sở hữu. Nó là phương tiện người ấy kiếm sống. Khái
niệm của cải này gợi lên những ý niệm về sản xuất và tiêu thụ
theo cách hiểu của kinh tế học hiện đại, trong một chừng mực nào
đó. Tuy nhiên đức Phật đã đề xuất lấy Pháp tối thượng làm của
cải tối hậu mà nhân loại được khuyến khích tìm kiếm. Pháp tối
thượng nói đến đây gồm 7 yếu tố hay thành phần của của cải:
chúng là niềm tin, đạo đức, tàm, quý, học thức, bố thí và minh
triết, trong đó yếu tố thứ sáu, tức bố thí hay thí xả, đạt được
nhờ hào phóng bỏ của ra để làm từ thiện, hàm ý sở hữu của cải
vật chất. Bởi vì một người, một người giàu có chẳng hạn, chỉ có
thể cho người khác cái gì mà nó có. Vì thế, các thành phần này
của sự giàu có phải được xem là các nhân tố sản xuất ra hàng hóa
có phẩm chất cao nhất. Tuy nhiên, hầu hết những tác giả viết về
kinh tế có lẽ không dễ tán thành một định nghĩa khá lý tưởng như
thế về giàu có, bởi vì theo giả định của họ, giàu có được định
nghĩa là “ gồm hai thứ tài sản thực (nhà cửa, xe cộ, máy truyền
hình, và những thứ lâu bền khác) và tài sản tài chánh (tiền mặt,
tài khỏan tiết kiệm, cổ phần, trái phiếu, chế độ bảo hiểm và
lương hưu) mà chủ hộ sở hữu.
Như chúng
ta thấy, thông thường người ta phân biệt giữa hàng hóa vật chất
đáp ứng các thỏa mãn đời thường của con người, và hàng hóa cao
hơn dùng làm phương tiện nhằm đạt được các thỏa mãn lý tưởng. Vì
kinh tế học chỉ xử lý những chuyện trong thế giới này, thì hệ
quả hợp lý theo sau là họ chỉ quan tâm đến sự tiêu thụ vật chất.
Thật ra
đức Phật chưa bao giờ phủ nhận nhu cầu về hàng hóa vật chất được
tiêu thụ cho những đòi hỏi duy trì đời sống sinh học của con
người là cái làm nền tảng cho sự phát triển cao hơn. Trong kinh
“Không mắc nợ", Ngài thừa nhận 4 thứ sung túc: lạc thú do có
của, lạc thú do sử dụng của cải hữu ích, lạc thú do không mắc
nợ, và lạc thú do không có lầm lỗi.
Trong đoạn
này, các điều kiện sung túc không được cải thiện và tăng thêm
chút nào nếu chỉ dựa vào việc thu hoạch và tích lũy một lượng
của cải, cho dù đạt được một cách chính đáng bằng sự nỗ lực và
lao động của mình. Của cải chỉ có ích lợi nếu nó mang lại cho
con người sự vui thích và hạnh phúc qua việc tiêu thụ vật chất
lẫn phát triển tinh thần.
Trong một
Kinh khác, có lần một người đi đến đức Phật xin Ngài dạy cho
giáo lý mà khi tuân thủ nó, những kẻ vốn là “ những gia chủ,
đang hưởng thụ dục lạc thế gian, đang ràng buộc với vợ con…” có
thể sống hạnh phục, thanh bình và thịnh vượng trong đời sống
hiện tại cũng như trong tương lai. Bấy giờ, Đức Thế tôn đưa ra 4
điều kiện trước tiên dẫn đến an lạc trong hiện tại. Chúng là sự
chăm chỉ, sự phòng hộ, bạn tốt, và kiếm sống chân chính.
Tóm lại,
cách hành xử kinh tế đã được chỉ dạy như vậy. Sự chăm chỉ hay
siêng năng được nhấn mạnh. Nỗ lực, năng động, chăm chỉ, siêng
năng (viriya, utthāna, padhāna, v.v…), đôi khi được hiểu như là
dùng để diễn tả cùng một trạng thái của tâm hay ý thức, mặc dầu
các hoạt động tâm lý của chúng có hơi khác biệt. Tuy nhiên, một
cách tổng quát, chúng thường diễn tả yếu tố quan trọng nhất
trong sự tu tập, đó là sự chuyên cần (appāmada). Đức Phật dạy:
“Tỉnh giác là con đường đưa đến bất tử. Lười biếng là con đường
dẫn đến tử vong.”
Sự lơ là,
bất cẩn, chây lười, nhác nhớm: Đây là những sức ì của tâm hay ý
thức. Nó dấy lên trong lòng người ta cái trạng thái miễn cưỡng
làm việc. Các nhà kinh tế cũng có thể gọi nó là sự nhàn rỗi đối
lại với lao động. Theo các nhà kinh tế định nghĩa, nhàn rỗi là
một phạm trù hàng hóa tiêu dùng có thể được đo lường bằng đơn vị
thời gian. Khi được phối hợp với hàng hóa tiêu thụ nó hình thành
một bó hàng cho khách tiêu dùng lựa chọn, vì theo định nghĩa
này, nhàn rỗi chỉ cho bất kỳ thời gian nào đã chi tiêu mà không
làm việc trong thị trường lao động. Vì thế, khi một công nhân cố
gắng tăng thêm thu nhập, anh ta phải gia tăng chi tiêu lao động,
nghĩa là anh ta phải cắt bớt thời gian chi tiêu cho nhàn rỗi.
Như vậy, lao động là phí tổn cơ hội được trả giá bằng nhàn rỗi.
Với sự
giúp đỡ của tiến bộ kỹ thuật, công nhân ngày nay có thể nâng cao
hiệu suất lao động để kiếm được một mức lương cao hơn mà không
phải cắt bớt thời gian dành cho nhàn rỗi. Tiêu chuẩn đời sống
của anh ta được gia tăng, thu nhập đạt đến tối đa. Anh ta vừa
giàu có lại vừa rảnh rang thụ hưởng lạc thú cuộc đời. Đó là đặc
điểm của nền văn minh hiện đại mà người ta phong cho cái tên là
nền văn minh tiêu thụ vật chất được hình thành trên mẫu hình
kinh tế phương Tây.
Con người
ham muốn dục lạc không bao giờ chán chê. Theo một định luật,
tổng giá trị hữu ích của một món hàng tiêu thụ được tính bằng số
lượng của nó, nhưng đối với người tiêu dùng, phẩm chất của món
hàng, từ đó, tính chủ quan của nó, không thể bị bỏ quên. Thời
gian tiêu thụ cũng là một nhân tố tác động đến sự thay đổi tổng
giá trị hữu ích. Một đơn vị thời gian tăng thêm sẽ làm giảm bớt
sự ưa thích hưởng thụ.
Đức Phật
thừa nhận 4 nhu cầu: thực phẩm, quần áo, nhà cửa, thuốc men.
Chúng thuộc các yếu tố vật chất và được xếp vào loại dinh dưỡng
vật lý. Sự tăng trưởng kinh tế chỉ dựa độc nhất vào số lượng
hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra nhằm thỏa mãn sức tiêu thụ
vật chất. Như vậy bất kỳ một loại kích thích nào động viên tiêu
thụ cũng làm tăng lượng cầu.
Việc tập
trung vào sản xuất và tiêu thụ vật chất này, thiếu các loại dinh
duỡng khác mà chúng ta gọi là các loại thức ăn tinh thần cần
thiết cho giá trị tối hậu của nhân loại, đã tạo nên tình trạng
mất cân bằng giữa tăng trưởng cơ thể và tinh thần. Ngày nay, với
đà tiến bộ ngoạn mục của khoa học, và với sự thành tựu có vẻ
thần kỳ của kỹ thuật, người ta hiểu biết nhiều về cách thức vật
chất hoạt động, nhưng sự hiểu biết của họ về cấu trúc tinh thần
được cấu tạo thế nào và loại thức ăn nào phải được dùng cho nó
thì còn hạn hẹp một cách đáng buồn. Ngoại tình, hiếp dâm, buôn
lậu ma túy, bạo lực, vô số các bất ổn xã hội; tất cả triệu chứng
này của căn bịnh béo phì xã hội thật ra là kết quả của tình
trạng mất cân bằng trong sự phát triển kinh tế.
Nhìn
chung, tăng trưởng kinh tế trên thế giới ngày nay đã nâng cao
tiêu chuẩn sống của nhân loại lên một mức đáng kể. Tuy nhiên,
sản xuất quá độ và tiêu thụ quá độ dứt khoát kéo theo sự bất
bình đẳng trong việc phân phối của cải trên cán cân thế giới.
Nhân đây, chúng ta nên tham khảo một số lời dạy của đức Phật
liên quan đến vấn đề đang thảo luận này.
Trong một
bản kinh, đức Phật chỉ dạy một gia chủ trẻ xử dụng hợp lý lợi
tức kiếm được bằng cách phân ra thành 4 phần: một phần dành cho
các nhu cầu bản thân, 2 phần dành chi cho việc kinh doanh. Phần
thứ tư để dành phòng những lúc cần đến. Bản dịch tương đương
trong bộ A hàm tiếng Hán kể nhiều chi tiết hơn, nó thêm hai phần
phụ nữa: một để xây đền miếu, và phần sáu để xây Tăng viện. Thật
thú vị khi chú ý đến bản Hán dịch bộ A hàm trong đó vai trò đền
miếu thờ thần và Tăng viện ở Ấn đổ cổ có thể so sánh với các
định chế kinh tế và xã hội ngày nay. Vào thời đức Phật, hầu hết
Tăng viện nguyên là những khu giải trí hoặc công viên do các ông
vua, hoàng hậu, những giới quí tộc hoặc giàu có sở hữu dâng
tặng. Về sau người ta cúng cho các đoàn thể tôn giáo hoặc giáo
phái để họ tu tập và giảng đạo. Việc hiến cúng một phần thu nhập
của mình cho các mục đích tôn giáo như đức Phật dạy cho vị gia
chủ phải được xem là một đóng góp cho các hoạt động văn hóa và
giáo dục, một loại đầu tư vào vốn con người.
VI. Kết luận
Nhiều tác
giả viết về kinh tế học phật giáo phê bình Adam Smith về định lý
“bàn tay vô hình” của ông, theo đó nếu một cá nhân hành xử trên
cơ sở lợi ích riêng của mình thì lợi ích xã hội sẽ được nâng cao.
Sự thật
không thể chối cải là tính vị kỷ này đang là động cơ thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế mà hầu hết các nước ngoài Âu châu và chư hầu
của nó thèm muốn. Như Smith đã xác quyết, nếu lợi ích bản thân
của cá nhân không được thúc đẩy, không một phát triển kinh tế
nào có thể thực hiện được. Để có một cái nhìn sát hơn vào bức
tranh, chúng ta hãy đặt hoàn cảnh này vào câu nói của Keynes:
“Nó không tính phí tổn của tranh chấp, mà chỉ nhìn vào các lợi
ích của kết quả cuối cùng được giả định là vĩnh cửu. Mục đích
của đời sống là ngắt lấy những chiếc lá từ những cành cao xa
nhất, phương thức để thành tựu mục đích này thật chẳng khác nào
để cho những con hươu có cổ dài nhất mặc tình bỏ đói những con
có cổ ngắn hơn.”
Như vậy,
các nguyên nhân gốc rễ cho tăng trưởng kinh tế , tốt hơn hoặc
xấu hơn như ngày nay chứng kiến, được bện chặt với lòng tham
lam, thù ghét và ảo tưởng. Xóa bỏ 3 độc tố này là mục đích tối
hậu của đời sống người Phật tử. Tuy nhiên tính vị kỷ liên kết
với các căn nhân bất thiện như đã thấy rõ trong việc tối đa hóa
lợi nhuận, nếu xét theo thái độ tâm lý học Phật giáo, là lực
thúc đẩy mọi hành động của con người. Căn cứ trên giáo lý về
dinh dưỡng, khi cơ thể sinh học còn tồn tại ngay cả sau khi bậc
thánh đã đạt đến trạng thái diệt hết các căn nhân bất thiện, 4
loại thức ăn vẫn còn cần thiết cho đến khi bậc Thánh nhập vào
Niết-bàn, vì cơ thể được cấu thành bởi 5 uẩn đi đến chỗ tan rã
hoàn toàn. Trong phối cảnh này, một hệ thống kinh tế nào đó vẫn
còn tồn tại để cung ứng các nhu cầu cho vị ấy. Đối với những ai
chọn đi theo con đường dẫn đến giải thoát tối hậu, đến thành tựu
Niết bàn, đức Phật dạy cách xả bỏ tuyệt đối các dục lạc thế gian.
Đối với những ai còn bị ràng buộc trong ngũ dục, Ngài thuyết cho
họ giáo lý về cuộc sống bình thường để họ có thể sống bình yên
và hạnh phúc ngay trong đời hiện tại cũng như trong tưong lai.
Giáo lý cho đời sống sau thật đơn giản: Bố thí và trì giới. Để
có thể tu tập bố thí, anh ta phải có một số của cải nào đó.
Như vậy,
hành xử kinh tế của một Phật tử tại gia là một hành động có mục
đích nhắm đến việc thu thập của cải cụ thể cho tiêu thụ vật chất
và tích lũy phước đức cho đời sống mai sau. Liên quan đến hành
động có mục đích này, nền tảng cho sự gia tăng của cải của một
Phật tử tại gia được dạy là phải bao gồm mười hạn mục: đất đai,
vốn liếng, con cái, tôi tớ, gia súc, niềm tin, đạo đức, học tập,
bố thí, và trí tuệ. Vì vậy, các điều kiện tăng trưởng kinh tế
phải là một sư cân bằng giữa tiêu thụ vật chất và phát triển
tinh thần.
Tuy nhiên,
kinh tế học Phật giáo, nếu có, chỉ có thể thực hiện được với
điều kiện, mục đích trong đời sống này của một cá nhân phải được
xác lập, và việc làm của nó phải được hướng dẫn bởi đạo đức, bất
kể lý thuyết về vị kỷ hay động cơ lợi nhuận có thành vấn đề hay
không. Trong phương diện này, lời đức Phật dạy về chánh mạng hy
vọng đóng góp nhiều nguyên tắc chỉ đạo cho các nghiên cứu kinh
tế.
Việt dịch: Thích
Nguyên Giác
|