Kinh tế
từ cái nhìn Phật giáo
ĐĐ.TS. Thích Nhật Từ, HVPGVN tại TPHCM
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện
đại về kinh tế học, đạo Phật có quan điểm cho rằng kinh
tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi
(kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế học xem kinh tế học là
một khoa học là một khoa học “tích cực”của một loại hiện
tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế
học có một quan hệ đặc biệt với đạo đức học và được xây
dựng gần gũi với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của
đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác
ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người.
Trong phần này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm
quan trọng về kinh tế học như đã được mô tả tong kinh
điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai
trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm
quan trọng lớn đối với kinh tế học và đổi lại cũng vậy.
2. CƠ SỞ KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO VỀ KINH TẾ HỌC
Mặc dù những mối quan tâm tức thời của Đức Phật
không phải là mang lại một cuộc cách mang kinh tế, nhưng
những giáo lý của Ngài đề cập đến những khía cạnh đạo
đức của kinh tế học. Là một tôn giáo đạo đức chủ trương
sự tiến bộ đạo đức và sự phát triển tâm linh của những
cá thể trong xã hội, Phật giáo thấy rõ rằng những khía
cạnh đạo đức của thái độ ứng xử của con người liên quan
đến kinh tế học là một yếu tố quan trọng nhất, còn hơn
cả lý thuyết kinh tế học. Không có lời dạy trực tiếp nào
về chủ đề kinh tế học trong những kinh điển Phật giáo,
nhưng những lời dạy của Đức Phật về bốn nhu cầu (paccaya)
– ăn (pi((ap(ta), mặc (c(vara), ở (sen(sana) và thuốc
men (bhesajja) xuất hiện khắp trong các bản kinh đạo
Phật đều có liên quan đến kinh tế học. Nói cách khác,
không có một lý thuyết kinh tế học bao quát trong các
kinh điển Phật giáo nhưng người ta có thể tìm thấy rãi
rác đây đó trong giáo lý Đức Phật một số những quan sát
chỉ dẫn và những quy định liên quan đến những khía cạnh
đặc biệt của kinh tế mà đến nay vẫn còn có liên hệ đến
những học thuyết kinh tế học hiện đại. Những lời dạy xưa
nhất của Đức Phật có liên quan đến kinh tế học là kinh
Cakkavatthis(han(da (Chuyển Luân Vương) và kinh
K((adanta. Một nghiên cứu tỷ mĩ về hai kinh này cho thấy
một mặt là đạo đức học và kinh tế học, và mặt khác là sự
quan trọng về mặt đạo đức xã hội của kinh tế chính trị
là có quan hệ với nhau.
Ngoài việc đề cập đến bốn nền tảng chánh niệm (satipa((h(na)
và những nguyên tắc điều hành quốc gia bằng một chế độ
quân chủ phổ quát, kinh Chuyển Luân Vương còn nhắm
đến đạo đức trong sự tiến bộ vật chất của loài người.
Kinh dạy chúng ta rằng sự nghèo nàn đưa đến nạn trộm cắp
và phá huỷ những định chế xã hội, và điều này tới phiên
nó lại đưa đến sự suy thoái đời sống cá nhân và xã hội.
Nó chỉ ra rằng sự phân phối sai hàng hoá và của cải làm
phá vỡ toàn bộ cấu trúc xã hội và kinh tế của quốc gia.
Nó còn cho thấy rằng để mang lại sự cải tiến trong phẩm
chất cuộc sống, những giá trị đạo đức nên được tôn trọng
và thực thi. Với quan điểm thực nghiệm khi tiếp cận kinh
tế học, kinh K((adanta phê phán nhà nước trong việc
phung phí tài sản quốc gia vào những cuộc hội hè lễ lạc
vô ích trong khi đất nước đang phải chịu đựng những bất
lợi xã hội do nạn khủng hoảng kinh tế gây ra. Ở đây Đức
Phật kể lại một nhà vua giàu có trong kiếp trước muốn
cống hiến một buổi tế lễ để mang lại hạnh phúc cho mình
trong tương lai cũng như cho xứ sở, phù hợp với những sự
tu tập của bà-la-môn. Nhà vua hỏi người cố vấn của mình,
lúc đó là Đức Phật trong một kiếp quá khứ, làm cách nào
để thực hiện điều đó một cách có hiệu quả, người cố vấn
chỉ ra rằng vương quốc đang bị tàn phá do nạn trộm cắp,
cướp giật, buôn lậu. Tình huống sẽ trở nên tồi tệ hơn
nếu thực thi những việc hành hình, trừng phạt hay những
biện pháp đàn áp, vì những kẻ sống sót sẽ tiếp tục gây
rắc rối. Theo kinh này mô tả, bổn phận đạo đức của nhà
vua hay chính phủ là đề ra những chương trình xoá nghèo:
nên phát ngũ cốc và cỏ khô cho những người canh tác mùa
màng và chăn nhôi gia súc, nên phân phát vốn liếng cho
những người buôn, và phát tiền lương thích đáng cho
những người làm việc trong chính phủ. Về mặt quản lý
kinh tế, một đất nước lý tưởng có thể được định nghĩa là
một quốc gia trong đó sự nghèo nàn được xoá bỏ, sự rối
loạn trật tự xã hội được vãng hồi rõ ràng, trong khi hoà
bình và tiến bộ đạo đức chiếm ưu thế. Trong những kinh
này, Đức Phật gián tiếp đề cập đến công ăn việc làm, sản
xuất phân phối, tiêu thụ và phát triển của kinh tế cá
nhân hay quốc gia để nuôi dưỡng hạnh phúc vật chất của
con người. Những kinh này thường được một số lớn Phật tử
ở thế kỷ hai mươi đọc tụng, xem như những xuất xứ quan
trọng của lời Phật dạy về kinh tế học, hoặc đạo đức kinh
tế cho cả người cai trị lẫn người bị trị. Những nguồn
gốc rãi rác khác của giáo lý Đạo Phật về kinh tế học rất
nhiều và sẽ được đưa ra khi nó có liên hệ đến bài thảo
luận.
3. PHƯƠNG THỨC TẠO RA CỦA CẢI
Là một tôn giáo trung đạo, đạo Phật không xem của cải là
điều xấu, cũng không xem nó là cứu cánh tự thân. Tuỳ
thuộc vào phương cách nó được tạo ra và mục đích con
người sử dụng nó, của cải sẽ được khuyến khích hay bị
lên án. Đối với ngừơi Phật tử, vấn đề không phải ở chỗ
người ta nên có bao nhiếu của cải, mà là cách thức họ
sở hữu và sử dụng của cải. Nếu của cải được tạo ra bằng
những con đường phi pháp và phi đạo đức, và được sử dụng
cho những hoạt động chống lại xã hội, hoặc ngay cả cho
nhu cầu xa xí, đạo Phật cũng xem của cải như thế là điều
xấu ác. Nếu của cải được làm ra do nỗ lực chân chánh,
dùng để mang lại an lạc và hạnh phúc cho chính mình, cho
gia đình mình và vì lợi ích cho xã hội, nó được coi là
một phương tiện quan trọng để tạo một cuộc sống tốt đẹp
và một cuộc sống đạo đức có thể được. Bản kinh nói như
sau:
Sự phát triển trong điền sản, trong của cải và ngũ cốc,
nơi người bạn đời và con cái, nơi người làm công và nơi
súc vật gồm trong mười sự phát triển mà một vị thánh đệ
tử trưởng thành trong bậc thánh, cố gắng làm để hoàn
thiện mình.
Nói cách khác, đạo Phật khuyến khích một đời sống chánh
đáng để thiết lập một xã hội tốt đẹp. Đoạn kinh sau đây
mô tả một tinh thần như thế:
Vì chính mình và vì mọi người, ta không làm điều xấu ác,
cũng không muốn vì những con trai con gái mình, hay vì
của cải, vì vương quốc mà làm điều xấu ác, cũng không
muốn thành công bằng những phương tiện bất thiện; một
con người như vậy là đạo đức, khôn ngoan và đúng đắn.
Chính trong việc này mà đạo Phật cho rằng mắc nợ là khổ
và không mắc nợ là nguồn gốc của hạnh phúc.
Như Đức Phật đã dạy rằng tâm dẫn đầu các nghiệp báo của
con người, cho nên nói rằng đời sống tiện nghi hay của
cải vật chất tự thân nó là một điều xấu ác là sai lầm.
Mặt khác, đạo Phật tán thán của cải được làm ra bằng
những con đường chân chánh. Đạo Phật đề cao sự sử dụng
của cải chân chánh cho sự an lạc và hạnh phúc của chính
con người, cho hạnh phúc của cha mẹ, những thành viên
trong gia đình, họ hàng, bè bạn, người quen và cho
tỳ-kheo, tỳ-kheo ni. Người làm điều thiện (kusala kamma)
sẽ được giàu có trong đời này và đời sau là một trong
những điều giáo huấn tốt đẹp mà Phật tử nào cũng biết
đến, tất cả những điều này có nghĩa là đạo Phật không
phải là một tôn giáo bảo con người đừng có của cải, mà
là một tôn giáo chấp nhận của cải là một điều đáng được
tìm kiếm vì nó có thể giúp ích cho một đời sống tốt đẹp.
Trong số đệ tử cư sĩ của Đức Phật, Cấp Cô Độc (An(thapi((ika),
là một thương gia giàu có, nổi tiếng là một người hỗ trợ
rất hào phóng (một đại thí chủ) của Đức Phật và tăng
đoàn, thường được tán thán là một người làm lợi ích
nhiều nhất và được gọi là trưởng lão thí chủ (d(yak(nam
aggo).
Tuy nhiên, đạo Phật không tán thành sự lạm dụng của cải
để xa xí, vì đó là một nguyên nhân làm mất mát của cải
cũng như đưa đến chỗ phóng dật trong lạc thú. Kinh điển
Phật giáo lên án cả hai thái độ bủn xỉn và phung phí đối
với của cải và xem những kẻ hà tiện là nô lệ, trong khi
coi những kẻ lãng phí của cải là kẻ tự huỷ hoại mình.
Hai loại người này bị coi như khó làm hài lòng và khó
mang đến an lạc cho người khác.
Hơn thế nữa, ngay cả của cải sanh ra bằng phương cách
đạo đức và hợp pháp, kinh điển Phật giáo cũng cảnh cáo
những kẻ trở thành nô lệ cho của cải rằng chấp thủ vào
của cải vật chất sẽ là gánh nặng:
Của cải sẽ làm hỏng kẻ ngu nhưng không thể làm hỏng
người tìm kiếm bờ bên kia (niết-bàn). Vì tham lam của
cải kẻ ngu làm hỏng chính mình cũng như làm hỏng những
kẻ khác.
Thái độ của người theo Phật có thể được nhìn thấy rõ
ràng qua việc chấp nhận con đường trung đạo đứng ngoài
hai cực đoan của (a) sự phóng dật trong chủ nghĩa vật
chất nhằm thoả mãn cảm giác, và (b) sự nghèo khó, thiếu
thốn mọi phương tiện cần thiết để có đời sống đạo đức
tốt đẹp. Cực đoan đầu sẽ đưa đến nợ nần và đau khổ.
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) dạy rằng “đói là căn bệnh lớn
nhất.” Chỉ bởi vì nghèo khó được coi là nguyên nhân
khuyến khích người ta nói dối, lường gạt, sanh ra trộm
cắp và phi đạo đức, làm phát sanh sự bất ổn và rối loạn
xã hội. Hơn thế nữa, trong một tình trạng nghèo khó,
người ta rất khó sống một cuộc đời đạo đức và tâm linh,
chưa cần nói đến sống một đời vì xã hội. Mặt khác, Đức
Phật xem của cải vật chất là một phương tiện để hỗ trợ
một đời sống đạo đức và tiến bộ trí tuệ, chứ tự thân nó
không phải là cứu cánh. Để có sống một đời đạo đức và
tiến bộ tâm linh, cần có nhiều điều kiện. Đó là (1) con
người phải khoẻ mạnh, (2) không thiếu thốn lương thực,
(3) sống trong một môi trường thân thiện, và (4) tăng
đoàn hoà hợp.
Một cống hiến quan trọng khác về vấn đề của cải được tìm
thấy trong kinh điển đạo Phật là khuyên người ta không
nên tiếc nuối khi của cải bị sa sút hay bị mất cắp, còn
trong trường hợp tăng thêm của cải người ta nên điềm
tỉnh. Thái độ đầu tiên giúp chúng ta thoát khỏi đau khổ
vì sự đổi thay (vipari(a-dukkhat() trong khi thái độ
sau giúp người ta tránh khỏi sự thoả mãn của cảm giác.
Thái độ quân bình như vậy sẽ giúp cho chúng ta thoát
khỏi hai cặp pháp thế gian (lokadhamma), đó là
sự được (l(bha) mất (l(bha), và hạnh phúc (sukha) đau
khổ (dukkha). Khuynh hướng chung là con người cảm thấy
hạnh phúc, vui sướng và bám víu vào điều đạt được, và
đau khổ khó chịu và thờ ơ đối với điều mất mát.
4. THÁI ĐỘ CỦA ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI SỰ TIÊU DÙNG
Đặt trên nền tảng thực nghiệm, đạo Phật đưa ra sự thật
là tất cả chúng sanh sống còn nhờ vào thực phẩm (sabbe
satt( ah(ra((hitik(). Vì sống nhờ vào thực phẩm nên con
người phải dùng đến những phương tiện và đường lối khác
nhau, như thiện hay bất thiện, để đối phó với nhu cầu
căn bản này; ngược lại với những kinh tế gia hiện đại
định nghĩa sự tiêu thụ là sử dụng hàng hoá và sản phẩm
để thoả mãn cảm giác hay để làm hài lòng bản ngã, mà
đúng ra là để duy trì sự khoẻ mạnh của cơ thể, sứ khoẻ
tốt để theo đuổi và đạt được cuộc sống đạo đức. Nói cách
khác, sự tiêu dùng không phải để có phẩm chất tốt cho
cuộc sống mà là để có phẩm chất tốt cho cuộc sống đạo
đức.
Khi sự tiêu thụ duy trì sự an lạc và hạnh phúc của đời
sống đạo đức, nó được xem là quan trọng cho đời sống con
người. Nếu việc ăn uống chỉ để nếm mùi vị ngon, để thoả
manc cảm giác thì sự tiêu dùng trở thành một chướng ngại
đối với việc phát triển con người. Một thái độ tiêu dùng
như thế sớm muộn gì cũng sẽ đưa đến sự bất mãn.
Theo Ven. Payutto, sự tiêu dùng được coi là “một phương
tịen cho một cứu cánh, đó là sự phát triển tiềm năng của
con người” hoặc là “sự an lạc nơi cá nhân, xã hội và môi
trường sinh sống” Phân biệt kinh tế học Phật giáo với
kinh tế học của các kinh tế gia hiện đại, Schumacher đã
chỉ ra một cách đúng đắn là:
Kinh tế học Phật giáo hẳn rất khác so với kinh tế học
của chủ nghĩa duy vật hiện đại, bởi vì người theo Phật
nhìn thực chất của nền văn minh không phải trong phép
tính nhân của những nhu cầu con người mà là trong sự
tịnh hoá tính cách con người.
Lý do căn bản cho sự khác biệt đó là “kinh tế học Phật
giáo là một môn học có hệ thống về việc làm cách nào để
đạt những mục tiêu đã có với những phương tiện tối
thiểu.” Trong khi kinh tế học hiện đại nhấn mạnh vào sự
tiêu dùng tối đa. Ở nơi khác ông nói rõ về luận điểm này
như sau: “một nhà kinh tế học Phật giáo sẽ xem phương
pháp này là quá bất hợp lý bởi vì sự tiêu dùng chỉ là
một phương tiện đối với hạnh phúc con người, mục tiêu là
phải đạt được hạnh phúc tối đa bằng sự tiêu dùng tối
thiểu.” Mặt khác, Hoà thượng Payutto còn phân biệt giữa
sự “tiêu dùng chánh đáng” và “sự tiêu dùng sai trái”,
ngài cho rằng sự tiêu dùng chánh đáng là “ làm thoả mãn
cái ước muốn hạnh phúc thật sự” trong khi “ tiêu dùng
sai trái là để thoả mãn ước muốn đối với những cảm giác
vui sướng hoặc sự thoả mãn bản ngã” Ngài thấy rõ là kinh
tế học hiện đại đặt căn bản trên sự giả định là mục tiêu
của con người là tìm kiếm hạnh phúc qua sự thoả mãn lòng
tham, điều đó có nghĩa là mục tiêu luôn luôn ở phía chân
trời bởi vì lòng tham không bao giờ được thoã mãn. Tuy
nhiên điều này không có nghĩa là đạo Phật chống lại sự
tiêu dùng, là cái đáp ứng được sự thoã mãn và đòi hỏi.
Đạo Phật cho rằng chỉ có sự tiêu dùng thích đáng mới làm
tăng gia hạnh phúc thật sự của người tiêu dùng. Điều mà
đạo Phật không tán thành là sự tiêu dùng phát sinh từ sự
tham lam, vì nó dẫn đến những hậu quả tai hại và một sự
mất mát hạnh phúc thật sự. Thú vị hơn nữa khi
Schumacher nhận xét rằngtrong khi kinh tế học hiện đại
“cố gắng tối đa hoá sự tiêu dùng bằng mô hình tốt nhất
của sự tiêu dùng” Kinh tế học Phật giáo không nhấn mạnh
trên những khía cạnh vật chất đơn thuần của đời sống và
sự sở hữu của cái, mà là đặt nặng sự phát triển nội tâm
của cá nhân, xem đó là một yếu tố quan trọng trong việc
phát triển xã hội, do đó không có cơ hội để gia tăng tội
phạm và sự bạo hành, rối loạn xã hội sanh ra từ sự suy
thoái kinh tế.
Đến đây thật là thú vị khi nói đến sự tiêu dùng ở chế độ
quân chủ. Theo truuyền thống, cuộc sống lý tưởng của một
tỳ-kheo hay một tỳ-kheo-ni là cuộc sống của một người có
những sở hữu tối thiểu được hổ trợ do sự cúng dường của
cư sĩ hơn là do bất cứ nghề nghiệp nào có được. Lối sống
của họ rất đơn sơ nhưng phạm hạnh. Tài sản cá nhân của
một tu sĩ gồm mười nhu yếu, đó là ba y (áo trên, áo
dưới và áo ngoài), một bình bát, một dây đai, một dao
cạo, một cây kim, một đảy lọc nước, một tích trượng và
một tăm xỉa răng. Người tu được huấn luyện để hài lòng
với những sở hữu ít ỏi đó để không bị những giới hạn và
những bám víu của đời sống cư sĩ, chuẩn bị cho cơ hội
lớn lao để tu tập đạo đức và tiến bộ tâm linh. Sự đơn sơ
trong tu viện của một tu sĩ được xem như đôi cánh của
con chim cần thiết cho việc bay xa:
Vị tỳ-kheo bằng lòng với thức ăn vừa đủ để bảo vệ thân
thể, và khất thực vừa đủ thức ăn cho nhu cầu của bao tử.
Nơi nào vị tỳ-kheo có thể đi đến đều mang theo những thứ
này bên mình, giống như một con chim bay xa, nơi nào nó
có thể bay trên đôi cánh của nó thì nó chỉ bay với gánh
nặng trên đôi cánh.
Vì phụ thuộc vào người cư sĩ cung cấp cho vật chất, đời
sống của tỳ-kheo luôn luôn đơn sơ như sự mô tả của thuật
ngữ này. Sống với những nhu cầu ít ỏi và bằng lòng với
sự không sở hữu hay những sở hữu tối thiểu sẽ giúp cho
vị tỳ-kheo tránh khỏi những sự chăm nom và lo lắng. Với
tinh thần của người sống độc thân và xả ly, các tỳ-kheo
có thể dồn hết thời giờ và năng lực cho sự phát triển
đạo đức và tâm linh vì sự lợi ích cho xã hội.
Tỳ-kheo bằng lòng với bất cứ thứ cần dùng nào miễn đó là
y áo, thức ăn khất thực được, chỗ ở và thuốc men mà họ
có được. Hơn thế nữa, vị ấy luôn luôn nỗ lực để diệt trừ
những tính chất xấu ác, đạt sự tiến bộ kiên trì và mạnh
mẽ trong việc thiện và không bao giờ rời bỏ những bổn
phận của mình.
Đời sống của một tỳ-kheo cũng được xem như lời bình phẩm
về những giới hạn của đời sống xa hoa có thể chịu ảnh
hưởng bởi sự buồn nãn và sa sút, phải băn khoăn lo lắng
về việc mất mát của cải, và sự tranh cãi hay đánh nhau
sinh ra từ tài sản.
5. SỰ ĐIỀU ĐỘ VÀ HẠNH PHÚC
Ngược lại với kinh tế hiện đại nghĩ rằng hoạt động kinh
tế là để thoả mãn tối đa những ham muốn, kinh tế học
Phật giáo hướng về sự an lạc và hạnh phúc của cá nhân và
xã hội qua sự điều độ. Việc biết điều độ (matta((ut()
trong sự tiêu dùng và sử dụng những tài sản cá nhân là
một cách tốt nhất để giữ gìn của cải chân chánh:
Một người nam hay người nữ có đạo đức tìm kiếm điều đã
đánh mất, sữa chữa lại điều đã hư hao, ăn uống điều đôï
và rời bỏ quyền hành.
Như vậy việc biết điều độ trở thành một trong những yếu
tố quan trọng trong kinh tế học Phật giáo. Theo đạo
Phật, việc tu tập sự điều độ có thể làm cho người ta
thoát khỏi những ham muốn vô tận và bất thiện, và sẽ đưa
đến việc kiểm soát sự rắc rối do sản xuất quá mức và
tiêu dùng quá độ. Có bốn loại điều độ để tu tập theo bốn
nhu yếu ăn, mặc, ở và thuốc men.
Về sự điều độ trong ăn uống, thức ăn được xem là để dùng
vào mục đích gìn giữ thân thể, đạt được những năng lượng
yêu cầu về thể chất và tinh thần để đạt đến đời sống cao
hơn, rõ ràng là không phải để thoả mãn sự ham muốn, cũng
không phải vì để làm đẹp:
Với sự phản tỉnh khôn ngoan, chúng ta khất thực thức ăn
không phải để vui chơi, cũng không phải vì sự quyến rũ
của mùi vị, không phải vì sự hấp dẫn, mà chỉ là để chịu
đựng và tiếp tục kiếp sống này, để chấm dứt sự lo lắng
và để hỗ trợ đời sống phạm hạnh. Nhờ sự tiêu dùng thức
ăn này, chúng ta khắc phục được những cảm giác đau đớn
trước đó vì đói, và để đề phòng cảm giác lo lắng có thể
phát sinh. Như thế chúng ta sống đời không chướng ngại,
không đáng trách và sống trong sự thoải mái.
Về sự điều độ trong việc mặc, chúng ta được khuyên rằng
áo quần được dùng cho mục đích bảo vệ thân thể tránh
thời tiết khắc nghiệt, để giữ thân thể khoẻ mạnh và che
đậy những phần riêng tư. Nó không được dùng cho mục đích
sắc đẹp. Kinh dạy rằng:
Phản tỉnh khôn ngoan, chúng ta sử dụng y áo để bảo vệ
thân khỏi lạnh, nóng, khỏi tiếp xúc với những con mòng,
con muỗi, gió, ánh mặt trời và loài côn trùng, và chỉ có
mục đích che dấu phần thân thể riêng tư.
Về vấn đề điều độ chỗ ở, kinh cho là việc sử dụng chỗ ở
để phòng những hiểm hoạ về khí hậu và để hưởng sự ẩn
dật, trong khi dùng những nhu yếu thuốc men là để bảo vệ
khỏi những cảm giác đau đớn.
Vào những ngày trai giới, người cư sĩ Phật tử cũng tu
tập đời sống xuất gia gồm có việc ăn một lần vào buổi
trưa, để dồn thời gian cho việc thiền định và tu tập lời
Phật dạy. Ơû đây nên lưu ý rằng sự tu tập bốn sự điều độ
trên đây mở ra cho tất cả những ai nỗ lực vì an lạc và
hạnh phúc của chính họ. Theo tinh thần của sự điều độ,
người ta cho rằng những giáo huấn của Đức Phật về kinh
tế học có thể được lập thành công thức như sau: “hưởng
hạnh phú tối đa với tài sản tối thiểu.” Nó cho thấy sự
tiêu dùng thích đáng và khôn ngoan có quan hệ lớn đến
phẩm chất đời sống kể cả sự tốt đẹp và đạo đức của cá
nhân và xã hội.
6. SỰ NGHÈO KHỔ VÀ RỐI LOẠN XÃ HỘI
Có hai giả thuyết chính về nguồn gốc sự tăng gia rối
loạn xã hội (dhana) theo như kinh điển nhà Phật đã nói,
đó là lý thuyết rối loạn xã hội do tư hữu và lý thuyết
rối loạn xã hội do nghèo khổ (daliddiya). Với lý thuyết
thứ nhất, kinh Agga((a cho rằng sự suy đồi của con người
xuất hiện vào giai đoạn có sự nghèo khổ của người dân
cùng với hậu quả của sự làm biếng, tham lam (ta(h()
tiêu dùng không hợp pháp, và chủ nghĩa cá nhân (atta)
bắt đầu. Vì thiếu nỗ lực chính đáng để kiếm sống, sanh
ra do sự tham lam thủ đắc nhiều tài sản hơn, con người
sanh ra trộm cắp, lừa gạt, bạo hành và điều này mang lại
sự bất ổn và rối loạn xã hội. Để mang đến công bằng, an
ninh và hạnh phúc xã hội, người dân chọn ra một người
xứng đáng nhất, về thể chất, đạo đức và trí tuệ để làm
vua (mah(sammata), vị vua này cai trị dân đúng theo
chánh pháp (dhammena jane ra(jet(ti r(j(). Mặt khác,
kinh Cakkavatthis(han(da Sutta xem sự nghèo khổ là
điều kiện chính phát sinh ra những tội ác và rối
loạn xã hội. Như vậy theo hai thuyết này, sự nghèo khổ
và tham lam của cải bằng những phương tiện bất hợp pháp
hay không chánh đáng góp phần làm cho xã hội xấu ác và
làm suy sụp đất nước. Đặt vấn đề một cách khác, sự ổn
định kinh tế và đạo đức cá nhân là rất cần thiết để mang
lại một xã hội tốt đẹp và lành mạnh.
Trong “Bài pháp về nợ nần,” Đức Phật không khuyến
khích sự nghèo khổ: “sự nghèo khổ của người dân là
sự đau khổ trong thế giới này” bởi vì người ghèo ít có
cơ hội so với người khác về mặt quan hệ xã hội, và họ có
thể sống trong cảnh cực khổ, khó khăn và nợ nần. Cũng
trong bài pháp này, Đức Phật cho rằng “đau khổ thay! sự
nghèo nàn và nợ nần.”
Theo lý duyên sinh, học thuyết cho rằng mọi điều trên
thế gian này đều có nguyên nhân và điều kiện của nó, thì
tội phạm như trộm cắp gây ra do ý định xấu ác (akusala
cetan() và có sự nghèo khó (daliddiya) làm trợ duyên.
Nói cách khác, với khuynh hướng bất thiện những kẻ không
có nhu cầu căn bản của cuộc sống sinh ra trộm cắp. Như
trong kinh Cakkavatthis(han(da, đã chỉ ra, khi sự nghèo
khó trở nên đầy dãy trong xã hội do sự phân phối sai
hàng hoá, của cải và tài nguyên, rõ ràng nó làm mục nát
cấu trúc xã hội, phá huỷ đạo đức của xã hội, làm gia
tăng tội phạm và bạo hành, và cuối cùng đưa đất nước đến
một cuộc chiến tranh trên quy mô lớn giữa người có của
và người không có. Kinh ghi rằng:
Như vậy, do việc không cấp tài sản cho người thiếu thốn,
sự nghèo khó tăng nhiều, từ sự gia tăng nghèo khó này sẽ
làm gia tăng việc trộm cắp, từ việc trộm cắp gia tăng
việc dùng khí giới, và từ việc gia tăng sử dụng khí
giới, việc cướp đoạt sinh mạng người khác gia tăng, và
từ sự gia tăng sát hại đó tuổi thọ con người giảm xuống.
Sắc đẹp giảm xuống, con cái của những người có tuổi thọ
tám mươi ngàn năm chỉ còn sống đến bốn mươi ngàn năm…
Như vậy do việc hàng hoá không được ban ra… sự nói dối…
nói điều ác… sự vô đạo đức … nói lời nhục mạ … câu
chuyện vu vơ… sự tham lam phóng đảng, và tính dâm đảng
đồi truỵ… cho đến cuối cùng là thiếu tình thương con cái
và sự mộ đạo, và thiếu sự thăm hỏi đối với người trưởng
tộc gia tăng… trong số những con người như thế xuất hiện
mười bài học đạo đức trong việc xử thế sẽ cùng biến mất,
tiếp đó mười bài học về hoạt động phi đạo đức sẽ vô cùng
phát triển, sẽ không có một lời đạo đức nào giữa con
người như thế và càng ít những con người đạo đức hơn
nữa. Giữa những người như thế, kẻ nào thiếu tình cảm con
cái và sự mộ đạo, và không có chút tôn trọng đối với
người trưởng tộc – đó là những người đáng để tôn trọng
và tán thán - thế giới sẽ rơi vào chỗ rối loạn… Giữa
những con người như thế sự oán cừu sâu sắc lẫn nhau là
lẽ thường, sân hận dữ dội, những tư tưởng phiền não sẽ
xuất hiện, thậm chí như con muốn giết mẹ, mẹ muốn giết
con, con muốn giết cha, cha muốn giết con. Giữa những
người như vậy sẽ sinh ra một giai đoạn đấu kiếm bảy
ngày, trong suốt thời gian đó họ nhìn nhau như nhìn
những con dã thú, kiếm bén sẽ xuất hiện nơi tay, và ý
nghĩ “đây là một dã thú, đây là một dã thú” sẽ tước đi
mạng sống của nhau bằng thanh kiếm của họ.
Theo nhận xét trên của Đức Phật, sự nghèo khó là
nguyên nhân đầu tiên mang đến suy đồi đạo đức dẫn đến sự
rối loạn trật tự và tội phạm xã hội. Giai cấp lãnh đạo
có trách nhiệm về sự gia tăng nghèo khó, nó là mầm móng
của tội phạm và rối loạn xã hội. Điều này cho thấy sự
bất bình đẳng về kinh tế giữa các cá nhân có ảnh hưởng
đến sự rối loạn và xung đột xã hội, như nói dối, nói lời
độc ác, nói lời nhục mạ, tham lam và sân hận, hay nói
vắn tắt là sự suy đồi xã hội. Nó cũng minh hoạ cho cách
nó tàn phá những giá trị và tín ngưỡng truyền thống lâu
đời, cách nó nhen nhóm lòng ghen tuông, sân hận và bạo
hành, và cách nó làm cho con người sát hại lẫn nhau.
Kinh nhấn mạnh vào một điểm là toàn bộ bức tranh nghèo
khó, nói dối, trộm cắp, ghen tuông, sân hận và bạo hành
trong bất kỳ xã hội nào cũng đều do sự lơ là của nhà
lãnh đạo trong việc cung cấp sự hỗ trợ kinh tế vững ổn
cho người nghèo. Sự vững vàng kinh tế là một yếu tố đầu
tiên chịu trách nhiệm cho sự vững mạnh của đất nước.
Điểm quan trọng ở đây là an ninh chính trị trở thành
hàng thứ yếu đứng sau sự vững ổn kinh tế quốc gia.
Kinh K((adanta nhấn mạnh trách nhiệm của nhà
lãnh đạo đối với sự gia tăng nghèo nàn và rối loạn trật
tự xã hội. Kinh đề nghị rằng thay vì dâng cúng tế lễ
lãng phí để củng cố sự an lạc của nhà vua và đất nước
theo những cung cách của đạo bà-la-môn trước thời kỳ Đức
Phật, nhà vua nên cung cấp sự hỗ trợ kinh tế thích đáng
lẫn an ninh đầy đủ cho sự an lạc và hạnh phúc của quần
chúng. Như kinh cho thấy, sự nghèo khó phát sanh đầu
tiên do sự thất nghiệp đưa đến biến động xã hội và tội
phạm. Trong tình huống này, toàn bộ đất nước bị bọn thổ
phỉ quấy rối và cướp phá. Việc đi lại trên đường trở nên
không an toàn cho tài sản và an ninh cá nhân. Vì sợ hãi
do sự mất an ninh đó người dân sống trong lo âu. Kinh mô
tả rằng khi nhà lãnh đạo không cung cấp chương trình
phát triển kinh tế có định hướng kết quả tốt đẹp, hoặc
không quan tâm đến kế hoạch công ăn việc làm dẫn đến sự
an lạc cho người dân, thì sự rối loạn và xung đột xã hội
sẽ xuất hiện. Trong một tình huống thuộc loại này, việc
đặt ra hình phạt thường được nhà lãnh đạo chấp nhận
không còn là biện pháp chữa trị hữu hiệu để ngăn ngừa
tội phạm phát sinh hoặc làm ngừng lại sự bất ổn xã hội.
Kinh nói rằng:
Tôi sẽ nhanh chóng làm dừng lại cơn dịch cướp bốc này
bằng sự hành hình và bỏ tù hay bằng sự tịch thu, đe doạ
và trục xuất.
Nhưng làm như vậy chẳng được xem là biện pháp thành
công. Khi kẻ trộm cắp do nghèo khổ nghe được thái độ mới
mẻ của nhà vua đối với kẻ trộm cắp, họ liền tự trang bị
vũ khí bằng những lưỡi kiếm và bắt đầu cướp phá làng mạc
và thị trấn, cướp bóc của cải. Bạo lực bắt đầu tràn lan
và điều này đến phiên nó đưa dân chúng đến những xấu ác
về xã hội và đạo đức.
Điểm đáng lưu ý kinh đưa ra là để diệt trừ tội phạm và
những hành động chống phá xã hội của những người bị áp
lực của cái nghèo và để mang hạnh phúc lại cho người dân
cùng phát triển đất nước, nhà lãnh đạo nên cung cấp
những cơ hội kinh tế cho người nghèo:
Bây giờ có một phương pháp được chấp nhận để làm ngưng
sự rối loạn này. Đối với những người trong vương quốc
tham gia việc canh tác mùa màng và chăn nuôi gia súc,
hãy để nhà vua phân phối ngũ cốc và cỏ khô. Đối với
những người phục vụ cho chính phủ, nên quy định tiền
lương và lương thực để sống cho phù hợp. Khi những người
này theo mỗi công việc của họ, sẽ không còn làm hại
vương quốc, thu nhập hàng năm của nhà vua sẽ rất lớn,
đất nước sẽ yên ổn và hoà bình; dân chúng hài lòng nhau
và hạnh phúc để cho trẻ con của họ nhảy nhót trong tay,
sẽ sống trong nhà mà không cần đóng cửa.
Kế hoạch đúng đắn có thể dập tắt những hoạt động
phi pháp và mang lại một giải pháp hoà bình, an ninh cho
người dân trong đất nước, có thể được diễn tả như sau:
(i) Nông dân và người làm nghề nông nghiệp nên được cấp
cho những phương tiện thiết yếu như hạt giống, phân bón,
trâu bò và những dụng cụ cần thiết cho nghề nông, như
vậy xuất phẩm sẽ nhiều hơn với phẩm chất cao sẽ được sản
xuất.
(ii) Nhà buôn và doanh nhân nên được cung cấp vốn liếng
chủ yếu để họ có thể tiến tới việc đầu tư có kết quả
hơn.
(iii) Nhân viên nhà nước hay những người phục vụ trong
chánh phủ nên được trả lương thích đáng để diệt bớt
những việc lạm dụng chức quyền.
(iv) Những người khó khăn tài chánh nên được miễn thuế
để họ có thể nhân cơ hội này mà tăng tiến công việc của
họ.
Như kinh đã nói rõ, chỉ cần một điều khoản khôn ngoan và
thích đáng về những cơ hội kinh tế, kết hợp với sự giúp
đỡ có kế hoạch tốt của nhà nước và những nỗ lực cá nhân,
nhà lãnh đạo có thể hoàn thành được bổn phận của mình để
làm giảm bơt sự nghèo khổ, mang lại hoà bình và an lạc
cho người dân, mà không phát sinh ra những loại tội ác
xã hội nào hay hình phạt như Ariyasena đã chỉ ra một
cách đúng đắn:
Kế hoạch kinh tế được đề xuất trong kinh
K((adanta-suttanta nhấn mạnh vào sự cần thiết kết hợp
sáng kiến cá nhân và sự khích lệ cùng với sự giám sát
của nhà nước về sự an lạc thật sự của người dân, bảo đảm
tự do cá nhân và công bằng xã hội.
Điều được chỉ ra ở đây là nhà nước nên cấp phát tư bản
cần thiết cho mục đích này, nhưng không nên dùng như sự
trợ cấp thất nghiệp cho việc tiêu dùng hàng ngày. Kinh
dạy chúng ta rằng bất cứ hành vi nào không có lòng từ
thiện sẽ không phải là biện pháp hữu hiệu để giải quyết
vấn đề ngheo đói. Thay vào đó, nó có thể mang đến sự gia
tăng bất ổn và tội phạm xã hội. Điều này được mô tả rõ
trong kinh Cakkavattis(han(da. Khi nhà vua để ý là người
dân vì bị áp lực của cái nghèo nên sanh ra trộm cắp và
tội phạm, ngài ban phát cho họ tiền bạc, hàng hoá và dạy
họ kiếm sống bằng cách kinh doanh chân chính, để họ có
thể tự hỗ trợ họ và gia đình cũng như tham gia vào những
hoạt động phúc lợi xã hội. Ngược lại với lòng tin tốt
đẹp của nhà vua, hành động từ bi của ngài không mang lại
kết quả như mong đợi. Hơn nữa, khi những người khôn khéo
và biếng nhác nghe được điều này họ bắt đầu dấn thân vào
những hoạt động như thế để dễ dàng có tiền. Nạn trộm cắp
chỉ có gia tăng và tình huống không còn kiểm soát được.
Điều này cho thấy rằng hành vi từ bi hay lòng từ thiện
không có trí tuệ được chứng tỏ là mang đến những kết quả
tai hại thay vì giải quyết được những rắc rối. Một điểm
quan trọng nữa được lưu ý là sự phân phối đồng đều của
cải một mình nó không giải quyết được những vấn đề xã
hội và kinh tế. Một lời khuyên khôn ngoan được dâng lên
nhà vua, là những người tham gia công việc thương mại
nên được hỗ trợ tài chánh (p(bhata). Giao công việc cho
người dân nên được thực hiện theo một kế hoạch thích
đáng có liên quan đến cấu trúc kinh tế quốc gia. Ban
phát việc làm nên thích hợp với khuynh hướng, khả năng
và tài khéo của người thợ. Chỉ như thế sự giúp đỡ và ban
phát của nhà nước sẽ có kết quả và góp phần vào việc
tiến bộ kinh tế của cá nhân và quốc gia. Nói tóm lại, để
chấm dứt một cách chắc chắn sự bạo hành và tội phạm, xây
dựng một xã hội hạnh phúc và hoà bình kinh dạy rằng hình
phạt nên được bổ sung bằng cách bảo đảm công ăn việc làm
sinh lợi cho người nghèo.
7. SỰ THỦ ĐẮC CHÂN CHÁNH CỦA CẢI VÀ HẠNH PHÚC
Trong các kinh Phật giáo nguyên thuỷ sự thủ đắc và gia
tăng của cải bằng những con đường chân chính và hợp pháp
được khuyến khích, vì nó cũng quan trọng như việc trau
dồi đạo đức. Một người không hề nghĩ đến việc thủ đắc
của cải được so sánh với người mù, trong khi một người
không nghĩ đến gì khác ngoài việc có tiền bạc là một kẻ
chột mắt. Chỉ người nào nghĩ đến việc thủ đắc và làm gia
tăng của cải như cách anh ta trau dồi việc thiện và
tránh việc ác mới được tán thán là người có đủ hai mắt.
Chúng ta còn được đề nghị nên tránh xa người mù cũng như
kẻ chột mắt mà của cải của họ có được bằng cách trộm
cắp, lường gạt và những phương tiện bạo lực, và nên kết
giao với người có đủ hai mắt, là người được coi như tốt
nhất trong loài người.
Sự thủ đắc chân chánh của cải được kinh Phật xem là
chánh mạng (samm- (j(va). Nó chẳng những
quan trọng cho lợi ích con người và xã hội mà còn là
một trong tám yếu tố xây dựng nên con đường đưa đến giác
ngộ. Chánh mạng là những nghề nghiệp hợp pháp, phát sinh
từ nỗ lực chân chánh của con người và về mặt đạo đức
không làm tổn hại đến sự an lạc hạnh phúc của mình và
người khác. Tà mạng là những nghề nghiệp mang đến hậu
quả tổn hại xã hội, bao gồm bốn loại buôn bán: khí giới
(sattha va(ijj(), con người (satta va(ijj(), súc vật
(ma(sa va(ijj() và rượu hay thuốc độc (visa va(ijj().
Trong tình cảnh hiện nay công việc quảng cáo cho những
nghề này hay bất cứ nghề gì khuyến khích hay phát sinh
tham, sân, si và bạo lực đều được coi là tà mạng. Trong
một kinh khác, tà mạng được định nghĩa là những nghề dựa
vào hay có liên hệ đến sự lường gạt, lừa phỉnh, nói cạnh
nói khoé và giả vờ đạo đức hay những nghề nghiệp bắt
phải gian xảo và trộm cắp.
Đối với Đức Phật, có bốn phương cách liên quan đến của
cải mà con người đáng bị lên án: (i) có của cải bằng
nghề bất lương (như gạt gẫm, trộm cắp, v.v…) hay những
cách bất hợp pháp, (ii) trở thành nô lệ cho của cải,
(iii) bủn xỉn và không trang trải của cải vì người khác
hay vì lợi ích và sự an lạc của người khác, và (iv) dùng
của cải như một phương tiện gây tổn hại và đau khổ cho
người. Nói cách khác, đó là những thái độ bất thiện đối
với của cải chứ không phải chính của cải như tham lam
(lobha), chiếm đoạt, bủn xỉn (macchariya), chấp thủ và
bám víu (up(d(na) để tạo ra rắc rối.
Kinh Phật còn khẳng định rằng sự thành công trong nghề
nghiệp đòi hỏi nhiều điều kiện đạo đức khác, như bản
kinh sau đây mô tả:
(i) Có tính chuyên cần (u((h(nasampad(). Có nghĩa là
người ta nên khéo léo và siêng năng trong công việc. Nếu
làm nghề nông, thương mại, chăn nuôi gia súc, binh
nghiệp hay nghệ thuật, người ta chuyên cần, làm hết sức
mình và có tài khéo. Không lười biếng trong công việc mà
phải thông minh và ưa thích. Biết cách quản lý công
việc, tận tuỵ và có trách nhiệm.
(ii) Có sự giữ gìn ((rakkhasampad(). Tức là nên chăm sóc
đến của cải, là kết quả của mồ hôi và sức lao động, có
được một cách chân chánh, để không đánh mất nó yêu cầu
của nhà vua, bị kẻ trộm cắp lấy đi, bị lửa đốt chấy, bị
nước cuốn trôi mất hay mất do những người thừa kế xử lý
không tốt.
(iii) Kết giao với những người tốt và đạo đức
(kaly((amittat(). Tức là học hỏi và bắt chước những phẩm
chất tốt, như tin tưởng, đạo đức, rộng lượng và trí tuệ
của người có đạo đức và kẻ trí.
(iv) Có một cuộc sống quân bình (samaj(vit(). Có nghĩa
là nên kiềm chế mình trong sự điều độ, không phung phí
thái quá cũng không bủn xỉn. Không bị quá phấn chấn bởi
thành công cũng như buồn bả vì thất bại. Biết và nỗ lực
làm gia tăng của cải. Tránh cả việc chi tiêu vượt qua
lợi tức và việc rào chặt của cải. Đồng thời cũng nên
tránh bốn cách làm suy sụp của cải, đó là: sự dâm dục
quá độ, rượu chè, bài bạc, và kết giao với kẻ xấu.
Là đạo từ bi, Phật giáo khuyến khích sự rộng lượng, từ
thiện và mọi hoạt động chân chánh vì xã hội. Do đó việc
chia xẻ quà biếu với người khác được coi như đóng một
vai trò trong đời sống chánh mạng tích cực của người
theo Phật.
Này các thầy tỳ-kheo, nếu người ta hiểu giống Như Lai
hiểu, những kết quả của việc chia xẻ quà tặng, họ sẽ
không hưởng dụng mà không chia xẻ cho kẻ khác, cũng
không để sự ô nhiễm của lòng bủn xỉn ám ảnh tâm trí họ.
Thậm chí nếu họ còn một mẫu thức ăn cuối cùng họ cũng sẽ
không hưởng dụng một mình mà không chia xẻ nó nếu có một
người nào đó để cùng chia xẻ với họ.
Từ nhiều nguồn kinh điển Phật giáo, chúng ta thấy rằng
những giúp đỡ về tinh thần cũng giúp thêm vào sự thành
công của đời sống. Những việc này có thể được sắp xếp
theo thứ tự sau:
(i) chuyên cần và siêng năng với bổn phận và công việc.
(ii) Cư ngụ ở nơi tốt đẹp và tiện lợi, và kết giao với
người đạo đức và có trí.
(iii) Tin tưởng nơi Phật, pháp, tăng và giữ giới.
(iv) Tránh rượu và ma tuý, lãng vãng ở đường phố vào
những giờ giấc không thích hợp, tránh đến những hội chợ,
bài bạc kết giao với những người bạn xấu và thói quen
biếng nhác.
Những phẩm chất đạo đức và tâm linh này góp phần vào sự
thành công của chánh mạng.
8. SỰ QUẢN LÝ KINH TẾ GIA ĐÌNH
Đức Phật ý thức nhiều hơn về sự cải thiện phẩm chất đời
sống của người dân. Sự quản lý sai lầm lợi tức kiếm được
sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế và nghèo đói. Đức Phật
chủ trương đời sống quân bình giữa tiền kiếm được bằng
phương tiện chân chánh và những chi tiêu của con người.
Ở đây một thành viên trong gia đình biết rõ lợi tức cũng
như sự chi tiêu của cải đưa đến một đời sống quân bình,
không phấn khích hay chán nãn thái quá. Họ nghĩ: “lợi
tức của tôi như vậy sẽ vượt quá sự chi tiêu. Sự chi tiêu
của tôi sẽ không vượt quá lợi tức. Cũng như một người
cầm cán cân hay người học việc biết khi cầm cân, hoặc
chúc xuống nhiều quá hoặc làm nghiêng lệch nhiều quá;
cũng vậy một người trong gia đình biết lợi tức… và vượt
quá lợi tức.
Lời khuyên của Đức Phật về việc quản lý kinh tế gia đình
dựa trên nhiều khía cạnh khác của đời sống, gồm những
chi tiêu hàng ngày, tiết kiệm gửi ngân hàng và đầu tư.
Theo phương thức này, lợi tức của một người nên được
chia thành bốn phần: (i) một phần tư chi tiêu hàng
ngày, (ii) một phần tư được gửi tiết kiệm để dự bị
những lúc cần thiết hay khẩn cấp, và (iii-iv) một nửa
để kinh doanh và đầu tư sanh lời. Đức Phật đã đưa ra ý
nghĩ cho việc đầu tư khôn ngoan một nửa số lợi tức làm
nguồn chủ yếu để bảo trì và làm gia tăng của cải. Một
phần tư lợi tức để chi tiêu hàng ngày sẽ gồm những chi
tiêu cá nhân và từ thiện xã hội, giúp cho con người khỏi
khắc khe và bủn xỉn vô ích, trong khi một phần tư lợi
tức khác để tiết kiệm ở ngân hàng sẽ giúp khỏi khó khăn
trong những thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Ở đây nên lưu ý
rằng việc từ thiện (d(na) nên cho người nghèo và đáng
được cho vì từ thiện cho những người lừa đảo hay mọi
loại chay lười được xem là khuyến khích cho những lực
lượng xấu ác. Sự đầu tư được nhấn mạnh ở đây cho thấy là
tiền để yên sẽ không có một hiệu quả phát triển kinh tế
nào cho cá nhân và xã hội, sự đầu tư thích đáng khôn
ngoan là nguồn duy nhất làm gia tăng của cải. Phương
thức này giúp xây dựng và phát triển một hệ thống kinh
tế tốt đẹp đối với cá nhân và xã hội.
Việc sử dụng của cải một cách thích đáng có thể làm cho
đời sống một ngươi trở nên quân bình thêm. Việc sử dụng
của cải được gọi là thích đáng sẽ đưa đến an lạc cho cá
nhân và xã hội. Những sử dụng thích đáng này gồm có: (i)
bảo vệ của cải hợp pháp của mình khỏi mất mát hay tổn
hại
(ii) cúng dường cho tăng ni,
(iii) tặng cho những người họ hàng, bà con chết và người
nghèo, và
(iv) mang lại hạnh phúc cho chính mình, cho gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp, người làm công và tôi tớ.
“Do sử dụng của cải đưa đến hạnh phúc bây giờ và ở đây
Do bố thí đưa đến hạnh phúc trong tương lai
Vì phung phí của cải mà không sử dụng hay vất nó đi
Chỉ còn có đau khổ. Làm sao có thể hạnh phúc? (RPR.
315).
Đức Phật cũng khuyên các đệ tử cư sĩ của Ngài về cách
làm thế nào để làm phát sinh của cải và sử dụng lợi tức
của họ một cách khôn ngoan, có kết quả, và cách xử lý
tốt của cải.
Việc phát sinh của cải xứng đáng được tán thán khi phù
hợp với đạo đức, luật pháp và không có bạo lực. Việc
tiêu dùng sản phẩm được làm ra xứng đáng tán thán khi sử
dụng nó để được thoải mái và hạnh phúc cho chính mình,
sử dụng nó cho sự bố thí từ thiện hoặc bất cứ việc gì
liên quan đến những kết quả có lợi về đạo đức. Thái độ
con người đối với của cải của họ đáng tán thán nếu người
ta không biến thành nô lệ cho nó hay bám víu vào nó,
thậm chí nếu của cải được làm ra theo những cách hợp
pháp, và dùng nó cho sự ích lợi của mình và người khác.
9. HAI LOẠI CỦA CẢI: VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN
Như đã nói trên, một tỳ-kheo không quan tâm đến sự tiến
bộ vật chất mà phải quan tâm đến tiến bộ tinh thần, cuộc
sống lý tưởng của họ sẽ phù hợp với con đường đưa đến
giải thoát khỏi chấp thủ và đau khổ, và không phải đưa
đến sự tích luỹ của cải. Một cư sĩ Phật tử thì khác hơn.
Họ phải làm việc vất vả với phương tiện hợp pháp và sự
chân chánh để được của cải để thực hiện những công việc
tốt đẹp cho chính họ cũng như cho người khác. Nhưng họ
cũng được khuyên không nên xem của cải là một cứu cánh.
Giống như hai mặt của một đồng tiền, của cải có những
giới hạn của nó:
Không phải của cải cũng không phải danh tiếng, mà chính
là những việc làm tốt đẹp, tri thức, những phẩm chất,
đạo đức và một đời sống lý tưởng mới là những tiêu chuẩn
cho sự trong sạch của con người.
Đoạn kinh trên dạy chúng ta rằng mặc dù của cải là một
yếu tố quan trọng cho việc có được một cuộc sống tốt,
nhưng nó không phải là cái chí thiện của đời sống. Đời
sống đạo đức trong đạo Phật luôn luôn có nghĩa là một
đời sống tốt, và một đời sống tốt cũng có nghĩa là một
đời sống đạo đức và trí tuệ, và nó có thể hoặc không thể
đi kèm với của cải vật chất. Xem đời sống đạo đức là một
đời sống tốt, đạo Phật muốn chỉ ra sự thật là đạo đức,
giới luật và tri thức là những nền tảng của đời sống
tốt. Toàn thế giới có thể được chứng mình rằng có nhiều
người trong đời sở hữu nhiều tiện ích và hưởng thụ sự
tiện nghi xa hoa, nhưng vẫn không là những người hạnh
phúc trong đời này, do vì thiếu trí tuệ để chứng ngộ ba
sự thật không thể phủ nhận được trong thế giới vật chất
này là: tất cả các pháp duyên sinh đều vô thường, tất cả
các pháp duyên sinh đều đau khổ và tất cả mọi hiện tượng
đều hư huyễn. Đoạn kinh sau đây mô tả sự thật cay đắng
này:
Ta trông thấy con người giàu có trong thế giới này: thay
vì chia xẻ của cải cho chung quanh, họ lại làm nô lệ
cho nó; họ cất dấu nó và càng ngày càng đòi hỏi sự thoã
mãn cảm giác.
Những nhà vua chinh phục toàn bộ đất đai, cai trị vương
quốc trải dài từ đại dương này qua đại dương kia, song
họ không hài lòng với bờ bên đây – Họ cũng muốn bờ bên
kia. Cả vua chúa và người dân thường đều phải chết giữa
những ham muốn, không bao giờ đạt đến chỗ kết thúc cho
ước muốn và tham lam. Với lòng tham không bao giờ đầy,
họ vất bỏ thân thể. Những ham muốn đối với đối tượng cảm
giác trong đời này không bao giờ được thoả mãn.
Họ hàng xoả tóc và than khóc vì người thân yêu của họ
chết đi, họ than: ôi, người thân yêu của chúng ta đã ra
đi khỏi chúng ta.” Họ quấn thi hài trong tấm vải, đặt nó
trên giàn hoả và thiêu nó ra tro; người đạo tỳ đẩy những
chiếc que khêu cái xác đến khi nó cháy hết. Tất cả những
thứ mà người chết có thể mang theo chỉ là miếng vải đơn
độc, mọi của cải đều để lại sau lưng.
Khi giờ chết đến, không một ai hoặc họ hàng hoặc bạn bè
có thể ngăn chận trước điều không thể tránh khỏi đó. Tài
sản được những người thừa kế mang đi trong khi người
chết đi theo nghiệp của họ. Khi giờ chết đến, bạn không
thể mang theo một vật gì, thậm chí con cái, vợ chồng,
của cải hay đất đai. Tuổi thọ không thể có được do của
cải, và tuổi già không thể đút lót mà có được. Người trí
nói rằng cuộc đời ngắn ngủi, không chắc chắn và thường
thay đổi.
Cả người giàu và người nghèo đều có kinh nghiệm tiếp xúc
với lãnh vực cảm giác. Cả người trí lẫn kẻ ngu cũng vậy,
nhưng người ngu vì thiếu trí tuệ nên bị cảm giác ngự trị
và lừa gạt. Còn đối với người trí, mặc dù họ có kinh qua
sự tiếp xúc đó, nhưng họ không bị khổ sở. Như vậy trí
tuệ tốt hơn là của cải, vì nó đưa đến mục tiêu cao cả
trong đời này.
Điều mà đoạn kinh này đưa ra ở đây là do bản chất của
chúng, của cải vật chất là những pháp duyên sinh không
thể bảo đảm sự thoả mạn đối với vật sở hữu, vì nó không
chắc chắn và vô thường. Bám chấp vào nó hay nô lệ cho nó
sẽ đem đến ràng buộc và đau khổ. Rõ ràng là của cải có
thể trở thành một tài nguyên để làm lợi ích cho xã hội
đối với người trí, mặt khác nó cũng có thể trở thành
chướng ngại đối với sự phát triển của kẻ ngu vì họ trở
thành nô lệ cho nó. Đức Phật minh họa tư tưởng này như
sau: “của cải làm huỷ hoại kẻ ngu nhưng không phá hoại
được người tìm kiếm niết-bàn.” Nói cách khác, của cải và
tài sản vật chất không bảo đảm cho một cuộc sống tốt hay
cuộc sống hạnh phúc, về mặt đạo đức và tâm linh. Chính
trí tuệ (pa((() và đạo đức (giới luật, s(la) mới mang
đến đời sống đạo đức tốt đẹp cho con người. Thêm vào đó,
bài pháp tiếp tục cho rằng nhận xét của Đức Phật về của
cải vật chất không khác gì với nhận xét về kinh nghiệm
cảm giác. Kalupahana chỉ rõ rằng: “khi người ta nói rằng
sự ràng buộc và đau khổ là kết quả của cách chúng ta
nhận thức và quan niệm về thế giới, nó không có nghĩa là
chúng ta phải tiêu diệt hai nguồn tri thức này và chấp
nhận cái trực giác không có cảm giác và không có khái
niệm. Giải pháp nằm trong việc dập tắt cái khía cạnh đó
của nhận thức và khái niệm, nghĩa là, cái ám ảnh gây ra
sự ràng buộc và đau khổ.” Một điều cần ghi nhớ là đoạn
này không có một chút ý gì cho rằng của cải vật chất tự
thân nó là một điều xấu ác. Đúng hơn, chính sự thủ chấp
hay thái độ sai lầm đối với của cải vật chất đã tạo ra
rắc rối.
Vì lý do của cải vật chất không bảo đảm được cái hạnh
phúc chân thực và an lạc cho loài người, Đức Phật kêu
gọi chúng ta nên nỗ lực cho của cải tinh thần tức là của
cải cao thượng (ariyadhana, thất thánh tài), nó cao hơn
của cải vật chất. Có bảy thứ của cải tinh thần hay của
cải cao cả, đó là tín (sadha), giới (s(la), ý thức
(hiri), tàm (ottappa), đa văn (b(husacca), cao thượng
(c(ga) và trí tuệ (pa((().Để chọn lựa giữa của cải vật
chất và của cải tinh thần, chúng ta được khuyên nên chọn
cái sau bởi vì nó đưa đến an lạc và hạnh phúc thật sự
cho mình và người khác.
Thật vậy, một đằng là con đường đưa đến tài sản vật chất
và đằng kia là con đường con đường dẫn đến niết-bàn.
Hoàn toàn hiểu biết điều này, vị tỳ-kheo sẽ không vui
thú trong của cải có được mà đặt mình trong chốn tịch
lặng (để thực chứng niết-bàn).
10. KẾT LUẬN
Nghiên cứu lời Phật dạy về kinh tế học chúng ta thấy
rằng đạo Phật không phải là một tôn giáo khắc khe vì
kinh điển nhà Phật đưa ra sự hướng dẫn cho hàng cư sĩ về
hoạt động. Kinh điển đạo Phật chấp nhận sự tiện nghi vật
chất bằng những nỗ lực chân chánh đóng một vai trò quan
trọng trong việc mang lại một đời sống tốt đẹp và hạnh
phúc. Mặt khác, đức Phật không phải là một tôn giáo
khuyến khích một đời sống phóng dật trong lạc thú vì nó
sẽ đưa đến đau khổ thêm. Điều quan trọng ở đây là mặc dù
của cải vật chất có giá trị nhưng đạo Phật không coi nó
là cái chí thiện trong đời, như chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa tư bản đã sai lầm. Của cải quan trọng hàng thứ yếu
nếu và chỉ nếu nó đưa đến an lạc, hạnh phúc và sự phát
triển đạo đức cho mình và cho người.
Khi cho rằng “nghèo nàn là sự đau khổ trên đời này”
đạo Phật không phán đoán các giá trị con người hay một
quốc gia qua số lượng của cải vật chất, cũng không cho
của cải là cuộc sống tốt đẹp. Khác với một số lý thuyết
kinh tế hiện đại, đạo Phật không lên án sự tích luỹ của
cải, vì đạo Phật thấy rõ của cải tự thân nó không phải
là một điều xấu. Giá trị đạo đức của tài sản có thể được
phê phán từ đường lối hay phương cách nó được thủ đắc,
và quan trọng hơn nữa là nó được sử dụng vào mục đích
gì. Sự tích luỹ của cải bằng phương tiện bất hợp pháp và
những đường lối phi đạo đức đều không được khuyến khích.
Sử dụng của cải cho mục đích làm tổn hại sự an lạc của
kẻ khác phải bị lên án.
Đức Phật không khuyến khích sự nghèo khó, bởi vì những
người nghèo có thể bận tâm với việc tranh đấu cho sự
sống còn và vì vậy không có thời giờ để hoàn thiện đạo
đức của mình cũng như vì lợi ích cho xã hội. Vĩem nó là
một nguồn gốc có lợi cho sự an lạc xã hội, Đức Phật
khuyên nên tìm kiếm của cải bằng con đường hợp pháp và
lương thiện. Nó nên được sử dụng một cách trí tuệ để làm
những việc thiện và để dự phòng cho sự đau khổ thể
chất. Một điều quan trọng là người sở hữu không nên làm
nô lệ cho của cải vật chất, vì sự chấp thủ vào của cải
tạo ra gánh nặng và ràng buộc.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là ngoài việc
sử dụng của cải như là một nguồn tốt đẹp cho lợi ích xã
hội, con người cũng nên tu tập và nuôi dưỡng của cải
tinh thần vì nó cần thiết cho sự tiến bộ đạo đức và một
đời sống đạo đức thật sự.
A. V. 137. Năm sự phát triển khác là
phát triển lòng tin, giới, từ, bố thí rộng rãi
và trí tuệ.
|