TỔNG TẬP
VĂN
HỌC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
Tập I
=================
Mục
Lục
LỜI ĐẦU
SÁCH
Phật
giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua
những thăng trầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không
ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô
đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
Hiện nay
chúng ta chỉ mới phát hiện một phần rất nhỏ số lượng tư liệu vừa nói và
mới bước đầu nghiên cứu và tìm hiểu một số tác giả và tác phẩm hiện đã
biết tên, nhưng chưa được thực hiện một cách có hệ thống và nghiêm túc. Mà
đối với kho tàng tri thức quý báu đó, chúng ta có trách nhiệm phải bảo
tồn, khai thác và tận dụng một cách triệt để nhằm hổ trợ cho các thế hệ
hiện tại và tương lai, hiểu rõ thêm nguồn gốc và truyền thống của văn hóa
dân tộc, nhằm đóng góp và xây dựng cho xã hội hiện đại chúng ta ngày càng
phát triển và văn minh hơn.
Vì vậy,
để thể hiện nỗ lực và bảo tồn vừa nói, chúng tôi mạnh dạn cho công bố bộ
Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Trước đây cũng từng có một số
công trình tập hợp các tư liệu Phật giáo. Chẳng hạn là giữa thế kỷ thứ
XIX, cụ thể là năm 1856, thiền sư An Thiền đã cho ra đời bộ Đại Nam thiển
uyển truyền đăng tập lục (5 quyển) bao gồm Thiền uyển tập anh làm quyển
thượng, Kế đăng lục của Như Sơn làm quyển nhất, quyển tả và quyển hữu, còn
quyển hạ do chính An Thiền viết. Đến gần giữa thế kỷ XX, thì Tổng hội Phật
giáo Bắc kỳ do các hòa thượng Quang Minh, Thanh Thạnh, Doãn Hài, Thanh
Tích cùng hợp tác với trường Viễn Đông Bác Cổ để cho ra đời bộ Việt Nam
Phật điển tùng san gồm cả thảy 8 quyển, in dập theo các bản in cũ của các
tác phẩm Phật giáo Việt Nam.
Tuy
nhiên, bộ Phật điển tùng san này mắc hai khuyết điểm lớn. Thứ nhất, về
những văn bản in dập lại, người đứng in đã không tiến hành những nghiên
cứu văn bản học đối với các tác phẩm đã in, làm hạn chế độ tin cậy của văn
bản được công bố. Khuyết điểm thứ hai là chỉ in dập lại các văn bản cũ
bằng chữ Hán hoặc chữ quốc âm, mà vào thời điểm ra đời của bộ Phật điển
tùng san, hai loại chữ này đã không còn được phổ biến rộng rãi nữa. Cho
nên, nó đã không gây được tác động lớn trong giới học thuật. Thêm vào đó,
vì những biến động vào năm 1945, bộ Việt Nam Phật điển tùng san chỉ in tới
quyển thứ 8 thì chấm dứt và sau đó không thấy xuất hiện thêm quyển nào
nữa. Ngoài ra, do thuộc loại in dập, sự sắp xếp các tác phẩm in trong bộ
này không dựa trên tiêu chuẩn học thuật và thứ tự tổ chức nào cả. Những
điểm này càng làm hạn chế ảnh hưởng học thuật của bộ sách ấy.
Bộ Tổng
tập văn học Phật giáo Việt Nam của chúng tôi ra đời, do thế, sẽ được thực
hiện theo một số phương châm sau. Thứ nhất, về mặt tổ chức, chúng tôi sắp
xếp các tác phẩm văn học Phật giáo Việt Nam theo niên đại ra đời của các
tác gia, tác phẩm từ khi Phật giáo truyền vào nước ta cho đến thế kỷ XX.
Thứ hai,
về mặt học thuật, bộ Tổng tập này chỉ bao gồm các tác phẩm viết bằng văn
tự khối vuông, tức bao gồm các tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ quốc âm.
Đối với những tác gia sống trong buổi giao thời của việc chuyển từ văn tự
khối vuông qua mẫu tự Latin, nếu tác phẩm chính của họ viết chủ yếu bằng
văn tự khối vuông thì cũng sẽ được đưa vào trong bộ Tổng tập này.
Thứ ba,
những tác phẩm in trong Tổng tập đều do các tác gia Việt Nam thực hiện,
trừ ba dịch tác gia là Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Viên Văn Chuyết Chuyết và Đại Sán
Thạch Liêm. Tỳ Ni Đa Lưu Chi là người Ấn Độ, còn hai vị kia là người Trung
Quốc. Tỳ Ni Đa Lưu Chi đã cùng với người học trò mình là Pháp Hiền thành
lập nên dòng thiền Pháp Vân. Cho nên, vị thiền sư này qua những dịch phẩm
của mình như Phật thuyết tượng đầu tinh xá kinh và Đại thừa phương quảng
tổng trì kinh chắc chắn là có những ảnh hưởng lớn đến việc hình thành hệ
tư tưởng thiền Pháp Vân. Vì vậy, cả hai dịch phẩm này sẽ được chúng tôi
đưa vào phần phụ lục của Tổng tập. Viên Văn Chuyết Chuyết đã sống một thời
gian dài và mất tại nước ta, có viết một tác phẩm ngắn là Bồ đề yếu nghĩa,
chúng tôi cũng cho in vào đây để tiện việc nghiên cứu tác động tư tưởng
của Viên Văn đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam và Phật giáo Việt Nam. Còn
Đại Sán Thạch Liêm có nhiều tác phẩm hơn và được lưu hành rộng rãi trong
giới học thuật Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là bộ Hải ngoại kỷ sự. Cho
nên, để cung cấp tư liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng cho công bố các tác
phẩm của Đại Sán trong bộ Tổng tập này.
Thứ tư,
về tác gia Đại Thừa Đăng, nếu giả thiết của chúng tôi về Đại Thừa Đăng là
Đại Thừa Quang được chấp nhận, thì ta sẽ có một loạt các tác phẩm của thế
kỷ thứ VII hiện biết dưới tên Đại Thừa Quang. Đó là Câu xá luận ký, Đại
thừa bách pháp minh môn luận thuật ký và Duy thức chỉ nguyên. Các tác phẩm
này có thể là do Đại Thừa Đăng viết, nhưng đã lưu hành dưới tên Đại Thừa
Quang. Các tác phẩm này chúng tôi cũng sẽ đưa vào phần phụ lục của Tổng
tập để làm tư liệu nghiên cứu, trong khi chờ đợi sự thẩm định của giới học
giả trong và ngoài nước.
Thứ năm,
đối với từng tác giả, chúng tôi cho nghiên cứu niên đại, cuộc đời và sự
nghiệp của họ; còn đối với các tác phẩm, chúng tôi cho nghiên cứu tình
trạng văn bản, nội dung và niên đại ra đời của chúng. Đồng thời cho phiên
âm nếu viết bằng chữ quốc âm, dịch nghĩa nếu viết bằng chữ Hán, ra tiếng
Việt quốc ngữ.
Thứ sáu,
về mặt in ấn, ngoài việc cho in bản nghiên cứu, phiên âm hoặc dịch nghĩa
từng tác phẩm như vừa nói, chúng tôi đồng thời cho in lại nguyên bản quốc
âm hoặc chữ Hán của chúng, nhằm bảo tồn các bản in quý, và để làm tư liệu
kiểm soát cho những ai muốn tìm hiểu xa hơn. Những nguyên bản Hán và quốc
âm bị thất lạc vào năm 1984, mà chúng tôi đã làm nghiên cứu và phiên âm
hay dịch nghĩa, chúng tôi cũng mạnh dạn cho công bố trong bộ Tổng tập,
trong khi chờ đợi tìm lại chúng và sẽ bổ sung trong tương lai, khi có dịp
tái bản.
Dự kiến
bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam sẽ giới thiệu trên dưới 40 tác gia
của Phật giáo Việt Nam, bắt đầu với Mâu Tử (160-220?) cho đến tác gia cuối
cùng có tác phẩm viết bằng chữ Hán là thiền sư Chân Đạo Chính Thống
(1900-1968). Trong số những tác gia này, họ chủ yếu là các thiền sư. Chỉ
trừ ba tác gia đời Trần là Trần Thái Tông, Tuệ Trung Trần Quốc Tung và
Trần Nhân Tông, một tác gia đời Lê là Lê Thánh Tông, một tác gia đời Tây
Sơn là Ngô Thời Nhiệm và một tác gia thời Nguyễn là Nguyễn Du. Các tác gia
này ngoài Phật giáo ra còn viết về nhiều đề tài khác nhau, song tự bản
thân họ đã xác nhận mình là thiền sư như Trần Nhân Tông hay Ngô Thời
Nhiệm, hoặc tự nhận mình có gắn bó chặt chẽ với Phật giáo qua thơ văn như
Lê Thánh Tông và Nguyễn Du. Chúng tôi do thế đã đưa các tác gia này vào
trong bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, một số tác gia
khác có viết về đề tài liên quan đến Phật giáo Việt nam, và họ có thể là
những Phật tử. Nhưng chúng tôi cũng chưa đưa vào trong bộ Tổng tập này, vì
những tác phẩm ấy chưa chiếm ưu thế trong số lượng tác phẩm của họ. Chẳng
hạn, Đặng Xuân Bản có viết Không Lộ đại thánh sự tích, song vẫn chưa được
đưa vào trong Tổng tập này do việc nó không chiếm ưu thế trong toàn bộ tác
phẩm của ông.
Dưới đây
là bản dự kiến danh sách các tác gia và tác phẩm sẽ công bố trong bộ Tổng
tập văn học Phật giáo Việt Nam này. Đây mới chỉ là một số tác gia và tác
phẩm tiêu biểu mà chúng tôi đã sưu tầm được trong những năm qua. Với Tổng
tập này, chúng tôi cũng chưa đưa vào các bài văn bia và minh trên đá và
chuông đồng, trừ những bài của các tác giả có tác phẩm được in. Những văn
bia chưa được in trong bộ Tổng tập này sẽ được tập hợp và in thành một tập
riêng. Những tác giả có viết các bài tựa và bạt khi in lại các kinh sách
Phật giáo, nhưng không có những tác phẩm khác, thì cũng sẽ được tập hợp và
in thành một tập riêng trong tương lai, trừ những bài tựa và bạt của các
tác giả có tác phẩm in trong Tổng tập này. Số tựa bạt này tuy chưa phát
hiện hết, vẫn được công bố. Nếu trong tương lai có tìm thêm được những tác
gia và tác phẩm mới, chúng tôi sẽ công bố trong phần Bổ di của bộ Tổng
tập.
1- Mâu Tử (160-220)
- Lý
hoặc luận
2-
Khương Tăng Hội (370-450?)
- Lục độ
tập kinh
- Cựu
tạp thí dụ kinh
- An ban
thủ ý kinh chú giải
- Pháp
kính khinh tự
3- Lý
Miểu, Đạo Cao và Pháp Minh
- Sáu lá
thư
4- Kim
Sơn (?1300-1370)
- Thiền
uyển tập anh
- Thánh
đăng ngữ lục
- Cổ
Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
5- Trần
Thái Tông (1208-1277)
- Khóa
hư lục và một số thơ văn khác
6- Tuệ
Trung Trần Quốc Tung (1230-1291)
- Thượng
sĩ ngữ lục
7- Trần
Nhân Tông (1258-1308)
8- Pháp
Loa (1284-1330) và Huyền Quang (1254-1334)
9- Viên
Thái (1400-1460)
- Cổ
Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục
- Phật
thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh
- Phật
thuyết báo phụ mẫu ân trọng kinh
10- Lê
Thánh Tông (1442-1497)
- Thập
giới cô hồn văn
- 29 lá
sớ và các thơ văn khác
11- Lê
Ích Mộc (1460-?)
- Bài
thi trạng nguyên năm 1502
12- Pháp
Tính (1470-1550)
- Ngọc
âm chỉ nam giải nghĩa
- Cổ
Châu Pháp Vân Phật bản hạnh
13- Thọ
Tiên Diễn Khánh (1550-1610)
- Nam
Hải Quan Âm Phật sự tích ca
14- Chân
An Tuệ Tĩnh (?-1711)
- Nam
dược thần hiệu
- Hồng
nghĩa giác tý y thư
- Khóa
hư lục giải nghĩa
15- Minh
Châu Hương Hải (1628-1715)
- Giải
Kim cang kinh
- Giải
Di Đà kinh
- Giải
tâm kinh ngũ chỉ
- Sự lý
dung thông
- Hương
Hải thiền sư ngữ lục
16- Chân
Nguyên Tuệ Đăng (1647-1726)
- Tôn sư
phát sách đăng đàn thọ giới
- Nghênh
sư duyệt định khoa
- Long
thư tịnh độ văn tự
- Long
thư tịnh độ luận bạt hậu tự
- Thánh
đăng ngữ lục hậu bạt
- Kiến
tính thành Phật lục
- Tịnh
độ yếu nghĩa
- Ngộ
đạo nhân duyên
- Thiền
tịch phú
- Thiền
tông bản hạnh
- Nam
Hải Quan Âm bản hạnh
- Thiên
Nam ngữ lục
- Đạt Na
thái tử hạnh
- Hồng
mông hạnh
17- Như
Trừng Lân Giác (1690-1728)
- Sa di
thập giới quốc âm
- Ngũ
giới quốc âm
- Phật
tâm luận
- Kiến
đàn giải uế nghi
- Mãn
tán tạ quá nghi
18- Như
Thị (1680-1740)
- Oai
nghi quốc ngữ
19- Như
Sơn (1670-1730?)
- Ngự
chế thiền uyển kế đăng lục
20- Minh
Giác Kỳ Phương (1682-1744)
- Quy
ước thiền đường
- Đạo
Nguyên thiền sư bi minh
- Kiết
hạ an cư thị chúng
21-
Quảng Trí (1700-1760?)
- Mục
ngưu đồ giải nghĩa
22- Tính
Quảng Điều Điều (1720-1780)
- Tam tổ
thực lục
- Phật
quốc ký
- Sa di
ni học pháp oai nghi quốc âm
- Hiến
cổ châu Phật tổ nghi
- Văn
bia và một số các bài tựa
23- Pháp
Chuyên (1726-1798)
- Diệu
Nghiêm lão tổ thi tập
- Tam
bảo biện hoặc luận
- Chiết
nghi luận tái trị
- Thiện
ác quy cảnh lục
- Tam
bảo cố sự
- Báo ân
kinh chú giải
- Địa
Tạng kinh yếu giải
- Quy
nguyên trực chỉ âm nghĩa
- Tỳ ni
Sa di Oai nghi Cảnh sách âm chú yếu lược.
- Tỳ ni
nhật dụng thiết yếu phát ẩn âm chú
- Sa
di luật nghi yếu lược Tăng chú quyển thượng phát ẩn
- Quy
Sơn cảnh sách chú thích y lược âm phát ẩn thiên
- Nhãn
sở đáo âm thích tùy lục tạp thiên
- A Di
Đà sớ sao sự nghĩa
- Tam
giáo pháp số
- Tam
giáo danh nghĩa
- Chư
kinh sám nghi
- Hoằng
giới đại học chi thư
- Chính
truyền nhất chi
24- Hải
Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746-1803)
- Trúc
lâm tông chỉ nguyên thanh
- Hàn
các anh hoa
- Kim mã
hành dư . . .
25- Toàn
Nhật (1757-1834)
- Hứa Sử
truyện vãn
- Tam
giáo nguyên lưu ký (Thích Ca Phật vãn)
- Tống
vương truyện
- Lục tổ
truyện diễn ca
- Bát
nhã đạo quốc âm văn
- Xuất
gia tối lạc tỉnh thế tu hành vãn
- Tham
thiền vãn
- Hoán
tỉnh trần tâm khuyến tu tịnh độ vãn
- Thiền
cơ yếu ngữ vãn
- Giới
hành đồng từ
- Trùng
khuyến thân sơ quyến thuộc phú
- Khuyến
tu hành quốc ngữ phú
- Thơ bà
vãi
- Phá
thô bát tống văn
- Văn
đưa cây bắp
- Sa di
oai nghi tăng chú giảo ngụy tự tiểu thiên.
- Thủy
sám bạt
- Nhân
quả kinh bạt
- Vô
lượng nghĩa kinh hậu bạt
- Thơ
chữ quốc âm và chữ Hán
26-
Nguyễn Du (1766-1820)
- Truyện
Kiều
- Văn tế
thập loại chúng sinh
- Thơ
chữ Hán
27- An
Thiền Phúc Điền (1790-1860?)
- Thiền
đường quy ước
- Đạo
giáo nguyên lưu
- Tại
gia tu trì cách thức
- Giới
sát văn
- Phóng
sanh văn
- Hóa hư
lục giải nghĩa
- Đại
Nam thiền uyển truyền đăng tập lục
- Kim
cang giải nghĩa
- Di Đà
kinh giải nghĩa
28-
Thanh Đàm (1780-1840)
- Pháp
hoa giải nghĩa
- Bát
nhã giải
29- Đạo
Minh Phổ Tịnh (?1750-1816)
- Phú
pháp kệ
30- Bạch
Liên (1770-1820?)
- Du Yên
Tử sơn nhật trình
- Thiếu
thất phú
- Một số
tựa bạt
31- Tánh
Thiên Nhất Định (1784-1847)
- Phú
pháp kệ
- Và một
số tác phẩm khác
32- Pháp
Liên (1800-1860)
- Pháp
hoa quốc ngữ kinh
33- Đoàn
Minh Huyên (1807-1856)
- Sấm
giảng
34- Điềm
Tịnh (1836-1899) và Như Như
- Hàm
long sơn chí
- Dương
xuân sơn chí
- Đạo
trang thi tập (Như Như)
- Thiền
môn tòng thuyết (Điềm Tịnh)
35-
Thanh Lịch (1830-1900?)
- Lễ
tụng tập yếu chư nghi
- Giới
đàn tăng
- Thọ
giới nghi chỉ
36- Nhất
Thế Nguyên Biểu (1836-1906)
- Tỳ
kheo ni giới bổn lược ký
- Và một
số tác phẩm khác
37- Diệu
Nghĩa (1850-1914)
- Tỳ ni
Sa di oai nghi cảnh sách
- Và một
số tác phẩm khác
38- Từ
Phong (1864-1938)
- Quy
nguyên trực chỉ giải âm
39- Tâm
Tịnh (1874-1929)
- Tịnh
độ nghi thức
40- Viên
Thành (1879-1929)
- Lược
ước tùng sao
- 30 bài
thơ Nôm
41- Chơn
giám Trí Hải (1876-1950)
- Mông
sơn thí thực diễn âm
- Tịnh
độ huyền cảnh
42- Chân
Đạo Chính Thống (1900-1968)
- Thủy
nguyệt tùng sao
- Và một
số thơ văn
43- Tỳ
Ni Đa Lưu Chi (?-594)
- Phật
thuyết tượng đầu tinh xá kinh
- Phật
thuyết đại thừa phương quảng tổng trì kinh.
44- Đại
Thừa Đăng (620-682?)
- Câu xá
luận ký
-Đại
thừa bách pháp minh môn luận thuật ký
- Duy
thức chỉ nguyên
45. Viên
Văn Chuyết Chuyết (1590-1644)
-Bồ đề
yếu nghĩa
46- Đại
Sán Thạch Liêm (1633-?)
- Hải
ngoại kỷ sự
- Kim
cang trực giải
- Ly lục
đường thi
Vạn Hạnh,
Mùa
trung thu Phật lịch 2544 (2000)
Lê Mạnh
Thát
---o0o---
[Mục Lục tập 1]
[Xem phần tiếp theo]
---o0o---
[ Tập I ] [
Tập II ] [ Tập III ]
---o0o---
| Thư Mục
Tác Giả |
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật : 01-01-2003