PHÂN VIỆN NGHIÊN
CỨU PHẬT HỌC
NHÀ XUẤT BẢN VĂN
HỌC
Hà Nội –1990
THIỀN UYỂN TẬP ANH
(Anh tú Vườn Thiền)
NGÔ
ĐỨC THỌ – NGUYỄN THÚY NGA
Dịch và chú thích
(Dịch theo nguyên bản chữ Hán Trùng
San)
THIỀN UYỂN TẬP ANH Khắc in năm Vĩnh Thịnh
thứ 11 (1715)
---o0o---
(QUYỂN HẠ)
(?-594)
Chùa Pháp Vân(2),
hương Cổ Châu, huyện Long Biên.
Thiền sư người miền Nam nước Thiên Trúc(3)
dòng dõi Bà la môn(4),
từ nhỏ có chí vượt lên thế tục, từng đi nhiều nơi trong nước Tây Trúc
mong được truyền tâm ấn của Phật, như pháp duyên chưa gặp gỡ. Rồi ông xách
gậy đi về p hía đông nam. Năm Nhâm Ngọ niên hiệu Đại Kiến thứ 6(5)
nhà Trần (Trung Quốc), lần đầu tiên đến kinh đô Trường An. Gặp lúc Chu Vũ
đế tàn sát Phật giáo ông đi về đất Nghiệp (Hồ Nam). Hồi đó tổ thứ ba (của
Thiền tông Trung Hoa) là Tang Xán lánh nạn đến ẩn ở núi Tư Không. Gặp Tăng
Xán, thấy phong độ phi phàm, ông đem lòng kính mộ, liền chắp tay ba lần
nhưng Tăng Xản vẫn ngồi yên không đáp. Trong lúc chờ đợi, Tì Ni Đa Lưu Chi
đứng suy tư, thấy trong lòng rạng rỡ như có điều sở đắc liền sụp xuống lạy
tạ ba lạy. Tổ Tăng Xán cũng chỉ gật đầu ba lần mà thôi. Ông lùi ba bước
thưa rằng:
- Đệ tử từ trước đến nay chưa có cơ hội,
xin hòa thượng đại từ bi cho đệ tử được hầu bên tả hữu.
Tổ Tăng Xán nói:
- Người mau đi về phương nam tiếp xúc với
thiên hạ, không nên ở lâu tại đây.
Sư bèn từ biệt tổ đi xuống miền nam, ở lại
chùa Chế Chỉ, trong khoảng sáu năm(1)
sư dịch được các bộ kinh tượng đầu, Báo nghiệp sai biệt. Tháng 3
năm Canh tí niên hiệu Đại Tường nhà Hởu Chu (580) sư sang nước ta, trụ trì
ở chùa Pháp Vân, dịch thêm kinh Tống trì, một quyển.
Một hôm sư gọi đệ tử thân cận là Pháp Hiền
đến bảo rằng:
- Đại phâm tâm ấn của chư Phật không lừa
dối ta. Tâm ấn ấy tràn đầy như thái hư, không thiếu, không thừa, không đi
không tới, không được không mất, chẳng một, chẳng khác, chẳng thường,
chẳng đoạn; vốn không ở chỗ sinh, cũng không ở chỗ diệt, không lìa xa mà
cũng chẳng không lìa xa(2)
vì phải đối lập các nhân duyên hư võng mà phải đặt giả ra các tên nha vậy.
Cho nên chư Phật Tam thế(1)
đều do đó mà đắc pháp, tổ các đời cũng do đó mà đắc pháp, ta cũng do đó mà
đắc pháp, ngươi cũng do đó mà dắc pháp. Đến như có tình hay không có tình
đều cũng lấy đó mà đắc pháp. Vả lại tổ ta là Tăng Xán truyền tâm ấn ấy cho
ta, bảo ta mau đi về phương nam để giao tiếp với thiên hạ, không nên ở lâu
tại đó. Trái từ bấy đến nay ta với người gặp gỡ, quả là ứng hợp với lời
huyền ký. Ngươi phải khéo giữ gìn. Đã đến lúc ta phải ra đi rồi.
Nói xong sư chắp tay mà qua đời. Pháp Hiền
làm lễ hỏa táng, thu xá lị năm sắc rồi dựng tháp phụng thờ. Bấy giờ là vào
năm Giáp dần niên hiệu Tùy Khai Hoàng thứ 14 (594).
Vua Lý Thái Tông (1028 – 1054) có bài kệ
truy tán thiền sư như sau:
Sáng tự lai Nam quốc
Văn quân cứu tập thiền
Ưng khai chư Phật tin
Viễn hợp nhất tâm nguyên
Hạo hạo Lăng Già nguyệt
Phân phân Bát Nhã liên
Hà thì lăn diện kiến
Tương dữ thoại trùng huyền.
Dịch:
Sang nước Nam truyền đạo
Xứng danh bậc túc thiền
Mở niềm tin đức Phật
Xa hợp một tâm nguồn
Trăng Lăng Già(1)
vằng vặc
Sen Bát Nhã(2)
thơm truyền
Biết bao giờ gặp mặt
Cùng nhau nói đạo huyền.
Vua phong tặng sư là...
*
* *
Thế hệ thứ nhất (1)
(?-626)
Chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phúc, huyện
Tiên Du.
Thiên sư họ Đỗ, người huyện Chu Diên, thân
cao bẩy thước ba tấc. Lúc đầu sư xuất gia thụ giới cụ túc với đại sư Quán
Duyên ở Chùa Pháp Vân, hàng ngày cùng các tăng hữu nghe đại sư truyền
giảng yếu chỉ Thiền tông. Bấy giờ thiền sư Tì Ni Đa Lưu Chi từ Quảng Châu
đến chùa này. Thấy sư, Tì Ni Đa Lưu Chi nhìn kỹ rồi hỏi:
- Ngươi họ gì?
Sư hỏi lại:
- Hòa thượng họ gì?
Tì Ni Da Lưu Chi nói:
- Ngươi không có họ ư?
Sư đáp:
- Họ không phải không có. Nhưng hòa thượng
cần gì phải biết?
Tì Ni Đa Lưu Chi quát bảo:
- Biết để làm gì?
Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ liền sụp lạy, bèn
được thiền chỉ. Sau khi Tì Ni Đa Lưu Chi tịch diệt, sư bèn đến núi Thiên
Phúc tu tập thiền định, quên hết cả vật lẫn bản thân mình, chim rừng bay
đến vây quanh, dã thú tới đùa rỡn. Người đương thời hâm mộ danh tiếng đến
học đạo với sư đông không kể xiết. Nhân đó, sư dựng chùa Chúng Thiện nhận
tuyển dạy học trò. Tăng đồ đến lưu học tại chùa có khi đông đến hơn ba
trăm người. Dòng thiền Nam phương hưng thịnh từ đó. Thứ sử nhà Tùy là Lưu
Phương tâu về triều. Tùy Cao tổ từ lâu đã nghe tiếng người nước Nam này
sùng chuộng đạo phật, đã có các bậc cao tăng đức vọng, bèn sai sứ đem xá
lỵ Phật và năm hòm sắc điệp sang ban cho sư để xây tháp cúng dàng. Sư bèn
chia xá lỵ cho chùa Pháp Vân ở Luy Lâu và các chùa có tiếng ở các châu
Phong, Hoan, Trường, Ái(1)
để dựng pháp thờ. (Nguyên chú: xem thêm ở truyện Thiền sư Thông Biện).
Sư thị tịch năm Bính tuất niên hiệu Đường
Vũ Đức Thứ chín (626).
*
* *
Thế hệ thứ hai
1 người
Thế hệ thứ ba
1 người
Thế hệ thứ tư
1 người
(?-686)
Chùa Kiến Dương, hương Hoa Lâm, phú Thiên
Đức.
Thiền sư người hương Cổ Giao(1),
họ Đỗ, năm mười hai tuổi thụ nghiệp với thiền sư Pháp Đăng, Chùa Phổ
Quang. Khi Pháp Đăng sắp thị tịch, sư hỏi:
- Hòa thượng đi rồi, đệ tử sẽ nương nhờ vào
ai?
Pháp Đăng nói:
- Chỉ sùng nghiệp mới xong!
Sư mờ mịt không hiểu ý. Sau khi Pháp Đăng
tịch diệt, sư chuyên tâm trì tụng kinh Kim Cương(1).
Một hôm có vị thiền khách đến thăm, sư hỏi:
- Kinh này là mẹ của các Phật tam thế, thầy
hiểu “mẹ Phật” là thế nào?
Sư đáp:
- Tôi từ trước đến nay trì tụng kinh này
nhưng cũng chưa hiểu ý ấy.
Khách hỏi:
- Trì tụng đã bao lâu?
Sư đáp:
- Tám năm.
Khách nói:
- Tám năm chỉ trì tụng một kinh mà chưa
hiểu ý nghĩa thì dẫu trì tụng cả trăm năm nào có công dụng gì?
Sư bèn sụp xuống xin khách chỉ giáo. Khách
bảo sư phải tìm sư Huệ Nghiêm ở chùa Sùng Nghiệp mà thỉnh vấn.
Sư tỉnh ngộ nói:
- Nay tôi mới biết hòa thượng Pháp Đăng nói
đúng.
Sư bèn theo lời của vị thiền khách lên
đường đi yết kiến Huệ Nghiêm. Khi đến nơi, Huệ Nghiêm hỏi:
- Ngươi đến có việc gì?
Sư đáp:
- Đệ tử trong tâm có điều chưa ổn.
Huệ Nghiêm hỏi:
- Chưa ổn cái gì?
Sư thuật lại đối thoại với vị thiền khách
bữa trước. Huệ Nghiêm than rằng:
- Ngươi quên hết rồi! Sao ngươi không nhớ
trong kinh có nói: “Các Phật tam thế cùng lối pháp A Nậu Đa La Tam Miệu
Tam Bồ đề(1) đều
xuất xứ ở kinh Kinh Cương, thế chẳng phải là “mẹ của Phật hay sao?”
- Quả thật đệ tử còn mê muội!
Huệ Nghiêm lại hỏi:
- Thế kinh ấy là ai nói?
Sư đáp:
- Chẳng phải là lời thuyết pháp của Như Lai
hay sao?
Huệ Nghiêm nói:
- Trong kinh nói: “Nếu nói Như Lai có
thuyết pháp điều gì thì tức là phỉ báng Phật”. Câu ấy người ta không giải
được. Cái nghĩa ta vừa nói, ngươi thử nghĩ xem, nếu nói kinh ấy không phải
là lời thuyết pháp của Phật thì thế là phỉ báng kinh; nếu lại nói đó đúng
là những lời thuyết pháp của Phật thì lại là phỉ báng Phật. Sao ngươi lại
cứ đòi ta phải trả lời ngay?
Sư nghĩ ngợi, còn định hỏi thêm, Huệ Nghiêm
bèn cầm phất trần đánh vào miệng. Sư đột nhiên tỉnh ngộ, bèn sụp lạy. Sau
sư đến trụ trì chùa Kiến Dương thuyết pháp giảng hóa cho tông đồ.
Sư quy tịch năm Bính Tuất niên hiệu Đường
Thùy Cung thứ 2 (686)
*
* *
Thế hệ thứ năm
1 người
Thế hệ thứ sáu
1 người
Thế hệ thứ bảy
1 người
Đều chép thiếu.
Thế hệ thứ tám
3 người chép thiếu 2 người.
(?-808)
Chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ
Thiên Đức.
Thiền sư người hương Cổ Pháp, họ Nguyễn,
thuộc dòng vọng tộc. Ông là người am hiểu sâu sắc vận số thế cuộc, khi xảy
ra việc gì người trong hương thường suy tôn phục tùng, ai nấy đều tôn gọi
ông là Trưởng lão. Khi đã nhiều tuổi, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền,
nghe thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, từ đó quy tâm
theo đạo Thích. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sư dựng chùa
Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng được một bình hương và
mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi
xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất (thổ) mới nằm im. Sư giải rằng:
- “Thập khẩu” là chữ Cổ; “Thủy khứ” (xuống
sông) là chữ Pháp. Còn “thổ” (đất) là chỉ vào hương ta.
Nhân đó đổi tên là hương Cổ Pháp (trước tên
là hương Diên Uốn). Sư có làm bài Tụng như sau:
Địa trình pháp khí
Nhất phẩm trinh đồng
Tri Phật pháp chi long hưng
Lập hương danh chi Cổ Pháp.
Dịch:
Đất dâng pháp khí
Hạng nhất đồng ròng
Gặp thời Phật pháp thịnh hưng.
Đặt tên làng Cổ Pháp.
Lại có một bài thơ khác:
Pháp lại xuất hiện
Thập khẩu đồng chung
Lý thị hưng vương(1)
Tam phẩm thành công.
Dịch:
Pháp khí hiện ra
Khánh đồng mười tấm
Họ Lý làm vua
Công đầu Tam phẩm(1)
Lại một bài khác:
Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ Pháp danh hương hiệu
Kê cư loan nguyệt hậu
Chính thị hưng tam bảo.
Dịch:
Mười cái xuống nước đất
Cổ Pháp tên làng ta
Gà ngồi lưng loan phượng(2)
Tam bảo đến lúc hưng.
Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông
Thiện:
- Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày
sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta
qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì
truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.
Nói xong sư cáo biệt rồi qua đời, thọ 79
tuổi. Đó là năm Mậu Tí(3)
niên hiệu Đường Nguyên Hòa thứ 3 (808). Thông Thiện dựng tháp ở chùa Lục
Tổ và ghi nhớ lời di chúc của sư lúc lâm chung.
*
* *
Thế hệ thứ chín
3 người, đều chép thiếu.
Thế hệ thứ mười
4 người, chép thiếu 1 người.
Chùa Long Lâm, hương Phù Ninh, phủ Thiên
Đức.
Chân nhân(2)
họ Đinh, từ nhỏ đã nhiều năm đi khắp nơi tham thiền học đạo nhưng pháp
duyên chưa gặp nên sắp thoái chí. Sau nghe một lời thuyết pháp của thiền
sư Thông Thiện ở chùa Thiện Chúng mà mở tâm lĩnh ngộ. Từ đó sư thờ Thông
Thiện làm thầy. Trước khi viên tịch, Thông Thiện ảo sư:
- Trước đây thầy ta là Định Không dặn ta
giữ gìn đạo pháp của thầy, khi gặp người họ Đinh thì truyền lại. Ngươi hãy
nhận lấy sự uỷ thác ấy. Nay đã đến lúc ta phải ra đi rồi.
Sư đắc pháp, bèn đi diễn hóa các nơi, chọn
đất dựng chùa. Những lời sư nói ra phần nhiều đều hợp với lời sấm ngữ. Sư
từng đúc tượng Lục Tổ Huệ Năng bằng vàng đặt ở chùa Lục Tổ. Sau vì sợ
cướp, sư đem chôn tượng ở chùa, dặn đệ tử:
- Gặp minh chúa đào lên, gặp hôn quân thì
cất giấu.
Trước khi thị tịch, sư gọi đệ tử là Thiền
Ông đến bảo rằng:
- Trước đây Cao Biền đắp thành ở sông Tô
Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điềm Giang,
đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả mười chín nơi. Ta đã khuyên Khúc
Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở chùa Minh Châu để trấn chỗ
đất bị cắt long mạch, đời sau tất có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng
chính pháp của ta. Sau khi ta mất, ngươi nên cho đắp đất, dựng nhiều bảo
tháp, dùng pháp thuật mà yểm tàng, không để cho người ngoài biết.
Nói xong sư qua đời, thọ 85 tuổi.
Lại nói năm Bính Thân niên hiệu Thanh Thái
thứ 3 (836) thời thuộc Đường, khi trồng cây gạo, sư có đọc bài kệ như sau:
Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn Chu Minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thổ kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.
Dịch:
Đại sơn đầu rồng ngước
Đuôi dài náu Chu Minh
Thập bát tử đấy nghiệp(1)
Gốc gạo hiện long hình
Thỏ gà trong tháng chuột(1)
Ất thấy mặt trời lên
*
* *
(?-990)
Chùa Cổ Sơn, hương Thư, quận Ái.
Thiền sư họ Đỗ, không rõ quê quán, là người
học rộng, có tài phò vua, hiểu rõ thế cuộc đương thời. Sự xuất gia từ lúc
còn nhỏ, theo học đạo với thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thụ. Từ sau khi đắc
pháp, những lời sư nói ra phần nhiều hợp với sấm ngữ. Trong buổi đầu, khi
nhà Tiền Lê mới sáng nghiệp, sư có công dựng bàn hoạch định sách lược. Khi
thiên hạ thái bình, sư không nhận chức tước của triều đình phong thưởng.
Vua Lê Đại Hành lại càng thêm kính trọng, thường không gọi tên mà gọi là
Đỗ pháp sư, thường ủy thác cho sư các công việc văn hàn.
Nam Thiên Phúc thứ 7 (986) sứ giả nhà Tống
là Lý Giác sang nước ta, vua sai sư thay đổi quần áo, giả là người cai
quản bến đò để xem xét cử động của Giác. Lúc qua sông thấy hai con ngỗng
đang bơi giữa sông. Lý Giác ngâm đùa:
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nga(1)
Dịch:
Ngỗng ngỗng, ngỗng một đôi
Vươn cổ ngước chân trời
Sư đang cầm chèo, bước tới đọc tiếp thêm:
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba.
Dịch:
Nước xanh ngời lông trắng
Sóng biếc chèo hồng bơi.
Lý Giác thấy vậy lấy làm thán phục.
Vua từng hỏi sư về vận nước ngắn dài, sư
đáp:
Quốc tộ như đưàng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các
Xứ xứ tức đao binh.
Dịch:
Ngôi nước như mây cuốn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên diện gác
Chốn chốn tắt dao binh
ĐOÀN THĂNG
(TVLT1)
Sư qua đời năm Hưng Thống thứ hai (990),
thọ 76 tuổi. Sư từng soạn sách Bồ Tát hiệu sám hối văn, một quyển, lưu
hành ở đời.
*
* *
Chùa Quan Ái, hương Đào Gia, Cổ Miệt.
Thiền sư tên cũ là Ma Ha Ma Da(1),
tổ tiên người Chiêm Thành, tự lấy họ Dương. Cha là Bối Đà, am hiểu sách là
bối(2), giữ chức
quan bối trưởng (cũng gọi là Đà phan) dưới triều Tiền Lê. Sư là người hiểu
biết sâu rộng, giỏi cả chữ Hán và chữ Phạn. Năm 24 tuổi, nối nghiệp cha
trụ trì chùa Quan Ái. Một hôm đang ngồi dịch kinh lá bối(3) sư
thấy Hộ Pháp thiện thần bảo rằng:
- Dùng kiến thức ngoại học thì không thể
thông nghĩa lý được đâu!
Từ đó hai mắt bị mù, sư tự hối lỗi, muốn
gieo mình xuống vực sâu mà chết ngay, may gặp Đông Lâm Viễn Biệt ngăn lại
mà bảo:
- Dừng lại! Dừng lại!
Sư bỗng tỉnh ngộ: Sau đó, sư đến thụ giáo
với thiền sư Đỗ Pháp Thuận ở chùa Cố Sơn, chuyên tụng niệm kinh Đại bi
tâm chú(4) để
sám hối, liền ba năm chưa từng biếng trễ. Sư lại được Quan Âm đại sĩ dùng
cành dương thủy rưới đầu rảy mặt. Mắt sư bỗng sáng lại, tâm càng thanh
tỉnh.
Năm Thuận Thiên thứ năm (1014) Sư dời đến
chùa Đại Vân ở Trường An, ngày ngày chuyên cần tu tập, đắc pháp Tống trì
tam muội(1) cùng
các phép ảo thuật, người ngoài không ai dò biết được. Vua Lê Đại Hành ba
lần thỉnh sư về triều để hỏi han việc nước, sư chỉ chắp tay cúi đầu mà
thôi. Gặng hỏi hai ba lần sư mới đáp rằng.
- Bần đạo chỉ là kẻ cuồng tăng ở chùa Quan
Ái!
Vua cả giận, sai đưa sư đến chùa Vạn Tuế
trong Đại nội đóng cửa lại, sai người canh giữ. Sáng hôm sau đã thấy sư ở
ngoài tăng phòng mà cửa vẫn đóng khóa như cũ. Vua lấy làm lạ, cho phép sư
muốn đi đâu tùy ý. Sư lại đi vào phía Nam, đến trấn Sa Đăng thuộc Ái Châu.
Nơi đây phong tục dân chúng sùng chuộng thờ cúng quỷ thần, nhiều người làm
nghề sát sinh, sư khuyên họ ăn chay kiêng thịt. Họ đều nói.
- Thiền thần của chúng tôi ban phúc giáng
họa nên chúng tôi không dám làm trái.
Sư nói:
- Nếu các ngươi chịu bỏ ác theo thiện thì
lão tăng này dù có bị hại cũng cam chịu.
Dân làng nói:
- Vùng này có người bị bệnh hủi lâu ngày
sắp chết, các thầy lang, thầy bói đều chịu bó tay. Nếu hòa thượng chữa
khỏi, chúng tôi xin theo lời hòa thượng.
Sư bèn niệm chú vào nước là rồi ngậm phun,
người hủi liền khỏi bệnh. Dân làng cảm phục nhưng vẫn lấy cờ là theo tục
thờ cũng đã lâu ngày nên chưa thể cải hóa theo đạo. Phật ngay được. Có
người hương hào họ Ngô nhân uống rượu say, bày rượu thịt ra rồi bắt ép sư
ăn uống, nói rằng.
Nếu Hòa Thượng ch ịu thưởng thức thú vui
này thì bọn tôi xin quy y đạo phật.
Sư đáp:
- Bần đạo không dám từ chối, chỉ sợ bị đau
bụng thôi.
Người họ Ngô cười nói:
- Đau thì để Ngô mỗ này chịu cho!
Sư phải miễn cưỡng nghe theo. Được một lúc,
sư về nhà bị trướng bụng, trong bụng có tiếng sôi ùng ục. Sư bèn kêu to:
- Ngô quân hãy chịu đau cho tôi đi!
Chủ nhà họ Ngô hốt hoảng không biết làm thế
nào. Bờy giờ sư chắp tay niệm “Nam mô Phật, Nam mô Phật, nam mô Tăng. Xin
cứu độ cho đệ tử!”. Rồi cúi xuống nôn hết các thức ăn, các món thịt liền
biết thành thú đi vật chạy, các món cá biến thành cá vùng quãy, rượu thì
biến thành nước gỉ đồng.
Mọi người kinh lạ khiếp sợ. Sư nói:
- Người bệnh của ngươi ta đã chữa khỏi, còn
ta bị đau bụng thì người chẳng chịu đau thay cho ta. Vậy bây giờ ngươi đã
chịu theo đạo ta chưa?
Người làng đều sụp xuống lạy tạ.
Năm Thiên Thành thứ 2 (1029) đô uý Nguyễn
quang Rị (?) mời sư về trụ trì chùa Khai thiên ở Phủ Thái Bình. Đến năm hứ
6 (1033) sư cáo từ, trở về Hoan Châu, sau không biết họ chung thế nào.
Nguyên chú: sách Nan tông đồ tức Nam
tông tự pháp đồ ở truyện Nam Dương [thiền sư] nói Nam Dương nối pháp
tự của sư Ma Ha là nhầm.
*
* *
Thế hệ thứ mười một
4 người, chép thiếu 2 người
(902-979)
Chùa Song Lâm, hương Phù Ninh(1)
phủ Thiên Đức.
Thiền sư họ Lã, người hương Cổ Pháp, thuở
nhỏ theo Nho học, sau xuất gia hầu Đinh trưởng lão (La Quý An) rồi đắc
pháp.
Sư thị tịch năm Kỷ mão, niên hiệu Thái Bình
thứ 10 (979) triều Đình, thọ 78 tuổi.
*
* *
(1004-1087)
Chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, huyện Long
Biên.
Sư người họ Mâu, dáng mạo to lớn, tai dài
đến vai. Sau khi xuất gia, sư đến tham vấn thiền sư Vô Ngại ở Hương Thành,
được truyền tâm ấn. Rồi đó sư đi vâ du khắp nơi, sang tận Thiên Trúc để
rộng cầu hiểu biết.. Chín năm sau, sư trở về, gồm thông cả giới, định. Rồi
sư sang chùa Pháp Vân nước ta thuyết giảng Phật pháp. Học trò các nơi quy
hướng rất đông. Vua Lê Đại Hành Mấy lần thỉnh sư về kinh để hỏi han huyền
chỉ(1). Vua rất
vừa ý, tiếp đãi long trọng.
Năm Đinh mão niên hiệu quảng Hựu thứ 3
(1087) triều Lý Nhân Tông, sư quy tịch, thọ 84 tuổi.
Vua Lý Nhân Tông có bài kê truy tán như
sau:
Sùng Phạm cư Nam quốc
Tâm không cập đệ quy
Nhỉ trường hồi thụy chất
Pháp pháp tận ly vi
Dịch:
Sùng Phạm ở Nam quốc
Tâm không đắc đạo về
Tai dài là tướng tốt
Pháp pháp thảy ly vi.(1)
*
* *
Thế hệ thứ mười hai
7 người, chép thiếu 2 người
Chùa Lục Tổ, hương Dịch Bảng, phủ Thiên
Đức.
Thiền sư họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp.
Gia đình đã mấy đời thờ Phật. Thuở nhỏ thông minh khác thường, học thông
ba giáo, đọc kỹ trăm nhà, nhưng coi khinh công danh phú quý. Năm 21 tuổi
xuất gia cùng Định Huệ theo học đạo với Thiền ông đạo giả ở chùa Lục Tổ.
Những khi công việc rỗi rãi, sư chăm chỉ học hỏi không biết mệt. Sau khi
Thiền Ông tịch diệt, sư bèn chuyên tâm tu tập kinh Tổng trì tam ma địa(1)
lấy đó làm sư nghiệp. Bờy giờ sư nói ra điều gì, thiên hạ dều coi như lời
sấm ngữ. Vua Lê Đại Hành dặc biệt tôn kính sư. Năm Thiên Phúc thứ nhất
(980) nhà Tống sai Hỗu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng quân
ở gò Tử Cương núi Giáp Lăng, vua mời sư đến hỏi tình thế thắng bại thế
nào. Sư đáp:
- Chỉ trong ba, bẩy ngày giặc tất phải lui.
Sau quả đúng như thế. Vua muốn đi đánh
chiếm Thành, cùng bàn bạc với triều thần, nhưng chưa quyết. Sư tâu vua xin
cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp. Vua bèn đem quân đi đánh, quả
nhiên thu được toàn thắng. Bấy giờ có kẻ gian là Đỗ Ngân muốn mưu hại sư,
sư đoán biết được ý đồ, bèn đưa cho hắn một bài kệ rằng:
Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm (km)
(1)
Vi hà mưu ngã uấn linh khâm.
Chân chí vị lai bất hận tâm.
Dịch:
Thổ mộc sinh ra cẩn cạnh căm (kim)
Thù ta toan định sẵn mưu ngầm
Tăng này biết chuyện lòng buồn dứt
Cả đến mai sau chẳng oán thầm!
Đỗ Ngân sợ, không dám mưu hại sư nữa. Tài
tiên tri của sư đại khái là như vậy.
Đến khi Lê Ngọa triều lên ngôi, tàn ngược
độc ác, trời người đều oán giận. Lý Công Uẩn lúc ấy còn giữ chức Thân vị
chưa được nhường ngôi hoàng đế. Bờy giờ điềm lạ xuất hiện nhiều nơi, như
xoáy lông trên lưng con chó trắng(3)
ở Viện Hàm Toại chùa Ứng Thái Tâm(4),
châu Cổ Pháp có hình chữ Thiên tử, cây gạo bị sét đánh để lại vết tích chữ
viết(1), xung
quanh mộ Hiền Khánh đại vương(2)
ban đêm nghe tiếng tụng kinh râm ran, cây đa ở chùa Song Lâm có vết sâu ăn
hình chữ “quốc”v.v... sư đều biện giải được, tất cả đều hợp với điềm Lê
suy Lý đấy. Vì thế khi Lý Thái Tổ lên ngôi, sư đang ở chùa Lục Tổ mà biết
trước sự việc. Sư nói với người chú và người bác(3)
của Lý công Uẩn:
- Thiên tử đã băng hà, Lý thân vệ đang ở
nhà. Người nhà thân vệ túc trực trong thành nội có hàng ngàn. Nội trong
ngày, thân vệ ắt sẽ được thiên hạ(4)
Sư bèn yết bản ở các ngả đường:
Tật lê trầm Bắc thủy
Lý tử thụ Nam thiên
Tứ phương can qua tỉnh
Bát biểu hạ bình an.
Dịch:
Tật lê(5) chìm
biền Bắc
Cây Lý mọc trời Nam
Bốn phương binh đao lặng
Tám hướng chúc bình an
Chú bác Lý Công Uẩn nghe xong lấy làm lo
sợ, sai người ruổi gấp về Hoa Lư nghe ngóng, thì quá đúng như lời sư nói.
Ngày 15 tháng 5 năm Thuân thiên thứ 9
(1018)(1) sư không
bệnh, gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi(2)
Dịch:
Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi(3)
Kia kìa ngọn cỏ giọt sương dông.
NGÔ TẤT TỐ
(VHDL)
Sư lại bảo các đệ tử:
- Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ
trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ.
Một lát sau sư qua đời. Vua cùng các quan
dân làm lễ hỏa táng, rồi xây tháp chứa xá lỵ để đèn hương phụng thờ. Vua
Lý Nhân Tông có làm bài kệ truy tán thiền sư như sau:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phủ cổ sấm kỵ(cơ)
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
Dịch:
Vạn hạnh không ba cõi
Lời sư nghiệm sấm thi
Từ làng quê Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh kỳ
Nguyên chú: Sự tích ngôi mộ
của Hiển Khánh đại vương như sau: Ban đêm sư Vạn Hạnh ngồi nhập định, nghe
xung quanh ngôi mộ của Hiển Khánh vương bốn phía đều có tiếng ngâm thơ.
Phía Đông ngâm:
Khánh Vạn tường nham dữ Quế Phong
Dương trường long thế dục tương tòng
Đông liệt triều tông thế tam bách
Lục tuất...(1)
đối thiên bồng
Dịch:
Khách Vạn lên cao với Quế Phong
Ngoằn ngoèo rồng cuộn sẵn chờ trông
Phù tá đàng đông ba trăm vững,
Lục nguyệt Tuất niên ngước bóng rồng.
Phía Nam ngâm:
Chính nam Phù Ninh hộ trạch thần
Vinh thế nam nữ xuất đa nhân
Thiên Đức phú quý mãn ốc thịnh
Bát phương hội Nữ thường xuất quân
Dịch:
Hướng Nam, thần hộ đất Phù Ninh,
Trai gái đầy thôn nức tiếng lành
Thiên Đức giàu sang no đủ khắp
Giữa trời cao Nữ, thánh quân sinh
HUỆ CHI
(TVLT 1)
Phía Tây ngâm:
Tây vọng, viễn vọng khan thiên trụ
Cao thế nam nữ thượng tướng thủ
Thiên Đức phú quý dư viễn thế
Quân vương thọ mệnh cửu thập cửu
Dịch:
Xa ngóng về Tây cột chống trời
Tài cao khanh tướng thảy tuân lời
Thiên Đức phú quý lâu truyền mãi
Tuổi thọ quân vương quá chín mươi
Phía Bắc Ngâm:
Chính bắc Phù Cầm đương bạch hổ
An lạc nam nữ thường vô khổ
Đại đại Thiên Đức trường thọ lạc
Thế thế quân vương kỷ Thái Tổ.
Dịch:
Bắc hướng Phù Cầm ngôi bạch hổ
Trai gái yên vui hết khổ sầu
Thiên Đức đời đời vui thọ mãi
Thái Tổ nền vương sáng nghiệp đầu.
Sư sai người ghi chép, rồi viết vào biển gỗ
đóng ở bốn phía quanh khu mộ của Hiển Khánh. Sư đến xem, đọc kệ rằng:
Đông hữu Vũ Long hạng
Nam hữu Vũ long pha
Tây hữu Hạc Lâm quán
Bắc hữu Trấn Hải trì.
Dịch:
Xóm Vũ Long bên Đông
Gò Vũ Long bên – Nam
Bắc có ao Trấn Hải
Tây có quán Hạc Lâm
Sư im lặng hồi lâu rồi nói tiếp:
- Có lẽ chỉ trong vòng ba tháng nữa quan
Thân vệ sẽ chống đỡ xã tắc, cầm giữ ấn chữ quốc.
Đúng là:
Mười miệng đất xuống nước(1)
Gặp hiệu thánh Thiên Đức
Về sau châu Cổ Pháp đổi làm phủ Thiên Đức,
quả ứng nghiệm như lời sư nói vậy, còn các việc khác thì đều như trong
Quốc sử, ở đây không chép nữa.
*
* *
Chùa Quang Hưng, hưng Yên Trinh, Phủ Thiên
Đức
Thiền sư họ Khúc, người Cầm Điền, Phong
Châu. Thuở nhỏ cùn Vạn Hạnh theo hầu học đạo với Thiền Ông, được Thiền Ông
truyền tâm ấn.
Trước khi thị tịch, sư truyền tâm pháp cho
đệ tử là Lâm Huệ Sinh.
Nguyên chú: xét sách Nam
tông tự pháp đồ nói sư nối pháp tự của Vạn Hạnh, sợ là nhầm. Nay chép
đúng theo bản truyện.
*
* *
(? – 1117)
Chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích(1)
Thiền sư họ Từ, húy Lộ. Cha là Từ Vinh, làm
quan đến chức Tăng quan đô án. Nguyên là Từ Vinh trọ học ở hương yên Lãng
(2), lấy vợ là con
gái nhà họ Tăng rồi cư trú ở đó. Ông là con bà họ Tăng đó. Bản tính ông từ
nhỏ hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán
trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phi sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và
người kép hát là Vi Ất. Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày thổi sáo,
đá cầu, đánh bạc vui chơi, thường bị cha trách mắng là lười nhác. Một đêm
Từ Vinh lén vào phòng thấy ngọn đèn đã tàn, sách vở chất đống bên cạnh,
còn Từ Lộ thì đang tựa án mà ngủ, tay vẫn cầm quyển sách, tàn đèn rơi đầy
cả mặt bàn. Từ đó cha ông mới không phải lo nghĩ gì nữa. Sau triều đình mở
khoa thi tăng quan, ông dự thi, được trúng tuyển.
Nguyên trước kia thân phụ ông là Từ Vinh
có điều xích mích bị Diên Thành hầu(1)
cho là dùng tà thuật xúc phạm đến mình, vì vậy Diên Thành hầu nhờ sư Đại
Điên dùng pháp thuật đánh chết, ném xác xuống sông Tô Lịch. Thây Từ Vinh
trôi đến cầu Quyết thì bật dậy, chỉ tay vào nhà Diên Thành hầu suốt một
ngày. DiênThành hầu sợ hãi sai người đi báo với Đại Điên. Đại Điên đến nơi
quát: “Kẻ tu hành giận không quá đêm!”. Thây Từ Vinh nghe vậy lại tiếp
trôi đi. Ông muốn báo thù cha nhưng không biết làm cách nào. Một hôm nmhân
lúc Đại Điên ra ngoài, sư bèn xông vào đánh. Bỗng nghe trên không có tiếng
quát: “Dừng lại! Dừng lại!”. Ông sợ, vứt gậy mà chạy. Từ đó ông quyết chỉ
đánh đường sang Ấn Độ cầu học phép lạ để về báo thù cho cha. Đến nước Kim
Xỉ(2) gặp đường đi
hiểm trở nên phải quay về. Từ đó ông vào ẩn cư trong hang đá núi Phật
Tích, ngày ngày chuyên chú trì tụng Đại bi tâm Đà La Ni,(3)
đủ mười vạn tám nghìn lần. Một hôm sư thấy thần nhân đến bảo: “Đệ tử
là Tứ Trần thiên vương, cầm công đức của sư trì tụng kinh Đại Bi
nên xin đến hầu để sư sai phái”. Sư biết là đạo pháp viên thành, đã có thể
báo thù cha. Sư bèn đến bên cầu Quyết, thử ném gậy xuống giữa dòng nước
xiết. Chiếc gậy liền trôi ngược dòng đến phía tây cầu Tây Dương(4)
thì dừng lại. Sư mừng nói: “Phép ta thắng rồi”. Sư bèn đi thẳng đến nhà
Đại Điên. Đại Điên trông thấy nói:
- Ngươi không nhớ chuyện ngày trước sao?
Sư ngước nhìn lên trời, không thấy động
tĩnh gì, bèn vung gậy đánh. Đại Điên phát bệnh mà chết. Từ đó rửa sạch oán
thù, việc đời như tro lạnh, sư bèn đi khắp nơi trong chốn tùng lâm để tìm
thấy ân chứng. Nghe nói Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, sư tìm đến
tham vấn. Sư đọc bài kệ để hỏi về chân tâm:
Cửu hỗn phàm trần vị thức câm (kim)
Bất tri hà xứ thị chân tâm
Nguyện thùy chỉ đích khai phong tiệm
Liễu kiến như như đoạn khổ tâm.
Dịch:
Lẫn với bụi đời tự bấy lâu
Chân tâm vàng ngọc biết tìm đâu?
Cúi xin rộng mở bày phương tiện
Thầy được Chân Như sạch Khổ sầu
NGUYỄN LANG
(Việt Nam Phật giáo sử luận)
Trí Huyền đọc kệ đáp:
Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm
Cá trung mãn mục lộ thiên tâm
Hà sa cảnh thị Bồ Đề đạo
Nghĩ hưởng Bồ Đề cách vạn tầm.
Dịch:
Mình ngọc vang đưa tiếng áo huyền
Ở trong vẫn lộ, tấm lòng thiền
Cát sông là cõi Bồ Đề đó
Mà tưởng còn xa mấy dặm nghìn
NGÔ TẤT TỐ (VHĐL)
Sư vấn lờ mờ không rõ bèn tìm đến chùa Pháp
Vân thỉnh giáo thiền sư Sùng Phạm. Sư hỏi:
- Thế nào là chân tâm?
Sùng Phạm hỏi lại:
- Thế cái gì không phải là chân tâm?
Sư rạng rỡ, tỉnh ngộ, hỏi lại rằng
- Lấy gì làm bảo chứng?
Sùng Phạm đáp:
- Đói ăn khát uống.
Sư lạy tạ rồi cáo từ trở về. Từ đó pháp lực
như được tăng thêm, duyên thiền càng thêm thuần thục, có thể khiến rắn
rết, muông thú đến chầu phục, đốt ngón tay cầu mưa, phun nước phép chữa
bệnh, không việc gì không ứng nghiệm. Có vị tăng hỏi:
- Đi đứng nằm ngồi đều là phật tâm. Vậy thế
nào là Phật tâm?
Sư đọc kệ đáp:
Tác hữu trần sa hữu
Vi không nhất thiết không
Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
Dịch:
Có thì muôn sự có
Không thì tất cả không
Có, khong trăng đáy nước
Đừng vướng có không không
THANH TỪ
(TSVN)
Sư lại nói:
- Nhật nguyệt tại nham đầu
Nhân nhân tận thất châu
Phú nhân hữu câu tử
Bộ hành bất kỵ câu.
Dịch:
Nhật nguyệt tại non đầu
Người người mất ngọc châu
Kẻ giầu có ngựa tốt
Chẳng chịu dùng ngựa đâu
Bấy giờ vua Lý Nhân Tông tuổi đã cao mà
không có con nối dõi. Tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 3 (1112) ở phủ
Thanh Hóa có người tâu: “Vùng bờ biển Sa Đinh có một đứa trẻ con linh dị,
mới lên ba tuổi mà nói năng biện giải như người lớn, xưng là con đích của
vua, tự đặt hiệu là Giác Hoàng. Phạm mọi việc làm của hoàng thượng, không
điều gì đứa bé ấy không biết”. Vua sai trung sứ vào tận nơi xem xét, thấy
đúng như lời tâu, bèn cho đón về chùa Báo Thiên ở kinh đô. Thấy đứa trẻ
thông minh dị thường vua có lòng yêu mến, định lập làm hoàng thái tử. Các
quan hết sức can ngăn vua không nên làm như vậy. Các quan lại nói nếu đứa
bé ấy quả thực linh dị, tất nên thác sinh vào nội cung rồi sau mới lập làm
thái tử được. Vua nghe theo, bèn cho mở hội lớn bẩy ngày đêm để làm phép
thác thai. Sư nghe chuyện, tự nghĩ: “Đứa bé này dùng phép yêu dị để mê
hoặc mọi người, ta nỡ nào ngồi nhìn để nó lừa dối, làm loạn chính pháp?”.
Sư bèn nhờ người chị gái giả làm người đi xem hội, lén đem chuỗi hạt do sư
đã kết ấn, treo lên rèm cửa. Hội đến ngày thứ ba, thì Giác Hoàng bỗng kêu
đau, bảo mọi người: “Ta đã đi khắp quanh hoàng thành, như ở đâu cũng có
lưới sắt vây kín. Muốn thác sinh cũng không biết lọt vào bằng cách nào”.
Vua ngỡ sư làm bùa chú để phá, bèn sai quan xét hỏi thì sư thú nhận. Quan
quân bèn bắt sư trói, đem đến lầu Hưng Thánh để triều thần định tội. Lúc
ấy gặp Sùng Hiền hầu đi qua, sư thống thiết giãi bày với hầu về chuyện đó.
Sư nói:
- Quỹ hầu gắng giúp cho bần tăng thoát tội.
Ngày sau xin đầu thai để đáp ơn tạ đức.
Sùng Hiền hầu nhận lời. Khi vào triều nghị,
các quan đều nói:
- Bệ hạ không có nối dõi nên phải cầu Giác
Hoàng thác sinh làm con, vậy mà Từ Lộ dùng bùa phép cản trở, xin bệ hạ cho
xử chém để thiên hạ hả lòng.
Sùng Hiền hầu từ tốn tâu rằng:
- Giác Hoàng nếu quả có thần lực thì dẫu cả
trăm Từ Lộ làm bùa chú cũng không làm hại được. Đằng này Giác Hoàng lại bị
lướt mắt chắn không vào được, thế thì Từ Lộ cao tay pháp hơn Giác Hoàng.
Theo ngu ý của thần, bệ hạ nên tha tội cho Từ Lộ và cho Từ Lộ được thác
sinh.
Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu.
Sư bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang
tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đã
biết trước nên không căn vặn gì.
Từ đó phu nhân cảm thấy mình có thai. Sư
dặn Sùng Hiền hầu: “Khi nào phu nhân sắp sinh thì báo cho bần tăng biết
trước”. Đến lúc phu nhân sắp sinh, Sùng Hiền hầu cho người đến báo. Sư bèn
tắm rửa, thay quần áo sạch sẽ rồi bảo đệ tử:
- Nghiệp duyên của ta chưa hết, còn phải
thác sinh để tạm giữ ngôi vua. Ngày sau thọ chung sẽ được làm thiên tử ở
cõi trời thứ ba mươi ba. Nếu thấy chân thân của ta hư nát thì lúc ấy ta
mới thật nhập Niết Bàn, không còn phải trụ trong vòng sinh diệt nữa. Các
đệ tử nghe nói không cầm được nước mắt. Sư bèn đọc bài kệ rằng:
Thu lai bất báo nhạn lai quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.
Dịch:
Thu về chẳng báo nhạn theo bay
Cười nhạt người đời uổng xót vay
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến
Thầy xưa mấy lượt hóa thầy nay
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Nói xong sư trang nghiêm mà hóa, đến nay
hình xác vẫn còn.
Nguyên chú:
Xét quốc sử(1) năm
Hội Tường Đại Khánh thư 8 (1117) lấy con trai của các hầu Sùng Hiền, Thành
Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng chọn đưa vào trong cung để
nuôi dưỡng. Bấy giờ con của Sùng Hiền hầu mới lên 2 tuổi, vua rất yêu, bèn
lập làm hoàng thái tử. Đến năm Thiên Phù Khánh Thọ thứ nhất (1127) mùa
đông tháng 12, vua băng. Hoàng thái tử lên ngôi hoàng đế, năm ấy 21 tuổi.
Vua ở ngôi 11 năm, thụy hiệu là Thần Tông Tương truyền Thần Tông là hậu
thân của sư, còn Giác Hoàng là sư Đại Điên.(2)
(1049 – 1117)
Chùa Tổ Phong, núi Thạch thất, hương Đại
Cù, Tân Trại.
Thiền sư người Luy Lâu, họ Vạn, sùng mộ đạo
Phật từ thủa bé. Năm hai mươi tuổi đến chùa Pháp Vân thụ giới cụ túc, theo
hầu thiền sư Sùng Phạm. Sùng Phạm thấy sư giữ mình nghiêm cẩn, tính tình
thận trọng nên yêu mến, truyền thụ tâm ấn và đặt cho pháp danh là Trì Bát.
Sau khi Sùng Phạm quy tịch, sư xuống núi đi vân du, tham vấn các bậc túc
tăng đạo hữu, rồi sư đến trụ trì chùa Tổ Phong, giảng cứu Thiền học. Bờy
giờ, tướng quốc thái úy Lý Thường Kiệt là thí chủ cúng dâng nhiều tài sản,
sư đều dùng hết vào việc Phật: trùng tu các chùa Pháp Vân, Thiền Cư, Thế
Tâm, Quảng an để báo đáp công ơn pháp nhũ(1)
Ngày 18 tháng 2 năm Hội Tường Đại Khánh thứ
8 (1117) trước khi thị tịch, sư gọi tăng chúng đến đọc bài kệ:
Hữu tử tất hữu sinh
Hữu sinh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sinh vi thế sở hỉ
Bi, hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
U chưa sinh tử bất quan hoài
Úm tô rô, úm tô rô tất rí.
Dịch:
Có tử thì có sinh
Có sinh thì có tử
Tử, người đời buồn rầu
Sinh, người đời mừng rỡ
Buồn vui đều vô cùng
Đối nhau thành “kia”, “nọ”
Mọi điều “sinh”, “tử” chẳng quan tâm
Um! Suru Suru Srê(1)
HÀ VĂN TẤN
(LSPGVN)
Nói xong sư trang nghiêm qua đời, thọ 69
tuổi. Đệ tử là các thiền sư Tịnh Hạnh, Pháp Nhân, Thuần Chân làm lễ hỏa
táng, thu xá lị, xây tháp phụng thờ.
(? -1101)
Chùa Hoa Quang, hương Tây Kết, huyện Thượng
nghi.
Thiền sư người hương Cửu Ông, huyện Tế
Giang(1), họ Đào,
thủa nhỏ học thông kinh sử, đi đến đâu người cùng lứa tuổi thường tranh
nhau theo. Sau gặp thiền sư Pháp Bảo ở chùa Quang Tịnh, chỉ nghe một lời
nói mà lĩnh ngộ tông chỉ, bèn bỏ Nho học mà theo học đạo với Pháp Bảo.
Trong khoảng mấy năm, tuệ trí mở thông ánh điện, lửa đá tùy gõ phát ra(2),
tiếp dẫn chúng sinh, không lúc nào rỗi rãi.
Ngày 7 tháng hai năm Ất dậu niên hiệu Long
Phù (Nguyên Hòa) thứ nhất (1101, đời Lý Nhân Tông), trước khi thị tịch, đệ
tử là Bản Tịch vào xin chỉ giáo, sư bèn đọc bài kệ:
Chân tính thường vô tính
Hà tằng hữu sinh diệt
Thân thị sinh diệt pháp
Pháp tính vị tằng diệt.
Dịch:
“Chân tính” thường không tính
Chưa từng có diệt sinh
Sinh diệt bởi thân mình
Chẳng hề diệt pháp tính.
Đọc xong bài kệ, sư qua đời. Phụ quốc thái
bảo họ Cao chủ trì lễ hỏa táng, xây tháp phụng thờ.(1)
*
* *
Thế hệ thứ mười ba
6 người, chép thiếu 2 người
(?-1063)
Chùa Vạn Tuế(1),
kinh đô Thăng Long
Tăng thống người Đông Phù Liệt(2),
họ Lâm, húy Khu, là hậu duệ của Lâm Công Phú ở Trà Sơn, hương Vũ An. Cha
là Lâm Khoáng, lấy vợ là con gái của Quách tăng lục, nhân đó dời nhà về
Đông Phù Liệt, có hai con trai: con trưởng là Sinh, làm quan đến chức viên
ngoại lang bộ binh, Lâm Khu là con thứ. Ông tướng maọi khôi vỉ, biện luận
lưu loát, có tài văn chương từ phú, chữ tốt, vẽ đẹp. Tuổi trẻ theo Nho
học, nhưng khi rỗi rãi thường nghiên cứu sách Phật, chư kinh bách luận
không sách nào không đọc. Mỗi khi nói đến những điều yếu chỉ trong Phật
pháp, ông thường cảm khái rơi lệ. Năm mười chín tuổi(3),
ông rơi bỏ thế tục, cùng với các bạn là Hạc Lâm, Pháp Thống đến thụ nghiệp
với thiền sư Định Huệ ở chùa Quang Hưng, huyện học ngày càng tăng tiến. Sư
được thầy Định Huệ quý mến, truyền thụ tâm ấn cho. Từ đó, sư rảo bước khắp
chốn tùng lâm để tham thiền học đạo. Lúc đầu sư đến trụ ở ngọn Bồ Đề trong
núi Trà Sơn. Mỗi lần nhập định, sư ngồi suốt năm ngày liền, người đương
thời thường gọi sư là Nhục Thân đại sĩ. Vua Lý Thái Tông nghe danh tiếng
của sư, sai sứ giả đến mời. Sư nói với sứ giả:
- Ngươi không thấy con vật làm cỗ tế hay
sao? Khi chưa tế thì được ăn ngon mặc đẹp, đến khi bị dắt vào nhà Thái
Miếu thì dẫu muốn sống thêm ít ngày cũng không thể được. Vật tế còn như
vậy, các vật khác có khác gì?
Rồi sư c từ không về kinh. Sứ giả lại phải
đến mời lần nữa, sư mới chịu về kinh bái yết vua. Lý Thái Tông cả mừng
phong sư giữ chức Nội cung phụng, ban sắc chỉ cho sư trụ trì ở chùa Vạn
Tuế tại kinh đô Thăng Long.
Mỗi hôm nhân làm lễ trai tăng trong đại
nội, vua nói:
- Trẫm nghĩ nguồn tâm của Phật tổ, người
học thường hay chê bai. Trẫm muốn cùng các vị cao đức gần xa mỗi người đều
bày tỏ ý kiến của mình để xem cái dụng tâm của từng người như thế nào?
Sư bèn ứng khẩu đọc bài kệ như sau:
Pháp bản như vô pháp
Phi hữu, diệc phi không
Nhược nhân tri thử pháp
Chúng sinh dữ Phật đồng
Tịch tịch Lãng già nguyệt
Không không độ hài chu
Tri không, không giác hữu
Tam muội nhậm thông chu.
Dịch:
Pháp vốn như vô pháp
Không có cũng không không
Nếu người hay phép đó
Chúng sinh với Phật đồng
Trăng Lăng già vắng lặng
Thuyền vượt biển trống không
Biết “không không” hiểu “có”
Tam muội cứ suốt thông.
HÀ VĂN TẤN
(LSPGVN)
Vua khen ngợi, ban thưởng rất trọng hậu.
Sau vua phong sư giữ chức Độ tăng lục. Các vương công thời bấy giờ như:
Phụng Kiên vương(1),
Uy Vũ, Hỉ Từ, Thiện Huệ, Chiêu Khánh, Hiển Minh thái tử, thượng tướng
Vương Công Tại(2),
thái sư Lương Nhậm Văn, thái báo Đào Xử Trung tham chính Kiều Bồng v.v...
đều tìm đến thỉnh vấn, mời sư chủ trì các cuộc lễ.
Dưới triều Thánh Tông, sư được tặng chức Tả
nhai đô tăng thống, tước hầu, khi vào chầu vua, chỉ gọi là Tăng thống mà
không gọi tên.
Năm giáp thìn niên hiệu (Chương Thánh) Gia
Khánh thứ 5 (1063) trước khi thi tịch, sư gọi đệ tử đến đọc bài kệ rằng:
Thủy hỏa nhật tương tham
Do lai vị khả đàm
Báo quân vô xứ sở
Tam tam hưu tam tam
Dịch:
Nước lửa ngày hỏi nhau
Nguyên do chưa thể bàn
Đáp anh không nơi chốn
Tam tam lại tam tam!
THANH TỪ
(TSVN)
Lại đọc tiếp bài khác:
Tự cố lại tham học
Nhân nhân chỉ vị Nam
Nhược nhân vấn tân sự
Tân sự nguyệt sơ tam.
Dịch:
Xưa nay kẻ tham học
Người người chỉ vì Nam
Nếu người hỏi việc mới
Việc mới, ngày mùng ba
THANH TÚ
(TSVN)
Rồi sư tắm rửa, thắp hương, đến nửa đêm thì
lặng lẽ qua đời.
Sư từng vâng chiếu chỉ soạn văn bia các
chùa Thiên Phúc ở Tiên du, chùa Thiên Khánh, Khai Quốc, Diệu Nghiêm, Báo
Đức ở Vũ Ninh, và soạn các sách Pháp sự trai nghi, Chư đạo tràng Khánh
tán văn (mấy quyển) lưu hành ở đời.
(1093-1163)
Chùa Trí Quả, hương Cổ Châu, huyện Long
Biên.
Thiền sư người Cổ Châu, họ Khương, húy
Thông, ông cha mấy đời giữ chức tăng quan. Ông thần thái tinh anh, sáng
láng; tiếng nói trong vang, thường tụng niệm kinh Tống trì Đà La Ni,
có thể đọc ngược từ đầu đến cuối không sót một chữ.
Trong niên hiệu Hội Phong (1092-1101, đời
Lý Nhân Tông) triều đình mở khoa thi kinh Pháp Hoa, Bát Nhã, ông đỗ
đầu. Sau nhờ một câu nói của thiền sư Pháp Y chùa Thành Đạo, ông được ấn
chứng. Từ đó ông xuất gia tu hành tại chùa Thiên Phúc ở núi Tiên Du, giới
hạnh tinh nghiêm, đạo tâm rộng mở. Hàng ngày ăn rau rừng, uống nước suối,
sau sáu năm trở về bán hương trùng tu chùa Trí Quả, rồi trụ trì tại đó.
Khoảng niên hiệu Thiên Thuận (1128 – 1132)
gặp năm hạn hán, vua xuống chiếu thỉnh sư về kinh cầu mưa. Lễ cầu đảo được
ứng nghiệm, sư được trọng vào bậc danh tăng, ban cho áo ngự. Sau đó mỗi
khi có việc cầu đảo, triều đình đều giao cho sư làm chủ trì.
Tháng hai năm Chính Long Bảo Ứng thứ nhất
(1163), giữa ban ngày sư đốt hương vĩnh quyết tăng chúng, rồi trang nghiêm
qua đời, thọ 71 tuổi. Hình xác đến nay vẫn còn. Người đương thời thường
gọi sư là Phật sống. Về sau tuy gặp binh hỏa, di thế sư vẫn không bị hư
hại(1).
(?-1140)
Chùa Chúc Thánh, hương Nghĩa Trụ, huyện
Bình Lạc.
Thiền sư họ Nguyễn, tên cũ là Pháp Mật,
người hương Tây Kết, là hậu duệ của Nguyễn Kha, giữ chức Nội cung phụng đô
úy dưới triều Tiền Lê. Ông từ nhỏ đã có tướng mạo khác thường, một vị sư
lạ trông thấy khen rằng: “Cậu bé này cốt tướng phi phàm, nếu xuất gia ắt
trở thành giống pháp chân chính”. Lớn lên ông đến thụ nghiệp với thiền sư
Thuần Chân ở chùa Hoa Quang, lĩnh hội những điều yếu chỉ, rồi được thụ
giới cụ túc. Thuần chân thấy sư giới định đều được viên mãn, thanh tịnh,
học một biết mười, bèn xoa đỉnh đầu mà bảo:
- Chính pháp phương Nam đang đợi người xiển
dương đây!
Từ đó sư siêu thoát ra ngoài ý niệm hữu,
vô; gồm thông cả đốn, tiệm(1).
Sư đến nơi nào đều bố thí mưa pháp rộng khắp, làm chấn động huyền phong,
tăng ni sỉ thứ đều quy mộ.
Ngày 14 tháng sáu năm Kỷ mùi niên hiệu
Thiệu Minh thứ 3 (1140) sư gọi các môn đồ đệ tử đến bảo:
- Vô sự! Vô sự!
Nói xong bèn hóa.
Thế hệ thứ mười bốn
4 người, chép thiếu 3 người.
(1067 – 1142)
Hương Từ Liêm, huyện Vĩnh Khang.
Tăng thống quê hương Cổ Giao, huyện Long
Biên, họ Nguyễn, thuộc dòng tịnh hạnh. Từ nhỏ ông kiêng ăn thịt cá, lớn
lên theo thụ nghiệp với thiền sư Bàn Tịch ở chùa Chúc Thánh.
Một hôm theo Bản Tịch đến nhà đàn việt thụ
trai, dọc đường sư hỏi:
- Thế nào là ý chí của tổ sư? Sao thầy lại
nghe theo dân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc?
Bản tịch đáp:
- Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt
giáng thần?
Sư nói:
- Chẳng phải là hòa thượng đùa bỡn con hay
sao?
Bản Tịch đáp:
- Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào!
Sư không hiểu ý thầy, bèn cáo biệt rồi bỏ
đi. Sau đó sư đến chùa Vạn Tuế. Thiền sư Biện Tài hỏi:
- Ngươi từ đâu tới?
Sư đáp:
- Từ chỗ thầy Bản Tịch đến.
- Thầy ấy cũng là thiện trí thức một
phương. Thầy ấy bảo ngươi thế nào?
Sư thưa:
- Đệ tử theo hầu bản sư đã lâu nhưng chỉ
hỏi một câu mà người không chịu nói.
Biện Tài hỏi:
- Ngươi hỏi thế nào?
Sư kể lại lời đối thoại bữa trước, Biện Tài
nghe xong nói:
- Ôi! Thầy Bản Tịch đã nói hết nhẽ cho
ngươi rồi đấy. Ngươi chớ nên hủy báng bản sư mới được.
Sư im lặng suy nghĩ. Biện Tài nói:
- Khi chẳng thấy đạt đạo thì dù có đi khắp
cõi cũng không ngộ được, mãi mãi sai trái thôi.
Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ, bèn trở về chùa cũ.
Bản Tịch thấy sư về, hỏi:
- Người đi đâu mà quay về nhanh thế?
Sư sụp xuống lạy tạ, thưa rằng.
- Đệ tử mang tội hủy báng hòa thượng nên
trở lại xin sám hối.
Bản tịch thôi không hỏi nữa. Từ đó sư cùng
hai thiền giả là Tịnh Nhãn, Tịnh Như thường được đứng hầu thầy. Một hôm
Bản Tịch nói:
- Các kẻ nhân giả kia học đạo của ta đã
lâu, nay mỗi người cũng nên trình bày kiến giải của mình để ta xem sự tiến
đạo thế nào?
Tịnh Nhãn, Tịnh Như toan mở miệng trở lời,
sư bèn quát to:
- Mắt bị vảy cá thì đốm hoa rơi loạn giữa
không trung.
- Xà Lê Khánh Hi, ngươi đi thuyền sao lại
đập vỡ gầu múc nước?
Sư nói:
- Dùng thuyền làm gì?
Bản Tịch nói:
- Kẻ lanh lẹn này! Chớ nói toạc ra! Ngươi
chỉ thuyết giải(1)
được một phía thôi, nếu là việc phía bên kia thì chưa mộng thấy.
Sư đáp:
- Tuy thế cũng chỉ là nó mà thôi.
Bản tịch nói:
- Chống thuyền rời bến một trăm thước, rồi
buông sào đi bộ, thì ngươi nói sao?
Sư giơ cả hai tay lên đáp:
- Chẳng hiểu! Chẳng hiểu!
Bản tịch nói:
- Tha cho ngươi một đòn!
Từ đó danh tiếng của sư lan truyền khắp
chốn tùng lâm.
Trong khoảng niên hiệu Thiên Chương Bảo tự
(1133-1138) sư được vời về kinh. Vua Lý Thần Tông khen sư ứng đối hợp ý,
phong làm tăng lục, sau thăng đến chức tăng thống.
Một hôm đệ tử Pháp Dung hỏi:
- Thầy thấu đạt lẽ sắc không, vậy thì sắc
là phàm hay là thánh?
Sư bèn ứng khẩu đọc bài kệ rằng:
Lão sinh hưu vấn sắc kiêm không
Học đạo vô qua phỏng tổ tông
Thiền ngoại mịch tâm nan định thế
Nhân gian thực quế khởi thành tùng
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ
Thùy tri phàm thánh dữ tây đông.
Dịch:
Kiếp trần khoan nói sắc cùng không
Học đạo gì hơn hỏi tổ tông
Tâm kiếm ngoài trời khôn định thể
Quế trồng ngoài trời khôn định thể
Quế trồng cõi tục há đăm bông?
Mảy lòng chứa cả kiếp khôn rộng
Hạt cải thu gồm nhật nguyệt trong
Trước mắt nắm ngay công dụng lớn
Ai hay phàm thánh với tây đông?
ĐÀO PHƯƠNG BÌNH
(TVLT1)
Ngày 27 tháng giêng năm Nhâm tuất niên hiệu
Đại Định thứ 3 (1142) sư lâm bệnh rồi qua đời, thọ 76 tuổi. Sư có tác phẩm
Ngộ đạo thi ca tập lưu hành ở đời.
Nguyên chú: Theo Sử ký(1)
sư thị tịch năm Thiên Chương Bảo Tự thứ 3 (1135). Tại đây xin cứ ghi
cả hai thuyết ấy.
*
* *
Thế hệ thứ mười lăm
3 người, chép thiếu một người.
Chùa ở hương Tháp Bát, quận Mãn Đẩu. Thiền
sư họ Nguyễn, tên là Tuân, con nhà lương gia trong bản quân. Từ thuở nhỏ
ông đã mến chuộng đạo Phật, xuất gia thụ giới cụ túc với thiền sư Quảng
Phúc ở chùa Nguyên Hòa núi Chân Ma. Sau mấy năm tu học, sư lĩnh hội được ý
chỉ của thầy rồi đến núi Lịch Sơn dựng thảo am chuyên chú tu tập thiền
định trong khoảng năm sáu năm. Sáu sư xuống núi chống thiền trượng tùy
phương hóa đạo. Qua vùng Nam Sách, sư trụ lại lền Thánh Chúa tu hạnh Đầu
đà trong sáu năm, ác thú đều đến thuần phục, quỉ thần cũng đến xin sư sai
khiến.
Vua Lý Thân Tông nhiều lần sai đem chiếu
chỉ thỉnh sư về kinh, nhưng sư từ chối. Đến năm Thiên Thuận thứ 8 (1135)(1)
dịch bệnh hoành hành, vua lại vời sư về kinh chữa bệnh. Sư vừa về đến cửa
khuyết thì có sắc chỉ ủy cho sư đến chùa Gia Lâm để làm phép chú thủy chữa
bệnh, mỗi ngày cứu sống được hàng nghìn người. Vua khen ngợi cấp cho 10 hộ
được miễn tô thuế để phụng dưỡng.
Về già sư trở về bản hương lo việc trùng tu
các chùa hoang phế, tất cả được 95 sở. Một hôm sư không bệnh, gọi tăng
chúng đến đọc bài kệ:
Ngã hữu nhất sự kỳ đặc
Phí thanh hoàng xích bạch hắc
Thiên hạ tại gia xuất gia
Thân sinh ố tử vi tặc
Bất tri sinh tử dị lộ
Sinh tử chỉ thị thất đắc
Nhược ngôn sinh tử dị đồ
Trảm khước Thích ca, Di Lặc
Nhược tri sinh tử, sinh tử(1)
Phương hội lão tăng xử nặc
Nhữ đẳng hậu học môn nhân
Mạc nhận bản tinh quỹ tắc
Dịch:
Ta có việc này kỳ quặc
Chẳng xanh vàng đỏ trắng đen
Cả người tại gia xuất gia
Tham sinh gét tử là giặc
Chẳng hay sống chết khác nẻo
Sinh tử chỉ là được mất
Bảo rằng sinh tử khác đường
Lừa dối Thích Ca, Di Lặc
Biết sinh tử là sinh tử
Mới hiểu nơi ta ẩn nấp
Môn nhân hậu học các ngươi
Chớ nên nhỏ hẹp lầm chấp!
Đọc kệ xong, sư cười lớn một tiếng, rồi
chắp tay mà viên tịch. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm, phòng át sứ Hán
Công Đinh (?) làm lễ hỏa táng, thu xá lị, xây tháp, đắp tượng, đèn hương
cũng dâng.
*
* *
(?-1174)
Chùa Hương Nghiêm(2)
núi Ma Ni, phú Thanh Hóa.
Thiền sư người Bối Lý, họ Lê, là dòng dõi
của Lê Lương, châu
Mục Ái Châu thuộc thời Đường. Gia thế 15
đời là dòng quý tộc ở bản châu. Cha là Huyền Ngật, đạo hiệu là Tăng Phán.
Sư khôi ngô tuấn tú, giọng nói trong trẻo, từng viết nhiều bi văn, kệ,
tán, khắc bia đá chuông đồng ở các chùa chiền. Sự xuất gia từ thuở nhỏ
theo hầu tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ. Tăng Thống thấy sư là người xuất
chúng bèn truyền cho pháp ấn. Từ đó sư được tùy ý đi hóa đạo các nơi. Sư
trụ ở chùa Khai Giác trên núi Thừa Phong, môn đồ các nơi đến học đạo rất
đông. Sau, sư về núi nhà dựng chùa, trụ trì ở đó cho đến tuổi già.
Ngày 5 tháng hai năm Giáp Ngọ niên hiệu
Thiên cảm Chí bảo thứ 1 (1174) sư không bệnh mà hóa. Môn nhân là Đạo Lâm
v.v... làm lễ hỏa táng, dựng tháp ở núi nhà để phụng thờ.
Am Phú Môn, núi Cao Dã, huyện Yên Lãng.
Thiền sư còn có pháp hiệu là Tỉnh Lư, quê ở
Phong Châu, họ Lê, tên húy là Thước, là dòng dòi Ngự Man vương(1).
Ông nội là Lê Tông Thuận(2)
làm quan triều Lý đến chức Trung thư đại liêu ban, kết duyên với công chúa
Kim Thành. Cha là Lê Đạc, làm quan đến chức Minh Tự. Anh là Kiếm, giữ chức
Tam nguyên đô tuần kiếm, sau được bổ chức châu mục Phong châu.
Thuở nhỏ, ông theo nghiệp trường ốc, thi đỗ
tiến sỹ, được phong chức Cung hậu thư gia. Năm 27 tuổi theo anh đến pháp
tịch(3) của thiền
sư Giới Không nghe giảng kinh Kim Cương. Đến câu:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyền ảo ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thi quán
Dịch:
Tất cả pháp hữu vi
Như mộng ảo bọt bóng
Như chớp và như sương
Phải quan sát như vậy
Sư bỗng nhiên cảm ngộ, than rằng:
- Mấy lời nói kia của Như Lai chẳng phải là
lời nói suông. Các pháp(1)
ở thế gian này đều là hư ảo không thực, chỉ có Đạo mới là thực. Ta còn cầu
gì nữa, và lại Nho gia thì nói vẻ Đạo vua tôi cha con, Phật pháp thì nói
về công đức của các bậc Thanh văn, Bồ tát(2).
Hai giáo tuy có khác nhưng qui về chỉ một mối mà thôi. Nhưng muốn vượt
qua nỗi khổ sinh, tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu, vô, ngoài Phật giáo ra thì
không thể đạt được.
Nghĩ vậy ông bèn xin xuất gia. Sau khi được
truyền tâm ấn, sư vào núi Cao Dã trụ dưới gốc cây, ban ngày đọc kinh, đêm
ngồi thiền định, chuyên chú tu trì khổ hành, thề đủ 6 năm.
Một hôm sư đang ngồi, thấy con hổ đuổi con
hươu chạy đến, sư bèn khuyên rằng:
- Tất cả chúng sinh đều luyến tiếc tính
mạng, mi chớ nên làm hại con vật kia.
Hổ bèn cúi đầu, tỏ dấu quy y, rồi đi. Về
sau sự dựng am dưới núi, thu nhận môn đồ để truyền dạy. Thiện nạm tín nữ
bốn phương dâng lễ cúng dàng chất đầy am. Ở chốn núi rừng này thường có
bọn người Man Lạo tụ tập làm trộm cướp. Khi sư có việc đi vắng thường có
con hổ lớn đến nằm canh giữ trước cửa am, trộm cướp không dám phạm đến.
Những người Nghe lời sư dự báo trở về làm ăn lương thiện nhiều không kể
xiết. Hai vua Lý Anh Tông và Cao Tông nhiều lần thỉnh sư về kinh nhưng sư
đều từ chối. Các đại thàn như Phụ quốc thái úy Tô Hiến Thành, thái bảo Ngô
Hòa Nghĩa xin làm đệ tử mà suốt 10 năm chưa từng được gặp sư.
Bỗng một hôm sư tiếp các đại thần đệ tử nói
trên. Sư vui vẻ thăm hỏi mọi người rồi đọc bài kệ:
Ký hoài xuất tố dưỡng hung trung
Văn thuyết vi ngôn ý doãn tùng
Tham dục truất trừ thiên lý ngoại
Hi Di chi lý nhật bao dung
Dịch:
Như muốn lìa xa cõi bụi hồng
Vẳng nghe lời nguyện hãy vui lòng
Đuổi ngoài nghìn dặm niềm tham muốn
Để lẽ huyền vi chứa ở trong
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Bài thứ hai:
Đạm nhiên tự thủ
Duy đức thị vụ
Hoặc văn thiện ngôn
Quyền quyền nhất cú
Tâm vô bỉ ngã
Ký tuyệt hôn mai
Nhật dạ trắc giáng
Vô hình khả trụ
Như ảnh như hưởng
Vô tích khả xú
Dịch:
Đạm bạc giữ mình
Chỉ lo đạo đức
Có lời nói tốt
Giữ lấy khư khư
Dứt tuyệt mê mờ
Ngày đêm đổi thay
Không hình trú ngụ
Như bóng như vang
Không chú dấu vết
Nói xong, sư chắp tay nghiêm trang mà qua
đời. Các ông Tô Hiến Thành, Ngô Hòa Nghĩa và các đệ tử khác gào khóc vang
động cả sơn môn.
*
* *
(1046-1100)
Chùa Chúc Thánh, núi Phả Lại, trại Phù Lan(1)
Thiền sư người hương Phù Đổng, huyện Tiên
Du, ho Vương, húy là hải Thiềm, xuất thân trong một gia đình quý tộc. Khi
mẹ ông mang thai, cha ông mộng thấy vị sư người Ấn Độ(2)
trao cho cây tích trượng, sau đó sinh ra ông. Ông mồ côi từ thuở nhỏ, khổ
công đèn sách học tập, không mấy chú ý đến những việc lặt vặt. Năm 15 tuổi
bác thông sử sách. Đến năm 20 tuổi đi khắp nơi trong chốn tùng lâm để tìm
nơi vừa ý. Sư đến chùa Tỉnh Lự ở núi Đông Cứu(3)
nghe thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa, lòng bừng tỉnh ngộ. Từ đó cơ
duyên khế hợp khác nào rùa gặp bốc cây, Sư được Thảo Nhất nhận làm đệ tử
thân cận, sớm tối có dịp hỏi han những điều yếu chỉ, hiểu biết thiền học
ngày càng tăng tiến. Sư lĩnh thụ tâm ấn rồi đến trụ ở núi Phải Lai, tu trì
giới luật suốt hai mươi năm không bước chân xuống núi, danh tiếng đồn vang
khắp gần xa. Vua Lý Nhân Tông kính mộ sư, viết chiếu chỉ sai sứ mời sư về
Đại nội giảng kinh Pháp Hoa, người đến nghe sư giảng kinh đông nượp
như trầy hội.
Bấy giờ thái uý Lý Thường Kiệt(1)
thứ sử Lạng Châu, tướng quốc họ Thân đặc biệt giữ lễ tôn kính đối với sư,
thường xuất của cải cúng dành rất trọng hậu. Sư đem dùng của công đức ấy
vào việc sửa chùa, xây tháp, đúc chuông để lưu truyền muôn đời.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là đạo huyền?
Sư đáp:
- Sau khi giác ngộ rồi mới biết.
- Lời thầy dạy trước đây đệ tử chưa hiểu
rõ. Nay thầy lại dạy thế, đệ tử không sao hiểu nổi.
Đáp:
- Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
Hoàn đan thay cốt được mang về.
(Nhược đáo tiên gia thâm động nội
Hoàn đan hoán cốt đắc hoài qui
Hỏi:
- Thế nào là hoàn đan?(2)
Đáp:
- Nhiều kiếp tối tâm không hiểu thấu
Sáng nay chợt ngộ được khai minh.
(Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
Kim thần nhất ngộ đắc khai minh)
Hỏi:
- Thế nào là khai minh?
Đáp:
- Khai minh chiếu khắp cõi sa hà
Hết thảy chúng sinh thuộc một nhà.
(Khai minh chiếu triệt sa hà giới
Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia)
- Đệ tử vẫn chưa hiểu rõ.
- Nơi nơi đều gặp nó.
Tăng lại hỏi:
- Nó là cái gì?
- Lửa kiếp hun sâu tơ hào trụi
Núi xanh như cũ trắng mây bay
(Kiếp hỏa động nhiên hào mạt tận
Thanh sơn y cựu bạch vân phi)
- Khi sắc thân hư nát thì thế nào?
- Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết
Hoa nở, hoa tàn, ấy vẫn xuân
(Xuân lai, xuân khứ, nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân)
Vị tăng còn nghĩ ngợi, sư quát bảo:
- Đất bằng qua binh hỏa
Cây cối dượm hương thơm
(Bình nguyên kinh hỏa hậu
Thực vật các thủ phương)
Vị tăng bèn sụp xuống lạy tạ.
Đến khi tuổi già, sư trở về bản quận trúng
tu chùa Bảo Cảm. Ngày mồng một tháng mười một năm Hội Phong thứ 9 (1100)
trước khi thị tịch sư đọc kệ rằng:
Diệu bản hư vô nhật nhật khoa
Hòa phong xuy khởi biến sa hà
Nhân nhân tận thức vô vi lạc
Nhược đắc vô vĩ thủy thị gia.
Dịch:
Hư vô, điệu thể vẫn khoe bày
Khắp cõi sa hà, gió dịu bay
Vui nhất vô vi, ai cũng hiểu
Vô vi, nhà ở chính nơi này.
HUỆ CHI
(TVLT 1)
Nửa đêm hôm ấy sư lại nói:
- Đạo của ta đã thành, việc giáo hóa đã
xong, giờ đây ta ra đi được rồi.
Nói xong sư ngồi kiết già mà tịch, thọ 55
tuổi, được 36 tuổi hạ. Hoàng thái hậu
(1), công chúa
Thiên Thánh, đệ tử Diệu Nhân ni sư
(2) làm lễ cúng
dàng phúng viếng. Cách hai ngày sau, Nghĩa Hải đại sư ở chùa Đại Minh, sa
môn được ban áo tía là Pháp Thành dẫn đầu tăng chúng làm lễ an táng, xây
tháp thờ ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài
minh khắc bia tháp. Thượng thư bộ Công Đoàn Văn Khâm làm thơ truy điệu như
sau:
Hạnh cao triều dã trấn thanh phong
Tích trụ như vân mộ tập long
Nhân vũ hốt kinh băng huệ đống
Đạo lâm trường thán yển trinh tùng
Phần oanh bích thảo thiên tân tháp
Thùy trám thanh sơn nhận tạ dung
Tịch tịch thiền quan thùy cánh khấu
Kinh qua sầu thính mộ thiên chung.
Dịch:
Đức cao triều nội tiếng vang lừng
Môn đệ như mây quấn bóng rồng
Kinh hoảng nhà nhân rơi cột chống
Ngậm ngùi rừng đạo đổ vầng thông
Bên mồ cỏ biếc vùi chân tháp
Đáy suối non xanh mượn nước trong
Vắng vẻ cửa thiền ai đến gõ
Buồn nghe chiều vắng tiếng chuông buông.
*
* *
(? – 1203)
Chùa Long Vân, hương Siêu loại, Long Phúc.
Thiền sư người hương Cửu Cao, quận Chu
Diên, họ Tăng. Từ nhỏ đã mến chuộng Không tông(1),
chí khí cao cả, đức hạnh thuần khiết. Lúc đầu sư thụ nghiệp với thiền sư
Pháp Dung ở chùa Hương Nghiêm. Chưa đầy vài năm đã được thầy mật truyền
tâm ấn, sau đó sư đi giảng hóa các nơi để làm cho ngọn lửa Tổ thêm sáng.
Khi tiếp xúc các sự việc, sư làm lợi cho mọi người không ít.
Tháng năm năm Quý hợi niên hiệu Thiên Gia
Bảo Hựu thứ 2 (1203) sư ngồi kiết già mà tịch.
*
* *
Thế hệ thứ mười bẩy
4 người, chép thiếu 1 người
(1042-1113)
Viện Hương Hải, hương Phù Đổng, huyện Tiêu
Du.
Ni sư húy là Ngọc Kiều, trưởng nữ của Phụng
Kiền vương.
Bà thiền tư tư thuần hậu, ngôn hạnh đoan
trang, được vua Lý Thánh Tông nuôi ở trong cung từ nhỏ. Đến tuổi trưởng
thành, vua gả bà cho châu mục châu Chân Đăng(1)
họ Lê. Ông họ Lê mất, bà thề thủ tiết không tái giá. Một hôm bà phàn nàn
rằng:
- Ta xem tất cả các pháp trong thế gian đều
như mộng ảo, huống gì là những thứ vinh hoa phù phiếm mà có thể trông cậy
được hay sao?
Từ đó bà dốc tư trang, gia sản bố thí cho
dân chúng, rồi cạo tóc xuất gia, tìm đến xin thụ giới Bồ Tát với thiền sư
Chân Không ở hương Phù Đổng. Ni sư chuyên chú học hỏi những điều tâm yếu,
được thiền sư Chân Không đặt cho pháp danh là Diệu Nhân và đưa đến trụ trì
ở Ni viện Hương Hải. Sư tu tập, hành thiền được chính định, trở thành bậc
mẫu mực trong hàng ni sư thời bấy giờ. Có người đến cầu học, sư tất dạy
cho tập Đại thừa. Sư nói:
- Nếu trở về được nguồn tự tính thì đốn ngộ
hay tiệm ngộ cũng sẽ tùy đó mà thể nhận.
Sư thường thích lặng lẽ, tránh thanh sắc ồn
ào.
Có đệ tử hỏi:
- Hết thảy chúng sinh bệnh thì ta cũng
bệnh, tại sao lại cứ phải kiêng kỵ thanh sắc?
Sư dẫn kinh sách đáp:
- Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai
Dịch:
Nếu dùng sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy hành tà đạo
Chẳng thể thấy Như lai.
Lại hỏi:
- Ngồi yên là thế nào?
Đáp:
- Xưa nay vốn không đi.
Lại hỏi:
- Không nói là thế nào?
Đáp:
- Đạo vốn không lời.
Ngày mồng một tháng sáu năm Hội Tường Đại
Khánh thứ 4 (1113), sư lâm bệnh, gọi tăng chúng đến đọc kệ rằng:
Sinh, lão, bệnh, tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải phọc thiêm triền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.
Dịch:
Sinh, lão, bệnh, tử
Lẽ thường tự nhiên
Muốn cầu thoát ly
Càng thêm trói buộc
Mê, mới cầu Phật
Hoặc, mới cầu Thiền
Chẳng cầu Thiền, Phật
Mím miệng ngồi yên
Nói xong bèn gội tóc, tắm rửa sạch sẽ, ngồi
kiết già mà viên tịch, thọ 72 tuổi
*
* *
(1073 – 1136)
Chùa Đại An Quốc, hương Cổ Hạnh, huyện Tế
Giang.
Thiền sư họ Hoàng, ngường hương Như Nguyệt.
Thủa nhỏ học Nho, đến tuổi trưởng thành mới theo học Phật, nhờ một câu nói
của thiền sư Chân Không mà bừng tỉnh. Từ đó sự tinh thông thiền học, am
hiểu luật nghi không ai sánh bằng. Sư quanh năm chỉ một manh áo nẹp, đeo
bình bát đi du phương khai hóa. Các việc làm cầu, sửa đường, không việc gì
sư không tự mình đứng ra làm trước. Sau sư đến chùa Quốc Thanh ở hương Phù
Cầm lo liệu việc trùng tù, đúc chuông chùa. Sư có bài kệ hóa duyên như
sau:
Lục thức thường hôn chung dạ khổ
Vô minh bị phú cửu mê dung
Trú dạ văn chung khai giác ngộ
Lãn thần tịnh sát đắc thần thông
Dịch:
Sáu thức tối tâm khổ đêm dài
Vô minh che đậy mãi mê say
Sớm tối nghe chuông, lòng tỉnh giác
Thần lười dứt sạch, dược thần thông
THANH TÚ
(TSVN)
Ngày 14 tháng sáu năm Bính thìn niên hiệu
Thiên Chương Bảo Tự 4 (1136) sư thị tịch, thọ 64 tuổi.
Đệ tử là Ngô Thông Thiền, Lưu Vương Nhân,
Lư Pháp Hoa, Chu Diệu Dung làm lễ hỏa táng, thu di cốt, dựng tháp thờ.
*
* *
(1121-1193)
Chùa Long Hoa, hương Cổ Giao, huyện Long
Biên.
Thiền sư người hương Cổ Giao, họ Phí, tên
húy là Hoàn.
Lúc đầu sư cùng với bạn học là Tịnh Không
theo học với thiền sư Đạo Lâm ở chùa Long Vân, ngày càng thiết tha vì đạo,
hiểu được lẽ huyền vi quan yếu. Đạo Lâm biết sư là Pháp khí, ban cho pháp
danh là Tịnh Thiền, truyền tâm ấn và nói:
- Tịnh là trí tịnh tròn đầy huyền diệu.
Thiền là thiền tâm lặng lẽ.
Sau khi Đạo Lâm viên tịch, sư đi vân du
khắp chốn thiền lâm tìm đạo hữu. Đến lúc phép duyên thành thục, sư trở về
bản quận trùng tu chùa Long Hoa. Rồi từ đó sư trụ trì tại chùa, khảo cứu
thiền luật, còn dư thì giờ thì nghĩ việc mưu lợi dân sinh.
Ngày 12 tháng tám năm Quý sửu niên hiệu
Thiền Tư Gia Thụy thứ 8 (1193) sư thị tịch, thọ 73 tuổi. Đệ tử là Pháp Ký
soạn văn bia có đoạn viết:
Sư sinh triều Lý, gặp buổi thịnh thì
Sáu độ nào quên, bốn hoằng chẳng bỏ
Chén thơm hương tỏa, thập phương tín chủ theo về
Tích trượng vang khua, bốn cõi học trò dồn đến
Thần thông biến hóa, màu nhiệm khôn lường
Nếu không đến cõi Bồ Đề, cao biết ngợi ca diệu lý
Quỷ đúng trời Thiền trăng báu, vườn pháp thôn thiêng
Thế hệ thứ mười tám
2 người, chép thiếu 1 người
(1080-1151)
Chùa Quốc Ân, hương Cổ Hiền, huyện Nam Định(1)
Quốc sư họ Nguyễn, húy là Nguyên Ức, quê ở
hương Cổ Hiền, sau dời về ở phường Thái Bạch, kinh đô Thăng Long. Gia đình
sư mấy đời giữ chức tăng quan. Cha là Huệ Dực, làm quan đến chức Tả hữu
nhai tăng lục dưới triều Lý Nhân Tông, đạo hiệu là Bảo Giác. Sư bẩm tính
thông minh, học tập chóng tiến, đạt đến mức tinh diệu, từ nhỏ đã có chí
xuất gia, thường đến chùa An Quốc học đạo với thiền sư Viên Học, nhờ đó
hiểu sâu yếu chỉ thiền tông. Năm Hội Phong thứ 6 (1097), sư đỗ đầu khoa
thi Tam giáo, được sung chức Dại Văn(2).
Năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 8 (1108) triều đình mở khoa thi Hoành tài để
chọn người bổ giữ chức quan tăng, đạo còn khuyết, sư lại đỗ đầu. Vua Lý
Nhân Tông cho là bậc kỳ tài, định phong quan tước, nhưng sư cố từ, chỉ
nhận chức Nội cung phụng truyền pháp sư. Từ đó sư tùy có giảng hóa tiếp
dẫn, phàm người thế tục đến tham vấn đều được sư giải mê giác ngộ. Những
người thụ nghiệp với sư về sau đều trở thành nổi tiếng đương thời.
Năm Đại Khánh thứ 3 (1112) trùng hưng chùa
Diên Thọ, khi hoàn thành, sư vâng mệnh vua soạn văn bia. Vua đánh giá cao
tài năng của sư, thăng cho sư giữ chức Tả nhai tăng lục. Năm Thiên Thuận
thứ 3 (1130) đời Lý Nhân Tông, vua thỉnh sư vào điện Sùng Khải để hỏi kế
hưng, vong, trị, loạn. Sư đáp:
- Thiên hạ cũng ví như đồ dùng, đặt vào chỗ
yên thì nó được yên, đặt vào chỗ nguy thì tất bị nguy. Xin bệ hạ hành sử
đức hiếu sinh cho hợp với lòng dân thì dân sẽ kính yêu như cha mẹ, ngưỡng
mộ như mặt trăng mặt trời. Ấy là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy.
Sư lại nói:
- Trị hay loạn là ở dân. Quan lại được lòng
người thì trị, mà mất lòng người thì loạn. Thần trải xem các bậc đế vương
đời trước, chưa từng có triều đại nào không dùng quân tử mà hưng thịnh, mà
cũng không có triều đại nào không dùng tiểu nhân mà suy vong. Nguồn gốc
dẫn đến điều đó thì không chỉ một sớm một chiều, mà có mạnh nha từ trước.
Trời đất không thể nóng hay lạnh tức khắc, mà phải chuyển biến dần từ mùa
xuân qua mùa thu. Bậc nhân quân chỉ trong một lúc được hay mất thiên hạ,
tất là do đức thiện hay ác đã tích tụ từ lâu. Các bậc thánh vương đời xưa
biết vậy nên bát chước trời(1)không
ngừng sửa mình; bắt chước, không ngừng tu đức để giữ yên dân. Sửa mình thì
trong lòng thận trọng như đi trên băng mỏng, yên dân thì kinh sợ như người
cưỡi ngựa mà nắm dây cương mục nát. Được như thế thì không thể không hưng
thịnh, không được như thế thì không thể không suy vong. Sư hưng vong diễn
tiến dần dần là như vậy.
Lời đáp của sư quả nhiên hợp ý vua, vua bên
gia phong sư chức Hữu nhai tăng thống, trông coi công việc của bản đạo. Từ
đó sư được tùy ý ra vào cung cấm để dâng lời khuyên răn can gián, chưa
từng biếng trễ với chức vụ giúp rập vua. Về sau, sư vâng mệnh đến quán Tây
Dương làm lễ bao vệ thai Vua(1)
có ứng nghiệm. Vua lại càng thêm quý trọng, khi có lễ triều yết, sư được
đứng cùng thứ bậc với thái tử.
Năm Thiên Chương Bảo Tự(2)
thứ 5 (1137) vua Lý Thần Tông băng hà, vâng theo di chiếu, sư được dự hàng
cố mệnh đại thần, được ủy thác các việc triều chính.
Năm Triệu Minh thứ nhất (1138), vua Lý Anh
Tông lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, thái hậu nhiếp chính, xét sư là người có
công tôn lập hoàng thái tử nên nhiều lần ban thưởng trọng hậu.
Sau sư trở về bản quán dựng chùa Quốc Ân,
trụ trì tại đó cho đến cuối đời. Triều đình lại cho ba thôn sở tại được
miễn tô thuế, lấy đó chu cấp phí dụng cho chùa để tỏ ý khen thưởng.
Năm Đại Định thứ 4 (1143) sư được tiến
phong Tả hữu nhai tăng thống nội cung phụng tri giáo môn công sự, truyện
giảng Tam tạng văn chương, ứng chế hộ quốc quân sư, ban hàm Tử y đại sa
môn. Đó là chức vị quan trọng, quá là bậc đại thần được trong triều ngoài
quận tôn kính.
Ngày 21 tháng tư năm nhuận Tân mùi, niên
hiệu Đại Đinh (1151), sư không bệnh, gọi tăng chúng đến quyết biệt rồi qua
đời, thọ 72 tuổi.
Sư từng âng chiếu chỉ soạn sách Chư Phật
tích duyên sự (hơn 30 quyển), Hồng chung văn bi ký, Tăng gia tạp
luc (hơn 50 quyển), thơ phú có đến hơn nghìn bài lưu hành ở đời.
Thế hệ thứ mười chín
2 người, chép thiếu một người.
(? – 1213)
Chùa Đại Từ, Đại Thông trường, huyện Long
Phúc.
Thiền sư họ Nguyễn, quê ở Cẩm Hương, phủ
Nghệ An, tư thái phong nhã, có tài biện thuyết. Từ nhỏ đã học thông sử
sách, chọn bạn giao du để học hỏi tiến ích, đối với kinh điển Phật giáo
lại càng chú ý nghiên cứu. Năm ba mươi tuổi, ông xuất gia học đạo với một
vị trưởng lão trong bản hương, sau đến kinh đô tham vấn quốc sư Viên
Thương, được quốc sư truyền tâm ấn. Từ đó sư tùy phương hành hóa, có chí
làm điều lợi cho mọi người. Có tiền của riêng, sư đều dùng vào việc Phật.
Sư từng soạn bài văn phố khuyến, có câu:
Điếu danh thị lợi giai như thủy thượng phù
âu
Thực phúc chủng duyên tận thị hung trung
hữu hoài bão.
Dịch:
Tham danh cầu lợi, thảy như mặt nước bọt trôi
Cấy phúc gieo duyên, đều là tấm lòng hoài bão
Về già sư đến trụ trì chùa Nam Mô ở hương
Yên Lãng. Sư từng dạy môn đồ:
- Các mgươi nên biết: Như Lai thành bậc
Chính giác không có điều gì không quan sát, đối với mọi pháp đều xem là
bình đẳng(1). Đó
là điều duy nhất không có gì phải ngờ vực.
Không tâm, không đi, không dừng, không
lường, không ngăn cách, không thiên bên nào, trụ giữa trung đạo, vượt qua
tất cả mọi ngôn ngữ văn tự, truyền đến được tất cả mọi chúng sinh lượng
đẳng thân(2), tất
cả mọi cõi lượng đẳng thân, tất cả tam giới(3)
lượng đẳng thân, truyền được như Chân Như lượng đẳng thân, hư không giới
lượng đẳng thân, tất cả mọi hạnh lượng đẳng thân, tất cả tinh diệt lượng
đẳng thân.
Rồi sư đọc bài kệ:
Như lai thành chính giác
Nhất thiết lượng đẳng thân
Hồi hỗ bất hồi hỗ
Nhân tinh đồng tử thần.
Dịch:
Như lai thành chính giác
Tất cả thảy như nhau
Long lanh hay ngưng đọng
Sáng ngời ánh mắt sao
Bài thứ hai:
Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Nguyệt điện vinh đan quế
Đan quế tại nhất luân
Dịch:
Chân thân thành vạn tượng
Vạn tượng tức chân thân
Điện nguyệt sum đan quế
Quế đỏ sáng một vầng
Trước khi thị tịch, sư gọi môn đồ đến bảo:
- Ta không trở lại cõi này nữa!
Bấy giờ cây hoa trước Phật đường tự nhiên
rụng bông, yến sẻ kêu buồn suốt ba tuần. Rồi sư qua đời ngày 18 tháng ba
(Bính Tí) niên hiệu Kiến Gia thứ 3 (1213)
*
* *
THIỀN
PHÁI THẢO ĐƯỜNG
Chùa Khai Quốc, kinh đô Thăng Long
(Thiền tông phái Tuyết Đậu Minh Giác)(1)
Thế hệ thứ nhất
3 người
- Lý Thánh Tông hoàng đế.
- Thiền sư Bát Nhã: Chùa Từ Quang Phúc
Thánh ở hương Dịch Vương, huyện Trương Canh.
- Cư sĩ Ngộ Xá: hương Bảo Tài, huyện Long
Chương.
(Ba vị trên đều nối pháp tự của Thảo Đường)
Thế hệ thứ hai
4 người
- Ngộ tham chính Ích
(Nối pháp tự của Lý Thánh Tông)
Thiền sư Hoằng Minh
(Nối pháp tự của Bát Nhã)
- Thiền sư Không Lộ: chùa Nghiêm Quang,
hương Hải Thanh.
- Thiền sư Định Giác (còn có pháp danh là
Giác Hải, hai vị nói trên đều nối pháp tự của Ngộ Xá, ghi theo sách Nam
tông đồ của phái Kiến sơ(1).
Thế hệ thứ ba
4 người.
- Đỗ thái Phó Vũ(2)
(Nối pháp tự của Ngô tham chính, có thuyết
nói là nối pháp tự của Định Giác)
- Thiền sư Phạn Âm: hương Thanh Oai, huyện
An La.
(Nối pháp tự của Thiệu Minh(3)
- Lý Anh Tông hoàng đế
- Thiền sư Đỗ Đô(4)
(Ba vị nói trên nối pháp tự của Không Lộ,
cũng có người nói là nối pháp tự của Định Giác).
Thế hệ thứ tư
3 người(5)
- Thiền sư Trương Tam Tạng
(Nối pháp tự của Phạn Âm, cũng có thuyết
nói là nối pháp tự của Định Giác)
- Thiền sư Chân Huyền.
- Thái phó Đỗ Thường
(Ba vị nói trên nói pháp tự của Đô Đô thiền
sư. Cũng có thuyết nói Thái phó Đỗ Thường nối pháp tự của Tịnh thiền sư
dòng Kiến sơ).
Thế hệ thứ năm
4 người
- Thiền sư Hải Tịnh.
- Lý Cao tông hoàng đế.
- Nguyễn Thức, Quân giáp kép hát.
(Ba vị nói trên nối pháp tự của Trương Tam
Tạng).
- Phạm Phùng Ngự
(Nối pháp tự của Chân Huyền, cũng có người
nói nối pháp tự của Đỗ thái phó).
---o0o---
Mục Lục > Quyển thượng > Quyển
hạ
---o0o---
Vi tính: Quảng Đại, Quảng Khánh,
Quảng Tuệ, Diệu Đại
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-06-2005