Tiềm phù mật ngữ
Thiên vạn hữu duyên
Hàm vị Tâm tông
Thanh tịnh bản nhiên
Tây Thiên thử thổ
Thử thổ Tây Thiên
Cổ kim nhật nguyệt
Cổ kim sơn xuyên
Xúc đồ thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai chi hào ly
Thất chi bách thiên
Nhữ thiện quan sát
Mạc khiểm nhi tôn
Trực nhiêu vấn ngã
Ngã bản vô ngôn.
Dịch:
Các nơi đồn đại
Dối tự trạo truyền
Rằng thủy tổ ta
Gốc tự Tây Thiên
Truyền pháp nhân
tạng
Gọi đấy là Thiền
Một hoa năm lá
Hạt giống liên miên
Ngầm hợp mật ngữ
Muôn ngàn có duyên
Tâm tông đều gọi
Thanh tịnh bản
nhiên
Tây Thiên cõi này
Cõi này Tây Thiên
Xưa nay nhật nguyệt
Xưa nay sơn xuyên
Chạm đến thành trệ
Phật tổ thành oan
Sai một mảy may
Đi mất trăm ngàn
Ngươi khéo quan sát
Chớ lừa cháu con
Nói thẳng đến ta
Ta vốn vô ngôn
MINH CHI
(LSPGVN)
Sư nghe lời kệ của tổ liền tỉnh
ngộ.
Có vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Khắp tất cả mọi nơi.
Lại hỏi:
- Thế nào là Phật tâm?
Đáp:
- Chưa từng che giấu.
Người ấy lại nói:
- Kẻ học đạo này chưa hiểu.
Sư đáp:
- Ngươi trượt qua rồi!
Sau thiền sư không bệnh mà qua
đời. Bấy giờ là năm Canh thìn niên hiệu Đường Hàm Thông thứ 1
(860).
*
* *
Thế hệ thứ hai
1 người
(? – 901)
Chùa Dịnh Thiền, hương Siêu Loại(1)
Thiền sư người hương Điển Lãnh,
thủa nhỏ xuất gia theo hầu sư Tiệm Nguyên ở chùa Đông Lâm thuộc
bản hương, tự hiệu là Tổ Phong. Ông từng vân du nhiều nơi để cầu
học yếu chỉ Thiền tông. Gặp thiền sư Cảm Thành ở chùa Kiên Sơ
bàn theo hầu để học đạo, hơn mười năm không lúc nào tỏ ra mỏi
mệt. Một hôm sư vào phòng hỏi thầy:
- Trong kinh nói Thích Ca Như Lai
tu hành trải qua ba “A tăng kỳ”(2)
mới thành Phật. Nay thầy lại nói “Tâm tức Phật, Phật tức tâm”,
đệ tử chưa hiểu rõ, xin thầy dạy bảo cho.
Cảm Thành hỏi:
- Ngươi bảo trong kinh nói, tức
là ai nói?
Sư đáp:
- Chẳng lẽ đó không phải là lời
Phật hay sao?
Cảm Thành nói:
- Nếu là Phật nói thì tại sao
trong kinh Văn Thủ lại nói: “Ta ở thế gian bốn mươi chín năm
chưa nói một chữ dạy người”?
Vả lại cổ nhân nói nếu tìm văn để
làm chứng thì càng thêm ngưng trệ: khổ hạnh mà cầu Phật là mê
muội, lìa tâm cầu Phật thì đó là kẻ ngoại đạo. Cứ nắm chấp cái
tâm coi là Phật thì đó là Ma quân.
Sư hỏi:
- Như thế trong cái tâm ấy, cái
gì không phải là Phật? Cái gì chính là Phật?
- Cảm Thành đáp:
- Xưa có người hỏi Mã Tổ: “Tâm
tức là Phật, Phật tức là tâm, vậy cái gì là Phật?” Mã Tố đáp
“Ngươi ngỡ cái gì không phải là Phật thì chỉ ta xem?”. Người kia
không trả lời được. Mã Tổ nói: “Hiểu thấu được thì khắp nơi đều
là Phật. Không giác ngộ thì sai lầm mãi”. Chỉ một thoại đồ ấy
ngươi đã hiểu chưa?(1)
- Đệ tử đã lĩnh ngộ rồi.
Cảm thành nói:
- Người lĩnh ngộ thế nào?
Sư đáp:
- Khắp mọi nơi chẳng đâu không
phải là tâm Phật.
Nói xong bèn sụp xuống lạy tạ.
Cảm Thành nói:
Vậy là ngươi hiểu đúng rồi.
Nhân đó Cảm Thành đặt tên cho sư
là Thiện Hội.
Về sau thiền sư thị tịch ở bản
chùa. Đó là năm Canh thân niên hiệu Đường Quang Hòa thứ 3 (901).
*
* *
Thế hệ thứ ba
(?-957)
Chùa Khai Quốc(1)
kinh đô Thăng Long
Thiền sư người huyện Từ Liêm,
quận Vĩnh Khang, họ Nguyễn còn có một pháp danh khác là Chủ
Phong thiền sư. Khi mang thai bà mẹ thường trai giới, tụng kinh
niêm Phật. Đến khi sinh thấy hào quang tỏa sáng khắp nhà, cha mẹ
cho là điều lạ, có ý định ngày sau sẽ cho con xuất gia. Lớn lên
theo hầu thiền sư Thiện Hội ở hương Siêu Loại. Sư thường hầu
chuyện riêng với thầy để được làm đệ tử thân tín, có dịp hỏi han
những điều huyền vi, hiểu biết Thiền học ngày càng tăng tiến.
Thiện Hội từng bảo sư:
- Sống chết là việc lớn, cần phải
suy ngẫm cho thấu đáo
Sư hỏi:
- Khi sống, chết đến, làm sao mà
tránh?
Thiện Hội đáp.
- Phải nắm lấy chỗ không sống
chết mà tránh.
Lại hỏi:
- Thế nào là chỗ không sống chết?
Đáp:
- Phải ở trong sống chết mới nhận
biết được.
Hỏi:
- Làm thế nào mà tìm
được?
Thiện Hội nói:
- Ngươi hãy đi đi!
Chiều muộn lại đến!
Sư bèn đi ra, đúng hẹn, chiều hôm
đó lại đến. Thiện Hội nói:
- Đợi đến sáng mai mọi người sẽ
chứng tỏ cho người biết.
Sư bừng tỉnh bèn sụp xuống lạy
tạ. Thiện Hội hỏi:
- Ngươi thấy được đạo lý gì?
Sư đáp:
- Đệ tử đã lĩnh hội được rồi!
Thiện Hội lại hỏi:
- Ngươi lĩnh ngộ cái gì?
Sư bèn giơ nắm tay nói:
- Kẻ bất tiếu bị cái này che lấp!
Thiện Hội bèn thôi không hỏi nữa.
Về sau, sư quy tịch năm Bính
Thìn niên hiệu Chu Hiển Đức cho 3
(957).
*
* *
Thế hệ thứ tư
2 người, chỉ chép 1 người
(933-1011)
Chùa Phật Đà, hương Cát Lị,(1)
huyện Thường Lạc.
Ông người hương Cát Lị, huyện
Thường Lạc, họ Ngô tên là Chân Lưu, là hậu duệ của Ngô Thuận(2).
Ông dáng mạo khôi ngô tuấn tú, tính tình phóng khoáng, có chí
khí cao xa. Thuở nhỏ theo học Nho, lớn lên theo đạo Phật, cùng
bạn đồng học Trụ Trì đến chùa Khai Quốc thụ giới cụ túc với
thiền sư Vân Phong, nhờ đó được đọc rộng kinh điển Phật giáo,
hiểu sâu yếu chí Thiền học. Năm bốn mươi tuổi, danh tiếng vang
dội đến triều đình. Vua Đinh Tiên Hoàng vời về kinh đô (Hoa Lư)
hỏi chuyện. Sư đối đáp hợp ý, được vua phong giữ chức Tăng
thống. Năm thứ 2 niên hiệu Thái Bình (971) sư được ban hiệu là
Khuông Việt đại sư. Dưới triều vua Lê Đại Hành, sư đặc biệt được
vua kính trọng, phàm các việc quân quốc triều đình, sư đều được
tham dự. Sư thường đi chơi ở núi Vệ Linh, quận Bình Lỗ, thích
nơi đây cảnh trí đẹp, thanh u, muốn dựng am để ở. Ban đêm sư
chiêm bao thấy thần nhân mặc áo giáp vàng, tay phải đỡ ngọn bảo
tháp, theo sau có hơn chục tên quân hầu dáng mạo hung dữ. Vị
thần bảo với sư rằng: “Ta là Tì Sa Môn(1)
thiên vương, quân hầu theo ta đây đều là bọn quỷ Dạ xoa. Thiên
đế có sắc chỉ sai ta đến nước này gìn giữ cương giới để cho Phật
pháp được hưng thịnh. Ta có duyên với ngươi nên đến đây để nhờ
cậy”. Khi trời sáng, sư vào núi thấy một cây cổ thụ cao chừng
mười trượng, cành lá xum xuê tươi tốt, phía trên có đám mây lành
che bóng. Sư nhân đó thuê thợ đốn cây ấy lấy gỗ tạc tượng thần
theo đúng như đã thấy trong mộng để thờ phụng.
Năm Thiên Phúc thứ nhất (981),
quân Tống sang xâm lược nước ta. Trước đó, vua đã biết chuyện
này, bèn sai sư đến đền cầu đảo xin thần phù hộ. Quân giặc kinh
sợ lui về giữ sông Hữu Ninh. Đến đây, bọn chúng lại thấy sóng
gió nổi lên ùn ùn, giao long nhảy tung trên mặt nước, quân giặc
sợ hãi tan chạy.
Năm Thiên Phúc thứ bẩy (986) nhà
Tống sai Lý Giác
(2) sang sứ nước ta. Bấy giờ pháp sư Đỗ Thuận
cũng có danh tiếng lớn. Vua sai pháp sư cải trang làm giang lệnh
đón tiếp sứ giả ở bến sông. Giác thấy giang lệnh có tài nói
chuyện bèn làm thơ tặng, trong đó có câu “Thiên ngoại hữu thiên
ưng viễn chiếu” (ngoài trời lại có trời soi nữa). Vua bảo Đỗ
pháp sư đưa cho Khuông Việt xem. Khuông Việt xem xong nói: “Sứ
Bắc tôn kính bệ hạ không kém gì vua Tông”. Khi Giác trở về sư
làm bài từ Ngọc lang quy đưa tiễn:
Tường Quang phong hào cẩm phàm
trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp thương
lang
Cửu thiên quy lộ trường
Tình thảm thiết
Đối ly trường
Phan luyến sứ tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân minh báo ngã hoàng.
Dịch:
Nàng tươi gió thuận cánh buồng giương
Thần tiên lại đế hương
Vượt sóng xanh muôn dặm trùng dương
Về trời xa đường trường
Tình thắm thiết
Chén lên đường
Vin xe sứ vấn vương
Xin đem thâm ý vì Nam cương
Tâu vua tôi tỏ tường(1).
HÀ VĂN TẤN
(LSPGVN)
Về sau sư lấy cớ già
yếu xin cáo quan trở về dựng chùa ở núi Du Hi thuộc quận nhà,
rồi trụ trì ở đấy, người các nơi đến theo học rất đông. Một hôm
đệ tử thân cận là Đa Bảo hỏi sư:
- Thế nào là thủy
chung của đạo học?
Sư đáp:
- Thủy chung không
vật thảy hư không
Hiểu được Chân Như,
thể ắt đồng.
(Thủy chung vô vật
diệu hư không
Hội đắc Chân Như thế
tự đồng)
Đa Bảo hỏi:
- Lấy gì bảo chứng?
Sư đáp:
- Không có chỗ cho
người hạ thủ.
Đa Bảo thưa:
- Hòa thượng nói rõ
rồi.
Sư đáp:
- Người hiểu thế nào?
Đa Bảo bèn hết lên một
tiếng.
Ngày mười lăm tháng
hai niêu hiệu Thuận Thiên thứ hai (1011, đời Lý Thái Tổ), trước
lúc quy tịch, sư gọi Đa Bảo đến đọc lời kệ rằng:
Mộc trung nguyên hữu
hỏa
Nguyên hỏa phục hoàn
sinh
Nhược vị mộc vô hỏa
Toàn toại hà do manh?
Dịch:
Lửa trong cây có sẵn
Dù tắt lại bùng
ngay
Nếu bảo cây không
lửa
Xát mạnh sao cháy
cây?
Nói xong sư ngồi kiết
già mà qua đời, thọ 52 tuổi (có người nói thọ 79 tuổi)(1)
*
* *
Thế hệ thứ năm
Chùa Kiến Sơ, hương
Phù Đổng, huyện Tiên Du.
Không biết sư người ở
đâu, cũng không rõ họ gì. Bây giờ Khuông Việt đại sư giáo hóa ở
chùa Khai Quốc, sư đến tham thiền học đạo, được đại sư khen là
người lĩnh ngộ cơ vi, xử sự kính cẩn, riêng được đại sư nhận làm
đệ tử thân tín. Sau khi đắc pháp, sư một mình theo bình bát đi
vân du ngoại vật, sau đến trụ trì ở chùa Kiến Sơ.
Khi Lý Công Uẩn còn
nhỏ tuổi, sư thấy dáng mạo tinh anh tuấn tú khác thường, bèn
nói: “Cậu bé này cốt tướng chẳng phải tầm thường, ngày sau làm
vua ắt là người này”. Lý Công Uẩn cả sợ nói: “Ngày nay thánh đế
đang trị vì, trong nước yên bình, sư nói thế không khéo gây họa
tru di cho cả họ nhà tôi”. Sư nói:
- Mệnh trời đã định
như thế, dù muốn trốn tránh cũng không được. Nếu quả đúng như
lời, mong đừng nhau!
Sau khi lên ngôi, Lý
Thái Tổ nhiều lần vời sư về kinh thỉnh vấn yếu chỉ của Thiền
tông, ân lễ tiếp đãi trọng hậu, các việc chính sự triều đình đều
mời sư dự bàn định đoạt. Vua từng xuống chiếu cho trùng tu chùa
Kiến Sơ là nơi sư trụ trì. Về sau không biết sư tịch ở đâu.
*
* *
Thế hệ thứ sáu
3 người, chép thiếu 1
người
(?-1051)
Chùa Cảm Ứng(1),
núi Ba sơn, phù Thiên Đức.
Trưởng lão họ Lã,
người hương Chu Minh, suốt đời tu hành thanh tịnh. Xuất gia từ
lúc còn nhỏ, theo hầu học đạo với thiền sư Đa Bảo hơn hai mươi
năm. Môn đồ của Đa Bảo có đến hơn một trăm người mà chỉ Định
Hương và Quốc Bảo Hòa(2)
được chọn là giỏi nhất, về yếu chỉ của Thiền tông thì Định Hương
thấu hiểu sâu sắc hơn. Một hôm sư hỏi Đa Bảo:
- Làm sao thấy được
chân tâm?
Đa Bảo đáp:
- Chính ngươi phải tự
phát hiện lấy!
Định Hương khoát nhiên
tỉnh ngộ nói:
- Tất cả đều như thế,
đâu phải chỉ riêng đệ tử.
Đa Bảo hỏi:
- Ngươi đã hiểu chưa?
Đáp:
- Đệ tử hiểu rồi,
nhưng cũng giống như chưa hiểu.
Đa Bảo nói:
- Phải lấy tâm ấy mà
bảo nhậm.
Sư ôm tai đứng quay
lưng lại:
Đa Bảo bèn quát bảo:
- Đi đi!
Định Hương sụp xuống
lạy ta. Đa Bảo nói:
- Về sau giao tiếp với
người, ngươi phải làm như kẻ điếc.
Ở kinh đô, có viên Đô
tướng Thành hoàng sứ là Nguyễn Tuân kính mộ danh đức của sư, mời
sư về trụ chùa Cảm Ứng, học trò đến theo học rất đông. Đối với
người đời, sư có công dạy bảo cảm hóa không nhỏ. Ngày ba tháng
năm Canh dần niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1051) đời Lý Thái Tông, sự
lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc bài kệ vĩnh biệt.
Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị ảo
Ảo hữu tức không không
Dịch:
Xưa nay không xứ sở
Xứ sở ấy chân tông
Chân tông hư ảo thế
“Có” ảo tức “không”
không.
Nói xong sư im lặng mà
quy hóa.
*
* *
Chùa Trùng Minh, núi
Thiên Phúc, huyện Tiên Du.
Trước sư đến tham vấn
sư Đa Bảo ở chùa Kiến sơ lĩnh hội được tâm yếu của Thiền tông.
Sau sư đến trụ trì ở núi này(1)
có tiếng là bậc cao tăng đương thời. Học trò đến theo học đông
có tới hơn nghìn người. Chùa Trùng Minh trở thành một thiền viện
sầm uất trong chốn tùng lâm. Khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034 –
1038) vua Lý Thái Tông thường đến thăm chùa. Vua hỏi:
- Hòa thượng trụ ở núi
này đã bảo lâu?
Sư đáp:
- Tháng ngày rày
biết rõ
Xuân thu cũ ai hay.
(Đản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu)
Vua lại hỏi:
- Hàng ngày hòa thượng làm gì?
Đáp:
- Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh
Trăng trong mây trắng rõ toàn chân
(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch văn minh nguyệt lộ toàn
chân)
Vua hỏi:
- Có ý chỉ gì?
Đáp:
- Nhiều lời vô ích!
Vua bừng tỉnh ngộ. Sau đó sai sứ
đến mời sư về kinh thỉnh vấn, nhưng khi sứ giả đến nơi thì sư đã
quy tịch rồi. Vua rất thương tiếc, làm thơ viếng, sai trung sứ
đem lễ vật phúng điếu, dựng dàn hoả táng, xây tháp xá lị ở trong
chùa. Lại cho sửa sang mở rộng chùa, cho môn đồ lo đèn hương thờ
phụng.
*
* *
Thế thứ bẩy
(999-1090)
Chùa Cát Tường, kinh đô Thăng
Long.
Thiền sư họ Mai, tên Trực, người
huyện Long Đàm(1),
châu Phúc Đường, là con người anh thái hậu Linh Cảm đời Lý(2).
Thuở nhỏ ông thông minh mẫn tuệ, hiếu học. Nghe tiếng trưởng lão
ở chùa Mật Nghiêm giỏi xem tướng, ông bèn đến nhờ xem hộ. Trưởng
lão xem kỹ tướng mạo rồi nói: “Ngươi có duyên với Phật pháp, nếu
xuất gia tất sẽ là vị Thiện Bồ tát; nếu không thì thọ yểu chưa
biết thế nào”. Sư cảm ngộ rồi từ biệt thân quyến tìm đến thụ
nghiệp với thiền sư Định Hương ở núi Ba Tiêu. Trong những năm
ấy, sư suy cứu thiền học, chuyên chủ trì tụng kinh Viên Giác,
tinh thông phép Tam quán(3).
Một đêm sư đang ngồi thiền định thì mơ thấy Văn Thủ Bồ Tát cầm
dao mổ bụng lôi ruột sư ra rửa, rồi trao cho diệu dược để chữa
vết thương. Từ đó sư hiểu sâu ngôn ngữ Tam muội, thuyêt giảng
trôi chảy. Sau sư đến vùng gần kinh kỳ dựng chùa trụ trì, người
đến theo học đông nườm nượp. Có vị tăng hỏi:
- Nghĩa của Phật và thánh như thế
nào?
Sư đáp:
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh xuân ấm đầu cành.
(Ly hạ trùng dương cúc,
Chi đầu thục khí oanh)
Lại hỏi:
- Đa tạ hòa thượng, nhưng kẻ học
này chưa hiểu, xin hòa thượng chỉ giáo thêm cho.
Sư đáp:
- Ngày qua vầng ô chiếu
Đêm đến bóng thỏ soi.
(Trú tắc kim ô chiếu
Dạ lại ngọc thố minh)
Hỏi:
- Đệ tử hiểu ý thầy
Huyền cơ là gì đây?
(Dĩ hoạch sư chân chỉ
Huyền cơ thị như hà?)
Đáp:
- Nước đựng đầy thau bưng bất cẩn
Vấp chân soài ngã hối làm chi.
(Bất thận thủy bàn kình mãn khứ
Nhất tao tha điệt hối hà chi?)
Thiền tăng nói:
- Đa tạ lời chỉ giáo của hòa
thượng
Sư nói:
- Chớ rửa trên mặt nước
Thân gieo nước tự chìm.
(Mạc trạc giang ba nịch
Thân lại khước tự trầm)
Hỏi:
- Thiếu Thất
(1), Ma Kiệt(2)
rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kể nối làm chủ?
Đáp:
- Tượng trời nhật nguyệt thay sáng tối
Mạch đất quanh co nối Nhạc Hoài(3).
(U minh kiền tượng
nhân ô thố
Khuất khúc khôn duy vị
Nhạc Hoài)
Hỏi:
- Thế nào là đạo
lớn
Nguồn căn một lối
về?
(Như hà thi đại đạo
Căn nguyên nhất lộ
hành)
Đáp:
- Gió thốc non cao
hay cỏ cứng
Nước mà nguy biến
biết tôi trung.
(Cao ngạn tật phong tri kính thảo
Bang gia bản đăng thức trung
lương)
Hỏi:
- Tất cả chúng sinh từ đây tới,
trăm năm sau về đâu?
Đáp:
- Rùa mù đào vách núi
Trạch que ngược núi cao.
(Manh quy xuyên thạch bích
Phả miết thướng cao sơn)
Hỏi:
- Trúc biếc xanh xanh cũng đều là
Chân như. Như vậy cái “dụng” của Chân như là thế nào?
Đáp:
- Tặng người đi nghìn dặm
Cười đưa một ấm trà.
(Tặng quân thiên lý viễn
Tiếu bả nhất bình trà)
Hỏi:
- Thế nào là “uổng công đến mà
chẳng ích gì?”
Đáp:
- Ai biết lên gò núi
Trên đường đã bạc đầu
(Thùy thức đông a khứ
Đồ trung tái bạch đầu)
Hỏi:
- Nhà sâu hiên im
vắng
Ai biêt bọn ta tìm
(Dã hiên nhất thâm hộ
Thùy thức đáng nhàn
xao?)
Đáp:
- Kim cốc(1)
tiêu điều hoa cỏ xác
Trâu dê sớm tối mặc
ra vào.
(Kim Cốc tiêu sơ hoa
thảo loạn
Nhi kim hôn hiểu nhậm
ngưu dương)
Hỏi:
- Sao lại như thế?
Đáp:
- Phú quý không dè
xẻn
Lâu đài nối biển
khơi
(Phú quý kiêm kiêu
thái
Phiên linh bại thị lâu)
Hỏi:
- Long Nữ(2)
dâng châu thành Phật quả
Đàn Na(1)
bố thí phúc hằng bao?
(Long nữ hiến châu thành Phật quả
Đàn Na xả thí phúc như hà)
Đáp:
- Quế trong trăng muôn thuở
Xum xuê vẫn một vầng.
(Vạn cổ nguyệt trung quế
Phù sơ tại nhất luân)
Hỏi:
- Thế nào là “vất vả mà chẳng nên
công”?
Đáp:
- Trời cao như gương sáng
Người đời chốn chốn thông
(Thiên thượng như huyền kính
Nhân gian xứ xứ thông)
Hỏi:
- Qua sông dùng bè mảng
Đến bền bỏ ghe thuyền
(Độ hà tu dụng phiệt
Đáo ngạn bất tu thuyền)
Vậy không sang sông thì thế nào?
Đáp:
- Ao khô cá mắc cạn
Sống được ắt muôn
xuân.
(Hạc trì ngư tại lục
Hoạch hoạt vạn niên
xuân)
Lại hỏi:
- Thế nào là “theo
dòng thì mới được diệu lý”?
Đáp:
- Chuyện cũ Kinh
Kha đấy
Một đi chẳng trở
về.
(Kiến thuyết Kinh Kha
lữ
Nhất hành cánh bất
hồi)
Hỏi:
- Quặng vàng lẫn
lộn đều nguyên khí
Xin sư phương tiện luyện cho tinh
(Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất
khí
Thỉnh sư phương tiện luyện tinh
hình)
Đáp:
- Chẳng phải Tề quân(1)
khách
Nào hay cá biển to.
(Bất thị Tê quân khách
Ná trì hải đại ngư)
Hỏi:
- Quách ông(2)
chẳng chịu hiểu
Cán gián có làm chi?
(Quách quân nhược bất nạp
Gián ngữ diệc hề vi)
Đáp:
- Nếu muốn uống rượu trước
Đừng vẽ rắn thêm chân
(Nhược dục tiên đề ấm
Hưu vi xảo họa xà)
Hỏi:
- Rắn sắp chết giữa
đường, xin thầy cứu sống?
Sư hỏi lại:
- Ngươi là người
phương nào?
Đáp:
- Vốn là người ở núi.
Sư nói:
- Núi xưa về ẩn gấp
Đừng gặp Hứa chân
quân(1)
(Cấp hồi cựu nham ẩn
Mạc kiến Hứa chân
quân)
Thầy tăng lại hỏi:
- Kho biển mênh
mông chẳng màng đến
Khe tào róc rách, ý
sao đây?
(Hải tạng thao thao ưng bất vấn
Tào Khê trích trích
thị như hà)
Đáp:
- Thông reo trước
gió tiếng buồn thay
Mưa tạnh sau chân
biết lối lầy
(Phong tiền tùng hạ
thê lương vận
Vũ hậu đồ trung thiền trọc nê)
Hỏi:
- Như thế nào là “không khác ngày
nay”?
Đáp;
- Cúc trùng dương dưới giậu
Oanh ngày ấm đầu cành
(Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu noãn nhật oanh)
Hỏi:
- Rõ ràng giữa chốn sắc thân
Chói lọi ở trong tâm mục
(Chiêu chiêu tâm mục chi gian
Lãng lãng sắc thân chi nội)
Vậy mà lý không phân biệt được,
hình không trông thấy được. Tại sao không thể thấy?
Đáp:
- Trong vườn hoa rực rỡ
Trước bến, cỏ lơ phơ
(Uyển trung hoa lạn mạn
Ngạn thượng thảo li phi)
Hỏi:
- Lạnh trời mầm cây rụng
Lấy gì để khoe tươi?
(Tuế hàn quần miêu lạc
Hà di khả tuyên dương)
Đáp:
- Mừng ông đã thấu
đạt
Chẳng cũng vui lắm
sao?
(Hỉ quân lai tự đạt
Bất diệc thả hoan ngu)
Tăng nói:
- Được lời thầy chỉ
giáo
Từ này thoát ưu
phiền.
(Hạnh văn kim nhất
quyết
Từng thứ miễn hốt vô)
Sư đáp:
- Vũng cạn vừa lên
khỏi
Quay đầu vạn dặm
sâu.
(Thiển nịch tài đề
xuất
Hồi đầu vạn trượng
đàm)
Hỏi:
- “Niết Bàn thành nội thượng do
nguy”. (Lời kinh nói: “Ở chốn Niết Bàn nguy còn đến”). Vậy biết
nơi nào hết hiểm nguy?
Đáp:
- Xây tổ trên màn trướng
Tóc râu xoã cành lau
(Doanh sào liêm mạc thượng
Tu phát vi thiều kinh)
Hỏi:
- Nếu gặp khi bức
bách
Hai đường theo nẻo nào?
(Nhược tao thì bách cận
Lưỡng cứ thị hà vi)
Đáp:
- Phóng đãng tùy ý thích
Tiêu dao với gió trăng
(Trượng phu tùy phóng đăng
Phong nguyệt thả tiêu dao)
Hỏi:
Tất cả chúng sinh, điều nói là Phật, Lý ấy chưa rành. Xin thầy chỉ giáo
(Nhất thiết chúng
sinh; Giai ngôn thị Phật, Thử lý vị minh, thỉnh sư thùy thị)
Đáp:
- Chăm bón nông tang ngươi hãy gắng
Chớ học ôm cây đợi thỏ qua
(Khuyến quân thả vu nông tang khứ
Mạc học tha nhân đãi thố lao)
Tăng nói:
- Được lời thầy chỉ giáo
Ngoài chẳng hỏi ai chi.
(Hạnh mông sư hiển quyết
Chung bất hướng tha cầu)
Sư nói:
- Đáng thương người nấc nghẹn
Ngồi đói chịu quên ăn.
(Khả lân tao nhất ế
Cơ tọa khước vong xan)
Tăng nói:
- Ngọc vàng cất giấu trong rương đẫy
Rành rõ giờ đây được ngắm xem.
(Kỷ niên cửu tích nang trung báu
Kim nhật đương trường địch diện
khan)
Sư nói:
- Đợi trung thu trăng sáng
Ngờ đâu mây tối trời
(Chỉ đãi trung thu nguyệt
Khước tao vân vũ xâm)
Tăng nói:
- Tuy nghe thầy thuyết giảng
Lẽ ấy chưa rõ ràng.
(Tuy văn sư ngữ thuyết
Thử lý vị phân minh)
Sư đáp:
- Cười kẻ ôm cột cầu
- Chết đuối giữa dòng sâu
(Tiếu tha đồ bão trụ
Nịch tử hướng trung
lưu)
Hỏi:
- Thế nào là “nhất
pháp”?
Đáp:
- Chỉ thấy xuân qua
hè lại đến
Mới vào thu chín,
gật đông về
(Thốn kiến xuân sinh
kiêm hạ trưởng
Hựu phùng thu thục cập
đông tàng)
Hỏi:
- Như thế nào là nhiều
người được thành Phật?
Đáp:
- Thủy Hoàng tìm
Tiên mỏi
Từ Phúc mãi chẳng
về
(Tổ Long khu tự chỉ
Từ Phúc viễn đồ lao)(1)
Lại hỏi:
- “Kiến tính thành
Phật” (thấy được bản tính thì thành Phật) nghãi là thế nào?
Đáp:
- Cây héo vào xuân
hoa nở rộ
Gió đưa nghìn dặm
nức hương thần
(Khô mục phùng xuân
hoa canh phát
Phong suy thiên lý
phức thần hương)
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu, xin
thầy giảng lại cho.
Sư đáp:
- Vạn năm cây cà ấy
Tươi tốt vút tầng
mây
(Vạn niên già tử thụ
Thương thúy tủng vân
đoan)
Hỏi:
- Ma Ni cùng các
sắc
Chẳng hợp cũng
chẳng rời
(Ma Ni dữ chúng sắc
Bất hợp bất phân ly)
Đáp:
- Hoa xuân cùng
bướm trắng
Lúc luyến hay chia ly?
(Xuân hoa dữ hồ điệp
Kỷ luyến kỷ tương vi)
Tăng hỏi:
- Thế nào là “Tuy hóa
hỗn tạp”?
Đáp:
- Chẳng phải sư
Thiên Trúc
Uổng ngắm ngọc Biên
châu
(Bất thị Hồ tăng nhân
Đồ lao sính Biện châu)
Lại hỏi:
- Thế nào là “xúc mục
bồ đề”? (Chân lý gần ngay trước mắt).
Đáp:
- Cây cong chim hoảng sợ
Thổi mãi lạnh cóng người
(Kỷ kinh khúc mục điểu
Tân xuy lãnh tê nhân)
Hỏi:
- Kẻ học này chưa hiểu, xin thầy
đổi cho thí dụ khác.
Đáp:
- Kẻ điếc nghe đàn sáo
Người mù ngắm trăng sao
(Tủng nhân thính cầm hưởng
Manh giả vọng thiềm thừ)
Hỏi:
- Vốn đã có hình thì có bóng
Phải chăng lại có bóng không hình?
(Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh
Hữu thời ảnh dã lý hình phầu?)
Đáp:
- Nước đổ về đông chừ, đua chảy vạn dòng.
Sao chầu hướng bắc chừ, muôn thuở cùng lòng.
(Chúng thủy triều đông hề, vạn
phái tranh lựu,
Quần tinh củng bắc hề, thiên cổ
quy tâm)
Hỏi:
- Thế nào là “một câu rõ hết hơn
cả muôn câu”?
Đáp:
- Xách bổng Thái Sơn về Bắc Hải
Ngước tung thiền trượng tới cung trăng
(Viễn phù Thái son siêu Bắc hải
Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm
cung)
Hỏi:
- Chỉ sự ấy là thực
Ngoài ra chẳng phải chân?
(Duy thử nhất sự thực
Dư nhị tức phi chân)
Vậy thế nào là “chân”?
Đáp:
- Gió dễ lay đầu gậy
Đường đi mưa sinh lầy
(Trượng đầu phong dị động
Lộ thượng vũ thành nê)
Hỏi:
- Không hướng Như Lai xin diệu tạng
Nối đèn lửa tổ chẳng cầu xin
(Bất hướng Như lai thì diệu tạng
Bất cầu tổ diệm tục đăng chi)
Ý chỉ câu ấy là thế nào?
Đáp:
- Trong tuyết mẫu đơn nở
Trời thu oanh hót vang
(Thu thiên đoàn thử lệ
Tuyết cảnh mẫu đơn khai)
Hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Một người quay vào vách
Cả nhà uống mất vui
(Nhất nhân hướng ngung lập
Mãn tọa ẩm vô hoan)
Lại hỏi:
- Cổ kim việc lớn không nên hỏi
Thiền từ Tây tới hỏi nên chăng?
(Cổ kim đại sư ưng vô vấn(1)
Đặc địa tây lai ý nhược hà)
Đáp:
- Kẻ khéo mồm giả dối
Mai trơ ngói vỡ thôi(2)
(Xoả ngọn lệnh sắc giả
Toàn quy đả ngoã nhân)
Hỏi:
- Cả tâm và pháp đều quên, tính
tức Chân, vậy thế nào là “Chân”?
Đáp:
- Mưa tươi non hoa, Thần nữ khóc(3)
Gió khua rặng trúc, Bà Nha đàn.
(Vũ trích nham hoa Thần nữ lệ
Phong xao đỉnh trúc Bá Nha cầm)
Lại hỏi:
- Thế nào là câu tuyệt diệu?
Đáp:
- Trong cổ còn vường hóc
Đừng ngồi có yên dâu.
(Hầu
lý do tồn ngạnh
Thường cư bất khoái nhiên)
Hỏi:
- Còn “tu” còn “chứng” sinh bốn bệnh
Vươn đầu nào có thoát trần ra.
(Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh
Xuất đâu hà khả thoát
trần lung)
Đáp:
- Biển rộng bao
dung nhiều nguồn nhỏ
Non cao giữ mãi bụi hồng trần
(Sơn cao cánh tại dung trần trữ
Hải khoát năng thâm nạp tế lưu)
Hỏi:
- Trong sách nói: “Chỉ có Phật
với Phật mới biết việc này”. Ấy là việc gì?
Đáp:
- Đường hẹp trúc um tùm
Gió reo nhạc tự thành
(Hiệp kính sum sum trúc
Phong xuy khúc tự thành)
Hỏi:
- Không theo bình thường, không
theo thiên nhiên, không theo công dụng, vậy nay biết làm thế
nào?
Đáp:
- Cỏ bồng chim sâu đậu
Biển biếc náu giao long.
(Bồng thảo thê đê yến
Thương minh ẩn cự lân)
Hỏi:
- Tứ đại(1)
mang về từ nhiều kiếp
Thỉnh sư phương tiện thoát luân hồi.
(Tứ đại đới lai do khoáng kiếp
Thỉnh sư phương tiện xuất luân
hồi)
Đáp:
- Tê giác là loài súc thú hiếm
Ăn bằng gai góc, ngủ trong bùn.
(Cử thế súc đồ tê thị bào
Xan ư kinh cức ngọa ư
nê)
Hỏi:
- “Thủ” hay “xả” đều
là ở trong vòng luân hồi; không “thủ”, không “xả” thì thế nào?
Đáp;
- Xưa nay hồng đẹp,
sắc nay khác
Cành lá xum xuê
chẳng có hoa
(Tòng lai hồng hiện
thủ thường sắc
Hữu diệp sâm si bất
hữu hoa)
Hỏi:
- Nói “Ngôn ngữ đạo
đoạn” (dứt hết nói năng) là nghĩa thế nào?(1)
Đáp:
- Gió thổi sừng kêu
xuyên rặng trúc
Vầng trăng vượt núi
đến bên tường
(Giốc hưởng tùy phong
xuyên trúc đáo
Sơn nham đái nguyệt
quá tường lai)
Hỏi:
- Chư Phật thuyết pháp
đều nhằm giáo hóa mọi loài, nếu hiểu thấu bản ý thì gọi là “xuất
thế”. Như thế nào gọi là “bản ý”?
Đáp:
- Xuân dệt hoa như
gấm
Thu sang đổ là vàng
(Xuân chức hoa như gấm
Thu lại diệp tự hoàng)
Hỏi:
- Như thế nào gọi là
“một đường đưa thẳng đến nguồn gốc của đại đạo”?
Đáp:
- Đông tây xe ngựa
ruổi
Sớm tối bụi trần
bay
(Đông tây xa mã tẩu
Trần thổ hiểu hôn phi)
Hỏi:
- Có tâm có pháp
sinh võng thức
Làm sao tâm pháp
thảy tiêu vong?
(Hữu pháp, hữu tâm
khai võng thức
Như hà tâm pháp đãng
câu tiêu)
Đáp:
- Khá vượt cành
không cao tít tắp
Lo gì sương tuyết
tả tơi bay
(Khả đoạt tùng sao
trường uất uất
Khởi ưu sương tuyết
lạc phân phân)
Hỏi:
- Ý của Tổ và ý trong
kinh sách thế nào?
Đáp:
- Hứng lên xách gậy
lên chơi đường núi
Mỏi mệt buông rèm
ngủ chõng tre
(Hứng lai huề trượng
du vân kính
Khốn tức thùy liêm
ngọa trúc sào)
Hỏi:
- Các Tổ truyền cho
nhau là truyền cái gì?
Đáp:
- Bụng đói kiếm cơm
ăn
Lạnh mình lo áo mặc
Hỏi:
- Người đời phải đi
thuê nhà, khi nhà dột thì ở vào đâu?
Đáp:
- Qua vàng cùng thỏ
ngọc
Chẳng bợn lo đầy
vơi
(Kim ô kiêm ngọc thế
Doanh trắc nạn lao phân)
Hỏi:
- Thế nào là con đường Tào Khê?
Đáp:
- Đáng thương kẻ vạch thuyền(1)
Khắp chốn biết tìm
đâu!
(Khả lân khác chu
khách
Đáo xứ ý thông thông)
Sư từng soạn sách
Được sư thập nhị nguyện văn. Vua Lý Nhân Tông lấy bản thảo
sách ấy đưa cho sử giả nước ta đem sang Trung Quốc để tặng cho
vua Triết Tông nhà Tống. Vua Tống trao cho vị pháp sư cao tọa ở
chùa Tướng Quốc xem. Pháp sư xem xong chấp tay tâu với vua Tống:
- Ở nước Nam có vị Bồ
tát sống đã ra đời, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, chúng tôi
đâu dám thêm bớt chữ nào.
Vua tống sai chép lại
một bản, còn bản chính giao lại cho sứ giả đem về Sứ giả trở về
tâu lại sự việc, vua Lý Nhân Tông rất khen ngợi, ban thưởng cho
sư rất trọng hậu.
Ngày tháng 9 năm Canh
Ngọ niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090) sư không bệnh, cho gọi đệ
tử đến bảo rằng:
- Thân mình ta đây,
xương thịt gân cốt đều do bốn đại hợp thành, tất không thể
thường tồn được. Cũng như khi khung nhà đã hư hỏng thì rui, mè
đều rơi rụng. Các người hãy trân trọng lời kể của ta đây:
Thân như tường bích dĩ
đồi thì
Cử thế thông thông
thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô
sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm
suy đi.
Dịch:
Thân như tường vách đá lung lay
Lật đật người đời những xót thay
Nếu được “lòng không” không tướng sắc
“Sắc” “không” ẩn hiện mặc vần xoay.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đọc kể xong, sư nghiêm trang qua
đời, thọ 92 tuổi đời, 56 năm tuổi hạ(1).
Sự có các sách: Tán Viên Giác kinh, Thập nhị Bồ Tát Hành tu
chứng đạo tràng và Tham đồ hiển quyết, một quyển, lưu hành ở
đời.
*
* *
Chùa Diên Linh(1),
núi Long Đội, huyện An Lang.
Thiền sư họ Đàm, quê ở hương Phủ
Đàm, huyện Chu Minh, từ nhỏ hiếu học, đọc khắp các sách kinh
điển Nho, Phật. Một hôm ông gập sách lại, than rằng:
- Khổng, Mặc cố chấp cái “hữu” (có). Lão, Trang chìm đắm cái “vô”
(không), sách vở thế tục không phải là phép giải thoát. Chỉ có
Phật giáo là không chấp không và có liễu thoát sinh tử, nhưng
phải tu trì giữ giới tinh tiến. Lại phải tìm người thiện trí
thức ấn chứng mới được.
Nhân đó ông rời bỏ thế tục, tìm
đến thụ giới cụ túc với Định Hương trưởng lão ở chùa Cảm Ứng núi
Ba Sơn. Sư hỏi trưởng lão:
- Thế nào là nghĩa cứu cánh?
Định Hương đáp: “Chưa”! Một lát
lại nói:
- Ta và ngươi là nghĩa cứu cánh
rồi đấy!(1)
Sư còn đang nghĩ ngợi, trưởng lão
nói:
- Sai quá rồi!
Ngay lúc ấy, sư lĩnh hội được ý
chỉ của trưởng lão. Định Hương nhân đó đặt tên cho sư là Cứu
Chỉ.
Sau sư vào chùa Trùng Minh ở núi
Tiên Du tu hạnh Đầu đà, cả năm không hề bước chân xuống núi.
Thanh danh giáo huấn cảm hóa của sư lan đến triều đình. Vua Lý
Thái Tông đến chùa thăm hỏi. Thái sư Lương Nhậm Văn(2)
đối với sư cũng rất kinh nể. Khoảng niên hiệu Long Thụy Thái
Bình (1054 – 1058, đời Lý Thánh Tông) tể tướng Dương Đạo Gia
thỉnh sư về trụ trì chùa Diên Linh. Sư cố từ chối nhưng không
được. Hôm xuống núi, sư bảo các đệ tử.
- Ta không trở lại nơi đây nữa!
Chim muông trong núi nháo nhác
kêu buồn bã suốt ba tuần liền.
Sự trụ trì ở chùa Diên Linh chỉ
được hơn ba năm. Trong niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 –
1065) trước khi thị tịch, sư gọi học trò đến bảo rằng:
- Hết thảy mọi pháp môn đều bắt
nguồn từ tính, hết thảy mọi pháp tính đều bắt nguồn từ tâm. Tâm
và Pháp là một, đâu phải là hai. Trói buộc, phiền não, tất cả
đều không. Tội phúc, thi phi, tất cả đều ảo. Chẳng cái gì không
phải là quả, chẳng cái gì không phải là nhân. Chớ có phân biệt
báo từ trong nghiệp(1),
chớ có phân biệt nghiệp từ trong báo. Nếu phân biệt là không thể
tự tại. Tuy thấy hết mọi pháp nhưng không thấy gì; tuy biết hết
mọi pháp nhưng không biết gì. Biết mọi pháp ở chỗ nhân duyên là
gốc, thấy mọi pháp ở chỗ chính chân là nguồn. Tuy đắm trong thực
tế phải hiểu rằng thế gian đều như biến hóa. Người minh đạt và
chúng sinh chỉ là một pháp, không phải hai pháp. Không rời bỏ
nghiệp cảnh, đó là phương tiện thiện xảo. Trong giới hữu vi chỉ
rõ pháp hữu vi và không phân biệt với tướng vô vị(2),
đó là muốn dứt vọng niệm so đo của ta vậy.
Nói xong sư đọc lời kể:
Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần không biến hóa hiện như
tướng
Hữu vi, vô vi tòng thử
xuất
Hà sa thế giới bất khả
lượng
Tuy nhiên biến mãn hư
không giới
Nhất nhất quan lại một
hình trạng
Thiên cổ vạn cổ nan tỉ
huống
Giới giới xứ xứ thường
lãng lãng.
Dịch:
Hiểu thấu thân tâm
vốn lặng thường
Thần thông mọi
tướng biến khôn lường
Tác “hữu”, tác “vô”
do đó cả
Hà sa thế giới há
đong lường
Hư không mọi cõi
tràn đầy khắp
Hình trạng xem ra
thảy thảy không
Muôn đời nghìn thuở
khôn tày sánh
Chốn chốn nơi sáng
lạ đường.
Đúng ngọ hôm ấy dựng
đàn hỏa thiêu, học trò thu linh cốt xây tháp phúng thờ.
*
* *
(?-1034)
(?-1034)
Chùa Cảm Ứng, núi Ba
sơn, phủ Thiên Đức.
Hai thiền sư đều người
huyện Chu Minh. Bảo Tính họ Nghiêm, Minh Tâm họ Phạm, cùng một
tuổi, xuất gia làm bạn với nhau từ nhỏ. Lúc đầu, Bảo Tính, Minh
Tâm cũng Viên Chiến đều thụ nghiệp với Định Hương trưởng lão,
thấu hiểu những điều cốt yếu của Thiền tông. Sau ba người dược
truyền tâm ấn, đi các nơi để giáo hóa chúng sinh, nổi tiếng nhất
trong chốn tùng lâm thời bấy giờ. Viên Chiểu từng có thơ khen
Bảo Tính là người có chí cao thượng (Tập này đã có chuyện riêng
về Viên Chiếu, ở đây không nhắc lại)
Hai sư chuyên trì tụng
kinh Pháp hoa, hơn mười năm chưa từng sao nhãng, mỗi khi
niệm đến phẩm Dược Vương, hai sư đều rơi nước mắt mà bảo nhau:
- Các vị Bồ Tát dốc
lòng tu hành trong bao nhiêu kiếp mà đối với tâm Đại Thừa vẫn
còn phải phấn phát mạnh mẽ để tinh tiến, không tiếc thân mạng.
Huống chi bọn ta sống ở thời mạt pháp, nếu không có lòng chí
thành như thế thì đối với chân tâm đại Bồ Đề của Đại Thừa làm
sao có thể hy vọng được?
Ngày tháng tư năm
Thiên Thành thứ 7 (1034), hai sư định tự thiêu. Vua Lý Thái Tông
biết tin sai sứ thỉnh về kinh. Hai sư bèn mở hội giảng kinh rồi
cùng vào trong lửa hoả quang tam muội(1),
di cốt kết thành thất bảo, vua xuống chiếu đem thất bảo ấy giữ ở
chùa Trường Thánh để cúng đường Lý Thái Tông cho là việc kinh
dị, đổi niên hiệu là Thông Thụy (1034) sai dựng tháp cúng đường.
*
* *
Chùa Quán Đính, núi
Không Lộ.
Thiền sư họ Nham,
người kinh đô Thăng Long, là anh của Chương Phụng hoàng phi. Ông
là người có tiết tháo thanh cao không để ý đến những điều nhỏ
mọn. Khoảng đầu niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065),
ông bỏ tục tìm đến tham vấn thiên sư Thiền Lão ở Tiên Du. Chỉ
nghe một câu nói của Thiền lão sư lãnh hội được yết chỉ Thiền
tông. Từ đó sư ngày đêm dốc chí vào Thiền học. Chưa đầy một năm,
danh tiếng đồn khắp gần xa. Về sau sư trụ trì ở núi Không Lộ,
mặc áo vá, ăn hạt, kết bạn với sơn tăng Minh Huệ. Người ta
thường gọi là Hàn Sơn, Thập Đắc tái thế(1).
Sư đương công bố
thượng thư Đoàn Văn Khâm kính trọng(2)
tặng thơ:
Trụ tích nguy phong
bãi lục trần
Mặc cư ảo mộng vấn phù
vân
Ân cần vô kế tham
Trừng Thập
Sách bạn trăm anh tại
lộ quần
Dịch thơ:
Chống gậy non cao
rũ bụi đời
Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi
Ân cần khôn khéo theo Trừng, thập(3)
Trói vướng bầy cò lớp mũ đai
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Trong niên hiệu Quảng Hựu (1085 –
1091) sư quy tịch. Đoàn thượng thư thương khóc thảm thiết, làm
thơ viếng như sau:
Lâm mao bạch thủ độn kinh thành
Phất tụ cao sơn viễn cánh kinh
Kỷ nguyện tịnh cân xu trượng tịch
Hốt văn di lý yểm thiền quynh
Trai đình u điểu không đề nguyệt
Mộ tháp thùy nhân vị tác minh
Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt
Viện tiền sơn thủy thị chân hình.
Dịch thơ:
Lánh chợ vào rừng tóc bạc phơ
Non cao rũ áo ngát hương thừa
Trùm dép những muốn hầu bên chiếu
Treo giáp đà nghe khép cửa chùa
Trăng dọi sân trai, chim khắc khoải
Tháp không bia chữ, mộ thờ ơ
Bạn thiền thôi cũng đừng thương xót
Non nước ngoài am, đó dáng xưa
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Vua
LÝ THÁI TÔNG
Nhà Vua thường đến tham vấn những
điều yếu chỉ của đạo thiền với thiền sư Thiền Lão ở núi Thiên
Phúc. Những lời chỉ giáo của Thiền sư như mũi kim, mũi dùi, vừa
châm vào, vua liền thấy trí não thông sáng. Chỉ trong vòng mấy
năm, vua trở thành người ham thích đạo Thiền. Nhân đó, vua cùng
các bậc túc thiền, trưởng lão giảng cứu, bàn luận những điều dị
đồng. Vua nói trước với mọi người:
- Trẫm nghĩ bàn tới nguồn tâm của
Phật tổ, các bậc thánh hiền thuở xưa còn không tránh khỏi điều
tiếng chê bai, huống chi là những kẻ hậu học. Nay trẫm muốn cùng
các sư giãi bầy tâm ý của mình. Mỗi người hãy làm một bài kệ để
xem sự dụng tâm của từng người như thế nào?
Các sư đều vâng mệnh. Mọi người
còn đang tìm ý tứ thì vua đã làm xong.
Bài kệ như sau:
Bát Nhã chân vô tông
Nhân không, ngã diệc
không
Quá, hiện, vị lai Phật
Pháp tính bản lai
đồng.
Dịch:
“Bát Nhã” Thực vô
tông
Người không, mình
cũng không
Phật trước, nay,
sau nữa
Pháp tính vốn
tương đồng
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Mọi người đều phục vua
có tài ứng đối nhanh lẹ.
Thế hệ thứ tám
6 người
(? – 1134)
Chùa Phổ Ninh, huyện
Từ Liêm.
Quốc sư người hương
Đan Phương, họ Ngô, vốn dòng dõi Phật tử, bản tính thông tuệ,
học thông tam giáo
Lúc đầu sư tham vấn
thiền học, đắc pháp với thiền sư Viên Chiếu(1)
ở chùa Cát Tường. Sau đó có chiếu chỉ triệu về kinh đô Thăng
Long trụ trì chùa Khai Quốc, sư tự xưng hiệu là Trí Không Mùa
xuân năm Hội Phong thứ 5 (1096), ngày rằm tháng hai, Phù Thánh
Cảm Lính Nhân hoàng thái hậu(2)
đến chùa thiết lễ trai tăng. Trong lúc đàm đạo với các bậc túc
tăng kỳ lão, thái hậu hỏi:
- Phật và Tổ nghĩa thế
nào? Ai hơn ai kém? Phật trụ phương não? Tổ ở thành nào? Đến
nước ta từ bao giờ? Việc truyền đạo ai trước ai sau? Mà người
niệm tên Phật đạt tâm ấn của Tổ chưa rõ là những ai?
Bấy giờ mọi người đều
im lặng cả, sư thừa rằng:
- Thường trụ ở thế
gian, không sinh không diệt thì gọi là Phật. Hiểu rõ tâm tông
của Phật, giảng và làm đi đôi với nhau, gọi là Tổ. Chỉ vì những
kẻ kém học nói bậy là có bên hơn bên kém mà thôi. Và lại Phật có
nghĩa là “Giác” (hiểu biết) vốn lặng lẽ, thường trụ, tất cả
chúng sinh đều có cùng lẽ ấy. Chỉ vì tình trần che lấp, trôi nổi
theo nghiệp báo mà phân ly ra các cõi Phật vì lòng từ bi mà thị
sinh ở đất Thiên Trúc, là vì xứ sở ấy ở vào khoảng chính giữa
của trời đất. Phật mười chín tuổi xuất gia, ba mươi tuổi thành
đạo. Ở đời thuyết pháp bốn mươi chín năm, mở ra, các pháp môn để
giác ngộ cho người đời. Đấy là thời đại hưng giáo vậy. Khi sắp
nhập Niết Bàn, lại sợ người ta hiểu làm ý mình, Phật bèn bảo Văn
Thù(1):
“Ta bốn mươi chín năm chưa từng nói một lời, sao lại bảo là ta
có thuyết giáo ư?” Nhân đó Phật cầm cành hoa giơ lên. Mọi người
đều chưa hêỉu Phật nói ý gì. Chỉ một mình Ca Diếp tôn già mỉm
cười. Phật Biết Ca Diếp đã lĩnh ngộ, bèn đem chánh pháp nhãn
tạng(2)
truyền cho. Đó là Tổ thứ nhất của dòng Tầm tông, được trao
truyền bên ngoài giáo điển(1)
Sau đó ma Đằng(2)
đem pháp ấy vào đất Hán. Rồi Đạt Ma đem tống chỉ sang các nước
Lương, Ngụy. Việc truyền pháp đến Thiên Thai trì giả(3)
là thịnh, gọi là Giáo tông. Về tôn chí của Đạt Ma thì đến Tào
Khuê Huệ Năng là sáng tỏ, gọi là Thiền Tông. Hai tông này truyền
vào nước Việt ta đã lâu năm. Về Giáo tông thì có Mâu Bác(4),
Khương Tăng Hội(5).
Thiền tông thì có phái Tì Ni Đa Lưu Chi(1)
vào trước, phái Vô Ngôn Thông vào sau. Đó là tổ của hai phái.
Thái hậu hỏi:
- Về Giáo tông thì
chưa nói tới, nhưng còn hai phái Thiền tông thì có gì chứng thực
không?
Sư đáp:
- Xét truyện Đàm
Thiên pháp sư thầy chép rằng: vua Tùy Cao Tổ (581-604) gọi
sư là pháp khí và bảo: “Trẫm nghĩ đến đạo từ bi của Điều Ngự(2)
mà không biết làm sao để báo đáp ân đức. Trộm ở ngôi vua, trẫm
đã hỗ trợ Tam bảo(3)
khắp nơi: trong nước thì thu xá lị xây 49 bảo tháp; ngoài nước
thì dựng 150 chùa tháp để tiêu biểu cho đời. Ở các xứ ngoài như
Giao Châu cũng đã nhiều lần cho dựng chùa để ơn phúc nhuần thấm
khắp cõi đại thiên. Nhưng xứ ấy tuy vội thuộc mà ràng buộc còn
lỏng lẻo. Vậy pháp sư nên chọn những vị sa môn có danh đức đưa
sang đó để giáo hóa, khiến cho tất cả đều được đạo Bồ Đề”. Pháp
sư Đàm Thiên tâu: “Xứ Giao Châu có đường không với Thiên Trúc.
Khi Phật pháp mới đến Giang Đông chưa khắp thì ở Luy Lâu(4)
đã có tới hai mươi ngôi bảo tháp, độ được hơn năm trăm vị tăng
và dịch được mười lăm quyển kinh rồi”. Như vậy là Phật giáo đã
truyền đến Giao Châu trước nước ta. Hồi ấy đã có các vị tăng như
Ma Ha Kỳ Vực(1),
Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương(2)
Mâu Bác v.v... cư trú tại đó. Nay lại có Pháp Hiền thượng sỉ đắc
pháp(3)
với Tỉ Ni Đa Lưu Chi truyền bá tông phái của Tổ thứ ba Tăng Xán.
Pháp Hiền là vị Bồ Tát sống, hiện trụ trì ở chùa Chúng Thiện,
giáo hóa không dưới ba trăm môn đồ, không thua kém gì ở Trung
Quốc. Bệ hạ là bậc cha hiền của khắp thiên hạ, muốn bố thí bình
đẳng nên định đưa như tăng sang giáo hóa. Nhưng họ đã có người
rồi, ta không phải cho người sang nữa. Lại có chứng cứ nữa:
tướng quốc đời Đường là Quyền Đức Dư viết trong lời tựa sách
Truyền pháp rằng: “Lại sau khi Tào Khê (Huệ Năng) mất, thiền
pháp thịnh hành, các dòng đều có kẻ nối, thiền sư Chương Kính
Huy đem những điều tâm pháp quan yếu của Mã Tổ đi thi hành giáo
hóa ở miền Ngô, Việt. Vô Ngôn Thông đai sĩ đem tông chỉ của Bách
Trượng Hoài Hải đi khai ngộ ở Giao Châu”. Đó là chứng cứ vậy.
Thái hậu lại hỏi:
- Sự truyền thừa của
hai tông phái ấy thứ tự thế nào?
Sư đáp:
- Phái Ti Ni Đa Lưu
Chi thì nay có Lâm Huệ Sinh, Vương Chân Không, Phái Vô Ngôn
Thông thì có Mai Viên Chiếu, Nhan Quảng Trí. Dòng của Khương
Tăng Hội thì nay có Lôi Hà Trạch. Ngoài ra những phái phụ thì
nhiều không kể xiết.
Thái hậu cả mừng,
phong sư làm Tăng thống, ban áo cà sa màu tía, ban hiệu là Thông
Biện đại sư, hậu thưởng để tỏ rõ inh sủng. Sau Thái hậu lại
thỉnh sư vào đại nội, phong làm quốc sư để tham vấn, nhờ đó hiểu
sâu tôn chỉ của Thiền ông. Thái hậu có làm kệ Ngô Đạo như
sau:
Sắc thị không, không
tức sắc
Không thị sắc, sắc tức
không
Sắc, không câu bất
quản
Phương đắc khế chân
tông.
Dịch:
Sắc mà không, không
tức sắc
Không là sắc, sắc
tức không
Sắc, không đều
chẳng quản
Mời Khế hợp chân
tông
HOA BẰNG
(TVLT 1)
Về già, sư trụ trì ở
chùa Phổ Ninh, mở đàn thuyết pháp. Phàm việc dạy người, sửa mình
sư thường dẫn dụng đến kinh Pháp Hoa, vì vậy người đương
thời gọi sư là Ngô Pháp Hoa(1)
Ngày mười hai tháng
hai năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Chương Báo Tự thứ 2 (1134) sư
lâm bệnh rồi qua đời(2).
*
* *
(1052-1096)
Chùa Cứu Liên Giáo
Nguyên.
Đại sư Người Lũng
Triền, hương An Cách, họ Nguyễn(1)
huý Trường. Cha là Hoài Tố, làm quan đến chức Trung thư viên
ngoại lang.
Khi Lý Nhân Tông còn
là thái tử, đã có chiếu chỉ cho con em các danh gia vào hầu
trong cung. Ông vốn là người học rộng, nhớ giỏi, học thông Nho,
Phật nên được chọn vào trong số đó. Những lúc ở nhà thường suy
niệm Thiền na(2).
Sau khi lên ngôi, Nhân Tông mến tính tình ông thuần hậu chất
phác, ban hiệu là Hoài Tín. Trong khoảng niên hiệu Anh Vũ Chiêu
Thắng (1076-1084)(3)
ông dân biểu xin xuất gia. Sau khi được thiền sư Quảng Trí ở
chùa Quán Đính truyền tâm ấn, sư đeo bình bát đi vân du khắp nơi
tìm đạo hữu. Sư đi đến đâu cũng có rất đông người đến xin theo
học đạo. Sư đọc kinh Đại Tạng, đạt được tri thức không phải nhờ
thầy, trở thành lãnh tụ pháp môn của một thời.
Khi ấy vua nhà Linh
Nhân hoàng thái hậu đang lưu tâm Thiền học, cho dựng chùa Cứu
Liên Giáo Nguyên ở bên cạnh cung Cảnh Hưng, thỉnh sư đến trụ trì
để tiện hỏi han về đạo Phật. Khi nói chuyện, vua và hoàng hậu
thường gọi sư là trưởng lão chứ không gọi tên. Một hôm vua nói
với sư:
- Bậc chí nhân thị
hiện tất phải làm việc cứu giúp chúng sinh, không hạnh nào không
cần có đủ, không việc gì không phải chăm lo, chẳng phải chỉ sức
định tuệ mà cũng có công giúp ích nên phải kính nhận nó.
Rồi vua phong cho sư
làm Hoài Tín đại sư, đứng đầu Giáo Nguyên thiền viên để truyền
thụ tâm ấn vô tu vô chứng của Phật tổ. Vua lại xuống chiếu phong
cho sư chức Nhập nội đạo trầng Tử y đại sa môn, được dư bàn
chính sự, ngang hàng với các quan tam ti, miễn tô thuế cho năm
mươi hộ để chi dùng việc đạo.
Ngày ba mươi tháng một
năm Hội Phong thứ 5 (1096) sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến đọc kệ
rằng:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân lai bách hoa khai
Sự trục nhân tiền quá
Lão tòng đầu thượng
đáo
Mạc vị xuân tàn hoa
lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất
chi mai.
Dịch:
Xuân ruổi, trăm hoa
rụng
Xuân tới, trăm hoa
cười
Trước mắt việc đi
mãi
Trên đầu già đến
rồi
Đừng tưởng xuân tàn
hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước,
một cành một mai.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đêm ấy sư ngồi kiết
già thị tịch, thọ 45 tuổi, được mười chín tuổi hạ. Vua Lý Nhân
tông ban lễ hậu, các quan công khanh đều đến dâng hương làm lễ
hóa táng rồi thu xá lỵ xây tháp tại chùa Sùng Nham ở hương An
cách để phụng thở. Vua ban cho sư tên thụy là Mãn Giác.
*
* *
(1020-1088)
Chùa Long An, Ninh Sơn(1),
phủ Ứng Thiên.
Thiền sư người Tư Lý, hương Kim
Bài, họ Đàm, tên Khí. Mẹ họ Cù, khi chưa lấy chồng nhà ở cạnh
nghĩa địa gần khu rừng, thấy người ta đặt bẫy bắt hết cả chim bà
nói: “Thà chết mà làm người thiện còn hơn sống mà làm kẻ ác”.
Một hôm bà đang ngồi dệt vải có con khỉ lớn từ trong rừng chạy
ra ôm lấy lưng bà suốt ngày mới bỏ đi. Sau đó bà biết mình có
mang. Đến khi sinh ra, đứa con mặt mũi xấu xí, bà lấy làm ghét,
bèn đem bỏ vào rừng. Trong hương có sư cụ người Chiêm Thành họ
Đàm trông thấy đem về nuôi, nhân đó đặt tên là Khí (có nghĩa là
vứt bỏ). Đến năm lên mười, ông theo học Nho, học vấn ngày một
tăng tiến, giỏi cả chữ Hán và chữ Phạn. Năm mười chín tuổi xuất
gia, chịu đủ giới luật(2),
nghiên cứu tinh thông cả hai kinh Viên giác và Pháp
hoa. Sau khi được thiền sư Quảng Trí ở chùa Quán Đính truyền
tâm ấn, sư bèn đến núi Ninh Sơn kết am tranh làm chỗ ở, lấy hiệu
là Ngộ Ấn. Có tăng khách thỉnh vấn:
- Thế nào là đại đạo?
Sư đáp:
- Con đường lớn.
Khách hỏi:
- Kẻ học này hỏi về đại đạo, thế
mà hòa thượng lại đáp là con đường lớn”, đệ tử chưa biết đến bao
giờ thì đạt tới đại đạo.
Sư đáp:
- Mèo con(1)
chưa biết bắt chuột!
Khách hỏi:
- Mèo con có Phật tính không?
- Không.
- Tất cả những vật hàm linh đều
có Phật tinh, sao hòa thượng lại nói mèo con không có?(2)
- Không, ta chẳng phải là vật hàm
linh.
- Không phải vật hàm linh, vậy
hòa thượng là Phật chăng?
- Ta chẳng phải Phật, cũng chẳng
phải vật hàm linh.
Lại có người hỏi:
- Thế nào là Phật, Pháp và Thiền?
Sư đáp:
- Đấng Vô thượng pháp vương ở
thân là Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là Thiền. Tuy là ba nhưng
quy lại chỉ là một, cũng ví như nước ở ngã ba sông, tuỳ chỗ mà
đặt tên. Tuy tên gọi không giống nhau nhưng tính nước thì không
khác.
Ngày 14 tháng sáu năm Quảng Hựu
thứ 4 (1088) khi sắp thị tịch sư đọc lời kệ sau:
Diệu tính hư vô bất khả phan
Hư vô tâm ngộ đắc hà
nan
Ngọc phần sơn thượng
sắc thường nhuận
Liên pháp lô trung thấp vị can
Dịch:
Hư vô tính diệu khó vin noi
Riêng bụng hư vô hiểu được thôi
Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn nhuận
Trong lò sen nở sắc thường tươi
NGÔ TẤT TỔ
(VHĐL)
Đọc xong sư thanh thản qua đời,
thọ 69 tuổi.
Học trò để tâm tang ba năm.
*
* *
(?-1073)
Chùa Quang Minh, núi
Thiên Phúc, huyện Tiên Du.
Thiền sư người hương
chân Hộ, quận Như Nguyệt, họ Âu, tướng mạo đoan chính, giọng nói
trong trẻo. Từ năm 25 tuổi xuất gia theo hầu sư Ngô Pháp Hoa(1)
ở chùa Phổ Ninh học hỏi được nhiều điều uyên áo của cửa huyền.
Sau sư đến trụ trì chùa Quang Minh, giữ nghiêm giới luật, chuyên
tu thiền định, trong vòng sáu năm lưng không bén chiếu, hiểu sâu
phép Tam quán Tam ma địa, học trò đông đến hơn một nghìn người.
Tiếng sư tụng kinh ngày đêm cảm hóa cả khỉ vượn trong núi, khiến
chúng kéo từng đàn đến chùa nghe kinh. Vì thế danh tiếng của sư
vang truyền đến kinh đô.
Năm Đại Đính thứ 20
(1159 đời Lý Anh Tông) hoàng phi Thụy Minh bị ốm, vua sai sứ vời
sư đến xem bệnh. Ngày sư lên đường khỉ vượn gào khóc quyến
luyến. Khi sư vào cung, vừa đến cửa phòng của hoàng phi thì bệnh
của phi bèn khỏi. Vua Lý Anh Tông mừng lắm, mời sư nghỉ lại ở
tân quán trong chùa Báo Thiên. Trong khoảng 1 tháng, các quan
công khanh, đạo hữu hâm mộ danh tiếng đến tham thính nhiều không
kể xiết. Sư bèn đến thuyết pháp ở nhà giảng. Từ đó sư không về
núi nữa. Tăng chúng các nơi đến xin làm đệ tử rất đông.
Ngày mồng một tháng 8
năm Ất Hợi niên hiệu Chính Long Bảo ứng thứ 10 (1173), sư lâm
bệnh, than rằng:
- Loạn li lan rộng, do đâu mà xẩy
ra?
Nói đoạn đọc lời kệ rằng:
Địa, thủy, hỏa, phong, thức
Nguyên lai nhất thiết không
Như văn hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô
cùng.
Dịch:
Đất, nước, lửa,
gió, thức
Hết thảy vốn đều
“không”
Như mây tan rồi tụ
Phật nhật chiếu
không cùng
Sư lại nói:
Sắc thân dữ diệu thể
Bất hợp bất phân ly
Nhược nhân yếu chân
biệt
Lô trung hoa nhất chi.
Dịch:
Sắc thân và diệu thể
Chẳng hợp, chẳng lìa xa
Kẻ nào toan tách
biệt
Lò lửa, một cành
hoa.
HOÀNG LÊ
(TVLT 1)
Canh ba đêm ấy sư lặng
lẽ qua đời. Học trò là Quách tăng thống lo liệu lễ vật, đưa thi
hài sư về quận nhà làm lễ hóa táng rồi xây tháp ở bên cạnh chùa
Long Khám núi Tiên Du, một phần xá lị đem về thờ ở Vạn Tuế tại
Thăng Long.
*
* *
Người Quảng Châu
(Trung Quốc), đến nước ta vào thời Lý Thánh Tông (1054 – 1071)
nối pháp tự của Thông Biện quốc sư, từng vâng sắc chỉ biên sửa
sách Chiếu đối lục.
(? -1173)
Chùa Bảo Phúc, quận Mỹ
Lãng(1).
Thiền sư người hương
Trung Thụy, họ Kiều, tên Phù, là người trung tín, kính cẩn, chân
thực, chất phác, điềm đạm. Từ nhỏ theo Nho học, có tài viết chữ
đẹp, các sách Thi, Thư, Lễ, Dịch không sách nào
không để tâm nghiên cứu. Dưới triều vua Lý Anh Tông, ông làm
quan đến chức Cung hầu xá nhân. Năm ba mươi tuổi xin thôi việc
quan, đến chùa Bảo Phúc ở hương Đa Vân xin xuất gia. Các sách
kinh tàng ở chùa ấy đều do tay sư chép. Sau khi sư trụ trì chùa
quy tịch, sư tiếp nối làm trụ trì. Chẳng mấy chú ý đến bản thân,
sư thường ăn vận đồ sô gai, hàng tơ lụa không bao giờ dùng đến.
Năm này qua năm khác cứ giữ một mực như thế. Lúc nghỉ ngơi, sư
thường bảo học trò:
Muốn lên cỗ xe truyền
đạo của Phật thì phái siêng năng. Muốn thành tựu được sự chính
giác của Phật thì phải có trí tuệ. Cũng như người bắn cung,
ngoài một trăm bước thì phải dùng sức để bắn tới nơi, nhưng để
trúng đích thì không cần dùng sức vậy.
Ngày 7 tháng 5 năm
Chính Long Bảo ứng thứ 11 (1173) khi sắp viên tịch, sư đọc bài
kệ rằng:
Đắc thành chính giác
hãn băng tu
Chỉ vị lao lung tri tuệ(1)
ưu
Nhận đắc ma ni huyền diệu lý
Chỉ như thiên thượng hiểu kim ô.
Dịch:
Mấy ai thành Phật ở tu hành?
Chỉ trói cùm thêm tri óc mình
Thấu lẽ huyền vi trong ngọc sáng
Là vầng dương hiện giữa trời xanh
NGUYỄN ĐỒNG CHI
(TVLT 1)
Lại một bài khác:
Tri giả do như nguyệt chiếu thiên
Quang hàm trần sát chiếu vô thiên
Nhược nhân yếu thức tu phân biệt
Lĩnh thượng phù sơ tỏa mộ yên.
Dịch:
Trí tuệ như trăng chiếu khắp trời
Sáng trùm trần thế chẳng riêng ai
Ví người hiểu lẽ không phân biệt
Núi phủ mây chiều cây cỏ tươi
ĐàO PHươNG BINH
(TVLT 1)
Sư nói lời cuối:
- Cả Tâm và Ý của Như lai đều
không thể hiểu hết được. Chỉ có thể dùng Vô lượng Tri mới biết
được. Cho nên biết Tâm Như lai như hư không là chỗ dựa cho tất
cả. Trí tuệ của Như lai cũng là như thế.
Nói xong sư qua đời, môn đồ thu
xá lị xây tháp phụng thời.
*
* *
(?-1119)
Chùa Nghiêm Quang, hương Hải
Thanh
(1)
Thiền sư họ Dương, người Hải
Thanh, nhà mấy đời làm nghề đánh cá, sau bỏ nghề theo tu hành
đạo Phật. Sự chuyên chú tu trì pháp môn Đà La Ni (Dharàni).
Khoảng niên hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1059 – 1065, đời Lý
Thánh Tông), sư cùng đạo hữu là Giác Hải đi vân du cõi ngoài,
dấu kín tông tích, đến chùa Hà Trạch, ăn rau mặc lá, quên cả
thân mình, dứt hết mọi điều mong muốn, một lòng chuyên chú tu
tập thiền định. Rồi sư thấy tâm thần, tai mắt ngày càng sáng
láng thông tỏ, bay trên không, đi dưới nước, hàng long phục hổ,
muôn nghìn phép lạ không lường hết được. Sau sư về bản quận dựng
chùa trụ trì.
Một hôm người hầu đến thưa với
sư:
- Đệ tử từ khi đến đây chưa được
hòa thượng chỉ giáo tâm yếu. Nay có bài kệ xin trình hòa thượng:
Đoàn luyện hâm tâm thủy đắc thanh
Sum sum trực cán đối hư đình
Hữu nhân lai vấn Không vương pháp
Thân tọa bình biên ảnh tập hình.
Dịch:
Rèn luyện thâm tâm tựa nước thanh
Sân thênh cổ thụ tỏa sum cành
Có người thỉnh giáo nguồn pháp Phật
Lưng dựa bình phong, bóng tựa hình.
Sư xem xong nói:
- Ngươi đem kinh đến, ta nhận,
đem nước đến, ta uống, sao bảo ta không truyền tâm yếu?
Nói đoạn sư ha hả cười vàng. Sư
từng đọc bài kệ:
Tuyển đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc
vô dư
Hữu thì trực thướng cô
phong dính
Trường khiếu nhất
thanh hàn thái hư.
Dịch:
Kiểu đất long xà
chọn được nơi
Tình quê lai láng
chẳng hề vơi
Có khi xông thẳng
lên đầu núi
Một tiếng kêu vang,
lạnh cả trời
KIỀU THU HOẠCH
(TVLT)
Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ
Hợi niên hiệu Hội Tường Đại Khánh thứ 10 (1119) sư thị tịch. Môn
nhân thu xá lị táng [ở tháp] trước cửa chùa. Vua Lý Nhân Tông
cho sửa sang mở rộng chùa Nghiêm Quang, miễn tô thuế cho 20 hộ
để đèn hương phụng thờ.
(Tuổi thọ của sư không
khảo được. Nay theo thế thứ truyền pháp ở sách Nam Tông đồ(1)
ghi lại tại đây).
(1100-1176)
Am Bình Dương, núi
Kiệt Đặc, huyện Chí Linh.
Thiền sư họ Kiều,
người hương Phù Diễn, quận Vĩnh Khang. Thuở nhỏ ông hiếu học,
hiểu sâu lẽ sinh tử huyền vi của đạo Phật, sửa mình theo đạo đức
nhân nghĩa của nhà Nho. Sau ông xuất gia, đắc pháp với thiền sư
Mãn Giác ở chùa Giáo Nguyên. Năm Đại Định thứ 2 (1141, đời Lý
Anh Tông) sư đến trụ ở núi Kiệt Đặc. Quan hữu bật Ngụy Quốc Bảo
kính phục đạo đức của sư kính lễ như thầy. Sau sư nhận lời thỉnh
của thánh Dương công chúa đến trụ trì chùa Kiền An ở kinh đô
Thăng Long. Sư có bài kệ phát nguyện như sau:
Thế thế sinh sinh
Bất muội phật chỉ
Tự giác giác tha
Vô gian bỉ thứ
Phương tiện đề huề
Nhập ư nhất quỹ.
Dịch:
Kiếp kiếp đời đời
Không mờ ý Phật
Tự giác, giác tha
Không chia ta – vật
Phương tiện giúp nhau
Lối chung bước gấp
MAI XUÂN HẢI
Ngày tháng giêng năm Trinh Phù
thứ nhất (1176) đời Lý Cao Tông), sư không bệnh gọi đệ tử đến
bảo rằng:
Nhất quỹ nhất quỹ
Thạch miêu dao vĩ
Trịch thân tróc thử
Hoàn hóa vi quỷ
Nhược yếu phân minh
Kim sinh lệ thủy.
Dịch:
Một nẻo, một nẻo
Mèo đá vẫy đuôi
Lao tới vồ chuột
Lại hóa thành quỷ
Nếu mà rõ được
Vàng sinh lệ thủy(1)
MINH CHI
Lại đọc bài kệ:
Huyền thân bản tự không tịch sinh
Do như kính trung xuất hình tượng
Hình tượng giác liễu nhất thiết
không
Huyễn thân tu du chứng thực
tướng.
Dịch:
Thân huyễn vốn từ không tịch sanh
Dường tựa trong gương hiện bóng hình
Hiển rành hình tượng là không huyễn
Thân huyễn phút giây chứng thực tướng
MINH CHI
Đọc kệ xong, sư qua đời, thọ 77
tuổi.
*
* *
Thế hệ thứ mười
12 người, chép thiếu 2 người
(?-1196)
Chùa Phúc Thánh, hương Điển Lãnh.
Sư họ Tồ, còn pháp danh là Thiền
Trí, người hương Phù Cầm(1).
Ông bẩm tính thông minh, đọc rộng các sách. Đến tuổi trưởng
thành có nhân duyên được gặp Đạo Huệ thượng sĩ, bèn bỏ Nho học,
mặc áo cà sa, thỉnh vấn được yếu chỉ của đạo huyền. Sư thông
hiểu tôn chỉ các kinh Viên giác, Nhân vương, Pháp hoa
truyền giảng không biết mệt, được Đạo Huệ đặt cho pháp danh là
Minh Trí.
Một hôm sư đang cắt cỏ, có vị
tăng khách khoanh tay đến đứng bên cạnh. Sư nhanh tay vung liềm
về phía tăng khách, cắt một bụi cỏ. Tăng khách hỏi:
- Người xưa nói: Hòa thượng cắt
được cái gì đấy?
Sư giơ cái liềm lên. Tăng khách
đỡ lấy rồi vùng tay làm một động tác như cắt cỏ. Sư nói:
- Còn nhớ câu nói sau của ngươi
không? Người chỉ cắt được cái kia chứ không cắt được cái này.
Tăng khách thôi hỏi, bỏ đi.
Sư kể lại cho tăng đồ khách nghe
chuyện ấy. Vị
tăng đồ đứng cạnh nói:
- Người nói là Văn
Thù, kẻ im lặng là Duy Ma(1)
Sư nói:
- Không nói không
lặng, chẳng phải là ngươi sao?
Vị tăng ấy nhận là
phải. Sư hỏi:
- Sao không hiện pháp
thần thông?
Tăng đáp:
- Đệ tử không từ chối.
Nhưng hiện pháp thần thông chỉ sợ hòa thượng thu vào trong đạo.
Sư nói:
- Thế là ngươi chưa
phải đã có con mắt của tông phái Giáo ngoại(2)
Nói đoạn sư đọc kệ
rằng:
Giáo ngoại khả biệt
truyền
Hy di Tố, Phật uyên
Nhược nhân dục biện
đích
Dương diệm mịch cầu
yên.
Dịch:
Giáo ngoại khá
riêng truyền
Phật, Tổ đạo uyên
nguyên
Nếu mong thấy rõ
đích
Hãy tìm mây khói
lúc nắng xuân lên!
Năm Bính Thìn niên
hiệu Thiên Sư Gia Thụy thứ 11 (1169 đời Lý Cao tông) trước khi
thị tịch, sư đọc bài kệ:
Tùng phong thủy nguyệt
minh
Vô ảnh diệc vô hình
Sắc thân giá cá thị
Không không tầm hưởng
thanh.
Dịch:
Thông reo trăng
nước sáng
Không ảnh cũng
không hình
Sắc thân cũng thế
vậy
Hư không tìm tiếng
vang!
Đọc kệ xong, sư lặng
yên qua đời
*
* *
(?-1190)
Chùa Quán Đính, núi
Không Lộ.(1)
Thiền sư người hương
Chu Minh, phủ Thiên Đức, họ Tô, gia đình mấy đời làm nghề khắc
ván in kinh. Từ nhỏ sư đã sống thanh tịnh, không giao du hỗn
tạp. Ba mươi hai tuổi theo Du thiền sư đến núi Tiên Du, theo hầu
thiền sư Đạo Huệ trong khoảng ba năm, hiểu sâu tông chỉ. Sau đó
sư một mình một gậy đi vân du, rồi dừng lại trụ trì chùa Quán
Đính. Sư đứng trước tượng Phật đốt ngón tay phát nguyện:
- Đệ tử này đã bao
kiếp lao khốn trong vòng trần ai. Nay xin dứt hẳn không quay lại
nữa.
Sư chuyên tâm nghiên
cứu chép Tam quán của kinh Viên giác. Trong nhiều năm,
hàng ngày chỉ ăn một bữa, hình dung khô héo tiều tụy, dứt hết
lòng ham muốn. Nhờ đó hiểu sâu chính định Tam quán. Công khanh
sĩ thứ ở kinh đô biết sư là bậc cao nhã, ai cũng ngưỡng mộ muốn
được học. Sư nói:
- Có lợi tất có nhiễm,
có nhiễm tất có lợi. Có nhiễm có lợi thì bậc Bồ Tát không làm,
chỉ làm những điều gì không lợi không nhiễm.
Ngày 9 tháng giêng năm
Canh Thân(1)
niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190) sư lâm bệnh, gọi tăng
chúng đến đọc bài kệ:
Sơn lâm hổ báo
Hoành văn ban bác
Nhược dục chân biệt
Tử thối mẫu trác
Dịch:
Rừng sâu báo hổ
Da vằn loang lổ
Nếu muốn phân rõ
Con kêu mẹ mổ(2)
Đọc kệ xong [sư qua
đời](3)
*
* *
(1091-1170)
Chùa Khai Quốc, phủ
Thiên Đức
Thiền sư vốn người
Phúc Châu (Trung Quốc), họ Ngô. Lúc đầu sư xuất gia thụ giới cụ
túc ở Viện Sùng Phúc thuộc bản châu. Năm ba mươi tuổi, sư hành
cước về phương nam, rồi dừng lại trụ trì chùa Khai Quốc nước ta.
Trong khoảng năm sáu năm sư tu hạnh Đầu đà, mỗi ngày chỉ ăn một
nhúm hạt vừng hay hạt mạch, lưng không bén chiếu, chỉ ngồi
thiền, mỗi lần nhập định suốt mấy ngày liền mới đứng dậy. Người
bốn phương dâng phẩm vật cúng dàng chất đầy chùa. Có lần kẻ trộm
đến rình ngoài cửa, sư bèn gọi vào chỉ cho mà lấy. Bấy giờ Nam
Khang công chúa có ý muốn lìa tục, ngầm xin sư cho làm lễ xuống
tóc xuất gia. Triều đình biết chuyện hạ chiếu bắt sư vào triều.
Sư đến cửa khuyết nét mặt vẫn thản nhiên như không có chuyện gì.
Vua thấy vậy tỏ ý kính trọng, phong là “Thạc đức danh tăng” (vị
danh tăng có đức lớn). Sư có từ không nhận.
Một hôm sư lên nhà
giảng, có vị tăng khách chống gậy đến hỏi:
- Thế nào là pháp
thân?
Sư đáp:
- Pháp thân vốn không
hình.
Khách lại hỏi:
- Thế nào là pháp
nhãn?
Sư đáp:
- Pháp nhân vốn không
bóng.
Sư lại nói:
- Trước mắt không có
pháp. Ý ở trước mắt, còn pháp thì tai không nghe, mắt không nhìn
thấy được.
Tăng khách ha hả cười
vang. Sư hỏi:
- Khách cười cái gì?
Khách đáp:
- Hòa thượng là bậc
xuất gia chưa hiểu tông chỉ, phải đến tham vấn Đạo Huệ mới xong.
Sư nói:
- Liệu có tìm được vị
hòa thượng ấy không?
Khách đáp:
- Trên không mái che,
dưới không dùi cắm.
Sư bèn cải dạng đi
tham thỉnh thiền sư Đạo Huệ ở núi Tiên Du. Đạo Huệ nói:
- Tông chỉ ở đây chẳng
phải là không có, nhưng Xà Lê(1)
làm sao mà bảo nhậm được?
Sư còn nghĩ ngợi, Đạo
Huệ quát lớn:
- Ngày trước mắt ngươi
đã trượt qua rồi.
Sư liền lĩnh ngỗ yếu
chỉ, rồi ở lại hầu hạ Đạo Huệ thiền sư. Sau ba năm sư đắc pháp
trở về chùa cũ, nhận môn đồ để truyền thụ.
Một hôm sư gọi tăng
chúng đến đọc bài kệ rằng:
Thượng vô phiến ngoã
già
Hạ vô trác chùy địa
Hoặc dịch phục trực
nghệ
Hoặc sách trượng nhi
chi
Động chuyển xúc xứ
gian
Tự long được thôn nhĩ.
Dịch:
Trên không viên
ngói lợp
Dưới không đất cắm
dùi
Người cải dạng đến
học
Kẻ chống gậy vào
chơi
Khi chuyển động
tiếp xúc
Như rồng nhảy nuốt
mồi
BĂNG THANH
(TVLT1)
Một thầy tăng hỏi:
- Lời dạy của hòa
thượng nghĩa thế nào?
Sư đáp:
- Ngày ngày gặt lúa
về
Quanh năm kho đụn
rỗng.
(Nhật nhật khứ hoạch
hòa
Thì thì không thương
lẫm)
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu.
Sư nói:
- Sáng mãi trời
trăng
Mây trôi tỏa bóng
(Nhật nguyệt trường
minh
Phủ văn cái ấm)
Nói đoạn sư lại đọc
bài kệ:
Trí nhân vô ngộ đạo
Ngộ đạo tức ngu nhân
Thân cước cao ngọa
khách
Hề thức ngụy kiêm
chân.
Dịch:
Kẻ trí không ngộ
đạo
Ngộ đạo ấy ngu đần
Duổi chân nằm nghỉ
khỏe
Chân ngụy chẳng chi cần!
Hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Nhật nguyệt sáng soi ức triệu cõi
Ai hay mua móc gội non sông!
(Nhật nguyệt lệ thiên hàm ức sát(1)
Thùy tri văn vụ lạc sơn hà)
Hỏi: Làm thế nào hiểu được?
Đáp:
- Mục đồng quen ngủ trên lưng nghé
Đất có anh hùng cưỡi vượt qua
(Mục đông chi quán ngọa ngưu bối
Thổ hữu anh hùng khóa đắc y)
Hỏi:
- Ý Tổ và ý Phật giống nhau, khác
nhau thế nào?
Đáp:
- Trèo non vượt biển muôn dặm đều
hướng về cửa khuyết.
- Trí tuệ của hòa thượng thật đặc
sắc kỳ lạ, sao không cho các đệ tử cùng biết?
- Người thổi lửa, ta làm gạo;
ngươi xin ăn, ta lấy bát. Ai phụ bạc ngươi?
Thầy tăng ấy bèn tỉnh ngộ.
Ngày... tháng... năm Chính Long
Bảo Ứng thứ 8 (1170, đời Lý Anh Tông), sư sắp thị tịch, gọi tăng
chúng đến nói lời vĩnh quyết:
- Các người hãy giữ mình như khi
ta còn sống, chớ nhiễm thế tục mà sinh ra đau buồn.
Nửa đêm hôm ấy, sư ngồi kiết già
mà viên tịch, thọ hơn 80 tuổi.
(Lời đối đáp cơ duyên trong
truyện này so với truyện hòa thượng Giáp Sơn trong sách
Truyền đăng có phần nào giống nhau. Xét sách Liệt tổ
của Huệ Nhật thấy chép khách, nhưng không dám cái chính).
*
* *
(1120-1180)
Chào Bác Đức, núi Vũ Ninh.
Thiền sư họ Hứa, người phường
Đông Tác. Xuất gia từ lúc còn nhỏ, theo tu tập Thiền học với Đạo
Huệ thiên sư ở Tiên Du, đã hiểu biết được đại khái. Sư thường
xoã tóc quên ăn, không ở hẳn một nơi nào nhật định. Các bậc
vương công tranh nhau thờ làm thầy, nhất là Kiến Ninh vương và
Thiên Cực công chúa
(1) đối với sư lại càng tôn kính. Sư từng dựng
chùa ở gò Hồ Nham núi Tuyên Minh để giáo hóa, học trò đến theo
học rất đông. Bấy giờ có thầy tăng người nước Tống là Nham Ông
cảm mộ danh tiếng của sư, tìm đến thỉnh vấn, tự đốt một ngón tay
đem dâng sư để tỏ lòng thành. Người ta nghi ngờ sư có yêu thuật.
Trong niên hiệu Thiên cảm Chí Bảo (1174 – 1175) đời Lý Anh Tông,
thai úy Đỗ Anh Vũ ra lệnh bắt sư đem về giam ở thành nội, quở
trách nặng nề, nhưng sư không hề tỏ ý sợ hãi. Nhờ có Thiên cực
công chúa xin với vua nên sư mới khỏi bị tội.
Một hôm vua Lý Anh Tông vời sư
đến hỏi:
- Trẫm nhiều phiền cảm, có phép
gì chữa khỏi không?
Sư nói:
- Phép thập nhị nhân duyên(1)
là gốc rễ của vòng sinh tử tuần hoàn. Bệ hạ dùng phép ấy thì đó
là thuốc chữa bệnh vây.
Vua hỏi tông chỉ của pháp ấy thế
nào, sư đáp:
- Chỉ vì nhân duyên vô minh mà
dẫn đến mọi buồn lo khổ não. Muốn cầu Bích Chi Phật(2)
phải hiểu rõ thập nhị nhân duyên để giữ mình thì mới hết nghiệp
căn khổ não.
Vua nói:
- Thế thì trẫm phải tĩnh tâm tu
tập.
Sư nói:
- Phải cấm trừ nghiệp thức(3)
giữ lòng yên tĩnh thì mới quét sạch phiền não. Ngoài ra không có
phép riêng nào đáng phải tu tập. Ngày xưa Lương Vũ Đế từng hỏi
Bảo Chí thiền sư, Bảo Chí cũng trả lời như thế. Nay bần đạo trộm
phép nói tương tự để bệ hạ tham cứu.
Ngày 5 tháng 2 năm Trinh Phù thứ
5 (1180) sư dặn dò đệ tử xong, đọc kệ rằng:
Tứ xà đồng kiệp bản nguyên không
Ngũ uẩn cao sơn diệc bất tông
Chân tinh linh minh vô khuể ngại
Niết Bàn sinh từ nhậm già lung.
Dịch:
Tứ xà(1)
cùng giỏ vốn nguyên không,
Ngũ uẩn(2)
non cao chẳng tổ tông
Chân tính sáng thiêng không trở ngại
Niết Bàn sinh tử mặc giam lồng
MAI XUÂN HẢI
Lại đọc tiếp một bài kệ khác:
Thạch mã xỉ cuồng ninh
Thực miêu nhật nguyệt minh
Đồ trung nhân cộng quá
Mã thượng nhân bất hành.
Dịch:
Ngựa đá nhe răng cuồng
Ngày tháng kêu ăn mạ
Trên đường người cùng qua
Cưỡi ngựa, người không đi!
MINH CHI
Canh năm hôm ấy sư uống thuốc độc
mà qua đời, thọ 61 tuổi.
*
* *
(1112-1175)
Am Việt vương trì, núi Tỉnh
Cương, huyện Vũ Ninh.
Thiền sư người Cát Lăng, huyện Vũ
Bình, họ Ngô, tên húy là Trạm. Từ thủa nhỏ thông minh, giỏi biện
luận, có tài văn nghệ, nhất là viết chữ rất đẹp. Khi du học được
gặp thiền sư Đạo huệ, ông bị cuốn hút, bèn dốc lòng nương nhờ
đất Phật. Trải bao năm tháng sư ăn rau mặc lá, chuyên tâm tu trì
phúc tuệ, đạo tâm ngày càng kiên vững. Đạo Huệ từng bảo sư:
- Tâm ấn của chư Phật đều có cả ở
ngươi, không phải tìm ai khác.
Sư nói:
- Đội ơn thầy chỉ giáo, chẳng hay
đệ tử nên tru phương nào?
Đạo Huệ đáp:
- Chẳng phải đi đâu xa, cứ về đất
cũ Vũ Ninh cũng đủ.
Sư bèn đến núi Tỉnh Cương chụm
lều tranh mà trụ, sáng sớm đến đêm khuya lễ Phật sám hối, chứng
được phép niệm Phật tam muội(1),
tiếng sư tung kinh niệm Phật sang sảng như âm thanh ở chốn Phan
thiện.
Sư thường giảng kinh Viên
Giác, thấy văn bản kinh sách có chỗ nghĩa lý bất thông thì
cầm bút sửa lại, người đương thời thường nói vui là trong miệng
sư có chất thư hoàng.
Ngày tháng... năm Thiên Cảm Chí
Bảo thứ 2 (1175) sư lâm bệnh, gọi đệ tử đến dặn bảo:
- Các ngươi cần phải siêng lòng
cúng dàng, không phải cầu Phật ở đâu khác. Phải trừ dệt hết ác
nghiệt, miệng đọc tâm tụng, lấy đức tin mà giảng giải cho chúng
sinh. Hãy giữ lòng yên tỉnh thanh không, thân gần kẻ thiện trí
thức, lời nói hòa nhã, chẳng bao lâu trong tâm hết sợ hãi, hiểu
thấu giáo lý, xa rời ngu mê, truyện không động. Tất cả mọi pháp
vô thường, vô ngã, vô tác, vô vi, chỗ nào thấy chênh lệch xa rời
phải biết phân biệt để hiểu rõ, như thế mới đáng là người học
đạo chân chính. Duyên hóa độ của ta đến nay thế là xong.
Nói đoạn sư đọc bài kệ;
Tiên tuy ngôn cát hậu
ngôn hung
Tự thị thừa(1)
tiên húy bất tòng
Vi ngộ hiện long vi Phật tử
Hối tao thử xuất tịch vô cùng.
Dịch:
Trước tuy là cát,
sau là hung
Giáo huấn người xưa
tránh chẳng dùng
Vì thấy rồng lên
làm Phật tử
Chợt trông chuột
hiện lặng vô cùng.
Đọc kệ xong, sư nghiêm
trang qua đời, thọ 64 tuổi.
*
* *
(? – 1190)
Chùa Thanh Tước, núi
Du Hí, hương Cát Lị Hi,(1)
quận Thường Lạc.
Sư người Ô Diên, quận
Vĩnh Khang, họ Nguyễn, là cậu của thái úy Tô Hiến Thành đòi Lý
Anh Tông. Sư bỏ tục, xuất gia tu hành ở chùa Thanh Tước, ăn gạo
hút, mặc áo rách, dễ đến mười năm chỉ dùng một manh áo, cứ ba
ngày mới nhóm lửa thổi cơm, chẳng bao lâu da dẻ sần mồi, nhan
sắc hô héo. Khi ra đường thấy kẻ nghèo hèn thì khoanh tay tránh
lối, gặp người tu hành thì quỳ mà lạy chào. Trong sáu năm, sư
chuyên chú tu tập thiền định, sau khi thành đạo bèn chống gậy
xuống núi. Từ đó sư đi phổ khuyến các nơi để lo việc sửa cầu,
dựng chùa tháp, không nghĩ đến điều lợi.
Có vị tăng khách đến
hỏi sư:
- Sinh từ đâu tới? Tử
đi về đâu?
Sư còn nghĩ ngợi, tăng
khách nói:
- Còn đang nghĩ
ngợi
vạn dặm mây trôi
(Nghĩ nghị chi gian
Bạch Văn vạn lý)
Sư không đáp được.
Tăng khách bèn quát:
- Chùa tốt mà không có
Phật!
Tăng khách nói xong bỏ
đi.
Sư than rằng: “ta tuy
có lòng xuất gia mà chưa hiểu thấu tông chỉ cũng ví như người
đào giếng sâu đến chín nhẫn mà không gặp nước, còn đợi gì mà
không bỏ cái giếng ấy đi! Huống chi ta tu thân mà không ngộ đạo,
biết tính thế nào”?
Từ đó sư đi vân du bốn
phương tìm thấy học đạo. Nghe danh thiền sư Đạo Huệ ở Tiên Du,
sư bèn tìm đến tham vấn. Sư lại nêu câu hỏi: “Sinh từ đâu tới,
tử đi về đâu?”.
Đạo Huệ đáp:
- Sinh không từ đâu
tới, tử chẳng về đâu.
Sư hỏi:
- Thế chẳng phải rơi
thoát vào chỗ trống không ư?
Đạo Huệ đáp:
- Chân tính diệu viên,
thể tự không tịch; vận dụng tự tại chẳng cùng với sinh tử. Cho
nên nói sinh không từ đâu tới, tử chẳng về đâu.
Nghe câu nói ấy, sư
bèn lĩnh ngộ, thưa rằng:
- Chẳng nhờ gió
cuốn mây bay tạnh
Nào thấy trời thu
vạn dặm xanh
(Bất nhân phong quyên
phù vân tận
Tranh kiến thanh niên vạn lý thu)
Đạo Huệ nói:
- Người thấy cái gì?
Sư đáp:
- Quen biết khắp thiên hạ
Tri âm được mấy người?
(Tương thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân)
Nói xong từ tạ trở về
núi cũ. Từ đó, sư tự tin truyền giảng thuyết pháp, lời lẽ kích
thiết như xiết đá đánh lửa.
Một hôm sư lên nhà
giảng, tăng đồ và tu sĩ ngồi chật như nêm. Có người hỏi:
- Thế nào là “tri
túc”?
Sư đáp:
- Phàm người xuất gia,
tại gia phải dừng lại ở chỗ “tri túc”. Nếu biết “tri túc” thì
ngoài không xâm phạm đến ai mà trong không tổn hại đến mình. Bé
mọn như lá cỏ, nếu người ta không cho, mình cũng không nên lấy,
huống gì là vật khác? Của cải của người, nếu ta mơ tưởng đến thì
cuối cùng không chỉ dừng ở đó mà sẽ sinh lòng trộm cắp. Đến như
vợ cả, vợ lẽ của người, nếu ta mơ tưởng thì cũng không dừng ở đó
mà sẽ sinh lòng tà dâm. Các ngươi hãy nghe lời kệ của ta:
Bồ Tát tư tài tri chỉ
túc
Ư tha từ thứ bất xâm
dục
Thảo diệp bất dữ ngã
bất thủ
Bất tưởng tha vật đức
như ngọc
Bồ tát tự thê phương
tri túc
Như hà tha thê khởi
thàm dục
Ư tha thê thiếp tha sở
hộ
An nhẫn tự tâm khởi
tâm khúc.
Dịch:
Của dùng Bồ Tát
biết vừa đủ
Đối ngươi thương
xót chẳng lấn tham
Vật mọn không cho ta không lấy
Chẳng quản của người đức ngọc lành
Bồ tát vợ nhà còn
biết đủ
Tại sao vợ người lai khởi tham?
Thê thiếp của người, người bảo hộ
Đâu nỡ lòng mình
khởi vạy tà
THANH TỪ
(TSVN)
Ngày 14 tháng 4 năm Gia Thụy thứ
5 (1190) sư lâm bệnh rồi qua đời. Đệ tử làm lễ hóa táng, thu
linh cốt, dựng tháp thờ ở sơn môn.
(1110 – 1165)
Chùa Sóc Thiên vương, núi Vệ
Linh,
(1) Bình Lỗ.
Thiền sư người hương Trường
Nguyên, huyện Tiên du, họ Phạm, vốn thuộc giống người Bối. Lúc
mới xuất gia được thiền sư Đạo Huệ ở chùa Quang Minh truyền tâm
ấn. Sâu vào núi Vệ Linh ẩn tích, ăn rau rừng, hạt dẻ, làm bạn
với suối, khe, khỉ, vượn, suốt ngày dồi luyện thâm tâm cho đạt
được sự hồn thuần để tụng kinh niệm Phật. Trong khoảng năm, sáu
năm sư lặng lẽ tu trì nên không ai hay biết. Nhưng cuối cùng rồi
danh tiếng của sư cũng lan truyền đến kinh đô. Vua Lý Anh Tông
lấy làm hâm mộ, muốn triệu kiến mà không chịu đến. Vua bèn sai
bạn cũ của sư là phiên thần Lê Hối đến khuyên mời. Sự nhận lời
cùng đi nhưng khi đến chùa Quán Hương lại lấy làm hối, bèn trốn
về, nói với học trò:
- Ta đã thân khô lòng nguội, đối
với thế tục, phù phiếm hư ngụy có đáng là gì? Có lẽ là do chí
hạnh của ta chưa thuần nên còn bị cái lòng lợi danh làm khốn!.
Các ngươi hãy nghe lời kệ của ta:
Viên hầu bảo từ qui thanh chướng
Tự cổ thánh hiền một khả lượng
Xuân lai oanh chuyển bách hoa
thăm
Thu chi cúc khai một mô dạng.
Dịch:
Khỉ vượn bồng con náu núi ngàn
Từ xưa hiền thánh mấy ai tường?
Xuân sang hoa thắm oanh ca rộn
Thu tới còn riêng cúc nở vàng.
MAI XUÂN HẢI
Sư lại từng nói với môn đồ:
- Lạ thay! Lạ thay! Tại sao lại
nói các chúng sinh đều có trí tuệ của Như Lai mà vẫn ngụ si mê
hoặc, không thấy, không biết. Ta thường đem đạo lý giáo hóa
khiến cho họ lìa bỏ vông tướng chấp trước để tự mình thấy được
trí tuệ rộng lớn của Như Lai, được lợi ích an lạc.
Ngày 7 tháng sáu năm Chính Long
Bảo ứng thứ 3 (1165), sư se mình, gọi đệ tử đến đọc lời kệ:
Tại quang tại trần
Thường ly quang trần
Tầm phủ trừng triệt
Dữ vật vô hận
Thể ư tự nhiên
Ứng vậy vô ngân
Tồng tương nhị nghi
Đào thải nhân luân
Đình độc vạn vật
Dữ vật vi xuân
Tác vũ thiết nữ
Đả cố mộc nhân.
Dịch:
Ở nơi bóng trần
Thường lìa bóng
trần
Lòng dạ trắng trong
Cùng vật không thân
Tài bằng trời đất
Vượt cá nhân luân
Dưỡng muôi muôn vật
Cùng vật vui xuân
Gái sắt đứng múa
Người gỗ đánh trống
THẠCH TỪ
(TSVN)
Đọc kệ xong sư quy
tịch, thọ 56 tuổi
*
* *
(? – 1207)
Chùa Quốc Thanh, núi
Bí Linh, phủ Nghệ An (có thuyết nói chùa Quốc Thanh ở Phủ Trường
An)
Thiền sư quê ở hương
Giang Mãn, đất Lô Hải Ngung(1)
họ Chu, húy là Hải Ngung, xuất thân nhà nghèo, tính tình trung
thực thuần hậu. Thuở nhỏ ông theo Nho học. Năm hai mươi sáu tuổi
bị ốm, chiêm bao thấy người trời xuống cho thuốc, tỉnh dậy thì
khỏi bệnh. Từ đó quyết chí xuất gia, tìm các bậc túc thiền trong
bản hương để tu tập giới luật. Nghe nói Lăng Sơn là nơi u tịch,
có thể đến tìm thầy học đạo. Sư bèn chống gậy đi về phía đông.
Trong khoảng bẩy năm theo hầu thiền sư Báo Giác ở chùa Viên
Minh, chỉ nhờ một câu nói của sư mà lĩnh ngộ tông chỉ.
Ngày tháng mười năm
Quý Tỵ niên hiệu Chính Long Báo ứng (1173) tước khi thị tịch, sư
Báo Giác bảo Tịnh Giới:
- Sinh, lão, bệnh, tử
là lẽ thường của thế gian, há riêng mình ta được miễn thông lệ
ấy hay sao?
Sư hỏi:
- Hôm nay hòa thượng
thấy trong người thế nào?
Bảo Giác cười rồi đọc
bài kệ:
Vạn pháp quy không vô
sở y
Quy tịch chân như mục
tiền ky (cơ)
Đạt ngộ tâm viên vô sở
chỉ
Thủy thủy tâm nguyệt
dẫn tâm nghi(1)
Dịch:
Muôn pháp về không,
không thể nương
Chân như lặng lẽ
hiện chán chường
Thấu tột nguồn tâm
không chỗ chỉ
Nước tâm bóng
nguyệt bặt nghĩ lường.
THANH TỪ
(TSVN)
Báo Giác đọc kệ xong
trao pháp cụ cho Tịnh Giới rồi quy tịch.
Từ đó Tịnh Giới đi du
phương hành hóa, sau dừng lại ở chùa Quốc Thanh. Tại đây sư tu
Đầu đà khổ hạnh trong khoảng sáu năm không xuống núi. Sư có phép
lạ hàng long phục hổ, cảm hóa thần thông. Châu mục Phạm Từ hâm
mộ danh đức đem hậu lễ thỉnh sư cho đúc chuông đồng kính tiến để
nhà chùa treo trấn giữ sơn môn.
Mùa hè năm Trinh Phù
thứ 2 (1177) gặp đại hạn, vua Lý Cao Tông xuống chiếu cho các
danh tăng làm lễ cầu đảo đều không ứng nghiệm. Vua từ lâu đã
nghe danh tiếng của sư, bèn sai sứ thỉnh sư về kinh. Sư nghỉ ở
chùa Báo Thiên đến nửa đêm thắp hương đứng giữa sân chùa tụng
niệm cầu khấn, trời bèn đổ mưa. Vua hết lời khen ngợi sùng ái,
thường gọi là Vũ sư (vị sư giỏi thuật cầu mưa). Nhân dịp đó vua
triệu sư vào ở gần điện riêng để tiện hỏi về Phật pháp, ban
thưởng rất trọng hậu.
(Tục truyền: sư xuất
gia khi còn tuổi đinh tráng, ở nhà còn thiếu thuế. Chị gái là
Chu Thị Hằng năm vẫn phải nộp thay. Sư nhớ việc đó nhưng không
biết làm thế nào để xin miễn được. Khi nghe tin triều đình xuống
chiếu cầu mưa, sư bèn lén về nhà báo chị cho đào một cái ao sau
vườn. Đêm đến sư thắp hương tụng niệm cầu đảo, một lát sau trời
mưa nước đầy ao. Quan địa phương kinh lạ tâu về triều. Vua cả
mừng sai sứ thỉnh sư về kinh. Sư nghỉ ở chùa Báo Thiên, đêm hôm
sau thắp hương cầu đảo, quả nhiên được mưa to. Nhờ việc ấy sư
được độ làm tăng(1),
lại miễn tô thuế cho cả họ (trong năm ấy).
Năm Trinh Phù thứ tư
(1179) chùa Chân Giáo ở núi Vạn Bảo làm xong, vua triệu các bậc
danh tăng có đức vọng về dự hội khánh thành. Sư ứng chiếu đến
cửa khuyết, nghỉ ở gác Lâm Tê. Bấy giờ trời mưa dâm, đường sá
lầy lội phương hại đến viện mở hội chùa. Sư lập đàn cầu tạnh,
mưa liền ngớt. Xong hội chùa bẩy ngày trời lại mưa như cũ.
Sau sư trở về bản
hương lo liệu trung tu chùa Quảng Thánh. Trong lúc đi các nơi
quyên mộ để đúc chuông làm trống, có khi trời kéo mấy đen sắp
mưa, sư đứng giữa sân giơ gậy trừng mắt nhìn lên, chỉ trong chốc
lát mây tan; mặt trời lại xuất hiện. Về sau qua nhiều lần binh
hoả mà quả chuông do sư đúc ở chùa Quảng Thánh đến nay vẫn còn.
Sau sư trở về chùa Quốc Thanh giảng hóa cho môn đồ. Có vị tăng
hỏi về Phật lý, sư đáp:
- Ta với ngươi!
Sư lại nói:
- Tính của tâm tức là
Như Lai tạng(1).
Cho nên đạt được tâm tự tính thì thanh tịnh.
Ngày bẩy tháng bẩy năm
Trị Bình Long ứng thứ 3 (1207) trước khi thị tịch, sư đọc bài
kệ:
Thử thì thuyết đạo hãn
tri âm
Chỉ vì như tư đạo táng
tâm
Hề tự Tử Kỳ ta sảng
sẩm
Thỉnh lai nhất đại Bá
Nha cầm.
Dịch:
Thời này bàn Đạo ít
tri âm
Vì đạo ngày nay đã
mất tâm
Ai giống Tử Kỳ nghe
nhạc giỏi
Bá Nha đàn thoảng,
hiểu tinh thâm.
HOÀNG TRUNG THÔNG
(TVLT
1)
Lại đọc thêm một bài
nữa:
Thu lai lương khí
sảng hung khâm
Bát đấu tài cao đổi
nguyệt ngâm
Kham tiếu thiền gia si độn khách
Vi hà tương ngữ dĩ
truyền tâm.
Dịch:
Êm dịu hơi thu mát
cõi lòng
Tài thơ ngâm chọi
bóng trăng trong
Cửu thiền những
thẹn người si độn
Để lại câu gì, nghĩ
chửa thông.
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Nói xong sư ngồi kiết
già mà tịch:
(Nguyên chú:
truyện này có chỗ hơi khác với quốc sử và văn bia, nay khảo cứu
lại.)
*
* *
Chùa Diên Phúc, hương
Hải Thanh.
Thiên sư họ Nguyễn,
người hương Hải Thanh, từ nhỏ làm nghề đánh cá, thường lấy
thuyền làm nhà, lênh đênh trên sông biển. Năm 25 tuổi bỏ nghề
cũ, cắt tóc đi tu. Lúc đầu sư cùng với Không Lộ theo học đạo với
Hà Trạch(1).
Sau sư nối pháp tự của Không Lộ. Thời Lý Nhân Tông, sư và Thông
Huyền chân nhân có lần được vời vào hoàng cung ngồi hầu vua trên
bệ đã mát ở hiên điện chính, chợt có đôi cắc kè đậu gần đó kêu
vang lên rất chối tai. Vua bảo Thông Huyền xua đi. Thông Huyền
lặng lẽ niệm chú, một con liền rơi xuống. Thông Huyền cười bảo
sư:
- Còn một con nữa xin
nhường hòa thượng! Giác Hải bèn chú mục nhìn, chỉ nháy mắt con
cắc kè kia cũng rơi nốt. Vua lấy làm lạ, làm thơ khen ngợi như
sau:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo hựu
huyền
Thần thông kiêm biến
hóa
Nhất Phật, nhất Thần
tiên
Dịch:
Giác Hải lòng như
biển
Thông Huyền đạo rất
huyền
Thần thông kiêm
biến hóa
Một Phật, một Thần
tiên.
PHẠM TRỌNG ĐIỀM(1)
Do chuyện đó tên tuổi
Giác Hải đồn vang khắp thiên hạ, cả tăng, tục đều kính mộ. Vua
Lý Nhân Tông lấy lễ tiếp đãi như thầy. Mỗi khi xa giá về hành
cung ở Hài Thanh, vua thường đến chùa Diên Phúc trước. Vua hỏi
Giác Hải:
- Sư có thể cho nghe
về phép thần túc không?(2)
Sư bèn làm tám phép
thần biến, rồi tung người nhảy lên không cao đến mấy trượng,
trong chốc lát lại nhảy xuống chỗ cũ. Vua và các quan đều vỗ tay
khen ngợi. Vua ban cho một chỗ kiệu, mỗi khi về kinh được phép
vào hoàng thành.
Đến đời Lý Nhân Tông,
vua nhiều lần triệu mời, nhưng sư đều lấy cớ già yếu từ chối
không về kinh.
Có vị tăng hỏi:
- Phật và chúng sinh
thì ai là khách, ai là chủ?
Sư đọc bài kê mà đáp:
Liễu dụng(3)
nữ đầu bạch
Báo nhĩ tác giả thức
Nhược vẫn Phật cảnh
giới
Long môn tao điểm
ngạch(1).
Dịch:
Biết dùng gái đầu
bạc
Bảo ông người khéo
biết
Nếu hỏi cảnh giới
Phật
Cửa rồng gặp điểm
trán
Khi sư lâm bệnh, gọi
đệ tử đến đọc kệ rằng:
Xuân lai hoa điệp
thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng
ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai
thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng
tâm trì.
Dịch:
Xuân sang hoa bướm
khéo quen thì
Bướm lượn hoa cười
vẫn đúng kỳ
Nên biết bướm hoa
đều huyền ảo
Thây hoa mặc bướm,
để lòng chi
NGÔ TẤT TỐ
(VHĐL)
Đêm ấy có ngôi sao lớn
rơi xuống phía đông nam nhà phương trượng. Sư ngồi nói chuyện
đến sáng rồi trang nghiêm qua đời. Vua xuống chiếu miễn thuế cho
ba mươi hộ để đèn hương thờ phụng, cho hai người con trai(2)
ra làm quan để tỏ ý biểu dương khen thưởng.
(? 1181)
Chùa Quảng Báo, hương
Chân Hộ, quận Như Nguyệt.
Thiền sư họ Nguyễn,
người hương Phù Cầm, thuở nhỏ thụ pháp với thiền sư vẫn trì ở
chùa Mật Nghiêm, lĩnh hội được yếu chỉ. Rồi sư đến ẩn cư ở núi
Vệ Linh, chuyên chú tu tập phạn hạnh.
Ròng rã mười hai năm
trời, mỗi lần tọa thiền nhập định ngồi liền ba ngày mới đứng
dậy. Sư thường trì tụng bài chú Hương Hải đại bi Đà La Ni,
cầu mưa, trị bệnh luôn ứng nghiệm. Vua Lý Anh Tông cảm phục
sư có phép thần thông linh nghiệm, ban chiếu chỉ cho sư được
phép ra vào cung cấm để tiện việc cầu cúng, chữa bệnh.
Sau sư cáo lão trở về
chùa trụ trì. Môn đồ xin thụ pháp đến hơn trăm người.
Ngày 11 tháng sáu năm
Thiên Cảm Chí Bảo thứ 8 (1181) trước khi thị tịch, sư bảo tăng
chúng rằng:
Đạo vô ảnh tượng
Xúc mục phi dao
Tự phản suy cầu
Mạc cầu tha đắc
Túng nhiêu cầu đắc
Đắc tức bất chân:
Thiết sử đắc chân
Chân thị hà vật?
Dịch:
Đạo không hình ảnh
Trước mắt chẳng xa
Xoay lại tìm ta
Chớ tìm đâu khác
Dẫu có tìm được
Được chẳng phải
chân
Dù có được “chân”
“Chân” là gì vậy?
Cho nên các Phật Tam
thế, Tổ các đời truyền thụ tâm ấn đều như thuyết ấy. Các ngươi
hãy nghe lời kệ của ta.
Liễu ngộ thân tâm khai
tuệ nhãn
Biến hóa linh thông hiện th ực
tướng
Hành trụ, tọa, ngọa, độc trác
nhiên
Ứng hiện hóa thân bất khả lượng
Tuy nhiên sung tắc
biến hư không
Quan lai bất kiến như
hữu tướng
Thế gian vô vật khả tỷ
huống.
Trường hiện linh quang
minh lãng lãng
Thường thời diễn
thuyết bất tư nghi
Vô đắc nhất ngôn dĩ vi
đương
Dịch:
Giác ngộ thân tâm
bừng tuệ nhãn
Linh thông biến hóa
hiện thực tướng
Đi đứng nằm ngồi mặc an nhiên
Ứng hiện hóa thân không thể lượng
Tuy rằng đầy ắp khắp hư không
Xem ra chẳng thấy như hình tướng
Thế gian chẳng vật nào sáng ngang
Linh quang mãi mãi vẫn ngời sáng
Thường thì nói ra chẳng nghi ngờ
Nhưng chẳng lời nào cho thỏa đáng
MAI XUÂN HẢI
Một bản dịch khác:
Rõ hiểu thân, tâm mắt tuệ mở
Biến hóa linh thông, bày thực tướng
Đi đứng nằm ngồi, riêng siêu việt
Ứng hiện hóa thân không thể lường
Tuy hiện khắp đầy rẫy như không
Xem ra nào thấy có tướng gì
Thế gian không có gì sánh được
Thường hiện ánh thiêng sáng sáng ngời
Luôn luôn thuyết pháp bất tư nghì
Không một lời nào xem thỏa đáng
M.C.
Nói xong sư ngồi kiết già mà qua
đời.
(Nguyên chú: Truyện này, giữa
bản lưu truyền lâu nay và truyện Huệ Tứ trong sách Truyền
đăng hơi giống nhau. Nay theo như sách Liệt tổ yếu ngữ
của Huệ Nhật đã chép)
*
* *
Thế hệ thứ mười một
9 người, chép thiếu 8 người
(1122-1190)
Chùa Tịnh Quả, hương Trung Thụy,
huyện Trương Canh.
Thiền sư họ Nguyễn, người Đan
Phượng, từ nhỏ mồ côi cha, theo hầu cậu là Bảo Nhạc, được khai
tâm học đạo. Sau khi cậu mất ông đi hành cước khắp nơi để tham
vấn thiền học. Nghe tiếng sư Thiền Trí(1)
thuyết pháp giảng hóa ở chùa Phúc Thánh, hương Điển Lãnh, sư tìm
đến xin làm đệ tử. Một hôm nghe Thiền Trí giảng Tuyết Đậu ngữ
lục, đến đoạn hai thầy Đạo Ngô và Tiên Nguyên đến nhà người
điếu tang, đối đáp về vấn đề sinh tử, sư dương như có điều sở
đắc, bèn hỏi:
- Thoại đầu này người xưa nói về
cái lẽ ở trong sinh tử, không biết có còn hợp lý nữa hay không?
Thiền Trí hỏi lại:
- Người có hiểu được cái lý ấy
không?
Sư hỏi:
- Thế nào là lý không sinh tử?
Thiền Trí đáp:
- Chỉ ở trong sinh tử mới biết
được!
Sư đáp:
- Phải đạt được vô sinh đã!
Thiền Trí nói:
- Vậy là ngươi liễu ngộ rồi.
Sư bừng hiểu, hỏi:
- Lấy gì bảo nhậm?
Thiền Tri nói:
- Hiểu rồi lại vẫn giống như chưa
hiểu!
Sư bèn sụp xuống lạy tạ. Từ đó
danh tiếng của sư lan truyền trong chốn Thiền lâm. Rồi đó, sư
đến trụ trì ở chùa Thánh Ân hương Siêu Loại. Sau thượng thư bộ
binh là Phùng Giáng Tường hâm mộ danh tiếng của sư, mời về
truyền giảng tông chỉ ở chùa Tịnh Quả, tăng lữ gần xa đến theo
học đều được tiến ích.
Một hôm, đệ tử thân cận là Thường
Chiếu đưa kinh Kim Cương đến hỏi sư:
- Nói Như Lai đắc pháp thì cái
pháp ấy vốn không thực không hư, vậy đó là pháp gì?
Sư đáp:
- Người đừng bài báng Như Lai mới
được!
Thường Chiếu nói:
- Hòa thượng cũng không nên bài
báng lời trong kinh.
Sư hỏi:
- Kinh ấy do ai nói?
Thường Chiếu nói:
- Xin hòa thượng đừng nhạo đệ tử
nữa. Há chẳng phải đó là lời của Phật hay sao?
Sư đáp:
- Nếu là lời Phật nói thì tại sao
Kinh lại có câu: “Nừu nói Như Lai có thuyết pháp điều gì thế tức
là bài báng Phật”?
Thường Chiếu không trả lời được.
Lại một vị tăng hỏi:
- Thế nào là Pháp thân?
Sư đáp:
- Pháp thân vốn không tướng.
Tăng hỏi lại:
- Thế nào là Bát Nhã?
Sư đáp:
- Bát Nhã vốn không
hình.
Hỏi:
- Thế nào la cõi Tịnh
quả?
Đáp:
- Như ngôi mộ cổ dưới
cây thông, cây bàng.
- Thế nào là người trong cõi?
- Một mình ngồi trong cái bình
bịt miệng!
- Chợt gặp kẻ tri âm thì tiếp thế
nào?
- Cứ thoải mái mà rướn đôi mày!
Vị tăng ấy lại hỏi:
- Lớp con cháu của Âu công ở chùa
Kiến Sơ thì thế nào?(1)
Đáp:
- Kẻ ngu nước Sở!
Vị tăng im lặng không
hỏi nữa.
Ngày 15 tháng 2 năm
Canh tuất niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy thứ 5 (1190), sư lâm bệnh,
gọi đệ tử đến đọc bài kệ rằng:
Ly tịch phương ngôn
tịch diệt khứ
Sinh vô sinh hậu
thuyết vô sinh
Nam nhi tự hữu xung
thiên chi
Hưu hưởng Như Lai hành
xứ hành.
Dịch:
Thoát tịch diệt
xong, bàn tịch diệt
Sau vô sinh, hãy
nói vô sinh
Làm trai lập chí
xông trời thẳm
Theo gót Như Lai
luống nhọc mình.
NGUYỄN ĐỨC VÂN - ĐÀO
PHƯƠNG BÌNH
(TVLT1)
Đọc xong sư chắp tay
thanh thản mà qua đời,
thọ 69 tuổi. Thượng
thư Phùng Giáng Tường làm lễ hỏa thiêu, xây tháp phụng thờ.
*
* *
Thế hệ thứ mười hai
7 người, chép thiếu 6
người
(? – 1203)
Chùa Lục Tổ(1)
hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Thiền sư họ Phạm,
người hương Phù Ninh, giữ chức Quảng từ cung lệnh đô tào triều
Lý Cao Tông. Sau từ quan, xuất ra học đạo với sư Quảng Nghiêm ở
chùa Tịnh Quả được sư đích thân truyền thụ pháp chỉ. Sư theo hầu
Quảng Nghiêm mấy năm rồi đến trụ trì thuyết pháp tại chùa cổ ở
phường Ông Mạc, sau mới về chùa Lục Tổ. Môn đồ đến theo học ngày
càng đông. Có vị tăng hỏi:
- Khi ta và vật vin
nhau thì thế nào?
Sư đáp:
- Vật ngã lưỡng vong
Tầm tính vô thường
Dị sinh dị diệt
Sát na bất đình
Thùy thị phan duyên
Sinh vi vật sinh
Diệt vi vật diệt
Bỉ pháp sở đắc
Thường vô sinh diệt
Dịch:
Ta vật quên hết
Tâm tính không
thường
Dễ sinh dễ diệt
Chớp mắt chằng dừng
Ai vin mà biết?
Sinh là vật sinh
Diệt là vật diệt
Pháp kia sở đắc
Thường không sinh
diệt
Tăng nói:
- Đệ tử chưa hiểu, xin
thầy chỉ giáo lại cho.
Sư đáp:
- Hiểu thế nào là Tâm
mà tu đạo chỉ dụng sức ít mà dễ thành. Không hiểu Tâm mà tu đạo
thì phí công vô ích.
Hỏi:
- Thế nào là pháp thân
tràn khắp mọi nơi?
Sư đáp:
- Như một lỗ chân lông
mà biểu hiện đủ pháp giới thì tất cả lỗ chân lông đều như thế.
Nên biết nếu Tâm không thì không một kẽ hở nào không phải là
thân Phật. Vì sao vậy? Vì pháp thân ứng hóa thành Phật, không
chỗ nào không đến. Phải biết đúng như thế. Như Lai dùng sức Tâm
tự tại, trong chỗ không khởi không chuyển mà chuyển pháp luân(1);
biết tất cả mọi pháp thường không khởi cho nên dùng ba thứ pháp(2),
nói là đoạn nhưng không phải là đoạn mà chuyển pháp luân; biết
tất cả mọi pháp đều chấp một bên, cho nên chỉ ở chỗ lìa dục
nhưng không trừ dục mà chuyển pháp luân; đi vào chỗ hư không còn
tất cả mọi pháp, cho nên không ngôn thuyết mà chuyển pháp luân;
biết tất cả mọi pháp đều không thể nói rằng lời, cho nên dùng
cứu cánh là sự im lặng mà chuyển pháp luân; biết tất cả mọi pháp
đều có tính Niết Bàn cho nên nói: tính không tướng, tính không
tận, tính không sinh, tính không diệt, tính không phải là ta mà
cũng chẳng phải là không ta, tính không phải là chúng sinh mà
cũng chẳng phải không là chúng sinh, tính không phải là Bồ Tát,
tính không phải là pháp giới, tính không phải là hư không, mà
cũng không phải là tính của bậc chính giác (Phật)
Nói xong sư đọc bài
kệ:
Tại thế vi nhân thân
Tâm vi Như Lai tạng
Chiếu diệu thả vô
phương
Tâm chi cánh nguyệt
khoáng.
Dịch:
Ở thế là nhân thân
Tâm là Như Lai tạng
Chiếu dọi khắp muôn
phương
Nếu tìm không thấy
bóng
Ngày 24 tháng chín năm
Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203) sư bảo là đau tim, gọi tăng chúng
đến đọc kệ:
Đạo bản vô nhan sắc
Tần tiên nhật nhật
khoa
Đại thiên sa giới
ngoại
Hà xứ bất vi gia.
Dịch:
Đạo vốn không màu
sắc
Ngày ngày lại mới
tươi
Ngoài đại thiên sa
giới
Đâu chẳng phải nhà
ngươi
Nói xong sư ngồi kiết
già mà tịch. Đệ tử là bọn Thần Nghi làm lễ hỏa táng, thu xá lị
xây tháp phụng thờ.
Sư từng làm sách
Nam tông tụ pháp đồ một quyển, lưu hành ở đời(1)
*
* *
Thế hệ thứ mười ba
5 người, chép thiếu 3
người
(? – 1228)
Sư người Ốc hương
huyện An La, họ Đặng. Lúc đầu sư cùng Quách Thần Nghi ở chùa
Thắng Quang theo học đạo thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ.
Một hôm vào phòng hỏi thầy:
- Làm thế nào hiểu rõ
Phật pháp?
Thường Chiếu đáp:
- Phật pháp không thể
biết rõ, hiểu điều này thì sẽ không cần hiểu pháp. Các Phật đều
tu hành như không có pháp gì để biết rõ được. Chư Phật đều như
thế. Tu tất cả pháp đều bất khả đắc.
Sư lĩnh ngộ yếu chỉ,
trở về bản hương truyền giảng giáo pháp, học trò đến theo học
rất đông. Những người đến tham vấn đều được sư truyền thụ tâm
ấn. Có người hỏi:
- Thế nào là người
xuất thế?
Sư đáp:
- Ngươi không nghe
người xưa nói hay sao? “Ngũ uẩn” đều không tứ đại vô ngã, chân
tâm không tướng(1),
không đến không đi; khi sinh tính không đến, khi chết tính chẳng
đi; yên tĩnh viên tịch, tâm cảnh vẫn như một. Phải hiểu được như
vậy mới chóng đốn ngộ, không bị ba đời ràng buộc. Như thế là
người xuất thế, tất thảy các điều ấy không thể tách rời nhau.
Lại hỏi:
- Thế nào là nghĩa “vô
sinh”?
Sư đáp:
- Cần phải hiểu tính
của các uẩn đều không tịch. Vì hư không nên không thể diệt. Đó
là nghĩa “vô sinh”.
Hỏi:
- Thế nào là lý vô
sinh?
Đáp:
- Phải điều tiết được
ngũ uẩn mới làm lộ rõ được tính không của nó. Tính không thì
không thể diệt. Đó là lý vô sinh.
Lại có vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Đáp:
- Tâm vốn là Phật, cho
nên Tam tạng Huyền Trang đời Đường nói: “Chỉ liễu ngộ đất lòng
cho nên gọi tổng trì, ngộ pháp vô sinh gọi là Diệu giác.
Sau sư qua đời ngày
tháng 7 năm Mởu Tí niên hiệu Kiến Trung thứ 4 (1228) đời Hoàng
Triều (Trần).
*
* *
(?-1216)
Chùa Thắng quang,
hương Thị Trung, Kim Bài.
Thiền sư người đất
ngoại trại, họ Quách, gia đình mấy đời tu hành thanh tịnh. Lúc
đầu sư xuất gia học đạo với thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ.
Khi Thường Chiếu sắp thị tịch, sư hỏi:
- Tại sao người khi
thời tiết đến(1)
đều chết như thế tục cả?
Thương chiếu hỏi lại:
- Ngươi nhớ được mấy
người không theo thế tục?
Sư đáp:
- Chỉ mình tổ Đạt Ma
thôi
Thường chiếu hỏi:
- Có gì kỳ lạ?
Sư đáp:
- Một mình bay lượt
trở về trời Tây.
Thường Chiếu hỏi:
- Núi Hùng Nhỉ là nhà
ai?
Sư đáp:
- Chỉ là chỗ chôn quan
tài đựng chiếc giày mà thôi!
Thường Chiếu nói:
- Nói dối người để vụ
lợi ắt là Thần Nghi!
Sư đáp:
- Chẳng phải là Tống
Văn nói dối, còn việc Trang Đế cho phát quật quan tài nữa thì
sao?
Thường Chiếu Quát:
- Toàn chuyện chó sủa
suông cả!
Sư hỏi:
- Hòa thượng cũng theo
thế tục chăng?
Thường Chiếu đáp:
- Theo tục.
Sư hỏi:
- Sao lại thế?
Thường chiếu nói:
- Để hòa đồng với mọi người.
Sư bỗng tỉnh ngộ, sụp xuống lạy
tạ, nói:
- Trước đây đệ tử hiểu lầm cả
rồi.
Thường Chiếu bèn quát lên một
tiếng. Sư lại hỏi:
- Đệ tử theo hầu hòa thượng đã
bao năm nay mà chưa biết ai là người đầu tiên truyền đạo vào
nước ta? Xin hòa thượng chỉ giáo cho đệ tử được biết thế thứ các
đời truyền pháp, ngõ hầu cho người học đạo ngày nay được biết
nguồn gốc.
Thường Chiếu khen sư có lòng khẩn
thiết, bèn lấy tập sách Chiếu đối bản(1)
của sư Thông Biện và những điều ghi chép về các tông phái để
phân biệt thế thứ nối pháp của các dòng
(1) đưa cho xem. Sư xem xong hỏi thêm:
- Hai phái Nguyễn Đại Điên,
Nguyễn Bát Nhã sao không thấy chép trong tập này?
Thường Chiếu đáp:
- Chắc là Thông Biện có ý gì đó.
Ngày 18 tháng 2 năm Bính Tí niên
hiệu Kiến Gia thứ 6 (1216) sư đem tập phả đồ của Thường Chiếu
trao cho mình truyền lại cho đệ tử là Ẩn Không, dặn rằng:
- Bây giờ tuy loạn, ngươi hãy giữ
sách này, cẩn thận không để binh hỏa hủy hoại thì tổ phong ta sẽ
không mai một.
Nói xong sư qua đời.
(Nguyên chú: Ẩn Không trước ở
huyện Na Ngạn(2),
Lạng Châu người đương thời gọi là Na Ngạn đại sư)
*
* *
Thế hệ thứ mười bốn
5 người, chép thiếu 3 người
Chùa Thông Thánh, huyện Chu
Minh,phú Thiên Đức.
Thiền sư còn có tên là Tịnh Lự,
người hương Chu Minh, thuở nhỏ thông minh, theo nghiệp Nho đã
học đủ các sách kinh điển. Sau đó Nho theo học Phật giáo với
Thông Thiền cư sĩ, tham vấn học hỏi những lẽ huyền vi. Một hôm
vào ngày giải hạ(1)
sư bủa lưới bắt được con cá trê, đem đến biếu thầy. Thông Thiền
kinh sợ nói:
- Ngươi đã xuất gia mà còn phạm
sát, làm sao khỏi bị quả báo ngày sau?
Sư đáp:
- Lúc ấy đệ tử không thấy có vật
này, mà cũng không thấy có bản thân mình, cũng chẳng biết quả
báo sát sinh, cho nên mới làm như thế.
Thông Thiền biết sư là một pháp
khí
(2) bèn cho vào phòng mặt truyền tâm ấn rằng:
- Nếu ngươi dùng được đất lòng ấy
thì dù có phạm vào năm điều tội ác, bấy điều phải xấu hổ(1)
thì cũng vẫn thành Phật.
Lúc ấy có thầy tăng đứng bên cạnh
nghe trộm được, bèn kêu lên:
- Khổ quá. Nếu như có việc ấy thì
tôi cũng không tin như thế!
Thông thiền bèn nghiêm giọng
quát:
- Giặc! Giặc! Là phi nhân sao dám
trộm nghe?
Nghe câu nói ấy, sư bèn lĩnh ngộ.
Sau sư về chùa Thông Thánh nghiên cứu yếu chỉ Thiền tông để
truyền dạy cho học trò. Ứng Thuận cư sĩ là ngời nổi pháp tự của
sư.
*
* *
(? -1221)
Núi Yên Tử(1)
Thiền sư người kinh đô Thăng
Long, Họ Lê, húy là Thuần, dáng mạo thanh tú, giọng nói êm nhẹ.
Sư sống tự lập từ thuở nhỏ, từng trải qua nhiều khốn khó. Năm
mười một tuổi, được thiền sư Thường Chiếu ở chùa Lục Tổ nhận
nuôi làm đệ tử. Sau học tập thông minh tấn tới, mỗi ngày tụng
đọc cả vạn câu. Chưa đầy mười năm thông giỏi cả tam giáo, nhưng
chưa kịp suy cứu yếu chỉ Thiền tông thi Thường Chiếu đã quy
tịch. Về sau, khi biện luận những điều tâm yếu thường bị người
khác bắt bẻ, sư hối tiếc tự trách: “Ta nay cũng ví như đứa con
nhà giầu, khi cha mẹ còn sống thì kiêu lười vô độ, sau khi cha
mẹ chết thì cô độc mê muội, không biết của quý trong nhà cất giữ
ở đâu, rốt cuộc trở thành nghèo khó”. Sư bèn đi vân du khắp chốn
tùng lâm tìm thấy học đạo, sau gặp thiền sư Trí Thông(2)
ở chùa Thánh Quả, được nghe một lời nói mà đất lòng đột nhiên
bừng sáng, bèn thờ Trí Thông làm thầy. Sư từng nhận lễ cúng dàng
của công chúa Hoa Dương. Bấy giờ những lời hủy báng đạo Phật dấy
lên như ong, sư nghe biết, tự nghĩ rằng: “Phàm có quan hệ với
những người được thế tục ngưỡng mộ tất không tránh khỏi bị điêu
tiếng chê bai. Lẽ nào ta cũng phải chịu như thế? Vả lại Bồ Tát
thường rộng, Phật giáo vô lường. Thế mà kẻ tầm thường vẫn còn
buồn bã than khóc, sao không mau tỉnh ngộ, lấy nhẫn nhục làm
giáp trụ, lấy tinh tiến làm giáo mác thì lấy gì mà đánh ma quân,
phá phiền não để cầu đạt tới Vô thượng Bồ Đề?”.
Sau đó sư vào núi Uyên Trừng phủ
Nghệ An(1)
thụ giới cụ túc với thiền sư Pháp Giới. Một hôm thấy người hầu
của một tín chủ mang gạo lên cúng cho nhà chùa, lỡ tay làm đổ
xuống đất, người ấy lo sợ, vội vốc cả gạo lẫn đất. Sư thấy vậy
lấy làm hối hận, nghĩ rằng: “Ta sinh ra không có ích ghi cho ai,
chỉ làm cho mọi người phải cung đốn vất vả nên mới đến nỗi như
thế”. Từ đó sư chỉ ăn rau mặc lá không phải lo lường gì nữa. Sau
gần mười năm sư muốn tìm nơi khác để tu hành đến trọn đời, bèn
đến chỗ sâu trong núi Yên Tử(2)
kết am tranh mà ở. Mỗi khi xuống núi sư thường quảy túi vải trên
đầu gậy, sư đi tới đâu, những lúc nằm ngồi, dã thú trông thấy
đều đến thuần phục.
Vua Lý Huệ Tông kính trọng đức
vọng của sư, nhiều lần đưa lễ vật đến mời về kinh, nhưng lần nào
sư cũng lánh mặt, bảo người hầu trả lời sứ giả rằng:
- Bần đạo ở đất vua, ăn lộc vua,
thờ Phật tại núi này đã lâu năm, thửa công đức chưa thành tựu,
tự lấy làm hổ thẹn. Nếu ép bần đạo về yết kiến vua thì chẳng
những không bổ ích gì cho trị đạo mà cũng chuốc lấy sự hủy báng
của chúng sinh. Huống chi ngày nay Phật pháp đang thịnh hành,
các bậc thầy mẫu mực trong bản đạo đã có đủ để chầu hầu lễ nghi
nơi điện các. Xin bệ hạ đoái lượng cho kẻ mặc chiếc cà sa thô
lạnh này được nương thân Phật đạo trong chốn núi rừng, khỏi phải
đến kinh đô.
Từ đó sư quyết không xuống núi.
Có thầy tăng hỏi:
- Từ khi đến núi này, hòa thượng
làm những việc gì?
Sư đáp:
- Ná dĩ Hứa Do đức
Hà tri thế kỷ xuân
Vô vi cư khoáng dã
Tiêu đạo tự tại nhân.
Dịch:
Theo Hứa Do tu đức
Nào hay đã mấy xuân?
Vô vi trong cõi rộng
Tiêu dao một tấm thân
Mùa xuân năm Tân Tị niên hiệu
Kiến Gia thứ 11 (1221), trước khi thị tịch, sư nghiêm trang ngồi
trên tảng đá, đọc bài kệ sau:
Huyền pháp giai thị huyễn
Huyễn tu giai thị huyễn
Nhị huyễn giai bất tức
Tức thị trừ chư huyễn.
Dịch:
Huyễn pháp đều là huyễn
Huyễn tu dều là huyễn
Hai huyễn đều xa lìa
Tức là trừ các huyễn
Nói xong sư an nhiên mà hóa. Môn nhân là Đạo Viên làm lễ mai táng sư trong hang núi.
Nguyên chú: Lại theo sách
Tự ngu tập nói không biết rõ sư quy hóa ở đâu
*
* *
Thế hệ thứ mười lăm
7 người, chỉ chép 1 người
Ứng Vương cư sĩ họ Đỗ, húy Văn(1),
người phường Họa thị (chợ Vế?) ở kinh đô Thăng Long. Cư sĩ tính
tình rộng rãi, không lo bon chen việc đời. Lúc đầu cư sĩ làm
quan dưới triều Chiêu Lăng(2)
đến chức Trung phẩm phụng ngự. Những lúc rỗi rãi cư sĩ dốc chí
vào Thiền học, tay trong mấy khi rời quyển sách,, tìm tòi đến
cùng để hiểu ý tổ, thấu triệt tâm tông.
Cư sĩ thụ nghiệp với thiền sư Tức
Lự ở chùa Thông Thánh hiểu sâu các bí quyết, nhờ đó phong độ
thiền tông không suy trệ, đạo nhãn thêm cao. Sau khi được truyền
tâm ấn, cư sĩ trở thành bậc tai mắt trong chốn tùng lâm, cũng
ngang hàng quốc sư Nhất Tông, thiền sư Tiêu Dao, Giới Minh, Giới
Viện v.v...
(Hết Quyển Thượng)
*
* *