Những Hạt Sương
Thích Chơn Thiện
Sài Gòn, 2000
---o0o---
[01]
Triết Lý
Quanh Ðèn
-ooOoo-
Nếu
thời bé tí được lời ru của mẹ ướp vào tâm hồn hương nhạc và tình với
những hạt mầm tư tưởng, thì lớn lên đến tuổi biết hỏi và biết nghe, tuổi
trẻ Việt Nam lại được bố và ông bà kể cho nghe các chuyện cổ tích quanh
đèn. Ðây là những mẫu chuyện dễ nhớ và súc tích nói về lịch sử, về tình
yêu tổ quốc, quê hương, về phong tục tập quán, về tín ngưỡng nhân gian,
về con người và thiên nhiên, vũ trụ, về tình người, tình đôi lứa, tình
gia đình và về túi khôn của loài người, hàm xúc nhiều tư tưởng. Ðây gọi
là triết lý quanh đèn. Nó cũng phong phú, đa dạng được sàng lọc qua
nhiều thế hệ, nhiều thời đại. Những triết lý có hệ thống viết vào sách
thì có thể bị thất truyền vì chiến tranh, vì các sức mạnh xâm lược,
nhưng triết lý chiếc nôi và triết lý quanh đèn thì không. Hệt như người
xưa đã nói:
-"Trăm năm bia đá
cũng mòn
Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ".
Mỗi câu chuyện cổ tích là một bài học ngắn nhồi vào tư duy của tuổi trẻ,
nung nấu ý chí của tuổi trẻ, xây dựng tình cảm cho tuổi trẻ và khích lệ,
kích thích phát triển các khả năng cần thiết cho tuổi trẻ. Nói tóm,
triết lý quanh đèn là một hình thức giáo dục của dân tộc. Ngày ấy mỗi
gia đình Việt Nam thật sự là một học đường nhỏ.
Những mẫu chuyện truyền khẩu được kể trong không khí gia đình ấm cúng và
đầy tình tự như rót sâu vào tâm tư tôi, không bao giờ tôi có thể quên
được. Chuyện kể có xen nhiều nét thần kỳ, linh dị, nhưng đây là những
hình ảnh biểu tượng của sáng tác văn học, nghệ thuật, làm cho câu chuyện
trở nên sinh động và hấp dẫn, mà không phải là sản phẩm của mê tín dị
đoan.
Ðọc lại Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Ðiện U Linh tập, các chuyện Tấm
cám..., tôi thấy hầu như tất cả là những câu chuyện quanh đèn của các
gia đình Việt Nam. Vì là chuyện, nên triết lý quanh đèn nói lên được
nhiều lời ý hơn triết lý chiếc nôi.
Về anh hùng dân tộc, không làm sao tôi quên được các chuyện về Trần Hưng
Ðạo, Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung,
Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Ẩu, Nhiếp Chính Ỷ Lan ... các chuyện kể từ
thời vua Hùng dựng nước cho đến nay rất là thu hút.
1.- Chuyện đức Thánh Gióng hay gọi là Phù
Ðổng Thiên Vương:
Là chuyện nằm lòng thời tuổi trẻ ở quê của tôi. Tôi thích lắm, bố tôi đã
cắt nghĩa rằng:
- Con hãy nhớ nước ta bị xâm lược nên tổ tiên ta đã căn dặn kỷ: "giặc
đến nhà đàn bà cũng đánh". Vì vậy hình ảnh Phù Ðổng, em bé ba tuổi bổng
chốc vươn vai thành người lớn quất ngựa dẹp giặc khi giặc Ân đến là ý tổ
tiên dạy: khi đất nước khó khăn hay lâm nguy, là người dân Việt thì phải
như bé Phù Ðổng, lòng yêu nước phải vươn dậy mạnh mẽ, biết hy sinh vì xứ
sở. Bé ba tuổi mà còn thế huống chi là người lớn!
- Con hãy nhớ kiếm sắt là biểu tượng cho giới trí thức, qúy tộc, đánh
giặc cũng giỏi mà không bền nên nữa chừng kiếm của Phù Ðổng phải gãy.
Phải nhổ lên những khóm tre làng mới đuổi xong giặc. Khóm tre là biểu
trưng cho quần chúng bình dân ta, cả Phù Ðổng cũng thuộc hàng dân giả,
nói lên rằng phải nương vào sức mạnh quần chúng mới phá được giặc.
- Con hãy nhớ kỹ rằng dẹp giặc xong, Phù Ðổng không trở về nhận bổng lộc
triều đình, mà biến mất vào yên lặng. Tại sao thế? Bởi vì đó là lòng yêu
nước vô vụ lợi của người Việt. Yêu nước là yêu nước với tấm lòng trong
sáng thế thôi. Nhưng chính vì thế mà nhân dân ta đã lập đền thờ Phù Ðổng
như là lòng tôn thờ yêu nước trong sáng vô vụ lợi ấy.
Bố tôi dạy tôi không biết bao lần, con hãy nhớ như thế!
2.- Chuyện nguồn gốc Lạc Hồng hay là chuyện
tình sử giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:
Thoạt nghe thì có vẽ kỳ dị, nhưng càng gẫm càng thấy sâu sắc. Cũng phải
nhờ đến bộ óc của bố tôi cắt nghĩa tôi mới vỡ lẽ ít nhiều. Lại với giọng
điệu, con hãy nhớ, bố bảo:
- Âu Cơ là giòng dõi tiên nhân: biểu trưng cho tính khí thanh cao, thiện
lương và đẹp đẽ. Ðấy là các đức tính khai mở nền văn hóa dân tộc như
hình ảnh mẹ đẻ ra trăm trứng nở thành trăm con. Trăm con là chỉ trăm họ,
chỉ cho sự hợp quần của nhiều bộ lạc, dân tộc của xứ sở.
- Lạc Long Quân là dòng dỏi của rồng: biểu trưng cho sức mạnh biến hóa,
khi ẩn, khi hiện, hợp cả hai tánh của bố và mẹ thì mới thật sự mở ra
dòng văn hóa lịch sử Việt Nam. Tính chất của văn hóa lịch sử Việt Nam là
tính chất của sự kết hợp giữa Tiên và Rồng, của mối tình ấy.
- Phải xem tình nhân dân trong nước là tình đồng bào, nghĩa là mối thâm
tình cùng chung một bào thai mẹ. Nói cách khác, là phải thương yêu nhau,
xem nhau như ruột thịt. Làm được như thế là làm nên lịch sử, lịch sử chờ
đợi như thế.
- Tính của mẹ là âm lại có gốc từ trời là dương, tính của bố là dương
lại có gốc từ nước là âm, bố mẹ có gốc khác nhau và tính khác nhau vì
thế mà khó sống cạnh nhau mãi được, nên đành xa cách nhau một cách chiến
thuật, mà mối chung tình thì vẫn giữ. Bố mẹ luôn luôn có mặt bên nhau
khi có biến. Ðấy là ý nghĩa lịch sử của dân tộc, là sự thật của lịch sử
dân tộc. Ý nghĩa đó là phải chấp nhận dị biệt, nhưng phải có lý tưởng tổ
quốc để thống nhất dị biệt, mà không phải xóa tan các dị biệt. Ðấy cũng
là triết lý về cuộc sống, chính cái yếu tố mâu thuẩn đã làm sinh sôi nẩy
nở, mở ra dòng lịch sử của dân tộc. Và đấy cũng là triết lý của hành
động chuyển tương khắc thành tương sinh.
- Hình sảnh của bố mẹ lịch sử là hình ảnh của "âm trung chi dương và
dương trung chi âm", là sự thật của mọi việc đời, mọi hiện hữu. Sự vật
trôi chảy nên sự vật luôn luôn phủ nhận nó để trở thành một cái gì khác
nó. Nói cách khác, sự vật vừa là nó vừa là khác nó. Ðiều mà triết lý của
các vùng văn hóa nhân loại gọi là vô thường, vô ngã hay dịch biến, hoặc
"không thể đặt chân hai lần trên một dòng nước". Bố tôi say sưa giảng
giải ý nghĩa của mẫu chuyện đầu nguồn lịch sử này.
3.- Chuyện Chữ Ðồng Tử: [1]
Chuyện lịch sử đã quá hay, mà chuyện tình
của Việt Nam cũng lắm đẹp.
Chữ Ðồng Tử là một thanh niên dân giả chân thật, nghèo nàn, nghèo đến
thiếu khố để che thân, lại được nhân dân Việt Nam sắp đặt cho kết duyên
với một công chúa trẻ đẹp, kiêu kỳ, con vua. Hai người ở hai đầu cách
biệt của giai cấp xã hội, đây là triết lý về tình yêu của Việt Nam, rằng
trong tình yêu không có giai cấp, dù là giai cấp loại nào. Ðó là con
người, tính người và tình người Việt Nam.
Nhân dân ta qua câu chuyện tình này, vừa phá đổ quan điểm "môn đăng hộ
đối" của nhà nho, vừa nói lên khát vọng nghìn năm tha thiết của con
người. Mọi người đều bình đẳng trước tình yêu, trước cuộc sống, trước
cái sống cũng như trước cái chết. Và dĩ nhiên cũng bình đẳng trước pháp
luật của xứ sở, trước trách nhiệm và bổn phận của người công dân.
Chử Ðồng Tử đã nói lên một triết lý tình yêu và một quan niệm về dân
chủ, bình đẳng trước cả người phương Tây. Bố tôi đã dạy cho tôi niềm
hảnh diện này của triết lý của dân tộc.
4.- Chuyện tình Trương Chi - Mị Nương: [2]
Chuyện kể Trương Chi là kẻ chài có tiếng sáo quyến rủ, Mị Nương là cô
gái trâm anh, khuê các, tương tư tiếng sáo của chàng. Bởi chàng quá xấu
tướng nên cuộc tình dẫn đến chỗ bi kịch tuyệt vọng. Chàng cũng đắm say
nhan sắc nàng. Chàng chết và tim hóa thành ngọc. Nàng thương tình dùng
ngọc ấy làm tách để uống trà. Mỗi lần uống thì hình ảnh chàng hiện ra
nơi chén ngọc. Nàng cảm kích nhỏ lệ làm chén ngọc tan ra nước.
Bố tôi phải vất vả phân tích mối tình này, tôi mới lờ mờ nhận ra một
triết lý tình yêu của dân tộc rằng:
- Tình yêu thuận đẹp không phải là tình yêu đơn phương
- Tình yêu đòi hỏi một cung bậc nào đó giữa hai tâm hồn và thể chất.
- Nhân dân ta nói triết lý tình yêu rất ngắn gọn qua mẫu chuyện trữ tình
dễ nhớ ấy, nhưng rất là triết. Ðây là nét văn hóa và văn minh. Câu
chuyện bên đèn này còn có tác dụng tạo niềm thoải mái cho tâm hồn sau
một ngày lao động nhọc nhằn.
Có nhiều người cho rằng Việt Nam không có triết lý. Nhưng thật là phi
lý, bởi chính nhận định trên là phi triết lý! Có lẽ người ta đang chờ
một pho sách hệ thống hóa các tư tưởng Việt Nam từ các nguồn văn học
bình dân, và văn học bác học, từ các nguồn phong tục tập quán, điêu
khắc, hội họa, lịch sử và ngôn ngữ và đặt tên cho hệ thống tư tưởng này
như là duy nghiệm, duy lý, duy ý chí ... chăng? Nhưng nếu là "duy" gì ấy
thì tư tưởng trở nên nghèo đi và tinh thần duy ấy đòi hỏi thực tế lịch
sử Việt Nam phải co mình lại.
Bố tôi tiếp, một dân tộc đã đứng vững với thời gian hẳn phải có bản sắc
văn hóa riêng, và đó là bản sắc của triết lý, tư tưởng dân tộc. Việt Nam
đã có lịch sử riêng, có phong tục tập quán riêng, như tục trầu cau,
nhuộm răng, vẽ rồng lên mình, tục cắm cây nêu... và có ngôn ngữ riêng
thì hẳn phải có sắc thái tư tưởng riêng. Chỉ từng ấy điểm nhìn là đã
hình dung ra tư tưởng Việt Nam và hướng nhân bản thiết thực và rất
người, dù chưa thực sự xác định đích thực là gì.
5.- Quan niệm về Ông trời và Vũ trụ: [3]
Vì gốc các ông trời và vũ trụ thì chẳng có ai có thẩm quyền đủ để xác
minh, dù nhân loại đã nói rất nhiều về hai vấn đề ấy. Người Việt Nam qua
triết lý quanh đèn, có bàn đến với lối cấu trúc câu chuyện mộc mạc và
đầy tính huyền thoại khiến người nghe xem thường tưởng chừng như là
thiếu triết lý. Thực ra ở đó có mặt một triết lý thâm viễn, thiết thực
và rất người. Một điều rõ ràng nhất ta có thể nhận biết, là vũ trụ thế
giới này mênh mông không có đầu đuôi, không có gốc gác, tất cả mọi hiện
hữu như dựa vào nhau mà tồn tại một các tương đối. Người Việt Nam vì vậy
quan niệm về vũ trụ như vũ trụ đang là. Chuyện kể rằng:
- Có ông trời tạo ra vũ trụ và con người. Ông trời thì có bà trời, gia
đình và triều đình như thế ở thế gian.
- Sau khi làm ra vũ trụ ông trờ dùng chất cặn bả còn lại phần tinh thì
làm ra người, phần cặn bả nhật thì làm ra loài vật.
- Trời sai 12 mụ bà nắn ra hình các người, rồi dạy đi, dạy bò, dạy ăn,
dạy nói...
- Trời thấy loài rắn độc ác bèn phán phải chết, còn người thì tốt thay
lốt sống mãi. Nhưng vị thiên sứ bị loài rắn áp bức đã truyền lệnh ngược
lại rằng:
" Rắn già rắn lột
Người già người tuột vào săng."
Từ đó con người phải chết, còn rắn thì lột xác sống dai.
- Do vì trái lệnh trời vị thiên sứ bị đày xuống trần gian làm con bọ
hung sống trong hầm xí.
Thế là câu chuyện nói lên mấy điểm nổi bật:
- Cái ông trời và vũ trụ do ông trời tạo ra thật sự là chính do con
người, nhân dân tạo ra theo nhãn thức trần gian của mình.
- Con người thực tế, dù quan niệm thế nào, thì cũng do đất, nước, gió,
lửa và nhiều yếu tố (12 mụ bà làm 12 công việc) tạo thành và con người
có sinh thì có chết.
- Quan niệm nặng về đạo đức: thưởng thiện, phạt ác.
- Ðặc biệt hơn cả là nhận dân ta có ý thức về giáo dục rất sớm, như việc
dạy bò, dạy đi, dạy ăn, dạy nói, đây là văn hóa. Vũ trụ quan vừa được đề
cập là cách xây dựng quan điểm trả con người và thiên nhiên về với thực
tại, thực tế của những gì như đang là. Ðây là điểm triết lý. Việt Nam
không đặt nặng câu hỏi về nguồn gốc của sự vật bởi vì Việt Nam chấp nhận
một sự thật tương quan vô cùng tận của thế giới, và bởi vì không thể hỏi
như vậy: Nếu vũ trụ là thật, thì sự thật là chính nó rồi, không phải hỏi
về nguồn gốc của nó, nếu vũ trụ là không thật, thì không thật là không
có gốc, và câu hỏi về nguồn gốc cũng thành không hợp lý hợp tình.
Triết lý Việt Nam là thế, là duy thực tại và duy con người, con người là
con người của thực tại, và thực tại là thực tại của con người.
Bảo Việt Nam không có triết lý hay triết lý mơ hồ thì quả thật khó hiểu!
Từ triết lý chiếc nôi và triết lý quanh đèn ấy đi vào ngôn ngữ Việt Nam,
văn học của giới trí thức, kiến thức, âm nhạc, hội họa, điêu khắc và đi
qua suốt dòng lịch sử chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng Việt Nam./.
Ghi chú:
[1] & [2]: Việt Nam văn học toàn thư, Hoàng Trọng Miên, Sống Mới, Sài
gòn, tr 341-343.
[3]: Việt Nam văn học toàn thư, Hoàng Trọng Miên, Sống Mới, Sài gòn, tr
61-67.