Những Hạt Sương
Thích Chơn Thiện
Sài Gòn, 2000
---o0o---
[05]
Vài Nét Về
Thái Ðộ Giáo Dục Của Ðức Phật
-ooOoo-
Viết
về đức Phật, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một
đấng giáo chủ, đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho
nhân loại; hoặc đề cập đến Ngài như là mộ nhà tư tưởng, một nhà tư tưởng
cách mạng... Nhưng có rất hiếm các bản luận văn đề cập đến Ngài như là một
nhà giáo dục lý tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng
giáo dục toàn diện và tiên tiến.
Trong bài này chúng ta
tiềm hiểu đức Phật qua lăng kính giáo dục.
Phật giáo qua hơn 25 thế
kỷ ảnh hưởng đã đóng góp nhiều vào văn hóa nhân loại. Sự kiện đóng góp này
soi tỏ Phật giáo như là một hệ thống giáo dục.
Chúng ta đi vào tìm hiểu
cụ thể:
Giáo dục hiểu theo nghĩa
rộng rãi, như là con đường hai chiều của dạy và học của con người kể từ
khi sinh ra cho đến khi chết, và có mặt ở ba môi trường sinh hoạt gia
đình, học đường và xã hội. Thuyết nghiệp (kamma) của nhà Phật xem sự hình
thành của thân ngũ uẩn này như là kết quả của các hành động trong quá khứ.
Từ đây, nghiệp mới được hình thành qua các hành động cố ý của thân, khẩu
và ý. Chủ trương của Phật giáo là giải thoát nghiệp; chuyển đổi từ nghiệp
ác qua nghiệp thiện, và từ nghiệp thiện đến giải thoát. Thế có nghĩa là
Phật giáo là con đường giáo dục con người đủ hai mặt nhận thức và hành
động từ khi sinh cho đến khi chết, ở khắp các môi trường sống.
Nói đến giáo dục là nói
đến niềm tin căn bản của nó, cái niềm tin mở hướng phát triển muôn thuở
cho giáo dục, tin tưởng rằng trong con người có khả năng gần như vô tận,
có thể tiếp thu nhiều kiến thức và có thể điều chỉnh mọi lệch lạc của tâm
lý, vật lý, sinh lý và tư duy của tự thân. Ðây là lý do mà học đường đã mở
dạy rất nhiều môn học cho mọi người, gồm cả những người chậm trí.
Nguồn khả năng ấy, Phật
giáo gọi là khả năng giác ngộ mà mọi người đều có thể vận dụng qua nỗ lực
của tự thân. Ðạo đế trong Tứ đế của Phật giáo là con đường vận dụng khả
năng ấy. Có thể nói đây là cái thấy biết và là niềm tin vô ngã được mở ra
từ lời dạy của đức Phật: "Hết thảy các pháp là vô ngã" (Sable Dhamma
Amatta - Dhp. 279) . Do vì nhận thức là vô ngã và các pháp là vô ngã nên
mới có thể thực hiện sự chuyển hóa nhận thức về các pháp, và mới có các
công trình sáng tạo.
Nếu các pháp gồm nhận
thức, là hữu ngã, thì không bao giờ có nguồn sáng tạo xuất hiện, và không
bao giờ công cuộc giáo dục được thực hiện.
Giáo lý vô ngã của Phật
giáo, như thế, quả đã dựng nên niềm tin căn bản của giáo dục.
Mục Tiêu Giáo Dục:
Một đường hướng giáo dục
tốt luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu: đào tạo con người xã hội và con người
chính nó. Con người xã hội đáp ứng các nhu cầu như kinh tế, văn hóa, giáo
dục, quốc phòng, chính trị; con người chính nó là con người toàn thể của
vật lý, tâm lý, sinh lý, ý chí, trí tuệ và tình cảm đang trôi chảy. Một hệ
thống giáo dục thiếu một trong hai mục tiêu ấy là một nền giáo dục không
hoàn chỉnh.
Thế Tôn đã giáo dục con
người đầy đủ các mặt ấy. Về mặt xã hội, kinh Sigala (Trường bộ kinh số 31)
và kinh Thiện sinh (Trường A Hàm số 16) nói lên việc xây dựng sáu mối
tương giao tốt của xã hội: tương giao giữa cha mẹ và con cái, giữa thầy và
trò, giữa vợ và chồng, giữa cá nhân và bạn bè, bà con, láng giềng, giữa
chủ và thợ, giữa tu sĩ và cư sĩ.
Kinh Tăng chi, chương bảy
pháp, đề cập đến bảy điều làm cho một quốc gia cường thịnh. Chương mười
pháp nói đến một nội các (hay một chính phủ) tốt cần thực hiện tốt 10 điều
gọi là "thập vương tử pháp":
1. Ðộ lượng, bố thí, bác
ái.
2. Không tham ái, không
tham lam tiền của và tài sản.
3. Không sát sinh, không
bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không say sưa.
4. Hy sinh tất cả cho
lợi ích của dân chúng, sẳn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân.
5. Hiền từ và hòa ái.
6. Khắc khổ trong nếp
sống.
7. Không được sân hận,
không được tư thù.
8. Nhẫn nhục trước mọi
khó khăn, trước mọi chỉ trích mà không để mất bình tĩnh.
9. Không hại người; Ðề
cao hòa bình, ngăn chặn chiến tranh và những bạo động phá hoại sự sống.
10. Không chống lại ý
muốn của nhân dân, mà thuận ý dân.
Kinh Chuyển Luân Thánh
Vương Sư Tử Hống ( Trường bộ kinh III số 26) cho rằng nghèo đói là nguyên
nhân chính của trộm cắp, hung ác, thù hằn, bạo động và vô luân. Ðể cải
thiện tình trạng xã hội ấy, cần phải cải thiện kinh tế bằng cách cung cấp
hạt giống và phương tiện canh tác cho nông dân, cung cấp vốn đầu tư cho
thương gia, và trả lương thích đáng cho công nhân. Bấy giờ đức Phật dạy
các lễ tế đàn cần được thay thế bằng các cuộc đại chẩn thí cho nhân dân.
Về mặt cá nhân.
Ðức Phật dạy đến hạnh phúc
của gia đình (Tăng chi IV, tr 220; Tương ưng I, tr 4; Trung bộ kinh III,
kinh Nhật Dạ Hiền Giả) mỗi cá nhân cần thực hiện đủ:
- Giỏi tay nghề, siêng
năng, biết điều hành công việc.
- Biết quân bình chi và
thu; giữ cho sổ thu lớn hơn sổ chi.
- Biết làm ra của cải
hợp pháp bằng sức lao động của mình.
- Biết đầu tư.
- Biết làm bạn với hiền
(có thí, giới, tín, và tuệ)
- Biết quân bình sức
khỏa và tâm lý.
- Biết lo cho đời sau:
tín, thí, giới và tuệ.
- Biết sống ngay trong
hiện tại: không tiếc nuối quá khứ, không mộng tưởng tương lai, làm chủ
suy tư không để cho các tư duy về quá khứ, hiện tại, vị lai sai lệch gây
rối loạn sầu muộn.
Bây giờ chúng ta đi vào
các tinh thần giáo dục có biểu trưng của Phật giáo:
Tinh Thần Trách Nhiệm Cá
Nhân:
Trước tiên là tinh thần
trách nhiệm cá nhân. Thế Tôn không dạy con người phải lệ thuộc Ngài, hay
phải phó thác đời mình cho bất cứ một quyền năng nào cả. Ngài dạy: "Ngươi
phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ dạy con đường" (Dph XX,4)
-"Ngươi là nơi nương tựa
của chính ngươi, ai khác có thể là nơi nương tựa?" (Dph XII,4).
Nói về nghiệp, Tăng chi và
Trung bộ kinh chỉ rõ "người là tác nhân, là chủ nhân của nghiệp, là kẻ
thừa tự của nghiệp".
Nếu không có tinh thần
trách nhiệm cá nhân, thì nhân quả của Phật giáo không có gì để bàn đến
nữa, Phật giáo không còn có lý do để có mặt ở đời. Nếu không có tinh thần
trách nhiệm cá nhân, thì học đường cũng không thể thiết lập giáo dục, và
luật pháp xã hội sẽ không có chổ thi hành, cuộc đời sẽ đại loạn.
Tinh thần giáo dục về
trách nhiệm cá nhân luôn luôn phải được thực hiện tốt trong một hệ thống
giáo dục hoàn bị.
Giáo Dục Theo Căn Cơ:
Mỗi học viên có các điều
kiện tâm, sinh, vật lý, tình cảm, trí tuệ và điều kiện sống khác nhau nên
cần được đón nhận các điều kiện và phương thức giáo dục khác nhau.
Tinh thần giáo dục cá nhân
này phản ảnh tinh thần giáo gục "khế cơ" của Phật giáo. Ðức Phật đã thực
sự áp dụng nguyên tắc khế cơ từ buổi đầu giáo hóa. Hình ảnh hồ sen có
những cánh sen chưa ra khỏi bùn, có những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng
có những cánh sen vươn ra khỏi mặt nước tiếp thu được ánh sáng mặt trời và
tỏa ngát hương thơm. Cũng thế con người có những căn trí bất đồng, có
người chóng hiểu, có người chậm hiểu có người nặng về tham, có người nặng
về sân, si, có người thích tịnh, có kẻ hiếu động... nhưng tất cả qua quá
trình giáo dục, lần lượt sẽ như cánh sen vươn ra khỏi nước để trực tiếp
tiếp thu giáo lý giải thoát. Thế là đức Phật không ngần ngại lên đường
giáo hóa, giảng dạy tùy theo căn cơ, khích lệ khiến cho mọi người đều được
lợi ích, an lạc và giải thoát. Thuật ngữ Phật giáo thường nói có đến 84000
pháp môn tu hành là vậy.
Về sau, vào thời kỳ phát
triển Phật giáo Bắc tông, tinh thần "khế cơ" lại được xiển dương qua giáo
lý ngũ thừa, tam thừa, nhị thừa và nhất thừa.
Thế Tôn đã vận dụng rất
thiện xảo tinh thần "khế cơ" vào cả mặt ngôn ngữ diễn đạt, cung cách diễn
đạt và tâm lý thích ứng đối tượng nghe pháp, mà chúng ta gặp rất nhiều qua
các kinh của các bộ phái Phật giáo.
Ðến với nông dân, đức Phật
dùng ngôn ngữ và hình ảnh của nhà nông để trình bày pháp; đến với chúng
Sát đế Lợi, Bà la Môn, đức Phật biểu hiện cung cách và ngôn ngữ của chính
họ.
Ngoài việc nói pháp đúng
đối tượng nghe, Thế Tôn còn nói pháp đúng thời và đúng chổ, khiến cho tác
dụng của thời pháp được tăng thêm hiệu quả. Ý nghĩa này cũng được gồm vào
tinh thần khế cơ ấy.
Giới luật cũng được Thế
Tôn thiết lập trên nguyên tắc khế cơ: Tăng, Ni và Nam Nữ cư sĩ có giới
luật riêng của từng đoàn thể.
Các đối tượng tu tập thiền
chỉ và thiền quán cũng được dạy khác nhau đối với các căn cơ khác nhau.
Tinh Thần Thực Tiễn, Thực
Tế:
Một tinh thần giáo dục đặc
sắc khác mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần "thiết thực hiện tại", hay
tinh thần thực tiễn, thực tế.
Phẩm kinh Cây Lau (tương
ưng I, Hán tạng, tập 36.3; Ðại 2.260c; Biệt tập 8.1, Ðại 2) dạy:
"Không tham việc đã qua,
Không mong việc sắp tới,
Sống ngay với hiện tại,
Do vậy sắc thù diệu.
Do mong việc sắp tới,
Do than việc đã qua,
Nên kẻ ngu héo mòn,
Như lau xanh lìa cành."
Kinh "A Nam Nhất dạ hiền"
(Trung bộ III; Hán tạng: Trung A Hàm số 167) ghi:
"Quá khứ không truy tìm,
Tương lai không ước vọng,
Quá khứ đã đoạn tận,
Tương lai lại chưa đến,
Chỉ có pháp hiện tại,
Tuệ quán chính ở đây."
Với nếp sống của con người
thì chỉ có hiện tại là tương đối có thực. Sống có nghĩa là sống với hiện
tại, sống vào hiện tại, hay nói cách khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống
ngay với hiện tại là tinh thần thiết thực. Than thở, tiếc muối quá khư,
hay mơ ước tương lai, chẳng những để mình rơi vào chổ phi thực mà còn để
mình vướng mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau, và đánh mất hiện tại đang là
cái hiện tại sống động, mới mẻ đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và có thể
hiện tại trở thành vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục cái tâm chấp ngã
tướng.
Nếu không biết tích cực
chấp nhận hiện tại như nó đang là để vận dụng hiệu quả khả năng và trí tuệ
của mình đi đến an lạc, hạnh phúc và giải thoát, thì như đức Phật đã dạy,
dung sắc của mình sẽ khô héo nhanh chóng như lau xanh lìa cành. Có lẽ hạnh
phúc của đời mình cũng héo khô như thế.
Chúng ta sẽ thấy rằng phần
lớn các rối loạn, sầu muộn của tuổi trẻ, của người lớn đều do tư duy của
họ gây ra, nhất là những tư duy về quá khứ không thiết thực, về những
tương lai hão huyền. Quan sát đời sống cá nhân, có thể phát biểu rằng 90%
cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duy và mộng tưởng sai lầm ấy.
Thật là dễ hiểu, những sự
kiện không vừa ý xảy đến với mình gây phiền muộn cho mình thì ít, mà tư
duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy, phiền hà mình thì nhiều.
Vả lại nghĩ nhiều về quá
khứ và tương lai không thiết thực chỉ đánh mất thời gian và năng lượng
đáng lẽ được dùng vào việc lợi mình và ích người.
Như thế, "hiện tại" và
"tại đây" như là hòn đảo an toàn mà đức Phật đã chỉ cho con người nương
tựa, để khỏi bị rơi chìm vào trong đại dương phiền muộn của vọng tưởng, để
từ đó có thể đi vào nghĩa sống hạnh phúc mà nghìn thu con người tìm kiếm.
Sau khi trở về với hiện
tại, con người phải biết làm chủ tư duy và dục vọng (phần giải thích rộng
rãi của tôn giả Ca Chiên Diên) để được lợi ích thiết thực.
Chàng Màlunkyaputta, trong
Trung bộ II (Kinh Cùla Màlunkyaputtasuttam) và trong kinh Tiểu dụ (Hán
tạng: Ðại 1.917) đặt 10 câu hỏi siêu hình với đức Phật: Thế giới là
thường? Vô thường?... Như lai sẽ tồn tại sau khi chết....
Thế Tôn đã im lặng không
trả lời. Ngài nói cho Màlunkyaputta, nghe câu chuyện một người bị mũi tên
độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẩu để giải độc ngay, chứ không phải là vấn
đề tìm hiểu ngọn nghành mũi tên, người bắn mũi tên.... Trước khi chịu giải
phẩu. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con người là nhổ mũi tên khổ đau, chứ
không phải là đi tìm câu trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực
kia.
Thế Tôn đã từng dạy (Tương
Ưng V, và nhiều kinh khác): "Những gì Như Lai biết ví như rừng lá simsàpa,
còn những gì mà Như Lai thuyết giảng thì ít như nắm lá trong tay, nhưng
đấy là những phương thuốc trừ khổ". Ðây là tính chất thực tiển. Nói về
hạnh phúc đời sống gia đình, đức Phật chỉ dạy những bổn phận và những việc
phải làm cụ thể, mà không chỉ cho hàng đệ tử đi vào cầu nguyện, cúng lễ.
Ngài đã dạy Tế đàn có ý nghĩa là bố thí, giúp đỡ tha nhân, và Tế đàn có ý
nghĩa hơn hết là tu tập: Giới, Ðịnh, Tuệ của chính tự thân. (Trường bộ I;
Tăng chi IV, tr 39; Tăng chi II, phẩm Bổn pháp). Ðây là ý nghĩa rất thực
tiễn khác.
Tinh Thần Phê Phán:
Một tinh thần khác rất là
đại học đã làm kinh ngạc các nhà nghiên cứu tôn giáo, là tinh thần phê
phán căn cứ vào sự thể nghiệm của chính tự thân giữa cuộc sống trôi chảy
này.
Thế Tôn đã dạy các người
Kàlamas, những người đang hoang mang trước những lời tuyên bố của ngoại
đạo cho rằng họ là số một, rằng: Này các Kàlamas, đừng để bị dẫn dắt bởi
những báo cáo, hay bởi những truyền thống, hay bởi tin đồn, đừng để bị dẫn
dắy bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi luận lý suông, hay bởi suy lý, hay
bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi sự thích thú trong lý luận, hay bởi
những điều "tuồng như có thể xảy ra" hay bởi ý nghĩ: "Ðây là bậc Ðạo sư
của chúng ta. Nhưng này, các Kàlamas, khi nào các ngươi tự mình biết chắc
chắn rằng những việc này là thiện là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng".
(A.Colombo, 1929, tr.115)
Kinh Tư Sát (Trung bộ I),
đức Phật dạy các đệ tử xem xét ngay cả đức Phật để thấy rõ chân giá trị
của Ngài.
Tinh thần phê phán trên đủ
để làm chuẩn cho tinh thần phê phán của đại học ngày nay.
Tinh Thần Hướng Dẫn Hay
Chỉ Ðường:
Như đã trưng dẫn, đức Phật
xác nhận đức Phật chỉ là người chỉ đường, còn mỗi cá nhân phải làm lấy
công việc của mình. Kinh Gonaka Moggalàna, Trung bộ III, thuật đức Phật từ
chối vai trò lãnh đạo của Ngài và xác nhận pháp lãnh đạo chúng Tăng, nương
tựa Pháp, Pháp lãnh đạo. Pháp ở đây là con đường đi vào giải thoát. Suốt
chặng đường giáo hóa, đức Phật luôn luôn là người chỉ đường mà không bao
giờ ra lệnh hay bắt ép ai tuân phục Ngài.
Tinh thần giáo dục "hướng
dẫn" là tinh thần đã được đức Phật truyền đạt đã hơn 25 thế kỷ qua. Ðức
Phật luôn luôn đề cao thân giáo và khẩu giáo bằng quan sát và phân tích
thực tế. Mục đích của việc giảng dạy là giúp đỡ người nghe nhận ra con
đường và tự mình quyết định thực hiện con đường.
Tinh Thần Khích Lệ, Tự Tín
Và Tự Chủ:
Ngành tâm lý giáo dục quả
quyết con người cần sự tán thán, khích lệ như là cần dưỡng khí để sống.
Ngành này nhắc nhở nhà giáo đừng bao giờ quên rằng học trò đang cần sự
khích lệ. Thật lạ lùng, đức Phật vận dụng thiện xảo tinh thần khích lệ vào
việc thuyết pháp độ sinh.
Khích lệ là sửa soạn để
xây dựng tự tín, tự chủ cho hàng đệ tử. Chỉ cho con đường trở về nương tựa
chính mình là chỉ dạy con người trở về với tự tín, sự kiện Thế Tôn ra đời
và tu tập giải thoát bằng chính nỗ lực và điều kiện của tự thân con người
là sự kiến thiết lập tự tín cho đời.
Lòng tự tín không thể
thiếu được đối với người tu tập giải thoát. Nó cũng không thể thiếu sót
đối với người đời, không tin người khác thì có thể sống được, nhưng không
tin mình thì thật là khó sống. Thánh Tu Ðà Hoàn (quả sa môn đệ nhất) được
định nghĩa như là người có niềm tin bất thối vào con đường giải thoát của
mình.
Thỉnh thoảng Thế Tôn lại
tuyên bố sự chứng đắc A La Hán giữa Tăng chúng của một số đệ tử nhỏ tuổi,
tuổi trẻ như là vừa để khích lệ những người chưa chứng đắc nỗ lực.
Ở lãnh vực giáo dục, tự
tín là một đức tính mà học đường có trách nhiệm xây dựng cho học viên. Bởi
thiếu tự tín thì sẽ thiếu tự chủ, sinh ỷ lại, học sinh sẽ không vận dụng
được khả năng của tự thân để giải quyết các vấn đề cá nhân, cũng hoàn toàn
không vận dụng được khả năng sáng tạo.
Ði vào lãnh vực quốc gia,
một dân tộc hùng cường không thể là kết quả xây dựng của các thế hệ trẻ
thiếu tự tin, tự chủ.
Tinh Thần Ðộc Lập, Giải
Trừ Nô Lệ:
Phật giáo chỉ đường đi vào
giải thoát, có nghĩa là chỉ đường đi ra khỏi mọi trói buộc, mọi ách nô lệ,
gồm có sự nô lệ cho chính dục vọng của mình. Ðó là con đường "Bát chánh"
đi ra khỏi tham, sân, si, đi từng bước tự chủ. Một nền giáo dục như thể
hẳn sẽ tạo nên những thế hệ làm chủ xã hội vì hạnh phúc và tự chủ của cả
cá nhân và của dân tộc, đập vỡ mọi ách trói buộc bên trong và bên ngoài.
Tinh thần giáo dục này rất
phù hợp với mục tiêu của xã hội mà học đường ngày nay cần thực hiện nghiêm
túc.
Tinh thần giải thoát tham,
sân, si còn mang một ý nghĩa tích cực khác: vô tham sẽ dập tắt hiện tượng
tham nhũng của xã hội, vô sân sẽ dập tắt các vụ nổi loạn, dập tắt chiến
tranh (bởi gốc của chiến tranh là tham lam, sân hận), vô si sẽ mở rộng
đường trí tuệ, sáng tạo để xây dựng xã hội.
Tinh thần giáo dục ấy của
Phật giáo há lại không đóng góp tích cực và hữu hiệu vào một hệ thống học
đường hiện đại sao?
Tinh Thần Giáo Dục Con
Người Toàn Diện:
Giáo dục cần có một nhận
thức ổn định về ý nghĩa con người là gì, trước khi đi vào công việc giáo
dục như thế nào và dạy những gì cho con người ấy. Theo giáo lý của đức
Phật, con người chỉ là tổng hợp thể của sắc uẩn, thọ, tưởng, hành và thức
uẩn (vật lý và tâm lý)- sắc uẩn (vật lý), thọ, tưởng, hành và thức uẩn
(tâm lý). Ở mặt tương đối của hiện tượng, giáo dục con người có nghĩa là
giáo dục để điều hòa và phát triển năm uẩn đó thế nào để đạt được hạnh
phúc, an lạc và giải thoát ngay trên cuộc đời này, từ hạnh phúc tương đối
đến hạnh phúc tuyệt đối. Ðấy là một hệ thống giáo dục phát triển điều hòa
về trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục, tình cảm sinh lý và lao động.
Hạnh phúc như là mục tiêu
mà mọi người nhắm đến. Gốc của khổ đau sâu xa nhất thực sự là do chấp thủ
ngã tướng và tham ái các ngã tướng cho rằng sắc, thọ, tưởng, hành và thức
uẩn có tự ngã, và con người tổng hợp của các sắc uẩn đó, có tự ngã. Ðể làm
bật tung gốc khổ đau ấy, Phật giáo trao truyền cho người đời nhận thức về
vô ngã của mình và về vô ngã của mọi sự vật.
Qua nhận thức vô ngã ấy
nghĩa là qua cái nhìn duyên sinh của Phật giáo. Giáo dục Phật giáo đặt ra
một số vấn đề rất lớn về giáo dục:
1.- Trí tuệ mà không
phải là kiến thức:
Kiến thức chỉ là sản phẩm
của tư duy ngã tính, nó không phải là con người toàn diện, nó là gốc của
tham ái, chấp thủ dẫn đến khổ đau. Trí tuệ nói giản dị là chánh kiến và
chánh tư duy, chánh kiến nói gọn là phải thấy các pháp đều vô ngã, sống vô
tham, vô sân và vô hại. Do đó, với Phật giáo, giáo dục phải vừa cung cấp
kiến thức chuyên môn vừa chỉ rõ lối vào trí tuệ ấy.
2.- Giá trị tiêu chuẩn
là hạnh phúc mà không phải là giáo điều luân lý:
Nếu mục tiêu của cuộc sống
là hạnh phúc, thì hạnh phúc cần được xem là giá trị tiêu chuẩn nhất. Luân
lý hay kỷ luật học đường được lập ra là để phục vụ cho mục tiêu hạnh phúc
đó. Học đường không thể nhân danh luân lý hay kỷ luật để gây tổn hại đến
hạnh phúc con người.
3.- Giáo dục lao động,
mỹ thuật, tình cảm, sinh lý:
Các môn học về lao động,
mỹ thuật, tình cảm, sinh lý cần được giáo dục tốt cho tuổi trẻ. Ðấy là
những gì cần thiết để phát triển con người toàn diện và đem lại hạnh phúc
cho con người. Một hệ thống giáo dục tốt không thể đặc nhẹ các môn học
này.
4.- Giáo dục đánh thức:
Ðức Phật chỉ là vị chỉ
đường, con người phải thực hiện con đường bằng chính nỗ lực của mình. Do
đó, giáo dục Phật giáo nổi bật sắc thái đánh thức, mà không nhồi nhét kiến
thức. Một nền giáo dục như thế đặt nặng về phương pháp nhận thức và hành
động mà không đặt nặng ký ức. Ðây là giáo dục của sáng tạo.
5.- Con người với văn
hóa truyền thống:
Văn hóa và truyền thống là
sản phẩm của con người, nó phải được đặt sau con người. Cái gì của văn hóa
và truyền thống tốt đẹp, phù hợp với hướng phát triển của con người mới
hướng đến hạnh phúc tự chủ thì được giữ lại, cái gì không phù hợp thì loại
bỏ. Ðặt văn hóa và truyền thống trước con người là "đặt cái cày trước con
trâu". Do đó, đức Phật đã dạy: "đừng để bị dẫn dắt bởi truyền thống".
Tinh Thần Giáo Dục Thiền
Ðịnh:
Giáo dục thiền định là sắc
thái giáo dục rất đặt biệt của Phật giáo; nó là con đường giáo dục tâm lý
và trí tuệ, dạy con người tinh thần tự chủ, tự tri, tự tín và sáng tạo,
dạy con người chuyển đổi các tâm lý tiêu cực thành tích cực, chuyển đổi
các tâm lý bi quan thành lạc quan, dạy con người huấn luyện ký ức tốt để
tiếp thu kiến thức dễ dàng...
Ngày trước vua A Dục
(Asoka) ở Aán Ðộ đã dạy thiền định cho dân chúng và đã đem lại một thời kỳ
đất nước Aán Ðộ cường thịnh (theo "Bia ký của vua A Dục", Jules Bloels,
Paris, 1950).
Thời đại Lý, Trần ở Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo lý thiền định của Phật giáo, đã là thời
đại hiển hách của xứ sở, tạo được sức mạnh toàn diện (quốc phòng, văn hóa,
kinh tế) để giữ nước và dựng nước.
Trong giới hạn số trang
của bài này, bài tiểu luận này không thể trình bày chi tiết hơn về tinh
thần giáo dục thiền định, không thể đi sâu vào các tinh thần giáo dục vừa
trình bày, và cũng không thể đi xa thêm nữa vào các tinh thần giáo dục đặc
biệt khác của Phật giáo, như là tinh thần giáo dục trung đạo, tinh thần vô
chấp, tinh thần tùy duyên bất biến, tinh thần "lục hòa", tinh thần "tứ
nhiếp"... những tinh thần giáo dục sau chỉ rõ phương thức hành động và
lãnh đạo hữu hiệu trong các sinh hoạt của các cộng đồng.
Tinh Thần Giảng Dạy Nêu Ví
Dụ Cụ Thể:
Nhà giáo dạy giỏi là nhà
giáo khéo làm cho học sinh hiểu được những gì mình truyền đạt. Một nội
dung tốt để truyền đạt nếu không được truyền đạt bằng một kỷ thuật tốt thì
chưa thật tốt.
Ðức Phật trong phương pháp
giảng dạy của Ngài, Ngài vừa áng các nguyên tắc "khế lý", "khế cơ" vừa
khích lệ lại vừa dùng các ví dụ cụ thể rất quen thuộc với người nghe để
giúp người nghe hiểu được dễ dàng những gì Ngài muốn nói.
Một hình ảnh rất quen
thuộc với Phật tử là hình ảnh Thế Tôn ví giáo lý Ngài như chiếc bè để qua
sông, mà không phải để mang trên vai (Nikàya, A Hàm và Kim Cang); hay hình
ảnh giáo lý chỉ là chiếc bản đồ chỉ đường, hoặc là ngón tay chỉ mặt trăng.
Người học đạo phải rời khỏi giáo lý để đi vào thực tại của chứng nghiệm
như phải rời khỏi bản đồ để đi vào nơi mình muốn, hoặc rời ngón tay để
thấy mặt trăng vậy.
Nói về vị nhất quán của
giáo lý đó là vị giải thoát. Ðức Phật dạy, "Như biển chỉ có một vị là vị
mặn của muối, giáo pháp ta chỉ có một vị là giải thoát khổ đau".
Các tôn kinh như "kinh ví
dụ chiếc lưới" (Phạm Võng), "kinh ví dụ con rắn" (xà dụ), "kinh khúc gỗ",
"kinh bánh mật", "kinh gò mối", "kinh Kim cương" "kinh Pháp hoa", "kinh
Ðịa tạng".... Nổi bật hình ảnh ví dụ.
Ðức Phật đã sử dụng phương
pháp giảng dạy sống động, cụ thể và dễ hiểu để truyền đạt giáo lý. Một hôm
bên bờ sông Hồng đức Phật chỉ một khúc gỗ đang bị trôi lềnh bềnh trên sông
và nói với các Tỳ kheo đang đi theo Ngài về con đường giải thoát. Ngài
dạy, nếu khúc gỗ không hư mục, không tấp vào bãi bể, không bị vướng vào
nước xoáy, không bị người hay phi nhơn nhặt thì nhất định khúc gỗ sẽ đi
thẳng về biển. Cũng thế, nếu người tu sĩ không rơi vào tà kiến (chỉ khúc
gỗ mục nát), không đắm các căn trần (chỉ sự tấp vào hai bờ), không ngã mạn
kiêu căng (chỉ sự mắc vào nước xoáy), không cầu sinh thiên (chỉ phi nhơn
nhặt) thì nhất định sẽ đi thẳng đến Niết bàn, đoạn tận khổ đau (theo Tương
Ưng IV, Phẩm Rắn độc)
Trong khi Thế Tôn giảng
như thế, một người chăn bò tên là Nan Ðà đứng gần đó và nghe lóm. Nan Ðà
thấy rõ con đường tu tập giải thoát liền bạch: "Con sẽ là tu sĩ như khúc
gỗ không mục nát trôi thẳng về biển. Xin Thế Tôn cho con xuất gia, thọ Ðại
giới". Thế Tôn nhận lời. Quả thật, sau một thời gian tu tập thì Nan Ðà đắc
A La Hán quả.
Các vì dụ có rất nhiều
trong các kinh điển Phật giáo, ở đây chỉ trưng dẫn vài ví dụ điển hình.
Kèm theo hình ảnh ví dụ,
ngôn ngữ diễn đạt cũng có tác dụng quan trọng. Nói về tham dục và sự tác
hại của tham dục, khi thì Thế Tôn dạy, "như mái nhà vụng lợp, mưa có thể
thấm vào. Cũng vậy, tâm không tu tham dục dễ thâm nhập" (Dhp.13) rất bình
dị cho người bình dân. Có khi hình ảnh ví dụ được Thế Tôn diễn đạt thi vị
hơn, khiến không gây cảm giác đơn điệu, chán nãn ở người nghe:
"Ai sống ở đời này,
Aùi dục được hàng phục,
Sầu rơi khỏi người ấy,
Như nước rơi lá sen" (Dhp.336)
Có khi lời dạy vừa thi vị,
vừa triết lý và vừa rất gợi hình gợi cảm: "Này các Tỳ kheo, mắt là biển
của người. Ai vượt qua được biển ấy với nước xoáy, sóng lớn.....thì đến bờ
bên kia (Niết Bàn)" (Tương Ưng IV, Phẩm Biển).
Có khi để gây tác dụng
đánh thức, Thế Tôn dạy:
"Này các Tỳ kheo tất cả
đều bị bốc cháy....., bị bốc cháy bởi cái gì? - bởi lửa tham, sân, si,
sinh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não" (Tương Ưng IV, Phẩm bốc
cháy).
Kinh Pháp Hoa thì ví dụ
tam giới như ngôi nhà lửa; hình ảnh "cùng tử" làm nổi bật thân phật của
người đời đối với đạo giải thoát; hình ảnh cơn mưa pháp (trong "Dược thảo
dụ") rất sống....
Như thế, chúng ta đã thấy
đức Phật xuất hiện như là một nhà giáo dục rất nhân bản, rất lý tưởng qua
các tinh thần giáo dục vừa được trình bày.
Còn rất nhiều tinh thần
giáo dục rất thiết thực và hữu hiệu khác nữa đã được đức Phật vận dụng
trong suốt 45 năm giáo hóa, tất cả đều là những hình ảnh giáo dục rất mẫu
mực và rất đáng được thời đại chiêm ngưỡng mà chúng ta sẽ tìm hiểu vào một
dịp khác./.
---o0o---
Mục Lục |
01 |
02
|
03
|
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10
---o0o---
Source :
BuddhaSasana Home Page
Cập
nhật: 1-12-2002