Bác Phạm Đăng Siêu sinh ngày 4 tháng 7 năm Nhâm tý
(1912) tại Phú Hòa, kinh đô Phú Xuân, thành phố Huế. Nguyên quán
thôn Tân Niên Đông, huyện Tân Hòa, phủ Tân Định, tỉnh Gò Công.
Song thân Bác là cụ ông Phạm Đăng Nghiệp và cụ bà Tôn Nữ Thị
Uyên, thuộc gia đình quý tộc giàu có.
Lúc còn tại thế, tư chất rất thông minh. Thuở thiếu
thời, Bác là người hiếu học, từng theo cụ Phan Bội Châu học
văn chương chữ nghĩa và khá giỏi về môn Kinh Dịch. Đặc biệt Bác
có một tâm hồn cao thượng, giàu lòng vị tha, có một ý chí kiên
trì bền vững, tính thích tự do, sớm tách rời cuộc sống chung với
gia đình, hàng ngày Bác đi bán báo để độ thân và giúp các bạn
nghèo tiếp tục tự học. Với cách sống như vậy Bác cảm thấy có
một cái gì đó hạnh phúc.
Khi lớn lên Bác lập gia đình, làm bạn đời với
bà Nguyễn Thị Thừa, pháp danh Tâm Dư, quê làng Lương Quán, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, sinh hạ được hai gái, một trai : Cô
Phạm Thị Cẩm Xuân, Phạm Thị Cẩm Du và cậu Phạm Đăng Lộc. Cậu
Lộc mất sớm, hai cô con gái đã có gia thất.
CON ĐƯỜNG HÀNH THIỆN:
Bác có những phẩm chất đặc biệt mà ít thấy ở
nhiều người khác. Từ hồi thơ ấu, Bác đã giàu lòng bi mẫn, có
một cảm thông sâu sắc trước những cảnh đời đen bạc đua chen,
những kiếp người cùng khổ, thương đau, bệnh tật neo đơn, ít
người đoái hoài. Do đó, Bác luôn trăn trở day dứt, suy tư :
phải làm gì đây để chia sẻ một phần nào những bất hạnh khổ
đau của con người.
Xuất thân từ gia đình Phật tử chân chính, Đạo Bồ
đề đã soi tỏ tâm tư vốn có, Bác quy y với Hòa thượng Kim Cang,
thọ tại gia Bồ tát giới pháp danh Tâm Thành, tự Thiện Niệm. Với
niềm tin sâu sắc vào đạo giác ngộ, Bác thấy được nguyên nhân
đưa đến mọi sự khổ đau và phải rời bỏ bến mê, phải có
phương pháp diệt khổ. Từ đó, Bác phát tâm làm hạnh nguyện từ
bi, độ sanh Túc duyên và hạnh nguyện tròn đầy. Bác dấn thân vào
con đường hành thiện lợi tha.
Không quản ngày đêm mưa nắng dãi dầu, với chiếc
áo đen bạc màu, chiếc xe đạp dáng cũ kỷ và đôi túi xách hai
bên, có khi quần ống cao ống thấp, đầu đội chiếc mũ nhựa rộng
vành sạm nắng mưa, phó mặc sắc tướng bên ngoài với gió sương.
Âm thầm lặng lẽ, Bác đi từng nhà hảo tâm, góp nhặt những nắm
gạo tình thương đem đến tận người nghèo khổ, ốm đau hoạn nạn,
neo đơn côi cút; tận những nơi xa xôi núi rừng biển cả, xóm
làng quạnh quẻ. Nơi nào có người cùng khổ nơi đó co dấu chân
Người. Bác đến với tình thương chân thật, lòng từ bao la, không
một mảy may phân biệt người này kẻ nọ xa gần thân sơ hay thành
phần xã hội.
Tuy nhiên, cuộc đời không mấy khi suông sẻ đơn
giản, chẳng mấy ai thuận buồm xuôi gió được mãi. Bác gặp nhiều
nổi thăng trầm, phải cáng đáng để cho đạo đời trọn vẹn. Năm
1964, người bạn trăm năm của Bác đã từ giã cõi trần. Sau đó,
năm 1967, cậu Lộc, con trai cũng giã từ vĩnh viễn Bác. Tiếp đến,
những biến cố chiến tranh xảy ra dồn dập, bom rơi đạn lạc, đi lại
khó khăn. Tuy nhiên, Bác đã cảm nhận được cuộc đời là giả
hợp sắc, sắc sắc không không, còn duyên thì hợp hết duyên thì
tan ; Bác thường nhắc :
"Cuộc đời sắc sắc không không,
Trăm năm còn lại tấm lòng Từ bi".
Nhờ tha lực của các đấng Đạo Sư chân tu, nhờ
nguyện lực kiên cố chí thành, Bác đã vượt qua nhiều chướng
duyên trở ngại, chững chạc tiếp tục kiên trì trên bước đường
hành đạo, mỗi ngày như mọi ngày, hoa tình thương của Bác vẫn nở
nộ lớn mạnh, tỏa cùng khắp vạn nẻo, thấm nhuần sâu sắc trong
từng con người, từng giai cấp xã hội gần xa, nhất là Nhóm anh chị
em theo chân Bác đi hành thiện, cảm nhận sâu sắc lòng từ bi của
Bác, quyết cố gắng noi gương Bác, âm thầm lặng lẽ làm những
việc của Bác thường làm như bao ngày nhưng vẫn thấy còn xa vời
chưa tròn đầy như Bác được. Song đối với Bác chẳng là gì hết
"Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Bác đã thực hiện
hạnh "Vô ngã, Vô tướng, Vô tác", lúc nào cũng khiêm cung
kính cẩn, thường đảnh lễ trước các vị Tôn túc xuất gia, cung
kính trước các vị cư sĩ tài đức. Bác thường lắng nghe, ít nói,
chỉ làm và làm. Bác cũng không quên ân cần hỏi han những người
bạn nghèo khổ neo đơn. Bác xem họ là những vị Bồ tát nghịch hạnh
để giúp Bác làm tròn hạnh nguyện lợi tha mà không màn đến sắc
tướng danh lợi.
Nhiều người được Bác dìu dắt, thực hành hạnh
nguyện lên đến hàng trăm, những người phát tâm trợ duyên thì
rộng khắp, từ địa phương trong nước đến hải ngoại, đủ các
thành phần, vị trí trong xã hội và các tổ chức từ thiện, các
nhà hảo tâm, đã đặt niềm tin tuyệt đối nơi Bác, không một chút
ngần ngại về quá trình cống hiến hy sinh vì đại nguyện, vì tình
thương chia xẻ đến mọi người nghèo khổ, bệnh tật, với mục đích
làm vơi bớt khổ đau, mang lại cho họ một nguồn an ủi vô biên. Bác
cũng không quên cúng dường đến chư Tăng, Ni trợ duyên tu hành,
xiển dương Chánh pháp và giúp đỡ luôn các Cô nhi viện, Nhà trẻ
mồ côi...
Tình thương của Bác thật bao la như biển cả. Hơn 50
năm nắng dãi mưa dầu, hăng say hành thiện cho đến lúc chân mỏi
gối mòn, tuổi già sức yếu, nằm trên giường bệnh Bác còn ân
cần dặn dò các anh chị em trong Nhóm khi làm công hạnh phải nhớ lưu
tâm "cách cho hơn của đem cho", "anh chị em phải giữ gìn
từng lời nói, từng cử chỉ và lối sống hằng ngày sao cho trong
sáng, đừng để danh, lợi, tình quyến rũ". Thật là những lời
dặn sâu sắc, đầy cả một lòng từ bi vô tận.
Tuổi hạc đã cao, nguyện lực thì vô cùng, định luật
vô thường chi phối, xác thân giả hợp đến kỳ đã mãn. Bác đã
nhẹ nhàng vĩnh biệt chúng ta ra đi vào lúc 3 giờ sáng ngày 12 tháng
3 năm Giáp Tuất (1994) hưởng thọ 83 tuổi đời.
Tang lễ của Bác Siêu đã được cử hành vô cùng
trọng thể và trang nghiêm dưới sự chứng minh của Hòa thượng
Thích Thiện Siêu Trú trì Tổ đình Từ Đàm với sự hộ niệm của
chư Tôn Hòa thượng, chư Thượng tọa, Đại đức Tăng, Ni trong Giáo
hội, các đạo hữu và Phật tử thuộc các Niệm Phật đường,
Đạo tràng, các Gia đình Phật tử, cũng như quý vị Linh mục, các
chị Nhà phúc đến kính viếng. Các giới chức, đoàn thể xã hội
cùng tất cả bạn nghèo đã từng được gần gũi với Bác và
thân bằng quyến thuộc, anh chị em trong các Nhóm Từ Thiện khắp mọi
nơi đã trở về chia buồn, cầu nguyện, phúng điếu và tiễn đưa linh
cửu của Bác đến nơi an nghỉ cuối cùng, an táng tại khuôn viên
Tháp địa của Tổ đình Tường Vân, thuộc xã Thủy Xuân, thành phố
Huế.
Bác mất đi để lại sự ngậm ngùi, mến thương cho
tất cả mọi người gần xa. Nhóm Hành Thiện mất đi một người
Thầy, người Hướng đạo, người Cha, người Anh gương mẫu và gia
đình mất đi một người thân quý mến.
Đất thần kinh ngàn năm văn vật, khuất đi một bóng
trăng già giữa vạn lòng người, ngàn cây nội cỏ ! Nhưng Bác ơi !
Tuy thân của Bác đã ra đi, song tinh thần và hạnh nguyện của Bác
vẫn còn tỏa sáng khắp núi sông, vượt không gian khắp chốn Ta-bà.
Bác tiêu diêu về miền Cực lạc. Chín phẩm sen vàng chói lọi trên
con đường xưa hạnh nguyện Bác đi. Nhóm Hướng Thiện chúng tôi,
những người con vâng lời Bác vẫn mãi mãi nối tiếp trên con
đường đó không mỏi mệt, để trang trải, chia xẻ tình thương đến
với người nghèo, tiếp tục gieo hương tỏa ngát chốn phàm trần
trong mọi miền u tối./.
Cố đô Huế, Mùa Xuân Ất Hợi 1995
NHÓM HÀNH THIỆN (kính soạn)