Hòa Thượng Thích Bửu Huệ
(1913-1991)
Phó Viện Trưởng Viện Cao Ðẳng Phật Học Huệ Nghiêm.
Phó Tổng Lý Tổ Ðình Ấn Quang
Viện Chủ Chùa Huệ Nghiêm
---o0o---
Di Ngôn
Hòa Thượng Bửu Huệ
Nhóm Cựu Học Tăng Sưu Tập
---o0o---
Không
Bồ Ðề
lý nhiệm có trong không
Giác
ngộ chơn Tâm vạn vật đồng
Hiện
tướng mênh mông rồi biến mất
Chỉ còn
lưu lại Diệu Chơn Không.
TVT Thích
Bửu Huệ
DL. 2515 –
Xuân Nhâm Tý 1972
Lời Ðầu Sách
Kính
dâng Giác linh Hòa Thượng chứng minh.
Kính
bạch Giác linh Hòa Thượng!
Trước
tiên, chúng con xin thành tâm đảnh lễ sám hối Giác linh Hòa Thượng, bởi
vì chúng con từng biết Hòa Thượng không muốn khoa trương sở học, cũng
như việc tu hành của mình. Do đó mà Hòa Thượng thường nhắc nhở chúng con
rằng:
“Nếu
như giáo lý của Phật mình không thông suốt mà tu thì chỉ tự sai một mình
mà thôi. Còn đem giảng dạy thì có nhiều người sẽ hiểu sai nhưng nếu viết
in thành sách mà nội dung chưa hoàn chỉnh thì có hại không biết bao
nhiêu thế hệ về sau”. Vì thế, Hòa Thượng không hề lưu lại một bút tích
nào cả. Trong những buổi họp chúng, hoặc dạy ở lớp học, Hòa Thượng
thường hay nhắc nhở chúng con qua bài thơ của một Thiền sư:
“Nhạn
quá trường không
Ảnh
trầm hàn thủy
Nhạn vô
di tích chi ý
Thủy vô
lưu ảnh chi tâm”.
Tạm
dịch:
“Nhạn
liệng trời không
Bóng
chìm đáy nước
Nhạn
không có ý để hình
Nước vô
tình giữ bóng làm chi”.
Bài thơ
này ý nói đến tâm và cảnh, cảnh thì có hình tướng, còn tâm thì không
tướng cũng không hình.
Cổ đức
dạy:
Hữu tâm
vô tướng
Tướng
tự tâm sanh
Hữu
tướng vô tâm
Tướng
tùng tâm diệt.
Bài kệ
trên nhằm xác định: Tâm không dính mắc vào trần cảnh, dù cảnh có hiển
hiện như thế nào nhưng tâm không hề vướng bận. Ðây chính là chủ ý của
Hòa Thượng không lưu lại một bút tích nào, dù đó là đường lối tu hành
giải thoát.
Kính
bạch Giác linh Hòa Thượng,
Từ lâu,
chúng con mong muốn làm sao khơi lại những lời dạy của Hòa Thượng nhưng
chưa thực hiện được. Hôm nay, chúng con không nệ sự hiểu biết hạn hẹp
của mình mà chỉ vì nghĩ đến sự lợi ích cho hàng tứ chúng nên mới mạo
muội sưu tập và ghi lại những lời này. Chúng con rất trân trọng coi đây
là những lời di huấn vô cùng quý báu, nhắc nhở chúng con trên bước đường
tu học, đồng thời có dịp hồi tưởng lại công hạnh tu hành cũng như bản
nguyện của Hòa Thượng là suốt đời vì Ðạo và đào tạo Tăng tài theo chủ
trương “Tre tàn măng mọc” của cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa (Viện trưởng
Viện Hóa Ðạo) luôn ưu tư.
Thưa
quí Phật tử, làm việc này chúng tôi cảm thấy không thuận theo ý của Hòa
Thượng nhưng thiết nghĩ nếu Phật tử nào hữu duyên với Hòa Thượng cùng
chúng tôi được xem qua và xét thấy những lời dạy của Hòa Thượng là đúng
thì hãy cố gắng thực hành theo. Như vậy, mới có thể báo đáp được thâm ân
của Hòa Thượng và chắc chắn rằng Giác linh Hòa Thượng sẽ hoan hỷ cho
việc làm của chúng ta. Vì lần đầu tiên làm việc này nên không sao tránh
khỏi điều sơ sót, kính xin quý vị tôn túc đạt ý quên lời và từ bi hoan
hỉ và chỉ giáo cho.
Ban sưu tập xin chân thành cảm tạ.
Huệ Nghiêm – Nhân ngày húy kỵ Hòa Thượng 27/10/2004 (Giáp Thân)
Kính ghi.
Bia Lưu Niệm
Huệ Nghiêm Viện chủ- Bửu Huệ Thượng Nhơn
Thượng
nhơn tộc tánh Nguyễn, húy Văn Ba, người xã Tân Hội, tỉnh Long An, sanh
năm Giáp Dần (1914). Căn lành gieo sẵn, vào đạo đồng chơn. Khi còn làm
cư sĩ tại gia, Thượng Nhơn từng dự nghe pháp tại nhiều giảng hội. Kế lại
cầu pháp nơi Hòa Thượng Huệ Ðăng, chùa núi Thiên Thai. Ngài trì chú
Chuẩn Ðề và niệm Phật, lấy đó làm thường khóa, từng được nhiều ứng
nghiệm. Sau khi xả tục đến cầu Hòa Thượng Pháp Long chùa Khánh Quý làm
thầy thế độ. Tiếp theo lại xin thầy cho vào các Phật học đường: Phật
Quang, Liên Hải, Ấn Quang để học Phật. Mãn khóa Cao Ðẳng, Thượng Nhơn về
cất thất trong khu vườn gần nhà, tự tu liên tục hơn 10 năm, nhân tiện để
hóa độ hương thôn và quyến thuộc mong báo đáp thâm ân.
Mùa
Ðông năm Quý Mão (1963), Thanh Từ Ðại Sư tìm đến thỉnh ra hoằng hóa.
Ngài xét thấy pháp duyên đã thành thục nên nhận lời lìa thất đến dạy
chúng ở Phật Học Viện Huệ Nghiêm và Ni trường Dược Sư trước sau gần 30
năm. Cuối Tân Mùi niên (1991), hóa duyên đã mãn, Thượng Nhơn an lành
viên tịch vào ngày 27 tháng 10 tại bản viện.
Tiếc
thay! Ma quân chưa diệt, pháp tướng mất tăm, thuốc độc còn vương, cha
lành vắng bóng! Gió mây biến sắc, thương sen tươi đẹp sớm tàn, tùng trúc
phất phơ, sầu hóa hạc mơ trăng sáng! Than ôi!
Lối
hiểm sương giăng, ngày trước đạo sư đâu tá?
Tăng
hiền đạo diệu, tưởng chừng liên quốc hoa khai
Ðã về
An dưỡng chừ, mau lên pháp nhẫn.
Chẳng
bỏ mê sanh, chừ, xin nguyện tái lai.
Ngày Phật Thành Ðạo – Vô Nhất đề.
Diễn Văn Khai Mạc
Trích diễn văn khai mạc lễ
mãn khóa Trung Ðẳng II – Ban chuyên khoa. Hòa Thượng đọc ngày 25 – 4
-1971 (01-4-2514 Tân Hợi)
Kính
thưa liệt quý vị,
Trong
giờ phút trang nghiêm thanh tịnh này, trước sự hiện diện đông đảo của
liệt vị, chúng tôi không thể không dành một vài phút để sưởi ấm lại
những gì về quá khứ. Khơi sâu lại dĩ vãng, không gì khác hơn để quý vị
cùng chúng tôi tưởng niệm lại một phần công đức sâu dày của quý vị sáng
lập cùng quý Phật tử nhiệt tâm vì đạo pháp mà hết lòng đóng góp xây
dựng.
Thật
ra, danh hiệu Phật học viện hôm nay được phát xuất từ một bảng hiệu nhỏ
nhất “Trường Trung đẳng Phật học chuyên khoa”, có vẻ âm thầm kín đáo sau
mùa pháp nạn 1963. Vượt thoát khỏi những tang thương khổ não, Giáo hội
đang nghĩ đến một vấn đề trọng đại là Ðào tạo Tăng tài để cung ứng cho
giai đoạn. Trong thời gian phôi thai nhưng gần như đúng lúc, hai Thượng
Tọa Thanh Từ, Thiền Tâm và tôi, sau khi tốt nghiệp đã tạm lui về thiền
cốc tịnh tu. Gần như cơ duyên đã đến, ba chúng tôi phát nguyện đóng góp
Phật sự bằng cách nhận lời của chư Thượng Tọa Hội đồng Viện hóa đạo, mở
lớp Trung Ðẳng Phật Học chuyên khoa để hướng dẫn cho đàn hậu tấn. Cùng
lúc quý Phật tử Diệu Nhẫn, Minh Thiện, Như Thông v.v... đã góp công đức
một cách mạnh mẽ nên trường đã trưởng thành gần như đúng với ý nghĩa.
Thế là một lớp thi tuyển thành hình vào tháng 2 năm 1964. Kết quả trúng
tuyển được 38 vị. Mài miệt cả hai chương trình nội cũng như ngoại điển
suốt 3 năm, kết thúc bằng một buổi lễ mãn khóa và phát phần thưởng thật
đơn giản nhưng trang nghiêm không kém vào tháng 2 năm 1966.
Sau khi
mãn khóa, Tăng sinh lại được dự kỳ thi tuyển vào đại học Vạn Hạnh, kết
quả 16 vị trúng tuyển. Một số hiện còn theo học, số anh em khác đã rời
khỏi viện đảm nhận những Phật sự quan trọng tại các địa phương; một số
lưu tâm đến việc dìu dắt đàn em nên đã cũng chúng tôi ở lại bản viện
đóng góp duy trì lớp Trung đẳng này trong mấy năm qua, và kết quả là quý
vị đã quang lâm chứng minh buổi lễ mãn khóa phát phần thưởng hôm nay.
Ghi
chú của Ban biên tập:
Qua bao
tháng năm thăng trầm, theo định luật vô thường của cuộc đời nên kẻ còn
người mất là lẽ tất nhiên. Dưới đây là số hiện diện mà Ban biên tập còn
biết được:
1. H.T
Thích Phước Hảo trụ trì TV Chơn Không – VT
2. H.T
Thích Ðắc Pháp trưởng BTS Vĩnh Long
3. H.T
Thích Pháp Chiếu phó BTS tỉnh Lâm Ðồng
4. H.T
Thích Quảng Hiển PBTT,HT Trường Cao Trung Bà Rịa,
Vũng Tàu...
5. H.T
Thích Nhật Huệ PBTS tỉnh Vĩnh Bình
6. H.T
Thích Ðồng Huy trưởng BTS tỉnh BRVT
7. H.T
Thích Thiện Chí trú tại Thủ Ðức
8. H.T
Thích Phước Ðịnh trụ trì chùa Giác Sanh
9. H.T
Thích Tâm Thọ cư trú tại Mỹ
10. H.T
Thích Tịnh Nghiêm CÐD huyện Cam Ranh (KH)
11. H.T
Thích Nhật Quang phó BTS tỉnh Ðồng Nai
12. H.T
Thích Tâm Thủy trưởng BTS tỉnh Phú Yên
13. H.T
Thích Tịnh Diệu CÐD huyện Vạn Ninh-KH
14. H.T
Thích Huệ Hà trưởng BTS tỉnh Bạc Liêu
15. H.T
Thích Minh Kiến
16. H.T
Thích Quảng Hiển trưởng BTS Bà Rịa-Vũng Tàu
17. H.T
Thích Minh Bá Bảo Lộc
18. H.T
Thích Chơn Lạc trụ trì chùa Huệ Nghiêm
19. H.
T Thích Viên Thành Mỹ
20. H.T
Thích Ðồng Hạnh trụ trì Thiền Tịnh đạo tràng-CL
Tóm
lại, lớp Cao Ðẳng Phật Học chuyên khoa I gồm 36 vị chính thức và cộng
với số dự thính là 45 vị. Hiện Ban sưu tập biết được còn 19 vị. Nếu vị
nào có dự học mà Ban sưu tập chưa biết được, xin quý vị từ bi hoan hỷ
cho.
Theo Dấu Chân Xưa Trở Về Cảnh
Cũ
Hòa Thượng soạn bài này là
kim chỉ nam cho chúng ở Huệ Nghiêm áp dụng tịnh tu trong thất, từ năm
1976 (ngày 15-4 Bính Thìn) đến nay.
Ðức Bổn
Sư dạy:
Nhược
ly tiền trần, hữu phân biệt tánh tức chơn nhữ tâm (chỉ chơn tâm)
Tánh
giác bổn minh, minh năng sanh sở, hựu chấp sở minh, năng sở uyển nhiên,
toại thành hư vọng (phá chấp)
Nhược
nhất nhật chí thất nhật nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời,
A Di Ðà Phật dữ chư thánh chúng hiện tại kỳ tiền. Thị nhơn chung thời,
tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh (phải được tam muội).
Thân Ðâu Tâm Ðó
(Cảnh duyên tâm)
Từ xưa tâm cảnh liên quan
Cảnh mà xao động tâm an mấy người?
Muốn tâm lắng bớt duyên đời
Cảnh mà thay đổi dễ dời bản tâm
Cảnh không tâm lại chưa không
Tâm thầm duyên cảnh ngấm ngầm khó thay
Tự mình xét tự mình hay,
Vọng duyên trôi mãi biết ngày nào ngưng
Càng trôi càng cách nguồn chơn
Vô tâm để vậy chuốc hờn về sau.
Sớm đem chánh niệm thay vào,
Di Ðà sáu chữ tiêu hao vọng trần
Sâu là bể ái nguồn ân
Niệm rành nghe rõ lần lần tiêu ma.
Lắm gương chư Tổ thiền gia
Thoại đầu câu Phật chứng đà quả cao
Ðặt gương tổ trước ta sau
Bớt duyên chuyên niệm pháp mầu nào hơn.
Ưu Cần Tại Niệm
(Tâm duyên cảnh)
Kẻ ngu quên tâm chỉ giữ cảnh
Người trí bỏ cảnh để giữ tâm
Nào hay tâm cảnh chỉ một thể
Tùy duyên trấn định sẽ không lầm.
Tà tà trăng lặn đầu non
Lạc đà con vượn véo von kêu sầu
Trước đèn tàn thuở đêm thâu
Khách thơ ngân ngợi vẳng đâu bên đồi
Lúc này ai rõ khúc nôi
Có ông sư cụ đứng ngồi trong mây.
Khi xưng tụng danh hiệu
Không Phật cũng không ta
Duy chỉ nghe có tiếng
Nam Mô A Di Ðà Phật.
Nhiều năm ngồi tịnh núi Ðại Hùng
Quả thật thân cùng đạo chẳng cùng
Lục tự chuyên trì chân thọ ký
Lưu truyền hậu thế rõ tông môn.
Bổn Lai Diện Mục
(Tâm duyên tâm)
Trăng trong in khắp muôn dòng nước
Thông cỗi tha hồ bốn gió rung
Xưa mê nay tỉnh là như thế
Ðạo cả sâu xa lòng hiểu lòng.
Nghe lại những điều mình đã biết
Xét đi nghĩ lại cho thật tinh
Chớ tìm tri thức trong mơ mộng
Ngắm lại mình thấy mặt thầy mình.
Sắc tướng tắt nhãn quan cũng tắt
Thanh trần tan nhĩ thức liền tan
Gốc kia còn mãi bao tàn
Hôm qua qua khỏi, lại sang hôm này.
= = = =
Muôn xưa biết mấy nhiêu đàng
Bây giờ coi lại rõ ràng là đây.
= = = =
Không phải gió động, phướn động, chính tâm ông động.
= = = =
Khi không nghĩ thiện nghĩ ác, lúc đó là bản lai diện mục của ông.
= = = =
Gương Chư Tổ
Ngài Ca Diếp:
Ẩm quang trọn kiếp đầu đà hạnh
Thị chúng mỉm cười rõ lý mầu.
Ngài A Nan:
Khánh hỷ đa văn trọn kiếp hầu
Gạn lòng bảy chỗ chẳng tìm đâu
Về sau thức trắng chừng ra lẽ
Mới rõ năm xưa chẳng luống hầu.
Ngài Huệ Viễn:
Mù tỏa Lô sơn sóng Triết giang
Lập thành liên xã hướng liên bang
Một đời cấm túc chuyên câu Phật
Tam tiếu hổ khê tổ viễn công.
Ngài Huệ Khả:
Vì muốn an tâm khổ nhọc cầu
Tổ kêu đem lại chẳng tìm đâu
Sau câu tỏ ngộ an rồi đó
Ðoạn tý an tâm chẳng luống cầu.
Ngài Huệ Năng:
Tiều ông chợt ngộ ưng vô sở
Tám tháng công phu chẳng để hở
Tổ gọi trắng chưa, bạch thiếu sàng
Huỳnh mai đêm ấy truyền y tổ.
Y bát truyền xong bảo đợi cơ
Chỉ tâm nguồn động không chi khác
Ðại pháp Tào khê thạnh bấy giờ.
Trở về nẻo cũ
Trở về nẻo cũ chẳng đâu xa
Chánh niệm lâm chung Phật hiện ra
Tự tánh tương ưng ta sẵn đủ
Hợp cùng bổn nguyện đức Di Ðà.
*******
Hợp cùng bổn nguyện đức Di Ðà
Ta thấy lợi này mới nói ra
Nặng nghiệp chúng sanh cơ mạt pháp
Nương môn Tịnh độ thoát Ta bà.
Tứ Oai Nghi
(của Thiền sư Văn Thủ, Hòa Thượng Bửu Huệ
dịch)
Ði:
Khoan thai rảo bước mà đi
Chướng tai gai mắt có gì bận tâm
Nhiễu quanh tư thế trầm ngâm
Tay lần tràng hạt âm thầm cùng đi.
Ðứng:
Chỉ hằng biết chiều chiều sớm sớm
Duyên khởi lên phân biệt mà chi
Muôn vàn sai khác cõi này
Nhơn nào quả nấy nhọc gì đến ta.
Nằm:
Bụng no nê đánh khò một giấc
Gối êm ru tĩnh mặc an nhàn
Mừng thay chẳng kẻ tìm ta
Món hàng ế ẩm nằm trơ nay kìa.
Ngồi:
Trời nam trước án ngồi chễm chệ
Tối ngày chẳng hề nghĩ ngợi gì
Nào phải cố giữ lòng chi tỉnh
Bởi vì chẳng vướng việc chi chi.
Thân Ðâu Tâm Ðó
(Bài giảng của Hòa Thượng
Bửu Huệ nhân ngày Khánh Ðản Ðức Phật A Di Ðà – 17 – 11 – 1981- Tân Dậu)
Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Hôm nay
là ngày Khánh Ðản Ðức Phật A Di Ðà, quí Phật tử có duyên lành, mặc dù
rất bận rộn cũng cố gắng sắp xếp việc gia đình để đến dự lễ khánh đản
của đức Phật. Nhưng tiếc vì sức khỏe của tôi quá kém, hay mệt bất thường
nên buổi lễ khai kinh lẽ ra phải đi đúng giờ nhưng đành phải trễ nãi đôi
chút. Do vì lòng thành của Phật tử đối với Tam Bảo và đức Phật, nên dù
giá nào quí vị cũng cố gắng về đây tham dự nên tôi rất cảm động. Do đó
dù cho có mệt mỏi thế nào, tôi cũng cố đến gặp quý Phật tử để nói đôi
lời cho thỏa lòng của tôi.
Nói tóm
lại, chúng ta là người con Phật lại ở thời mạt pháp nên thân tâm luôn
luôn khổ sở, mà có cái gì để an ủi tinh thần, chỉ có đạo đức, đạo đức
thì có gì tượng trưng cho thật xứng đáng, muốn được xứng đáng thì chỉ có
ngày vía của Ðức Phật A Di Ðà. Vì sao? Vì đức Phật Di Ðà đã phát nguyện
từ nhiều đời rồi, Ngài đã thành Phật để độ tất cả chúng sanh nào thành
tâm niệm Phật mười câu, Ngài sẽ rước về nước của Ngài. Tụng trọn bộ Kinh
Pháp Hoa là giáo Pháp của đức Phật Thích Ca đã dạy. Hôm nay đầy đủ duyên
lành, tôi sốt sắng đến đây, tùy thuộc vào cái duyên thầy trò của chúng
ta nói được bao nhiêu hay bấy nhiêu, nếu tôi mệt bất thường thì ngưng
ngay chỗ đó.
Bây giờ
nói về bổn phận của Người Phật tử, là người con của Phật mà có sở
nguyện, thì dù giá nào hay ở cõi nào, đời nào cũng phải cố gắng nghe lời
đức Bổn Sư Thích Ca, phải niệm Phật để trở về với Phật, đó là ước nguyện
chung của tất cả chúng ta. Tôi có ý định là muốn nói thật nhiều, nhưng
vì sức khỏe kém nên nói được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Quí Phật tử nên
thông cảm ở chỗ đó.
Nam Mô
A Di Ðà Phật.
Tất cả
chúng ta ai cũng có thân, mà có thân thì có tâm, cái tâm đó có công dụng
là nghe và nhớ, nhớ để làm, vì đó là cái họa đồ có 3 công dụng:
1.
Tâm làm chủ cho việc thiện
2.
Tâm làm chủ cho việc ác
3.
Tâm làm chủ cho cả hai thiện và ác.
Con
người chúng ta đều có thiện lẫn ác, vậy khi làm chủ cho cái thiện thì
phải khéo léo vì thiện chỉ cho sự thương, mà thương tức là ái. Khi làm
chủ cho cái ác, chỉ cho sự ghét, thì bị ngũ dục lộng hành và bị nó cướp
quyền. Như vậy thì dù thương hay ghét cũng dẫn đến trầm luân. Cả 2 dù
thiện hay ác đều lệ thuộc vào cái thứ 3, đó gọi là chơn tâm.
Tất cả
chúng ta ai cũng có cái tâm, trong cái thiện hay ác còn có làm chủ, lại
còn có cái không thiện cũng không ác, nó không có khả năng áp đảo ai
hết, nên dù thiện hay ác lôi kéo theo ngũ dục nó cũng làm thinh. Hiện
tại chúng ta đang bị 2 cái ở ngoài là thiện và ác nó sai khiến, mà chưa
thấy được cái hữu dụng ở bên trong và chưa thực hiện được, hoặc thực
hiện không đúng. Do vậy chúng ta phải chịu trầm luân sanh tử. Tôi muốn
nhắc lại là đức Phật Thích Ca đã dày công tu hành mới thành đạo. Trước
hết Ngài đã phải bỏ tất cả hoàng gia, đất nước, vợ đẹp con xinh, xuất
gia thực hành tu khổ hạnh nhiều năm vẫn chưa tìm thấy con đường giải
thoát cho mình và chúng sanh. Ngài phải ngồi thiền thêm 49 ngày nữa và
cuối cùng đã thấy được chân lý. Ngài mới nói: “Tất cả chúng sanh đều có
Phật tánh sao lại trầm luân”. Vậy thì Phật tánh thẩm sâu trong con người
này chớ không phải ở đâu xa. Bây giờ tôi hỏi tất cả Phật tử, quí vị phải
thật tâm nói lên, không phải nói với tôi mà nói với tâm của mình. Trong
3 ngày về đây tụng kinh Pháp Hoa, trong 10 phần thì Phật tử để ở đây
được bao nhiêu phần, còn lại thì quí vị nhớ việc nhà, việc buôn bán, làm
ăn v.v... Nói thẳng ra tuy thân đang ăn, ở, tu tại Huệ Nghiêm, tâm lại
đi tản mác khắp nơi có phải vậy không? Tóm lại, nói đúng nghĩa “thân đâu
tâm đó” chúng ta thực hiện cao lắm chỉ được 20 phần trăm. Quí Phật tử bỏ
hết công việc về đây 2,5 ngày và 2 đêm, nhưng quí Phật tử xét lại mình
xem thân ở chớ tâm ở được bao nhiêu. Phải thành thật xét lại mình mới
biết cái lỗi là ở tại mình. Nếu người nào muốn vãng sanh, được Ðức Phật
Di Ðà rước về nước của Ngài thì phải thực hành đúng theo lời của đức
Phật Thích Ca dạy, như vậy mới có thể là ở trong tâm này chớ không phải
ở đâu xa, mà nếu chưa biết thì nó vòi vọi muôn trùng xa.
Nếu
biết tự tánh Di Ðà duy tâm tịnh độ ở đây, như vậy mình đến đó đâu có xa.
Ðó là tại mình không làm, làm không quen, không kiên nhẫn làm, hoặc
không đủ duyên phước để làm. Còn anh em chúng tôi ở đây cũng có chút
duyên, chút phước được nhập thất tịnh tu, nhưng nhập thất đó thì cũng
tập theo đời nay chớ đâu phải như người xưa.
Ðức
Phật Thích Ca chỉ tự tánh Di Ðà của mình sẵn có ở đây mà mình không có
lần nào gặp được, và cũng không có sống được với nó, diệu dụng lắm mà
không hưởng được việc đó. Tôi xin nhắc lại ở trong ta có thiện, cái
thiện thường thường nó cảm tình, mà cảm tình thì thuộc về ái, thứ 2 là
cái sân, cả 2 thứ này đều thuộc về ngoại cảnh, mà ngoại cảnh luôn luôn
bị ràng buộc trong ngũ dục, nhất là danh lợi, ngủ nghỉ, ân ái, ngũ dục
luôn lôi cuốn chúng ta và nó là bạn thân nhiều đời kiếp. Còn chúng ta
ngày nay đã có giới định huệ sẵn, chúng ta phải dùng giới định huệ để vô
hiệu hóa tham sân si, nếu cứ để tham sân si lôi kéo rồi chạy theo ngũ
dục thì sẽ bị ngũ dục lôi kéo, do ngoại cảnh nó chạy đầu này đầu kia, nó
không từ chỗ nào hết, nên gọi là vọng duyên, chỉ có duyên vọng chứ không
có cái duyên nào chơn hết. Mặc dù là vọng duyên nhưng nguồn chơn cũng
dần dần bị vọng duyên lôi kéo, cho nên dù nằm đó niệm Phật mà nhớ nhung
đủ thứ không yên khiến cho phải ngồi dậy đi tìm cái vọng trần. Do vọng
duyên thúc đẩy, lại bị vọng trần lôi kéo, nên dù nằm cố ngủ mà không ngủ
được. Còn nguồn chơn thì vốn sẵn có, nó thuộc về cái thứ 3, chỉ khi nào
nhiếp tâm niệm Phật là gặp nó. Do vọng duyên thúc đẩy, tay chân làm việc
gì đó tức là chạy theo vọng trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.) đó
là ý chính của bài này. Muốn nói rõ ý “thân đâu tâm đó” tôi xin hỏi lại
một lần nữa. Thân đang ở đây còn tâm thì ở đây được bao nhiêu? Vậy “thân
đâu tâm đó” nghĩa là thân đang làm việc gì tâm cũng ở đó. Ví dụ như Phật
tử đang tụng kinh quyển thứ 3, tung xong, vị nào siêng thì xuống phụ ở
nhà trù, đang ngồi lặt rau nhưng lại nói chuyện tụng kinh: “Buổi chiều
này chị ngồi kế bên ở nhà tụng thiếu hết 1 quyển”. Tôi xin hỏi vị đó
đúng hay sai? Vậy thân ngồi đó lặt rau thì tâm cũng phải ở đó. Còn nhớ
nghĩ đến việc khác là sai. Như vậy Phật nói đúng mà chúng ta lại làm sai
phải không?
Bây giờ
đi vào đề tài “Thân Ðâu Tâm Ðó”.
Từ xưa
tâm cảnh liên quan
Cảnh mà
xao động tâm an mấy người
Muốn
tâm lắng bớt duyên đời
Cảnh mà
thay đổi dễ dời bản tâm
Cảnh
không tâm lại chưa không
Tâm
thầm duyên cảnh ngấm ngầm khó thay.
Từ xưa
tâm cảnh liên quan: Như Phật tử liên quan với chùa, với bạn bè, với bà
con, với chợ v.v.. vì có liên quan nên ngày nào cũng đi chợ để mua thứ
này thứ nọ, thành ra chúng ta bị kẹt với chợ do cái ăn, cái mặc, cái ở.
Vì ăn mặc ở dính liền với con người. Tôi liên quan với quý thầy ở Huệ
Nghiêm, còn quý Phật tử không quên quan sao. Khi tiếp xúc với quý thầy
để học hỏi về đạo có bao giờ quí Phật tử nói chuyện mà sanh buồn phiền
không? Vào chùa để học hỏi đạo lý chớ đem chuyện chê bai ở ngoài chợ mà
nói thì nguy to, vì nó liên quan làm cho mình có sự thương sự ghét. Như
vậy nó liên quan ngoài chợ nhiều hơn mà mình không biết. Nó liên quan
cũng như chim với hư không, như cá với nước, như mình với xã hội qua
việc giao tế hàng ngày. Có mặt thì liên quan đã đành, vắng mặt cũng liên
quan, sự liên quan đó khổ sở cũng như cá bị nước đục, bị sóng đánh, chưa
nói đến bị nước phèn nước dơ hay bị nước mặn, con người mình còn liên
quan nhiều việc hơn thế nữa, nên nói khổ hơn cá liên quan với nước, chim
với hư không.
Cảnh mà xao động tâm an mấy người:
Như có người nói dù tôi bán buôn ở ngoài chợ chớ tâm tôi vẫn an như
thường. Ai nói như vậy là nói thiệt thay nói dối? Còn Phật tử niệm Phật
ghi công, cứ hay niệm mà không còn nhớ chuyện này chuyện nọ nữa, ghi thì
cứ ghi chớ người hỏi cũng biết, bởi vì người niệm rành cũng như người
thợ chuyên môn, còn đối với Phật tử người ta chỉ khuyến khích mà thôi.
Muốn tâm lắng bớt chuyện đời: Dù
muốn dù không quý Phật tử về đây tụng kinh Pháp Hoa là muốn bỏ bớt
chuyện này chuyện nọ ở nhà. Tôi đồng ý chứng minh khuyến khích, khen
ngợi những vị có mặt hôm nay là muốn tâm lắng bớt duyên đời. Do muốn như
vậy phải mang thân đến Huệ Nghiêm để tâm nó yên, nhưng ở nhà lại có cháu
nội ấm đầu, do vậy thân dù ở chùa tụng kinh mà tâm thì chạy về nhà lo
cho cháu. Như thế thì:
Cảnh mà thay đổi dễ dời bản tâm:
Muốn cảnh thay đổi thì cần phải có duyên, vì muốn tâm yên nên phải đến
chùa để tụng kinh, thọ bát, sám hối v.v... cảnh đã không rồi, nhưng tâm
còn vướng mắc nhiều việc buồn giận ở nhà với con vì nó cãi lại hồi tối,
như vậy có phải là cảnh không mà tâm chưa không đó phải không? Trong mấy
ngày ở chùa tụng kinh và được nghe quý Thầy khuyên nhưng vẫn còn ấm ức
trong lòng, nên khi về nhà còn nói: “Tại hôm qua tao đi chùa, chớ ở nhà
thì biết tay tao”. Như vậy câu này nói cảnh không mà tâm chưa không. Vậy
thì:
“Tâm thầm duyên cảnh ngấm ngầm khó thay.”
Ai thấy dễ đưa tay lên coi, nếu không ai đưa tay lên thì tôi nói đó là
rất khó. Vậy việc mới đây chưa có gì mà đã thấy là khó, còn nhân duyên
trăm ngàn thứ khó nữa. Cái khó thay này cần giải quyết, chớ đâu phải khó
rồi để đó. Ngay nơi thân của mình cũng thấy khó, như bệnh hoạn đủ thứ,
còn tâm thì chạy lung tung, nhưng việc đó phải tự mình biết tự mình hay
phải không? Cái vọng duyên do chạy theo ngoại cảnh thì tự mình biết, tự
mình hay chớ không ai biết, nhưng có đức Phật biết. Nếu đức Phật không
biết sao nói được câu “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sao lại trầm
luân”. Vậy cứ để vọng duyên trôi mãi biết ngày nào ngưng. Do cái vọng
duyên này nó trôi mãi không bao giờ ngưng, nó trôi từ kiếp này sang kiếp
khác và đến kiếp hiện tại chúng ta vẫn để nó trôi. Là Phật tử, chúng ta
muốn được giải thoát, tâm muốn được giải thoát mới than rằng:
“Vọng duyên trôi mãi biết ngày nào ngưng”,
đó là Phật tử chơn chánh. Cái trôi mãi biết ngày nào ngưng, dòng nước cứ
trôi mãi, càng trôi thì càng cách xa nguồn chơn là chỉ cho Phật tánh tức
là tự tánh Di Ðà sẵn có của chúng ta mà đức Phật Thích Ca đã nói. Ðức
Phật Thích Ca đến được cội bồ đề là do dụng công đến chỗ vô tâm. Chữ “vô
tâm” của Phật tức là tâm không dính mắc vào mọi hoàn cảnh hay mọi duyên,
tức là vô phân biệt. Còn vô tâm của chúng ta là vô mà có phân biệt, vô
tâm mà không hiểu biết. Do vì không hiểu biết nên cứ để vô tâm buông
xuôi theo ngũ dục, lục trần sai khiến, do vậy mới trầm luân trong sanh
tử không ngừng. Ðức Phật dụng công để đến chỗ vô tâm để trở thành bực
Thánh và thành Phật giải thoát khỏi sự ràng buộc sanh tử, còn chúng ta
vô tâm để rồi trôi lăn trong trầm luân sanh tử. Nên nói:
“Vô tâm để vậy chuốt hờn về sau”.
Về sau là về đâu? Là ở kiếp sau, hoặc làm súc sanh, hoặc đọa địa ngục,
ngạ quỉ, hoặc nghèo hèn khổ sở v.v.. Ðến lúc Diêm Vương kêu mới biết thì
đã muộn rồi. Thế nên chúng ta đừng vô tâm đối với vọng duyên này. Hôm
nay đã biết rồi chúng ta phải nên tự giác sớm đem chánh niệm thay vào,
đem chánh niệm thay vào chỗ vọng duyên. Vì công dụng của chánh niệm trừ
được vọng duyên. Tức là phải chí tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật sẽ dứt
được vọng duyên. Vậy có phải là:
“Di
Ðà sáu chữ tiêu hao vọng trần”, đối với Phật tử dù cho thật
lòng nhưng cũng khó tin, vì đã từng theo mẹ đi chùa và niệm Phật từ lúc
nhỏ mà đã tiêu hao gì đâu?
Thế nào
là “Di Ðà sáu chữ tiêu hao vọng trần”. Trong kinh nói: “Tám muôn bốn
ngàn trần lao phiền não, Ðức Phật nói tám muôn bốn ngàn pháp môn để đối
trị” là gì? Ở đây muốn nói chí tâm niệm rành nghe rõ, thời gian niệm
được 3 hay 5 phút được chí tâm nghe rành rõ, trong thời gian đó tâm
không bị phiền não chi phối, cũng như ngồi yên một chỗ. Do đó trong thời
gian 3 hay 5 phút đó, có phải là vọng trần đã bị tiêu trừ, lúc đó tâm
không chạy theo phiền não, suy nghĩ bậy bạ và tạo tội mới. Như vậy thì
nhờ sáu chữ Di Ðà mà được tiêu trừ vọng trần, nghiệp chướng phải không?
Nếu tiếp theo mình lại niệm lơ là, không rành rõ, thì bị vọng tưởng lôi
kéo, lấn áp. Như vậy chúng ta niệm sai, thì theo vọng duyên, còn niệm
đúng cách, thì nó có công dụng trừ được tám muôn bốn ngàn trần lao phiền
não. Nên phải gia công cố gắng hết sức mình, chí tâm niệm cho đúng, càng
nhiều thì càng tiêu được nhiều tội chướng.
Nói
niệm rành là phải niệm từng tiếng cho rành, như Nam Mô v.v... cho rành
chớ niệm giống như người ngọng thì gọi là không rành. Còn rõ là khi niệm
phải lắng nghe từ trong tâm niệm rõ ràng. Bình thường tai nghe là nghe
tiếng từ bên ngoài, cái nghe này còn phân biệt xen lần nên ai nói gì hay
tiếng động nào cũng nghe cũng biết. Còn nghe từ trong tâm là nghe lại
cái tánh nghe tiếng bên ngoài nhưng không hề biết, tức là vô phân biệt.
Ðó gọi là nghe lại tự tánh. Còn lần lần
tiêu ma thì sao? Xưa có câu “Có công mài sắt, có ngày nên
kim”, vậy Phật tử muốn có kim thì phải dày công, cũng như câu chuyện
Bà già mài đá thành kim. Tôi nói ví dụ, quý Phật tử phải chú ý nghe:
Như trong mùa nắng hạn thì nước đục bèn đem đi kiếm nước trong để đổi.
Người có nước trong bảo rằng: “Ngươi đã có sẵn nước rồi, sao không tự
lóng cho trong để dùng. Chứ nước muốn có nước trong liền, thì ai có thể
đổi cho ngươi được”. Ðức Phật ví dụ như nước trong còn chúng ta là nước
đục. Chúng ta muốn thành Phật thì phải tự gia công tu tập để chuyển
phiền não thành bồ đề, chứ Phật không thể chuyển đổi cho mình được.
Chúng ta ai cũng biết rằng ăn thì được no, muốn no thì mình phải tự làm
cái việc ăn, chớ ngồi ì ra đó mà chỉ nói là tôi ăn món này món nọ hoài
để được no, thử hỏi việc đó có được không? Người niệm Phật, phải gia
công niệm cho đúng, niệm cho nhiều, thì tham sân si, phiền não từ từ
lắng xuống, hễ nhiếp tâm niệm cho được thanh tịnh, thì cái động bên
trong nó tự yên. Phải nhiếp tâm niệm Phật, niệm đến lúc nghe mà không
nghe, biết mà giống như không biết và cũng không còn nhớ gì hết, cho đến
không niệm mà nó tự niệm. Gọi là đương niệm tức
vô niệm. Ðây gọi là chứng được về lý, là có thể thấy được
pháp thân của Phật. Nếu người căn cơ cao thì niệm một ngày là được nhất
tâm bất loạn, còn bậc trung thì niệm 2 hoặc 3, 4, 5, 6, 7 ngày thì được,
còn bậc căn cơ thấp kém thì niệm liên tục một năm, hai năm rồi cũng
được, nếu chúng ta cố gắng hết sức mình và có tâm nhàm chán sự khổ của
cõi đời này. Như trong kinh Di Ðà đức Phật Thích Ca đã nói: “... chấp
trì danh hiệu, nhược nhất nhựt, nhược nhị nhựt... nhất tâm bất loạn, kỳ
nhơn lâm mạng chung thời...” thì Phật và Thánh chúng hiện ra trước mặt
tiếp độ được vãng sanh. Như thế người niệm Phật được nhất tâm sẽ biết
được ngày lâm chung và khi lâm chung sẽ được Phật tiếp độ về cõi nước
Cực lạc của Ngài. Chư Tổ đã chứng được nhờ câu thoại đầu sáu chữ Nam
Mô A Di Ðà Phật này không phải là ít. Vậy đặt gương Tổ trước ta
sau, nghĩa là phải noi gương theo chư Tổ và cố gắng hết sức mình bỏ
hết mọi duyên bên ngoài để chuyên lo niệm Phật. Ở đây gọi là bớt
duyên chuyên niệm pháp mầu nào hơn.
Tóm lại
bài “Thân đâu tâm đó” này chỉ cho chúng ta đường lối tu để đi đến
giải thoát. Chúng ta muốn được giải thoát thì phải biết trở về sống cho
chính mình, không buông trôi theo vọng trần, không thể vọng duyên chi
phối mà phải sống theo cách thân ở đâu thì tâm cũng ở đó, đồng thời
buông xả hết tất cả và chuyên tâm niệm Nam Mô A Di Ðà Phật. Nếu
được như vậy thì một ngày nào đó chúng ta sẽ được “Dạ dạ bảo Phật
miên, triêu triêu tùng Phật khởi” nghĩa là đêm đêm ôm Phật ngủ, như
thế thì khi lâm chung sẽ biết ngày, biết giờ, và chắc chắn sẽ được Phật
cùng Thánh chúng hiện ra trước mặt tiếp rước vãng sanh về nước của Ngài,
đúng với lời nguyện thứ 17 và 18 của đức Phật A Di Ðà.
Một lần
nữa tôi xin nhắc lại là chúng ta phải cố gắng hết sức mình và thành tâm
cũng như buông xả tất cả để ngày lâm chung được như ý nguyện của Phật và
của chúng ta.
Nam Mô
A Di Ðà Phật
Ghi
xong ngày vía Quan Thế Âm tháng 2 năm Giáp Tuất (2004)
Phụ
chú:
Nguyện
thứ 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế
giới chẳng đều khen ngợi xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi
chánh giác.
Nguyện
thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tin mộ muốn
sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh (trừ kẻ
tạo tội ngũ nghịch cùng hủy báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi
chánh giác.
Giảng Thiền ở Chơn Không
(Hòa thượng Huệ Nghiêm giảng Thiền tại
Thiền viện Chơn Không năm 1974)
Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính
thưa chư đại đức Tăng Ni,
Kính
thưa Quý quan khách và chư Phật tử hiện diện hôm nay,
Hôm nay
ở nơi đạo tràng này làm lễ mãn khóa I sau ba năm tu học Thiền, và vừa
rồi cũng khai giảng lớp Thiền thứ II cũng 3 năm do Hòa Thượng Thanh Từ
đảm trách hướng dẫn. Chúng tôi hân hạnh được mời dự lễ, đồng thời Hòa
Thượng cũng ngõ ý mời chúng tôi nói chuyện, vì sau buổi lễ vẫn còn một
số quan khách và Phật tử lưu lại nơi thiền viện. Do đó chúng tôi mới có
sự gặp nhau với quí vị. Trước xin vấn an sức khỏe cùng nhau, sau sẽ có
vài ý kiến nói lên về sự tiến tu của quý vị để hỗ trợ cho thiền sinh
đang học trong 3 năm tới hơn là thuyết pháp, bởi vì chúng tôi không hay
thuyết pháp. Lời đầu tiên của chúng tôi hôm nay là rất vui mừng vì ở
thiền viện có được số thiền sinh theo học rất đông. Sự vui mừng này là
vì chúng ta đời trước, nếu không khéo trồng cái duyên về thiền học thì
hôm nay dù có nghe đủ và nghe đồng đi nữa rồi chúng ta cũng bị duyên này
duyên khác làm trở ngại, đó là lý do nhân duyên của thiền. Bởi vì, người
được học thiền thì không phân giai cấp và không phân thông minh hay kém
thông minh, điều đó chúng tôi xin chứng minh cho thấy rõ, và Hòa Thượng
đây cũng có dạy nhiều lần. Cũng như đương ở môi trường và dưới sự hướng
dẫn của ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, dĩ nhiên có hai cách sai biệt, là Thần Tú rất
thông minh và Huệ Năng thì không biết chữ. Do vậy, chỉ có những vị nào
đời trước có duyên lành với Phật giáo và nhất là về môn Thiền học, môn
trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật, chúng ta mới có đủ duyên. Trong
buổi lễ hôm nay qua bài diễn văn mà thiền sinh đã trình bày đó, chúng
tôi rất vui mừng với lòng, tôi thấy không đủ, hơn là giúp cho thiền sinh
3 năm tới đây thêm ý kiến gì về thiền. Nếu chúng ta cùng nhau có phước,
Tam bảo gia hộ tôi có thêm phần kiến thức để nhận rõ ý thiền. Như vậy,
danh từ nói thiền là để so sánh với các tên khác. Xưa nay người con Phật
thường đánh giá pháp môn nầy pháp môn kia hay pháp môn nọ, cũng như
những bài diễn văn nói tu thế này không điên, thế kia điên, tu thế này
dễ, tu thế kia khó. Như vậy, danh từ thiền là môn tự tu, tự nhận, tự
biết, tự chứng và tự giải thoát cho mình, không kèm theo những phương
tiện.
Bây giờ
tôi xin nói thẳng về lý do của thiền, tức là trực chỉ chơn tâm kiến tánh
Thành Phật. Tâm phải kiến tánh, tức là thấy chơn tâm của mình, mà tâm đó
tức là Phật. Như vậy ở đây, chắc quý vị đều có duyên với thiền thì không
ai có thể nhận rằng mình không có Phật, và cũng không ai đành phủ nhận
rằng mình phàm phu quá, chắc mình không có Phật. Không có lý đó. Như vậy
Phật ở đâu? Chúng ta nghe nhiều bộ kinh, đọc nhiều quyển sách và từng ăn
chay, từng cúng dường, từng làm các Phật sự, nhiều khi đem hết tâm lực
tài của để đi tìm Phật. Nhưng đến bây giờ tôi chắc rằng có một số ít mới
thấy được tánh Phật của mình, còn bao nhiều hình như không biết được nó
cũng như cho là ngoa (không thiệt chắc).
Hôm
nay, tôi cố gắng phần nào để chỉ ra cái lỗi đó. Tôi kể đoạn đối thoại mà
sau này Tổ thiền tông liệt vào công án. Trọng tâm bài giảng hôm nay chỉ
có điểm này, quý vị cố gắng nghe lại mình, xét lại mình, rồi từ lời nói
của tôi động với cái tâm suy xét đó. Trước khi nói, tôi hướng dẫn câu
chuyện, như người tập điều chỉnh những băng tầng radio, như rà đài mà
không biết bắt, rồi đi hỏi thăm người ta, mà người thì cũng chưa biết
cách dò tìm, mà ta chỉ coi trong họa đồ hoặc sách hướng dẫn, mình bắt
chước rồi cũng trật hoài. Vì sao? Trong kinh có chỗ nói đức Phật Thích
Ca đâu có tịch diệt mà hiện còn ở hội Linh Sơn đang thuyết pháp cùng
hàng Bồ tát..., nhưng đối với chúng ta thì không hề hay biết. Ví như đài
phát thanh hay truyền hình, lúc nào cũng có phát sóng, nhưng sóng điện
của ta chưa tương ưng nên không bắt được. Ðức Phật cũng thế, luôn luôn
hiện hữu nhưng tâm của chúng ta chưa khế hợp, do đó không thế hay biết
được. Ðể chứng minh điều đó, đức Phật nói Phật tánh mà tất cả chúng ta
đều có. Tất cả chúng ta đều có Phật tánh, do đức Thích Ca đã dày công 5
năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh, còn phải ngồi thêm 49 ngày mới nói câu:
“Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tại sao trầm luân”.
Tôi cố
gắng trong những lới nói hôm nay thử tìm chỗ đó, vô minh cũng từ chỗ đó,
mà trí huệ cũng từ chỗ đó. Vậy chúng ta đã nhận biết nó là vô minh rồi
thì phải lo diệt trừ nó. Ðã nhận biết nó là vô minh rồi mà còn cho đó là
trí tuệ sao? Chúng ta phải biết rằng kiếng (gương soi mặt) của chúng ta
đã nhiều năm không lau bụi và không biết cách lau. Ðức Phật vì chúng ta
chỉ cho cách lau và cho vải để lau nhưng chúng ta chỉ có một nùi giẻ đó
lau hoài, giống như người giặt áo mà không thay nước, cứ giặt hoài thì
áo không sạch, cũng như biết cách lau kiếng mà không chịu thay nùi giẻ.
Như vậy đến bao giờ kiếng mới sáng, áo mới sạch.
Bây giờ
tôi đưa ra một công án và tạm giải thích. Thuở xưa trong đoạn tu tâm
quyết, trong đó có một vị vua tên là Dị Kiến Vương hỏi thiền sư Ba La Ðề
Tôn giả: “Phật là gì?” Chỗ này quý vị cố
lắng nghe, nếu chúng ta lầm nghe qua chỗ khác, hoặc đọc trong sách cũng
được. Tất cả quý vị hôm nay có mặt trong đây ai cũng có đọc sách thiền
rất nhiều, Hòa Thượng viện chủ đã dịch ra tiếng Việt cũng không ít. Bây
giờ tôi có nói cũng là nói lại những việc mà quý vị đã từng đọc, từng
nghe rồi. Ở đây chúng tôi nhắc lại từng ý từng câu hơn là khi quý vị đọc
sách nhiều mà tâm còn bận rộn việc này việc nọ hoặc đọc sơ thì làm sao
hiểu. Còn khi tâm rất thanh tịnh sau 5, 6 năm và sau 49 ngày mới nói lên
được câu đó (Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh tại sao trầm luân). Còn
chúng ta đã ngồi được đêm nào chưa, mà cũng nghe cũng nói. Bây giờ tôi
lại thí dụ: Chúng ta 6 giờ tối đóng cửa 7 giờ sáng hoạt động thế này thế
khác, sáng nói lại chúng ta không biết gì hết, giống như nói chuyện ở
một thế giới khác vậy. Chuyện đó rõ ràng; còn như chúng ta tối ngủ sáng
dậy, những việc xảy ra ban đêm chúng ta không biết gì hết mà muốn biết
việc đó cũng đã là khó rồi. Trở lại việc hỏi đáp.
Tôn giả
đáp: Kiến tánh là Phật.
Vua
hỏi: Ngài kiến tánh chưa?
Tôn giả
đáp: Rồi (ý nói có Phật tánh).
Vua
hỏi: Vậy Phật tánh ở đâu?
Tôn giả
nói: Phật tánh ở nơi tác dụng.
Vua
nói: Tác dụng sao tôi không thấy?
Tôn giả
đáp: Có tác dụng nhà vua tự không thấy.
Vua
hỏi: Tôi có tác dụng không?
Tôn giả
nói: Tất cả việc nhà vua làm hằng ngày không việc gì mà không có tác
dụng. Nếu ông không có tác dụng thì thể cũng khó thấy mà thể khó thấy
thì ông vẫn trầm luân. Nhưng nếu ông không có thể thì tại sao đức Phật
nói: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”.
Vua
hỏi: Nếu có tác dụng, vậy khi phát hiện, nó hiện mấy chỗ?
Tôn giả
nói: khi phát hiện có 8 chỗ.
Vua
nói: Xin ngài nói tác dụng của 8 chỗ cho tôi nghe.
Tôn giả
nói: Nếu khi ở bào thai gọi đó là thân.
Khi ra
đời gọi đó là người.
Khi ở
mắt gọi là thấy.
Khi ở
tai gọi là nghe.
Khi ở
mũi thì nhà vua biết ngửi.
Khi ở
lưỡi thì nhà vua biết đắng, cay, chua, ngọt.
Khi ở
tay thì nhà vua biết co duỗi, cầm nắm.
Khi ở
chân thì nhà vua đi, đứng...
Nếu nói
công năng của nó rộng ra thì bao trùm cả tam thiên đại thiên thế giới,
còn nói hẹp thì nó chỉ bằng một vi trần.
Vì muốn
nói rõ thêm đoạn công án đó, các Tổ sau mới thêm bài kệ cho dễ hiểu hơn.
Dạ dạ
bảo Phật miên
Triêu
triêu tùy Phật khởi
Tọa lập
dữ tương tùy
Ngữ mặc
đồng cộng trụ
Dục tri
Phật hành xứ
Duy thị
thử ngôn dã.
(Tùng Duyệt Thiền Sư)
Tạm
dịch:
Ðêm đêm
ôm Phật ngủ
Ngày
ngày cùng Phật thức
Ngồi
đứng vẫn theo nhau
Nói nín
đồng chung ở
Muốn
biết chỗ Phật đi
Chỉ lời
nói này vậy.
Như
vậy, công án và bài kệ đó nói rõ lên rằng tất cả hành động của chúng ta
hằng ngày đều có Phật tánh ẩn trong đó. Nếu có Dụng thì luôn luôn có cái
Thể. Dụng ví như sóng mà Thể ví như nước. Sóng không thể rời nước mà có.
Một điều dễ hiểu, dễ nhận hơn mà chúng ta có thể suy tư được là chúng ta
hằng ngày, đói thì kiếm cơm ăn, khát thì kiếm nước uống, áo rách biết
thay áo khác; ai đói, ai khát, ai thương, ai ghét, ai buồn, ai vui, tất
cả việc làm của chúng ta từ cái nháy mắt, búng tay, đói khát.v.v.. đều
không phải có Phật tánh ẩn làm động cơ bên trong để nó có tác dụng bên
ngoài? Như vậy, muốn tìm Phật tánh ấy thì phải ngay nơi tác dụng hằng
ngày đó để tìm. Người tu như vậy thì làm sao sa vào ngoại đạo, làm gì
phải điên. Còn người sống ra ngoài mới bị cảnh ngoài làm điên, làm ăn
thất bại mất hết tiền của mới điên, hay bị ông chồng, bà vợ ngoại tình
mới điên. Còn người lo nội tâm thì làm sao điên được.
Con
người có một khả năng chỉ chiếm một mặt không ngoài thì trong, không
trong thì ngoài. Chúng ta trầm luân từ xưa đến nay vẫn còn đây là cũng
do bị vướng bận bên ngoài. Tất cả những việc khổ vui, buồn giận, thương
ghét đều bị vướng bên ngoài hết. Nếu chúng ta ngó lại bên trong của
chúng ta, rồi lo việc bên trong đó mới thấy việc bên ngoài không có giá
trị.
Ðã nói
rằng xưa nay con người mình quá khôn, quá lanh, quá thông minh, lên cung
trăng cũng được, lặn xuống biển cũng được. Do đó, tưởng rằng mình làm
được những việc mà đức Phật nói là Phật tánh của mình đã tìm thấy chớ
gì, hình như “Nó” cách vách mà mình không làm sao tìm được.
Bây giờ
xin trở lại, xin đảnh lễ ba vị thầy trò của Tổ sư ta và tôi nói thế này
là giúp các vị giải thích, đồng thời cũng làm tư lương để hiểu rõ tác
dụng như thế nào. Chính sự hiện diện của Tổ Hoằng Nhẫn là Tổ thứ năm, có
hai vị học trò đáng để chúng ta so sánh, cân nhắc, làm vốn liếng cho
chúng ta tu hành trong đời mạt pháp đương ở cái thời buổi văn mình của
ngoại quốc tràn ngập Việt Nam. Ngài Thần Tú thông minh tuyệt vời, còn
Ngài Huệ Năng thì không biết chữ, nhưng chúng ta cứ nói Ngài Thần
Tú thông minh tuyệt vời còn Ngài Huệ Năng thì không biết chữ, nói như
vậy là để cho yên mà thôi. Nếu chúng ta mãi cả đời tu hành là Phật tử,
mãi yên cái chuyện Ngài Thần Tú thông minh còn Ngài Huệ Năng không biết
chữ, cứ như vậy hoài e có lỗi với ba thầy trò đó. Vì sao có lỗi? Tại sao
không nói thêm thế này: Ngài Thần Tú chỉ thông minh trên chữ nghĩa văn
chương, về đạo lý thì không thông minh. Còn Ngài Huệ Năng thì trên hình
thức học hành, văn chương lại không thông minh mà trên đạo lý thì rất
thông minh.
Ðể
chứng minh việc đó cho rõ, nếu Thần Tú thông minh, sao cái buổi chiều
đó, Ngài Huệ Năng đang giã gạo ở nhà bếp, Tổ Hoằng Nhẫn đi xuống, lại
đứng trước cối giã gạo hỏi: “Giã mà gạo trắng chưa?”Huệ Năng thưa: “Bạch
thầy, trắng rồi mà thiếu giừng sàng”. Ý nghĩa nói rằng con giã gạo trắng
rồi mà còn thiếu điều kiện, không ai chỉ dạy để sàng cám ra cám, gạo ra
gạo mà thôi. Vừa nói câu đó xong, Tổ liền đưa gậy gõ vào cối ba cái rồi
chắp tay sau đít đi. Việc làm của hai thầy trò đó trong lúc ban ngày,
không phải ban đêm, lúc ấy Thần Tú còn đang ở trong chùa chớ không phải
đi vắng nhưng Thần Tú không biết gì hết. Ðến canh ba đêm đó, hai thầy
trò làm việc đó (truyền y bát), chắc quý vị đa số đều biết việc truyền y
bát đó. Ðến sáng lại Tổ không ra, Thần Tú mới vào thăm Tổ, chừng đó mới
hay là Tổ đã chứng nhận và truyền y bát cho Huệ Năng là Tổ thứ sáu. Khi
đó, Thần Tú mới cho người đuổi theo giành lại, thì sao nói Thần Tú thông
minh. Có phải Thần Tú chỉ thông minh trên văn chương thôi hay sao, còn
đứng về mặt ngộ đạo giải thoát thì Huệ Năng mới thông minh, mỗi người
thông minh một nẻo, nhưng hai sự kiện đó chúng ta phần nhiều ngày nay
chấp cái thông minh và đường lối của Thần Tú. Tại sao muốn học lối giải
thoát của Huệ Năng mà lại tham cái thông minh văn chương của Thần Tú,
như vậy có trái ngược với nhau không?
Bây giờ
tôi lặp lại, quý vị nên lưu ý, tất cả những việc tôi trình bày để chứng
minh công án, tất cả những hành động riêng của quý vị đây đều có tác
dụng mà tác dụng đó chính là Phật tánh cả. Tôi nói như vậy cũng còn là
mượn sách vở, cũng còn là ăn cắp sách vở, người nghe rồi cũng lại nô lệ
tôi, nô lệ sách vở luôn. Muốn vượt qua những trở ngại trên thì quý vị
nên lưu ý ở đây.
Tất cả
quý vị từ đây về sau, tùy trường hợp, mỗi vị phải khéo một chút, đừng
vội vã về đến nhà áp dụng làm liền công việc đó. Làm thế thì không đúng
thời tiết, không nhận được cái lý của Tổ mà tôi trình bày. Bởi khi đi
Vũng Tàu về mệt mà làm liền việc đó là sai; hoặc khi về gặp ông chồng
hay bà vợ rồi buồn phiền, cái buồn đó chưa cởi mở hết lại bắt đầu thực
tập áp dụng cái tác dụng hằng ngày đó cũng sai, không bao giờ việc đó
cho phép. Chúng ta hãy để một ngày nào đó, một đêm nào đó hay một thời
gian nào đó cảm thấy tâm hồn của ta lâng lâng, sảng khoái, trong lòng
được cởi mở tất cả những ràng buộc hàng ngày, sự chi phối từ gia đình,
xã hội, vợ con, tất cả đều được cởi mở, lúc đó ta ngồi ăn cơm hay uống
một tách trà, ta khoan thai không hấp tấp, không có cái gì làm bận rộn,
cái cũ bỏ đi, cái mới đừng chấp nhận chừng ba phút thôi, ba phút đó là
vàng. Thật ra, khéo cởi mở cái tôi vừa nói đó chừng một chút thôi, nhắm
một chút trà, nghĩ “Ai uống trà, cái gì biết mùi trà?” Nhớ, được
như trước mới được, không nên lúc đi về mệt rồi bảo người khác nấu nước
để chế trà làm như thầy dạy xem thử. Bởi lúc về mệt, những viễn ảnh của
Vũng Tàu còn đương ngự trị trong tâm mà uống trà thì làm sao biết được.
Hình ảnh quý báu tốt đẹp hôm nay, quý vị về chừng một tháng sau nhưng nó
vẫn còn lảnh vãng bên lòng, hễ giờ rảnh thì nó chạy về những hình ảnh
tốt đẹp của thầy mình, các vị nhập thất tu hành các việc, thấy nó hâm mộ
quá. Các chuyện đó cho dù lâu rồi nhưng bất kỳ lúc nào, hễ biết trong
lòng mình đã cởi mở hay nguội lạnh, dù những chuyện cố nhớ mà cũng không
nhớ và trong lòng chẳng còn mang theo thì mình tự biết chớ gì, còn nếu
Phật tử nào chưa biết gì thì khoan đã, nhưng cố làm rồi cũng trôi theo
sách vở, lại cũng thành ra lời nói tầm thường mà thôi không ích gì cho
chúng ta hết; đâu khác gì chúng ta được cho giống tốt, lại chỉ cho đủ
cách gieo trồng, nhưng khi về nhà rồi lại đem gieo liền, không chờ đủ
thời tiết nhân duyên rồi nói tại sao gieo nó không lên. Ðó là vì chưa có
đủ hoàn cảnh thuận tiện như đất, nước v.v... Chữ thuận tiện ở đây tức là
trong lòng mình chưa yên mà đem làm việc đó thì làm sao có kết quả tốt
như ý được. Như vậy là lỗi ở quý vị. Quý vị nhớ làm sao sống với thực
tại đó, dù cho chỉ trong một phút hay một giây, đừng trước một giây cũng
đừng sau một giây. Nếu trước một giây thì thuộc về quá khứ, sau một giây
thì thuộc về tương lai. Ngay trong phút giây hiện tại ta hiểu được ai
uống trà, ai biết mùi trà đó chính là nó (Phật tánh) rồi. Ta nghe được
danh mà chưa từng biết mặt, nếu ta lơ đểnh thì nó đi qua và như vậy lần
lần sẽ bị lờn đi. Lần đầu tiên nếu bị lờn rồi thì về sau khó kéo nói
lại. Lòng con người nó vẫn vậy, nó hay lờn công việc đó lắm, nhứt là
trong tâm mình bởi nó rất vi tế, cho nên mình dại gì chạy theo luân hồi,
mình thường nghe giảng, đọc kinh sách, làm Phật tử đàng hoàng mà tại sao
vẫn luân hồi sanh tử. Ai lại muốn khổ sở mà tại sao vẫn bị khổ sở, do
tạo nhơn khổ sở nên bị quả khổ sở, còn do làm việc luân hồi nên mới luân
hồi, chứ luân hồi, khổ sở đâu có ràng buộc, áp đảo ai bao giờ đâu. Mình
vô tình tạo khổ sở mà muốn sung sướng, việc đó được hay sao? Vậy ai tạo
khổ cho mình, ai áp đảo mình, nhưng khi bị khổ sở hay bị áp đảo thì kêu
Phật cứu hay Bồ tát cứu, cúng dường cho nhiều để mong được cứu rỗi. Thử
hỏi việc cầu cứu đó là cứu cái gì, mình không tự làm cho mình lại đi cầu
bên ngoài để cứu cho mình, việc làm đó có phải nhờ tha lực không? Ngay
trong giờ phút đó, chỉ trong cái tích tắc, nếu ta nhận ra nó thì đó
chính là Phật tánh. Chúng ta đã nhận ra được rồi thì cố gắng giữ một
chút, khi đó chúng ta hãy khách quan ngó ra ngoài coi có phiền não
không; có hờn giận vui buồn không. Không có phải không? Như vậy thì
chính nó chứ ai. Thử hỏi trong giờ phút suy tư đó có vui buồn, hờn giận,
thương ghét v.v... gì không? Chính mình còn không có huống là phiền não
nhiễm ô v.v... Nhưng tiếc vì nó là nó; lại bắt đầu vô minh ở đây. Mình
dặn nấu nước chế trà cho ngon, nhưng về hấp tấp, nó nấu nước không sôi,
không tráng bình trước đem chế ào vô, nhắm vô rồi hỏi: Ai uống trà đây?
Lại nhè mùi trà bay lên mũi lại nghe hôi khói liền áp rầy: “Ðứa nào nấu
nước, tao đã dặn nấu cho sôi sao để hôi khói vậy?” Chính ngay lúc đó vô
minh đã nhảy vô và lái mình chạy theo nó rồi. Uống trà như vậy và nghĩ
ai uống trà, lại nghe mùi trà không ngon rồi khởi lên cái ý chưởi mắng,
giận hờn. Ngay lúc đó trật rồi.
Trong
giây phút thôi, vô minh đó, phiền não đó, Bồ đề đó, Niết bàn đó, ngay
chỗ đó mà biết được sanh tử và Niết bàn; cũng ngay chỗ đó là phiền não,
là Bồ đề, là trí tuệ, là vô minh. Ta bảo uống trà, nghiệm coi: “Uống trà
đây là ai?” Theo thói quen uống trà thì ngửi mùi, rồi áp rầy đứa nọ đứa
kia. Do đó chư Tổ dạy Tam đề ngũ quán là vậy. Bởi vì cơm ta ăn để no,
nước ta uống để hết khát. Một mình ta không đủ điều kiện để phát huy
Phật tánh hay trí tuệ nên cần phải có công việc của thân tâm. Nếu không
như thế thì một mình nó sống với ai. Nếu không Tâm (là vô tâm không để
ý) thì quen cái tật, hễ ăn cơm lại chê ngon chê dở, nếu không vừa ý lại
giận hờn, bởi phiền não ở kế một bên nó áp vô liền.
Xin
nhắc lại, uống trà thì không cần biết mùi, ai đòi uống và uống cho ai.
Nếu uống cho thân thì lúc đó thân với tâm là một, tâm nhờ nơi thân – mà
lúc đó thân thiếu nước – còn thân nhờ nơi tâm, thân đói không làm được
việc cho vừa ý của tâm. Nếu cứ đói khát mà thành đạo thì đức Thích Ca đã
tuyên bố thành đạo lúc ốm đói 6 năm trước khi ngồi thiền định dưới cội
bồ đề. Việc đó dạy cho chúng ta một bài học mà chúng ta lại còn dẫm theo
dấu đó nữa hay sao? (Tức là thân ốm yếu thì tâm không yên) Cho nên tất
cả lỗi lầm đó đều do chúng ta sai một chút mà thôi.
Tôi xin
nhắc lại lần nữa, khi chúng ta uống trà cũng là tác dụng. Có tác dụng
nào của sóng mà lìa nước để có được hay không? Nếu gió lặn thì sóng yên.
Quý ví có thể nghiệm ngay trong khi ăn uống, còn ai giỏi hơn có thể áp
dụng ngay trong lúc xuôi ngược trong dòng đời; những việc vui buồn, ai,
vui, ai buồn mà giữa đời này việc gì đáng vui, việc gì đáng buồn, đáng
thương, ghét, nhớ, ai là người đáng vui, buồn, thương, ghét, nhớ. Nếu
người này đáng thương thì tại sao người kia đáng ghét... và chạy theo
nhớ thương, ganh ghét, giận hờn, hơn thua, phải quấy mà bỏ quên trọng
tâm mà động cơ chính đó là Phật tánh thường hiển lộ ở trong tác dụng,
chính tác dụng đó thường gây ra để làm thương yêu, ganh ghét, giận hờn,
buồn vui, phải quấy. Nếu quý vị suy tư được điều đó thì trong kinh Pháp
Hoa có đoạn nói: “Gã cùng tử không dám nhận mình” Bây giờ tôi đề nghị:
Mình là cùng tử thì nên nhận ngay rằng tôi là con ông trưởng giả đây,
nhưng còn đang dơ bẩn lắm, để tôi tắm rửa sạch sẽ rồi hãy vào nhà. Ðừng
như cùng tử trong kinh Pháp Hoa bảo rằng mình không phải là con để cho
ông cha mình phải cực khổ, nhớ thương, lại cho người gánh phân đi theo
làm bạn bao nhiêu năm. Bây giờ hãy nhận ngay rằng mình là con ông trưởng
giả đi nhưng còn dơ bẩn lắm, cần phải tắm rửa sạch sẽ rồi hãy vào nhà.
Chính mình là cùng tử là chính mình có Phật tánh, mình phải thay đổi
liền, mình ham cái việc nhận Phật tánh thì sẽ thành Phật. Như vậy, mình
hơn Ngài Huệ Năng là khi nhận được Phật tánh rồi ngài còn phải trốn
trong núi 16 năm, hơn ngài Huệ Trung tìm được tâm ấn rồi còn phải lên
núi 40 năm và còn hơn các vị khác nữa hay không. Khi nhận rồi thì tự
biết mình không phải dơ bẩn mà tại vì chạy theo phong trần quá lâu, bây
giờ cần phải tắm rửa sạch sẽ lại thôi. Có khi mình bị lầm, vì lúc nghe
thầy giảng thì đã nhận mình có Phật tánh, có thân, có đủ thứ hết. Như
con ông trưởng giả còn dơ bẩn cần phải tắm rửa sạch sẽ đã, chứ nhận là
con ông trưởng giả rồi vô nhà liền được sao.
Vậy,
ngay trong những hành vi hằng ngày của quý vị, tùy theo mỗi người có
hoàn cảnh khác nhau, nhưng tôi phải nói chung rằng: Sự ăn uống, vui
buồn, những vui buồn đó khó suy nghiệm vì bị vui buồn ám ảnh, chỉ có lúc
buông hết muôn duyên, lòng mình thấy lâng lâng giống như người ở trong
thiền thất, rồi uống trà hay mấy ông thì hít vài hơi thuốc, rồi nghiệm:
“Ai uống trà, ai hút thuốc đó?” mà đôi khi uống trà, đang hút thuốc
trong tích tắc ấy, quý vị nghĩ coi mình có phiền não, vui buồn, danh
lợi, giận hờn, thương ghét... gì không? Như vậy lúc đó là Phật tánh hiện
ra, cũng như gương được lau chùi, tìm trâu thì gặp trâu, nhưng lại không
tiếp tục lau, cũng như không chăn trâu thì chăn ai đây? Cho nên giữa chợ
đời văn minh này không khác nào đi tìm trâu mà gặp rất nhiều dấu con này
con kia, nếu không nhờ thầy chỉ ra dấu trâu có hai móng, cho dù có ham
tìm dấu nhưng gặp phải dấu bò, heo, dê... Tìm dấu là tìm chỗ đó, tìm
được dấu trâu rồi lo chăn, nếu được như vậy, chắc chắn ta sẽ không lạc
vào ngoại đạo, không bao giờ đi trùng vết. Tôi tha thiết xin quý vị bớt
duyên ngoài, hướng vào nội tâm, thì nhất định được kết quả tốt. Chúng ta
chỉ cần trong giờ phút nào đó nó trở về, có khi nó trở về trong buổi
sáng, trưa chiều hay trời nắng oi bức, không biết lúc nào. Còn các Thiền
sư thì nó về lúc:
“Tà
tà trăng lặn đầu non”
là lúc
trăng rằm, tức khoảng 3 giờ khuya, khi cảnh vật đang ngủ yên, các thiền
sư lúc đó đã dẹp hết ngoại cảnh, cảnh đã yên thì tâm cũng yên, còn mình
vì không dẹp được cảnh nên tâm không yên.
“Lạc
đàn con vượn véo von kêu sầu”
Con
vượn là ý của mình, nó chạy lăng xăng, bây giờ đã lạc đàn rồi. Nghĩa là
lúc này ý thức không còn nghĩ bậy. Do cảnh yên thì ý thức phân biệt
phiền não nhiễm ô ràng buộc đều yên. Con vượn là nói “Tâm viên ý mã”.
Tâm ý lúc đó không nghĩ bậy thì nó yên giống như thiền định vậy, như vậy
con vượn lúc ấy đã lạc đàn rồi còn gì. Ý thức thì hay chạy theo cảnh bên
ngoài.
“Dưới
đèn tàn thuở đêm thâu”
Chúng
ta thấy ngọn đèn dầu hay nến chỉ đứng yên được khoảng 2, 3 giờ khuya,
còn ban ngày lúc nào cũng bị chao đảo (bị ngoại cảnh cho phối) nên ngọn
đèn không thể đứng được. Còn cảnh trong nội tâm không còn nghĩ chuyện
này chuyện khác... tức là lúc con vượn lạc đàn, nghĩa là con vượn không
có cây để chuyền (nhảy nhót từ cây này sang cây khác). Chính là lúc
“Khách
thơ ngân ngợi vẳng đâu bên đồi”.
Khách
thơ có bao giờ ôm những phiền não vẩn vơ ràng buộc hay không? Khách thơ
ngày xưa thì 9, 10 tuổi (thần đồng) nhưng bây giờ thì chỉ còn 2, 3 tuổi;
ở tuổi này sống hồn nhiên, tự tại không biết phân biệt tốt xấu, hay dở,
chưa bị phiền não chi phối gọi là khách thơ. Nó ngân ngợi du dương, ngân
nga văng vẳng bên đồi nhưng không biết nó ở đâu mà vẫn chấp nhận nó đang
hiện hữu nên tìm kiếm nó (Tâm) mà tìm kiếm nó không biết ở đâu để tìm.
Cảnh ngoài đã yên, cảnh trong cũng yên, ý thức yên, Nó mới ngân nga lên,
nhưng ai biết nó ở đâu. Như vậy thì:
“Lúc
này ai rõ khúc nôi”
Khúc
nôi ở đây là chỉ người đó tự biết lấy. Nên lại nói:
“Có
ông sư cụ đứng ngồi trong mây”
Ðây
chính là sự sinh hoạt của Chân như, bản thể của tự tánh (ông sư cụ)
Chúng ta cố gắng làm cho ngoại cảnh yên, những chuyện lăng xăng bên
ngoài yên, rồi đèn lòng (tâm sáng suốt) cũng yên. Lúc đó ông (Tâm) mới
ca hát du dương. Nhưng đừng tìm kiếm ông vô ích, vì biết ông ở đâu mà
tìm, ai biểu tìm? Khi nhận ra ông rồi, nên lo trau dồi ông sáng thêm
lên. Ông thường hiện ra lúc tâm ta không còn dích mắc vào ngoại cảnh
(lúc cảnh ngoài, cảnh trong điều yên). Chính vì vậy mà đức Phật Thích Ca
thành đạo vào lúc canh ba, canh tư.
Chúng
ta không làm những chuyện sau (cảnh và tâm được yên) mà chỉ muốn chuyện
sau mau thành (tâm không yên mà muốn thành Phật). Việc làm đó khác nào
trong kinh Lăng Nghiêm nói: “Nấu cát mà muốn thành cơm”. Nếu mình làm
không được thì phải biết hối hận, ăn năn, không nên đổ thừa cho ai hết.
Tôi xin nhắc lại, nếu muốn uống trà thì phải suy ngẫm: “Ta là ai, ai đòi
uống trà đây?” Làm việc đó cũng giống như ngài Hương Nghiêm tham công
án: “Trước khi cha mẹ chưa sanh ra, ta là ai?” Có một câu đó thôi mà
phải cắt đứt duyên trần ở ẩn trong núi 5 năm.
Như vậy
ngay chỗ đó suy nghiệm được ngay trong tác dụng mà có Phật tánh, Phật
tánh tức là tác dụng, Phật tánh là Thể, cái biết suy nghiệm là Dụng,
cũng như nước sanh ra sóng, sóng từ nơi nước mà có, bỏ nước mà đi tìm
sóng thì không thể được. Còn nếu trước đó chừng bằng cái nháy mắt mà
nghĩ là ngon dở là đã qua vô minh, phiền não rồi. Khi bị vô minh áp vô
rồi thì la rầy đánh đập là hết chuyện. Ðó là chuyện của người khác làm.
Còn Phật tử thì đừng làm việc đó, mà phải trở về với chính mình, đó gọi
là “hồi quan phản chiếu” như trong kinh nói là “phản quan văn tự tánh”.
Khi được hai việc đó nghĩa là định huệ song tu, hay gọi là quán chiếu
song hành.
Tất cả
chư Tăng cũng như Phật tử hiện diện hôm nay, nếu quý vị làm được việc đó
thì tôi thành thật chúc mừng, quý vị thiền sinh nên lấy đó làm bài học.
Chính Hòa thượng Viện chủ hướng dẫn là để sau nầy ra làm giảng sư, hoặc
có nhập thất mà không thực hành. Bản hoài của Hòa thượng Viện chủ cũng
như của tôi và sự tha thiết cầu giải thoát của quý vị. Chúng tôi mong
quý vị lãnh hội được ý chỉ của đức Bổn Sư và những lời nhắc nhở của
chúng tôi mà cố gắng thực hành làm công việc đó. Có như vậy mới không
phụ công tu hành của mình, không phụ tánh linh của mình, không phụ ơn
Phật Tổ đã dày công truyền dạy, không phụ ơn Hòa thượng viện chủ mở lớp
dạy, và cũng không phụ ơn của đàn na thí chủ đã giúp đở ít nhiều để Hòa
thượng có phương tiện thực hiện những điều mà Hòa thượng muốn.
Tóm
lại, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa, Thiền tông đã chỉ rõ trong
“Thập mục ngưu đồ rằng “Theo dấu tìm trâu”, bây giờ chúng ta phải theo
dấu trâu để khỏi lạc vào dấu khác, vì giữa đường đời có biết bao nhiêu
dấu vết, ở ngã ba đường mà bước sai một bước là đã lạc đường rồi. Người
tu mà sai một chút là đã lạc vào vô minh, phiền não, là động, là trầm
luân v.v... Còn khi tìm được dấu trâu thì phải theo dấu tìm cho được
trâu, khi được trâu rồi phải chăn, vì không cột chăn thì nó sẽ chạy rong
mất; hể mất dấu là lạc vào vô minh. Bởi vì vô minh đã có từ vô lượng
kiếp đến giờ, cho nên khi bắt được rồi thì phải chăn (giữ). Ðến đây
chúng tôi xin dừng lại còn quý vị thì phải ráng lo làm việc đó đi.
Trước
khi dứt lời chúng tôi xin nguyện cầu Tam Bảo gia hộ cho tất cả chúng
hội, những người dù xuất gia hay tại gia, hãy sớm tìm được dấu và cố
gắng chăn để sớm được giải thoát.
Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Theo Dấu Chân Xưa
Kính tặng chư thiện hữu đồng
chí hướng “theo dấu chân xưa”. Xin quý vị xem nên dụng ý bỏ lời vì tôi
không quen cầm viết. Thành thật tri ân. (Ðặc san Theo dấu chân xưa, kỷ
niệm mùa Thành đạo PL.2515, xuân Nhâm Tý)
Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Tác đại
chứng minh.
Kính
lạy đức Thế Tôn! Chúng con thật vô phước quá! Sanh nhằm thời pháp nhược
ma cường, xa Phật cách Thánh quá lâu; chúng con nơm nớp lo âu vì sợ giáo
pháp của Ngài lần lần bị phai màu biến chất. Bởi người con Phật lầm nhận
phương tiện cho là cứu cánh; rồi chạy theo nghi lễ hình thức của các tôn
giáo và sắc thái xã hội hiện đại.
Kính
bạch Ngài! Nỗi thao thức lo âu trên chúng con chưa tìm được biện pháp
nào khả dĩ để cứu vãn cho thỏa đáng. Thêm vào đó, một thảm trạng quá bi
đát là khói lửa chiến tranh.
Chiến
tranh gây ra cảnh cốt nhục tương tàn, giang sơn sụp đổ, bi cảnh này đã
và đang sôi sụt tiếp diễn, chưa có một tia sáng hy vọng nào đến với quê
hương chúng ta, mà nguyên nhân thảm kịch này là do tam độc
Tham, Sân, Si của chúng sanh tạo
ra. Nói gần và thật tế hơn là do sự tham vọng điêu cuồng của kẻ mạnh. Vì
tham vọng chỉ một đời, vô tình tạo thành tội đọa nhiều kiếp, nên nói
rằng đó là tham vọng điên cuồng.
Kính
lạy Ngài! Hoàn cảnh khổ đau hỗn loạn hiện nay là một chướng ngại vật, là
một khúc quanh trầm trọng đưa chúng ta vào ngõ cụt, nó làm lạc hướng,
chùn chân và chặn bước tiến đối với đàn con đang tha thiết hướng tiến
theo dấu chân xưa, quay về nẻo cũ.
Kính
lạy Ngài! Hoàn cảnh đã là chướng ngại, còn về tâm tư chúng con tự xét
mình nghiệp chướng sâu dày, tâm lực kém cỏi.
Chúng
con không đủ đức tin để lãnh hội được diệu pháp trung đạo nhất thừa thật
tướng của Phật, để rồi trọn kiếp khổ nhọc tu hành chung quy cũng chỉ là
phàm tiểu, tà ngoại. Kết quả đã lạc hướng chân xưa rồi cũng lại quanh
quẩn trong ba nẻo sáu đường, mãi mãi đắm chìm trong bể khổ.
Kính
lạy đức Thế Tôn! mặc dầu cảnh có chướng, duyên có nghịch, tâm lực kém
cỏi nhưng chúng con không vì đó mà thối tâm hay dừng bước. Trái lại,
chúng con rất hân hoan và phấn khởi; vì chúng con khẳng định từ nhiều
kiếp qua rồi đã gieo trồng cội phước sâu dày, huân tập được chủng lành
vững chắc, tuy sanh nhằm đời ác trược, chúng con cũng hội đủ thiện
duyên, chánh tín xuất gia, hảo tâm phụng đạo, thấm nhuần được giáo pháp
đại thừa của Phật; giáo pháp đó như đám mưa nhứt vị bình đẳng thắm nhuần
làm tăng trưởng cho muôn loài cây cỏ. Pháp đó cũng là diệu dược trị lành
được tất cả chứng bệnh sai khác của chúng sanh. Lại cũng là một thức ăn
tinh thần siêu tuyệt, thỏa mãn được sự đòi hỏi của hạng người này đã
từng gục ngã, tuyệt vọng và lạc hướng trên nẻo đường tìm về pháp vị đó.
Cũng chính pháp vị đó mà một vị đại tiên như A Tư Ðà còn phải ngậm ngùi
rơi lệ vì tủi mình không đủ duyên chờ đợi để thưởng thức; lại cũng có
một vị sắp chứng quả vị trời tột đỉnh của tam giới như ông Uất Ðầu Lam
Phất còn tha thiết yêu cầu rằng: “Khi nào Ngài hoàn thành được pháp vị
đó thì Ngài thương xót ban bố cho con trước”. Nhưng cả hai đều bất hạnh.
Kính
lạy Ngài! Ðối với hai vị trên chúng con là kẻ hữu hạnh. Thật vậy, chúng
con tuy còn mang nặng nhiều chướng nghiệp, nếu chúng con tự giác một
niệm hồi quang thì chính lúc đó chúng con đã tận hưởng trọn mùi pháp vị.
Bởi pháp vị này được tầng lớp người trước chúng con nguyện từ bỏ cuộc
đời riêng tư, thật sự làm việc: “Tục Phật tuệ đăng, thiệu long Thánh
chủng” tương tục truyền thừa cho đến ngày hôm nay. Nhưng chúng con tủi
vì nghiệp lực quá nhiều đối cảnh, dụng tâm chấp tâm cố gắng theo dấu
chân xưa, nhưng càng đi càng thấy lạc dấu.
Chúng
con ngưỡng nguyện đấng Thế Tôn thùy từ gia hộ cho chúng con sớm vượt
khỏi lưới ma, đoạn trừ nghiệp hoặc, được có một đạo lực để chuyển phiền
não thành bồ đề, chuyển sanh tử thành niết bàn, sau đó lợi dụng phiền
não, sanh tử làm phương tiện để hướng dẫn chúng hữu duyên vượt sang qua
bên kia bờ giác, thẳng đến bảo sở trọn hưởng cảnh thường, lạc, ngã, tịnh
sẵn có của chúng con. Chừng ấy thật là tấc bước chưa dời mà dấu chân xưa
đã hiện. Cổ đức có câu:
“Muôn
xưa biết mấy nhiêu đàng,
Bây giờ
coi lại rõ ràng là đây”.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát
Sa Môn Thích Bửu Huệ
Nếp Sống Hướng Thượng
Huệ Nghiêm thể hiện bóng Lăng già
Thắng cảnh tồn tâm pháp độ tha.
Phún thủy ngư long bồi chúng đức
Trừng thần giả hạc dẹp quần ma
Thanh sơn chẳng ngại ngày mưa tuyết
Hải nguyệt đâu vì gió thoảng qua.
Tôn trí Kim Thân An dường địa
Huệ Nghiêm thể hiện bóng Lăng già.
Vu Lan - Kỷ Mùi 1979
H.T Thích Bửu Huệ
Kính Họa
Huệ Nghiêm ẩn hiện bóng Lăng già
Pháp Phật tùy Tâm để độ tha
Giới luật chuyên trì bồi chúng đức
Vô minh tận diệt dẹp bầy ma
Tâm không nào ngại gì mưa tuyết
Biển lặng can gì gió thoảng qua
Thong thả dạo chơi trong các địa
Lo gì chẳng hiện bóng Lăng già.
Vu lan – Tân Dậu 1981
Tỳ kheo Thích Nguyên Tâm
Song Dẫn
Tung tích người trâu chẳng thấy đâu
Lâng lâng muôn trượng bóng trăng thâu
Y này đoan tích ai hay được
Cỏ nội hoa ngàn mọc với nhau
Tặng Hòa Thượng T. Bửu Huệ khi
nhập thất
Thanh tịnh trước gìn một niệm đầu
Phong ba buồm lái phải lo âu
Tâm nương sáu độ nguồn tâm lặng
Nguyện giữ bốn hoằng bổn nguyện sâu.
Bửu giám lau trong soi cửa pháp
Huệ đăng khêu tỏ rọi nguồn tu.
Ngộ chơn bước khỏi vòng thanh sắc
Ðạo quả viên dung rõ nhiệm mầu.
Cư sỹ Thanh Phong tặng – 1954
Họa Vận
Bửu giám hằng lau ở buổi đầu
Huệ tâm đột khởi hết còn âu
Thành trì phiền não ngày mong lặng
Thật chứng Bồ đề đáp nguyện sâu.
Cám ứng máy huyền siêu vạn pháp
Ðạo giao cơ mật vượt muôn tu
Thanh vân một thệ lìa thanh sắc
Phong nguyệt thời gian chứng đạo mầu.
H.T.T. Huệ Hưng gởi H.T.T. Bửu
Huệ
2.11.1975
Thuyền
vừa đổ bến qua cơn sóng
Dẫu
biết bờ kia người lóng nhóng
Nhưng
thôi chầm chậm vội vàng chi
Chỉ có
bình tâm là việc chóng.
Chóng qua bỉ ngạn phải bình tâm
Ðừng để muôn duyên hoạt động ngầm
Bặt nẻo sắc thanh dừng ngựa ý
Thời gian một niệm ví muôn năm.
H.T Thích Bửu Huệ họa vận
Là
thuyền có bến sao lo sóng
Ðừng để
người thân phải lóng nhóng
Vội
vàng chầm chậm khác chi đâu
Vượt
sóng giương buồm cho việc chóng.
Muốn qua bỉ ngạn phải bình tâm
Nào ngại muôn duyên hoạt động ngầm
Công năng lưu chú không thành niệm
Sinh hoạt ngoài vòng tháng những năm.
H.T Thích Bửu Huệ
H.T. T. Thiền Tâm – Vô Nhất
Ðại Sư
Bên
đường xe tang buồn đi qua
Chiều
hôm mồ hoang sương trăng tà
Vô
thường đời trần thương ôi mau!
Người
đi rồi lần sang phiên ta.
Nghìn xưa xa vời trong mông lung
Tài hoa tan về nơi vô cùng!
Luân hồi không cầu đường siêu thăng
Dù cho hiền minh sao anh hùng.
Hoàng hôn mây hồng in non xa
Dung
hoa thầm khô theo suy già
Di Ðà chuyên tu phòng lâm chung
Tương tư mơ về trời liên hoa.
H.T T. Thiền Tâm gởi H.T T.
Bửu Huệ
Sống chết thạnh suy lý vẫn thường
Tuổi cao gần Phật bận chi thương
Sen thanh thơm thoảng tòa kinh Phạn
Trăng bạc soi ngần mái tóc sương
Phai khách viếng thăm phai tục vị
Ðậm câu trì niệm đậm liên hương
Nghìn tầm bặt dấu trâu người mất
Muôn trượng đài kim ánh tỏ tường.
Bất Huệ Nhơn – Vô Nhất
Năm 1988
H.T Vô Nhất gởi H.T Chơn Không
Chốn cũ Chơn Như lắm nẻo về
Ðường tuy có khác vẫn đồng quê
Trong Thiền có Tịnh trời Lư Lãnh
Nơi Tịnh gồm Thiền nước đọng Khê
Tiến bước nguồn tâm ngời nguyệt sáng
Quay nhìn bể tục ngát hương thề
Bao giờ học kẻ cười hoa được
Ðem ý sen lành rải bến mê.
Vô Nhất Ðại Sư
Cũng Một Mùa Xuân
Xuân đời
Xuân
đến thì ta cũng muốn cười
Nhưng
lòng lại ngại lắm xuân ơi!
Răng
long, tóc bạc, thân cằn cỗi
Vì bởi
xuân sang lắm độ rồi.
Vì bởi xuân sang lắm độ rồi,
Dẫu
cười chưa hẳn lại là vui
Trần vui sao lại cho là tục
Mới lọt lòng ra đã khóc rồi.
Mới lọt lòng ra đã khóc rồi
Khóc vì thế sự lắm đãi bôi
Khóc cho số phận trầm luân mãi
Lăn lộn vào ra mấy kiếp rồi?
Xuân đạo
Ta muốn, xuân nào ở mãi ta
Thì xuân đạo lý ở đây mà
Tâm thanh, thân tịnh màu xuân sắc,
Cảnh lặng vật yên vẻ đậm đà
Xuân chẳng lại đi xuân bất diệt
Sắc khôn dời đổi sắc không pha
Hỡi ai tận hưởng xuân muôn thuở?
Xuân lại lòng ta thiệt chẳng ngoa.
H.T Thích Bửu Huệ
Xuân với lòng tôi
Mấy
xuân qua lòng tôi như tan nát
Khi
xuân về rào rạt suốt canh thâu
Ðêm
giao thừa chồng chất nỗi đâu sầu
Tiếng
chuông mõ át đi lòng thảm não
Tụng
cứu khổ chưa tan tâm cường bạo
Niệm từ
bi xương máu vẫn còn rơi!
Mỗi
xuân qua đầu óc vẫn tơi bời
Vì xuân
đến đầy đau thương tang tóc
Lòng
cảm nghĩ con người sao quá ác
Cứ bạo
tàn xây đắp cuộc vinh thân.
Xuân Bính Ngọ mang về nguồn vinh hạnh
Với xuân lòng bao lạc cảnh hân hoan
Trải bao năm ly tán cửa nhà tan
Mong đoàn tụ vui xuân tình xiết kể.
Xuân thanh bình mới lấp hố thê lương
Mùa quang đãng trời xuân đầy nhựa sống
Người Phật tử thỏa lòng bao nguyện vọng
Vì sanh linh thoát khỏi mộng tham tan
Ðể cùng nhau xây dựng kiếp vinh quang
Và sống mãi trên con đường tự giác.
Lòng cứu khổ hỡi người con phiêu bạt
Chí đại hùng vẫn tan tác từ lâu
Hãy chung vai sát cánh mối tương đầu
Cùng thực hiện nền tự do bác ái
Nguyện thanh bình trời xuân sẽ mang lại
Hiện vui còn xa tít với quần sanh
Bởi trần gian còn đầy dẫy bất công
Người Phật tử thấy mình bao nhiệm vụ
Rồi đây phải kiên gan cùng tiến thủ
Dù gian truân với bão vũ không nao
Lòng độ sanh nhất quyết cũng trước sau
Ðến nhân loại hưởng thanh bình an lạc
Giờ vui ca trong nguồn vui Chánh giác
Khi giống nòi thành một khối yêu thương.
H.T Thích Bửu Huệ