Thiện Phúc
---o0o---
Phần
6
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên
7:00 giờ sáng ngày 7 tháng 12, đoàn thăm viếng
tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana-vihara), tháp Vô Não và phế tích ngôi nhà của
ngài Cấp Cô Độc.
Trong thành Vương Xá, kinh đô của xứ Ma Kiệt Đà
có Trúc Lâm Tịnh Xá, được một vị quân vương Phật tử gương mẫu như Bình Sa
Vương dâng cúng cho Đức Phật và Tăng đoàn, thì trong thành Xá Vệ, thuộc xứ
Câu Tát La (Kosala), một vị đại thí chủ tại gia tên Tu Đạt cũng mang hết
tiền hết của, hết công, hết sức ra dâng cúng cho Đức Phật và Tăng đoàn khu
Tịnh Xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độ Viên, mà lịch sử của tự nó đã nói lên hết tấm
lòng của một người Phật tử gương mẫu.
Chính tại hai nơi này là hai nơi mà Đức Phật lưu
lại lâu nhất trong các kỳ an cư kiết hạ. Và cũng chính tại hai nơi này,
Đức Phật đã tuyên thuyết những bài kinh cực kỳ quan trọng trong giáo
thuyết Phật giáo. Mặc dù đã bị thời gian tàn phá, khu tịnh xá Kỳ Viên vẫn
còn là một nơi khá lý tưởng, khí hậu ôn hòa, không nóng, không lạnh lắm,
không khí thoáng mát và tỉnh lặng. Khi chúng tôi đến nơi bình minh vừa ló
dạng, những tia nắng đầu ngày hãy còn dễ chịu. Bước vào khu vườn lòng
chúng tôi cảm thấy khoan khoái lạ thường, cảm tưởng như đâu đây Tăng đoàn
và Đức Phật hãy còn đây. Tiếng gió xào xạc trên cành cây kẽ lá mà lòng tôi
liên tưởng như mình đang được nghe tiếng pháp âm từ Phật hay chư Thánh
Tăng của thuở xa xưa. Chúng tôi tự nghĩ, từng bước chân đi qua, từng tiếng
gió xạc xào đều gởi trao cho chúng tôi một ý nghĩa cao siêu sâu sắc nào
đó. Tiếng niệm Phật đều đều của cả đoàn càng khiến tôi liên tưởng là mình
đang sống ngay trong thời của Đức Phật mấy ngàn năm về trước.
(Phế tích đào được về Kỳ Viên Tịnh Xá
do ngài Cấp Cô Độc dâng cúng lên Phật
và chư Tăng trong thành Xá Vệ—Sravasti)
Theo sự thuyết minh của sư cô Liên Phụng, thì
vào năm thứ hai sau khi Đức Phật thành đạo, trong khi Phật đang ngự tại
Trúc Lâm Tịnh Xá bên xứ Ma Kiệt Đà thì có một vị trưởng giả Bà La Môn giàu
có đến ra mắt Đức Thế Tôn. Đó là ông Tu Đạt (Sudatta), một tín đồ Bà La
Môn tốt bụng tại thành Xá Vệ (Sravasti), thường hay giúp đỡ người nghèo,
nên được người đương thời gọi ông là “Cấp Cô Độc” (Anathapindika), có
nghĩa là người nuôi dưỡng trợ cấp những kẻ cùng khổ. Hôm ấy ông có việc
đến thành Vương Xá để thăm một người anh rể, nhưng ông anh rể không ra tận
cửa trước đón ông như mọi khi. Đến khi ông vào nhà và đi ra tận nhà sau
thì thấy mọi người đang bận rộn chuẩn bị một bữa tiệc. Hỏi ra mới biết là
gia đình người anh rể đang chuẩn bị đón tiếp Đức Phật vào ngày hôm sau.
Vừa nghe đến tiếng “Phật” là lòng ông cảm thấy một niềm hoan hỷ lạ thường,
nên từ đó ông cũng mong mỏi gặp được Phật để thấy tận mắt xem sao, mà mới
vừa nghe nói tới là lòng đã thấy an lạc như vậy, tuy nhiên bên cạnh đó là
một nỗi nao nức muốn gặp mặt Phật càng sớm càng tốt. Ông tự nghĩ dù sao
thì ngày mai Phật cũng tới đây, rồi mình sẽ gặp thôi chứ có việc gì mà
phải nôn nao? Rồi ông lên giường ngủ, nhưng không thể nào chợp mắt. Thế
rồi nửa khuya đêm ấy, ông một mình băng rừng đi đến khu rừng Sitavana, nơi
Đức Phật đang ngự. Khi ông tới rừng Sitavana thì cũng nhằm lúc Đức Phật
đang ra tọa thiền ngoài trời, vì biết rằng ông sẽ tới. Đức Phật gọi ông
bằng tên tộc ‘Sudatta’ và bảo ông đến gần. Trưởng giả Tu Đạt rất lấy làm
hoan hỷ khi được diện kiến Đức Phật. Và sau một thời pháp của Thế Tôn, ông
đã xin quy-y Phật, rồi sau đó cả nhà ông đều xin quy-y với Đức Thế Tôn.
Sau đó ông thỉnh Phật sang nước Xá Vệ hoằng hóa. Khi trở về thành Xá Vệ,
ông đã tìm mua một thửa đất thích hợp cho Đức Phật và Tăng đoàn, nhưng tìm
mãi chỉ thấy có khu vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà là thích hợp nhất
mà thôi. Theo truyền thuyết Phật giáo thì Thái tử Kỳ Đà vì không muốn bán
khu vườn của mình nên nói khích trưởng giả Tu Đạt: “Nếu ông có khả năng
xếp phủ đầy vàng trên khu vườn thì nó sẽ thuộc về ông.” Tưởng rằng nói như
vậy sẽ khiến cho trưởng giả Tu Đạt thối chí, và thấy Tu Đạt đang trầm ngâm
suy nghĩ điều gì. Thái tử Kỳ Đà cho rằng Tu Đạt đã thối chí nên nói lời an
ủi: “Nói vậy chứ đây là khu vường hượng uyển của phụ hoàng ta ban cho,
rộng rãi bao la thì vàng ở đâu mà lót cho đủ!” Nào ngờ trưởng giả Tu Đạt
bằng lòng mua ngay và hẹn ngày mai sẽ đem vàng đến phủ đầy vườn. Thưa
ngài, “Sở dĩ lúc nãy tôi có phần suy nghĩ là vì không biết phải sử dụng
vàng ở kho nào cho vừa đủ lót khu vườn và những cây của ngài trong khu
vườn này mà thôi.” Bấy giờ Thái tử Kỳ Đà muốn rút lời lại cũng không phải
là dễ. Đúng hẹn hôm sau trưởng giả Tu Đạt cho gia nhân chở vàng đến lót
đầy khu vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà. Lúc ấy trong lòng thái tử Kỳ
Đà không muốn bán khu vườn này, nhưng sau khi biết rõ tấm lòng của ngài
Cấp Cô Độc, mua khu vườn dùng để kiến tạo Tịnh Xá cho Phật và Tăng đoàn,
chẳng những ông đã bằng lòng bán đất, mà còn dâng cúng những cây trong
vườn để làm bóng mát tịnh xá cho Đức Phật và Tăng đoàn, và hiệp sức với
ông Cấp Cô Độc lo việc xây dựng khu tịnh xá này. Chính vì thế mà khu vườn
này có tên là “Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên.” Sau đó trưởng giả Tu Đạt kiến tạo
và cúng dường ngôi tịnh xá Kỳ Viên lên Đức Phật và Tăng đoàn làm nơi tịnh
tu và thuyết giảng cho dân chúng trong vùng. Khu vườn Kỳ Thọ ngày nay nằm
trong vùng Balrampur.
Cây Bồ Đề A Nan trong Vườn Kỳ Thọ
(Cây Bồ Đề A Nan trong Khu Phế Tích Tịnh Xá Kỳ Viên)
Trong thời Đức Phật, Xá Vệ, mà ngày nay người ta
gọi là Sahet Maheth, là một trong những kinh thành nổi tiếng trù phú,
dân cư phồn thịnh, do vua Ba Tư Nặc trị vì. Vào năm thứ ba sau khi thành
đạo, Đức Phật đã đến đây hóa độ cho vua Ba Tư Nặc và quần thần tại Xá Vệ
Quốc. Và cũng chính nơi này Đức Phật đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ, và
chính nơi này Đức Phật đã thuyết giảng những bộ kinh lớn như A Hàm, Kim
Cang, vân vân. Ngày đó, khi Đức Phật về an cư tại đây thì Ngài thuyết
pháp, khi Ngài đi hoằng hóa thì các vị đại đệ tử của Ngài thay nhau thuyết
pháp cho dân chúng trong thành. Theo truyền thuyết Phật giáo thì khu vườn
Kỳ Thọ Cấp Cô Độc là khu tịnh xá yên tịnh và đẹp nhất thời bấy giờ. Chính
vì vậy mà Đức Phật và Tăng đoàn đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ tại đây.
Giờ đây khu tịnh xá chỉ còn trơ lại những nền tháp đổ nát, đây là nền
hương thất của Đức Phật, còn kia là Tăng phòng, phòng tắm và giếng nước.
Tất cả đã hoang tàn đổ nát, thời huy hoàng nào đó của Kỳ Viên Tịnh Xá chỉ
còn lại trong tâm tưởng của những người con Phật về sau này mà thôi.
Hiện nay trong khu Tịnh Xá Kỳ Viên, gần cổng ra
vào, chỉ còn lại cây Bồ Đề của ngài A Nan là còn nguyên vẹn, nhưng cây
cũng đã quá già và chắc không còn sống được bao lâu nữa, vì thế mà người
ta rào lại một cách cẩn thận. Thân cây tuy đồ sộ, nhưng nhìn toàn cảnh
chúng ta thấy hình như cây toát ra một dáng vẻ thiêng liêng khó tả. Theo
truyền thuyết Phật giáo, cây Bồ Đề ở đây chính là cây Bồ Đề mà Ngài A Nan
đã cho chiết nhánh từ cây Bồ Đề mẹ ở Bodhgaya để chư Tăng Ni chiêm bái mỗi
khi về đây đảnh lễ và tưởng nhớ Đức Phật những khi Ngài không có mặt tại
nơi này. Sự tích của cây Bồ Đề trong Vườn Kỳ Viên này cũng bắt nguồn từ sự
thỉnh cầu của ngài Cấp Cô Độc (Anathapandika), một đại thí chủ của Tăng
đoàn và Đức Phật thời bấy giờ, người đã trải vàng đầy đất để mua cho bằng
được khu vườn: “Bẩm Đại Đức A Nan, bấy lâu nay Đức Thế Tôn bận châu du
hoằng hóa phương xa và chỉ về đây ẩn cư trong mùa mưa mà thôi. Các thiện
nam tín nữ từ phương xa đến đây vấn an Đức Phật thường mua hoa quả cúng
dường. Trong những lúc vắng Phật các vị ấy chỉ biết đặt hoa quả trước tịnh
thất của Ngài rồi ra về. Xin Đại Đức bẩm Phật xem coi có nên lập tháp cho
thiện nam tín nữ đến cúng dường khi Đức Phật đang châu du hoằng hóa phương
xa hay không. Đức Phật không cho làm như vậy, nhưng Ngài nói nếu thiện tín
muốn tưởng nhớ Phật khi không có Phật tại đây, thì cây Bồ Đề khi xưa đã
che mưa chở nắng cho Phật chính là vật xứng đáng cho chư thiện tín lễ bái
cúng dường, dầu Phật còn tại thế hay nhập diệt. Thật vậy, cây Bồ Đề, một
loại cây bình thường trên xứ Ấn đã trở thành một biểu tượng quí báu của
Phật giáo từ khi nó che mưa chở nắng cho Đức Phật trong cuộc thiền định
chiến đấu với ma quân. Dù là loài cây vô tri vô giác, nhưng với công đức
trợ giúp Đức Phật thành đạo, nó đã xứng đáng cho Ngài ngoái nhìn về trong
suốt một tuần lễ không nháy mắt, thì quả tình nó xứng đáng được chư thiện
nam tín nữ lễ bái cúng dường khi không có Đức Phật hiện diện. Sau khi nghe
lời Đức Phật giảng giải về công đức của cây Bồ Đề, A Nan bèn bạch Phật:
“Bẩm Đức Thế Tôn, ngay tại Kỳ Viện Tịnh Xá này, khi Ngài đi hoằng hóa
phương xa, thiện nam tín nữ đến đây không biết nương vào đâu để lễ bái
cúng dường, thì con phải làm sao?” Đức Phật biết A Nan đang nghĩ gì, nhưng
Ngài vẫn hỏi: “Này A Nan, nếu vậy thì ông giải quyết thế nào?” A Nan bẩm
Phật: “Bẩm Đức Thế Tôn! Xin Ngài hoan hỷ cho con đem hột Bồ Đề từ cây Bồ
Đề nơi Bồ Đề Đạo Tràng, nơi Thế Tôn đã thành đạo mang về đây trồng trước
cửa tịnh xá.” Đức Phật đồng ý: “Được lắm A Nan! Hãy trồng cây Bồ Đề tại
đây và hãy nói với chư thiện nam tín nữ là ta luôn hiện diện dưới cội Bồ
Đề này.” Sau khi ngài Mục Kiền Liên đem hạt Bồ Đề về đến Kỳ Viên Tịnh Xá
thì A Nan dâng nó lên vua Ba Tư Nặc để vị này ban cho ông Cấp Cô Độc gieo
trồng nó trước cổng Tịnh Xá Kỳ Viên. Từ đó cây Bồ Đề này được đặt tên là
Ananda. Mà thật vậy, cây Bồ Đề này từ thuở hồng hoang đến nay, cây Bồ Đề
nguyên thủy đã nhiều lần bị ngoại giáo bách hại, tuy nhiên, lần nào nó
cũng được cứu sống, hay trồng lại cây con của chính nó. Có lẽ cây Bồ Đề
hiện tại là cháu chắt nhiều đời của cây Bồ Đề A Nan, nhưng chúng được gieo
trồng ngay tại địa điểm nguyên thủy của nó. Và trải qua bao ngàn năm nay,
đã là nhân chứng quan sát không biết bao nhiêu là khách hành hương qua
lại. Chính nó đã từng nồng nàn tiếp đón đại đế A Dục năm xưa, rồi bây giờ,
chúng tôi cũng được nó tiếp đón một cách nồng nàn không sai khác, bao
nhiêu chiếc lá rơi là bấy nhiêu cảm xúc kính ngưỡng trào dâng trong lòng
chúng tôi. Tiếng cành lá Bồ Đề chạm gió xạc xào làm tôi liên tưởng đến một
thứ mật chú của Đức Phật và chư Thánh Tăng. Bồ Đề là một loại cây rất
thông thường bên xứ Ấn Độ, vì nó mọc hầu như khắp nơi từ Bắc chí Nam ở Ấn
Độ, nhưng dưới mắt chúng tôi, cây Bồ Đề ở đây không tầm thường như những
cây Bồ Đề khác, ngược lại, nó mang một ý nghĩa thật cao quý và được hàng
Phật tử chúng tôi nâng niu từ hàng ngàn năm qua, vì mỗi khi nhìn thấy nó,
dù chỉ qua hình ảnh, là lòng chúng tôi đều tưởng nghĩ đến Ngài A Nan, một
thị giả trung thành của Đức Phật, một con người có trí nhớ siêu phàm.
Chính nhờ con người ấy mà bây giờ hàng hậu bối chúng tôi mới có được “Tạng
Kinh” làm hành trang cho cuộc đời tu tập hướng thượng ngày nay. Theo lịch
sử Phật giáo, ngài A Nan Đà, em con chú bác với Đức Phật. Ngài là con của
Amitodana, hoàng đệ của vua Tịnh Phạn. Ngài cũng thuộc dòng dõi vương tôn
công tử. Ngài đã được sanh ra và lớn lên trong cung vàng điện ngọc, cũng
như người anh họ của mình là Thái Tử Tất Đạt Đa thuở trước, không có thứ
gì ngài muốn mà không được thỏa mãn, thế nhưng ngài đã từ bỏ tất cả để
sống đời cô thân vạn lý du như Đức Phật. Tấm gương xuất gia tu hành của
ngài cũng rạng ngời như những vương tôn công tử trong dòng họ thời bấy giờ
như Nan Đà, A Nậu Lâu Đà, vân vân. Hai năm sau khi Đức Phật thành đạo, A
Nan Đà cùng với năm vương tôn công tử khác của dòng họ Thích Ca đã đến gặp
Phật xin xuất gia. Và sau khi nghe thời pháp của ngài Phú Lâu Na, Đại Đức
A Nan Đà đã chứng quả “Nhập Lưu”, một trong tứ Thánh quả. Mười tám năm sau
ngày xuất gia, A Nan Đà được các vị đại đệ tử của Phật đề nghị cho đi theo
làm thị giả cho Đức Phật vì ngài A Nan Đà có trí nhớ siêu phàm, có thể
trùng tuyên lại những lời Phật dạy. Rồi từ đó mãi đến hai mươi lăm năm về
sau này, nghĩa là cho đến Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài A Nan Đà luôn theo
từng bước chân Phật. Ngài luôn quan tâm chăm sóc cho sức khỏe của Phật.
Ngài phục vụ Đức Phật không kể ngày đêm. Tuy nhiên, ngài A Nan chỉ chứng
quả A La Hán sau khi Đức Phật nhập diệt, khi các Thánh đệ tử và Tăng đoàn
khởi đầu cuộc kết tập kinh điển đầu tiên mà không ai cho ngài tham dự vì
ngài chưa chứng quả A La Hán. Chính vì thế mà ngài quyết tâm thiền định và
chứng quả ngay trong đêm ấy để được cho dự vào cuộc kết tập kinh điển, mà
ngay từ đầu không thể thiếu ngài, vì nếu thiếu ngài thì không cách chi
cuộc kết tập này có được “Tạng Kinh” mà chúng ta đang có ngày hôm nay.
Chúng tôi quây quần quanh Hòa Thượng Thích Giác Nhiên để tụng một thời
kinh cầu an dưới cội Bồ Đề A Nan. Sau đó, sư Minh Thành đã ôn lại, chính
ngay chỗ này hình ảnh của Đức Phật và Tăng đoàn ngày xưa. Tăng chúng đã
quây quần xung quanh Đức Phật để nghe Ngài thuyết giảng, cũng giống như
chúng ta quây quần bên vị Pháp Chủ Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới hôm nay, cùng
chiêm bái và đảnh lễ cội Bồ Đề, cùng ôn lại những lời Phật dạy qua lời
thuyết pháp của Hòa Thượng, và cùng nguyện vâng giữ những lời Phật dạy như
lúc Ngài còn tại thế. Sau đó cả đoàn cùng đi nhiễu vòng quanh cây Bồ Đề,
tiếng niệm Phật phát ra âm vang đều đặn khiến lòng chúng tôi cảm thấy
thanh thản lạ thường, và tôi lan man mường tượng tới không khí sinh hoạt
của Tăng đoàn của Đức Phật ngày đó, chắc cũng với một niềm cảm xúc lâng
lâng như chúng tôi bây giờ. Sau đó chúng tôi tiếp tục thăm viếng các nền
phế tháp trong khu Kỳ Viên. Bên trong khu Tịnh Xá Kỳ Viên hãy còn khu phế
tích của một ngôi chùa. Theo truyền thuyết Phật giáo thì đây là ngôi chùa
thiêng liêng nhất, do chính ông Cấp Cô Độc xây dựng lên để làm nơi thường
trú cho Đức Phật. Mặt tiền của nền chùa hãy còn hai bệ gạch xây trên con
đường mà ngày trước Đức Phật thường dùng để đi kinh hành, gần đó có một
pho tượng của một vị Bồ Tát, trên tượng có bia ký có niên đại khoảng thế
kỷ thứ nhất sau Tây Lịch, nói rằng tượng này được dựng lên bởi ngài Bala
dưới triều vua Kushan, tại chỗ Đức Phật thường đi kinh hành. Trong Đại
Đường Tây Vực Ký, ngài Huyền Trang cũng có nhắc tới bức tượng của vị Bồ
Tát này. Sau đó, chúng tôi đi qua khu tịnh xá lớn nhất trong Vườn Kỳ Viên,
nằm về phía Tây, gồm có một nền tháp của điện thờ Phật, một cái giếng ở
giữa sân, và một số trụ đá lớn, được dựng đi dựng lại nhiều lần trên nền
cũ. Tại một khu tịnh thất trong tịnh xá này có đào lên được một miếng đồng
có khắc những dòng chữ sau đây: “Thái tử Govindachandra xứ Kanauj, năm
1130 sau Tây Lịch, có để dành lợi tức của một vài chùa quanh thành Xá Vệ
để cung cấp cho Tăng đoàn trong Tịnh Xá Kỳ Viên.” Nhờ miếng đồng này mà
người ta tìm được vị trí đích xác của khu Kỳ Viên sau này.
Theo truyền thuyết Phật giáo thì chính vua Ba Tư
Nặc, trị vì Xá Vệ Quốc, là người đầu tiên đã thỉnh cầu Đức Phật cho phép
tạc tượng của Ngài để mỗi khi Ngài đi hoằng hóa phương xa, thiện nam tín
nữ có nơi có chỗ đảnh lễ và nương tựa.
Còn nhiều truyền thuyết Phật giáo cũng như dân
gian khác đã xảy ra tại thành Xá Vệ. Chính tại thành Xá Vệ, sau khi thất
bại trong cuộc tranh luận với Đức Phật, ngoại đạo đã để tâm trả thù bằng
cách mướn người giết một phụ nữ rồi vùi xác dưới một đống rác gần Kỳ Viên
Tịnh Xá để vu oan cho Đức Phật. Nhưng nhờ oai lực của Phật mà về sau này,
chính người được ngoại đạo thuê giết người đã khai thật với quan quân sở
tại, càng làm lộ rõ bộ mặt sát nhân của ngoại đạo. Cũng tại thành xá Vệ,
vì uy tín của Đức Phật ngày càng lên cao nên ngoại đạo đã tìm cách hãm hại
Ngài bằng cách vu khống. Họ mướn nàng Cinca mỗi ngày đi đến Tịnh Xá Kỳ
Viên như nhiều tín nữ khác đi chùa làm công quả vậy. Đến một hôm, nàng
mang một cái bụng bầu đến giữa đám đông, la toáng lên rằng chính Đức Phật
là tác giả của cái bầu này. Nàng hết lời chưởi rủa thậm tệ. Đức Phật cứ
thản nhiên chịu đựng những lời chưởi rủa ấy. Tương truyền ngay lúc ấy vua
trời Đế Thích không chịu đựng được nữa nên ông đã hóa ra làm một con chuột
nhắt, chung vào bên trong lớp áo của nàng Cinca và cắn cho rớt xuống đất
khúc gỗ độn trong bụng. Mọi người lấy làm tức giận xua đuổi nàng Cinca ra
ngoài hoặc muốn hành hung nàng, nhưng Đức Phật không cho. Ngài dạy: “Lấy
oán báo oán, oán thêm chất chồng, chứ không bao giờ đi đến hòa bình an lạc
được. Sân hận không bao giờ dập tắt sân hận, chỉ có tâm từ mới diệt lòng
sân hận mà thôi.” Sau đó nàng Cinca được cho ra về một cách an nhiên,
nhưng theo truyền thuyết Phật giáo thì khi nàng vừa ra khỏi Tịnh Xá một
đỗi là bị đất sụp mà chết. Tục truyền nơi nàng bị đất rút hiện nay là một
cái ao sen. Đoàn chúng tôi được thầy Minh Thành chỉ cho xem ao sen bên
ngoài tịnh xá Kỳ Viên.
Tại thành Xá Vệ, ngoài ông Cấp Cô Độc còn một nữ
đại thí chủ khác tên là Tỳ Xá Khư (Visakha). Do có nhân duyên bà được gặp
Đức Phật, nghe Ngài thuyết giảng và xin được quy-y Phật.
Sau đó chúng tôi tiếp tục thăm viếng những nền
tháp trong Vườn Kỳ Thọ, đó là những phế tích của những ngôi tịnh thất của
các vị Thánh Tăng trong tịnh xá Kỳ Viên. Chúng tôi đi qua từng nơi mà cảm
thấy lòng mình như chùng xuống vì cảnh hoang tàn của toàn khu tịnh xá. Mới
ngày nào đây Phật và Thánh chúng đã trải qua 24 mùa an cư kiết hạ tại đây,
mà bây giờ, ôi vật đổi sao dời, tịnh xá xưa kia đâu không thấy mà chỉ còn
trơ lại những nền đá vụn vỡ. Khi đã ra khỏi khu vườn Kỳ Viên mà những câu
tự hỏi về số phận của khu Kỳ Viên cùng các Thánh tích Phật giáo khác. Tại
sao số phận của Phật giáo trên đất nước này lại hẩm hiu đến như vậy? Tại
sao một triết lý Phật giáo sáng ngời đã từng làm lu mờ hoàn toàn triết
thuyết cứng nhắc bất công như triết thuyết Bà La Môn lại không được người
ta hoan nghênh? Tại sao một tôn giáo có một thời, trải qua hàng chục thế
kỷ được các vương triều Ấn Độ bảo trợ và phát triển lại bị mai một ngay
trên cái nôi sanh ra nó? Rất nhiều câu tự hỏi được đặt ra trong đầu, nhưng
không có lấy được một câu trả lời xác thực nào ngoài những suy nghĩ lan
man về sự trả thù của Bà La Môn, một tôn giáo vừa khởi dậy sau mười mấy
thế kỷ suy tàn, rồi sự tàn bạo về cả lý thuyết và thực tế của một tôn giáo
vừa mới được thành lập ở vùng Trung Cận Đông. Chính tôn giáo ấy đã tàn phá
toàn cõi xứ Ấn Độ, đã đốt phá tất cả chùa tháp và giết hại tất cả chư Tăng
không gớm tay. Rồi sau đó là sự đô hộ của thực dân Anh với chủ trương phát
triển Chính Thống Cơ Đốc giáo... Có lẽ bây giờ những hình ảnh chết chóc
hãi hùng của chư Tăng tại Na Lan Đà vào thế kỷ thứ 12 vẫn còn in sâu trong
đầu của người dân Ấn, nên dù có muốn làm Tăng họ cũng rất e dè. Mà thật
vậy, ngày nay các chùa Phật giáo quanh các Thánh tích rất ít có chư Tăng
người Ấn, mà đa số chỉ là chư Tăng đến từ các quốc gia khác như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Tây Tạng, Cao Miên, Lào, Trung Quốc và Việt
Nam...
Cách tịnh xá Kỳ Viên chừng 2 cây số là tháp Vô
Não (Angulamali), dù đã bị đổ nát, nhưng nền tháp hãy còn rất cao. Theo sự
thuyết minh của sư cô Liên Phụng thì chàng Ương Quật Ma La trước kia tu
theo tà giáo, vì nghe theo tà sư nên quyết chí chặt đủ 100 ngón tay để kết
thành tràng hạt. Khi đã chặt được 99 ngón thì tiếng dữ đồn xa nên ai cũng
tìm cách tránh chàng ta. Vì thế mà không thể nào chàng ta tìm đâu cho ra
ngón tay thứ 100. Bữa nọ quyết định chặt ngón tay của mẹ cho đủ số 100,
May mắn lúc ấy chàng gặp Đức Phật nên liền bỏ ý định chặt ngón tay của mẹ,
mà quay sang quyết chí đuổi theo Đức Phật. Tuy Đức Phật đi từng bước khoan
thai mà chàng vẫn không đuổi theo kịp, nên chàng quát: “Này ông Cồ Đàm,
ông hãy dừng lại.” Đức Phật ôn tồn đáp: “Ta đã dừng lại từ lâu, tại ngươi
chưa chịu dừng lại đó thôi.”Khi ấy chàng lấy làm thắc mắc hỏi nguyên cớ gì Đức Phật vẫn đi nhanh mà lại bảo là đã dừng. Đức
Phật nhân đó thuyết một thời pháp làm chàng tỉnh ngộ, quỳ trước Phật, xin
sám hối, và được Phật hóa độ.
Bên cạnh nền tháp Vô Não là nền tháp của ông Cấp
Cô Độc (Anathapindika). Nền tháp này cũng bị tàn phá rất nhiều. Chúng tôi
rời nền tháp của Ngài Cấp Cô Độc mà lòng vẫn còn lâng lâng niềm thương
kính một vị đại thí chủ, đã hết lòng vì đạo pháp. Ngài đã đem hết những gì
mình có ra cúng dường lên ngôi Tam Bảo đến độ trở nên nghèo nàn mà Ngài
vẫn an nhiên tự tại. Quả là một tấm gương sáng ngời đáng cho hàng Phật tử
tại gia chúng ta kính ngưỡng và noi theo.
(Bảng tưởng niệm Ngài Cấp Cô Độc ngay trước nền tháp
của Ngài)
Xung quanh tịnh xá Kỳ Viên có nhiều chùa Phật
Giáo được các quốc gia Á Châu như Trung Hoa, Tích Lan, Miến Điện và Thái
Lan xây dựng.
Những Hình Ảnh Khác Tại Thành Xá Vệ
(Bình minh tại Ba La Nại-Xá Vệ Quốc)
(Tháp Cấp Cô Độc-Xá Vệ Quốc)
(Đường lên nền tháp Cấp Cô Độc)
(Nền tháp chàng Vô Não-Xá Vệ Quốc)
(Kỳ Viên Tịnh Xá-Xá Vệ Quốc)
(Tượng Phật lớn nhất tại Xá Vệ Quốc)
Thành Phố Varanasi
(Ga xe lửa Vanarasi-Delhi)
2:00 giờ chiều ngày 7 tháng 12, đoàn lên đường
đi Ba La Nại (Benaras), nay là thành phố Varanasi, nơi có chiều dài lịch
sử trên mấy ngàn năm nay. Đây là một trong những thành phố được dân Ấn xem
là thiêng liêng nhất trong lịch sử của họ, từ thời xa xưa và mãi cho đến
ngày nay. Chẳng những thế, Varanasi còn là biểu hiện cho nền văn hóa, tôn
giáo, nghệ thuật, giáo dục và sinh hoạt xã hội của Ấn Độ trong mọi thời
đại. Đây là một trong những thành phố cổ mà sống động vào bậc nhất của thế
giới, lôi cuốn hàng triệu du khách từ khắp nơi trên thế giới cũng như ngay
tại xứ Ấn Độ, và là nơi của thế giới tâm linh. Theo các nhà khảo cổ thì
thành phố Ba La Nại được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 10 trước Tây
Lịch, nhưng nét độc đáo của thành phố này là sự kết hợp hài hòa giữa quá
khứ và hiện tại một cách liên tục. Ngày nay thành phố này nằm giữa hai
thành phố Varuna và Assi nên có tên là “Varanasi”. Tuy nhiên người dân ở
đây vẫn quen gọi là Ba La Nại (Banares). Thời xa xưa, Ba La Nại còn có tên
là Kashi, nghĩa là một nơi sáng chói hay thành phố của ánh sáng. Thời Đức
Phật còn tại thế, Ba La Nại là một trong những thành phố lớn nhất của Ấn
Độ, là trung tâm điểm của giáo phái Bà La Môn, và cũng là nơi mà Phật giáo
có ảnh hưởng rất lớn, vì khi Đức Phật sắp nhập diệt thì Ba La Nại là một
trong 6 thành phố mà ngài A Nan đã thỉnh cầu Phật đến. Theo Đại Đường Tây
Vực Ký, vào thế kỷ thứ 7 ngài Huyền Trang cũng đã ghi lại một số nét về Ba
La Nại như sau: “Ba La Nại tọa lạc về hướng Tây bờ sông Hằng Hà, rộng
khoảng 4.000 lý, dân chúng sống rất đông đúc ở vùng này, rất nhiều gia
đình giàu có và nơi họ ở thường có nhiều bảo vật quý giá. Người dân tại
vùng này rất nhân ái, thanh nhã và hiếu học. Đa số họ là người không có
tín ngưỡng, tuy nhiên, họ cũng rất tôn kính giáo pháp của Đức Phật. Thời
tiết ở đây dễ chịu, mùa màng phong nhiêu, cây cỏ xum xuê và rừng rậm có ở
khắp nơi. Lúc này Lộc Uyển có khoảng 30 tự viện và trên 3000 Tăng sĩ theo
truyền thống Chánh Lượng Bộ (Samatiya). Trong khi đó cũng có cả trăm ngôi
đền Ấn giáo và khoảng 10.000 ngoại đạo. Họ tu tập khổ hạnh như để tóc dài,
lõa thể, và trét đầy tro trên người. Trong thời gian này, Lộc Uyển là
trung tâm của Chánh Lượng Bộ, một trong 18 tông phái Phật giáo đương thời.
Phía Đông Bắc của thành phố, bờ Tây của dòng sông Varana có một ngôi tháp
cao trên 30 mét do vua A Dục xây dựng với một trụ đá trước mặt. Cách dòng
sông Varana chừng 10 lý có một tự viện lớn với 8 dãy phòng nối nhau, có
những bức tường lớn bao quanh. Những tháp lớn đều có lan can với cách kiến
trúc rất tinh xảo. Gần đó có một tịnh xá cao khoảng 60 mét, chính giữa có
một tượng Phật trong tư thế đang chuyển Pháp Luân. Phía Tây Nam tịnh xá có
một tháp do vua A Dục xây. Mặc dù tháp đã bị hư hại, nhưng nền tháp vẫn
còn cao khoảng 30 mét. Trước tháp lại có một trụ đá khác cao khoảng 15
mét, mà theo truyền thuyết thì đây chính là nơi Đức Phật chuyển pháp luân
lần đầu tiên. Không xa nơi này là một nền tháp đánh dấu nơi ở của năm
người bạn đồng tu với Đức Phật.” Trong các ký sự ghi lại về những di tích
Phật giáo thì Ngài Huyền Trang ghi lại đầy đủ nhất. Chẳng những ngài ghi
lại hiện trạng của Thánh tích, mà ngài còn ghi cả về phong tục, tập quán,
văn hóa, tinh thần và ngay cả phong thổ thời tiết.
Chúng tôi đến Ba La Nại vào lúc nửa đêm và đoàn
nghỉ đêm tại khách sạn Sarnath, thuộc thành phố Varanasi, bang Uttar
Pradesh. Vanarasi là một trong những thành phố lớn thuộc bang Uttar
Pradesh, Bắc Ấn. Nơi nổi tiếng về lụa Kasi và sông Hằng Hà thiêng liêng
đối với những người theo Ấn giáo.
Sông Hằng Hà
(Quang cảnh từng đoàn người ùn ùn xuống tắm giặt
bên bờ Tây sông Hằng Hà)
4:30 giờ sáng ngày 8 tháng 12, đoàn đi sông Hằng
(Ganges River) xem mặt trời mọc. Sông Hằng cũng như nhiều con sông lớn
khác ở Á Châu, phát nguyên từ dãy Hy Mã Lạp Sơn, thuộc cao nguyên Tây
Tạng. Nó là một trong hai nguồn nước chính nuôi sống người dân Ấn trong
vùng Đông Bắc và vùng vịnh Bengal. Ngay vào thời Đức Phật còn tại thế,
sông Hằng phải quan trọng và có một vị thế lớn trong tâm linh của người
dân Ấn vì trong các kinh điển, Đức Phật hay đem cát sông Hằng ra để ví với
thứ gì vô lượng vô biên, hoặc con số không thể đếm được. Sông Hằng bắt
nguồn từ những khe suối phủ đầy tuyết trắng trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, chảy
qua Tây Tạng rồi vào Ấn Độ, dài trên 5.575 cây số. Sông Hằng chẳng những
là nguồn nước chính cho dân Ấn, nó còn mang tính thiêng liêng, đặc biệt là
khúc sông có khu đền “Ghat”, người dân Ấn tôn sùng và kính ngưỡng như là
nơi linh thiêng bậc nhất.
(Đoàn hành hương xuống ghe ra sông Hằng vào lúc
4:30 giờ sáng trong khi bầu trời tại đây vẫn còn tối
đen như mực)
Thành phố Varanasi vào buổi rạng sáng, trời hãy
còn tối đen như mực, thế mà các con hẻm dẫn xuống bến sông Hằng đã chật
nít người. Từng đoàn cả ngàn hay cả chục ngàn người kéo nhau đi về hướng
bờ sông. Khắp thành phố có một mùi thật khó ngửi vì nó được kết hợp bởi
nhiều hợp chất không tìm được ở bất cứ nơi nào khác trên địa cầu này: mùi
cống rãnh, mùi hơi người, mùi quần áo lâu ngày không giặt, mùi rác, hòa
quyện với những thứ thải ra từ những con bò ‘thiêng’ tự do đi lại khắp nơi
trong phố. Trời hãy còn tối đen, đường đi đã khó, nhưng lòng tôi không thể
không chạnh nhớ đến những lời Phật dạy về những giáo phái ngoại đạo kỳ
quặc. Bây giờ họ vẫn còn y nguyên đây không sai khác, mà có phần còn nhiều
hơn nữa là khác. Trời cuối thu vào Đông trên sông Hằng thoáng gió lạnh từ
dãy Hy Mã Lạp Sơn thổi xuống. Tiết trời đã lạnh lại thêm gió lạnh khiến
cho mọi người cảm thấy lạnh hơn dù đã mặc nhiều lớp áo. Khi chúng tôi ra
đến bờ sông trời vẫn chưa sáng.
Hai chiếc ghe đưa cả đoàn chúng tôi thả trôi
chầm chậm dọc theo bờ sông trước khi ra giữa dòng. Bờ phía Bắc là những
ngôi nhà cổ kính theo lối kiến trúc Ấn giáo. Thấp thoáng từ xa là một ánh
lửa, theo lời sư Minh Thành đó là chỗ thiêu người chết. Ôi! Thân tứ đại
vô thường, mới đó còn danh còn lợi, rồi bất động, rồi tan thành tro bụi
được vung rải ngày trên sông Hằng. Loáng thoáng quanh be ghe là những xác
thú chết trôi, chó có, heo có, gà có... Đằng sau chúng tôi là một chiếc
xuồng kéo xác một con bò thật to, ra đến giữa dòng, chiếc dây được tháo ra
cho xác tự do trôi bập bềnh trên sông. Quang cảnh buổi sáng mai trên sông
Hằng thật bận rộn. Những chiếc xuồng rao bán đồ kỷ niệm cứ cập sát hai
chiếc ghe của chúng tôi. Họ rao bán đủ thứ, nào chuỗi, nào tượng Phật, nào
postcards, nào những chiếc bình đựng nước sông Hằng...
Trên bờ Tây sông Hằng từng toán, từng toán
người đổ xô xuống bờ sông tắm giặt. Những toán rước lễ có nhạc và kèn theo
nghi thức Ấn Độ giáo tạo ra một âm thanh rộn ràng náo nhiệt. Trong khi bờ
Đông sông Hằng vẫn còn yên ngủ và mặt trời vẫn chưa lên. Khi hai chiếc ghe
ra tới giữa dòng thì ghe bên kia có anh Thiện Tài nhảy xuống tắm sông
Hằng. Vì tiết trời quá lạnh nên tôi hơi lo cho sức khỏe của anh, nhưng khi
nhúng tay xuống dòng nước tôi mới phát giác ra nước sông Hằng ấm và dễ
chịu vô cùng.
(Cảnh bình minh trên sông Hằng Hà)
Theo kinh điển Vệ Đà, nó là dòng sông linh
thiêng của Ấn Độ Giáo, vì họ cho rằng nước sông Hằng phát nguồn từ Hy Mã
Lạp Sơn huyền bí, là trung tâm của địa cầu, nên những ai có duyên mai được
tắm trên dòng sông này thì cả thân lẫn tâm đều được thanh sạch. Chính vì
vậy mà người dân theo Ấn giáo rất tin tưởng nơi sự thiêng liêng của sông
Hằng. Và họ tin rằng những ai được tắm trong dòng nước này thì được rửa
sạch hết mọi tội lỗi và có thể tái sanh lên cõi trời. Trời chưa sáng hẳn
mà hàng hàng lớp lớp người kéo nhau xuống tắm giặt trên sông, tạo nên một
cảnh tượng náo nhiệt lạ thường vào buổi bình minh trên một khúc sông này:
họ tắm, họ giặt, thậm chí họ uống từng ngụm nước một cách ngon lành. Ngay
từ thời Đức Phật còn tại thế Ngài đã chu du hoằng hóa nhằm đánh đổ niềm
tin mù quáng này bằng chánh tín Phật giáo. Xa xa đằng kia gần khu đền
“Ghat” chập chùng ánh lửa hỏa táng một thân xác nào đó bên bờ sông. Khi
ghe chúng tôi đến gần thì tôi mới nhận ra, đó là một bãi đất trống, người
ta mang xác người chết trên một chiếc cáng làm bằng hai khúc cây rất đơn
sơ. Không biết vì tâm linh họ đã tiến bộ đến mức thượng thừa hay vì dân số
của họ quá đông (gần một tỷ ba trăm triệu) mà người Ấn xem cái chết của
một con người rất ư là bình thường, bình thường đến độ bạc bẽo vô tình.
Bầu trời sông Hằng lúc này hãy còn tối nên chúng tôi thắp những ngọn nến
thả trôi trên dòng nước trong khi ấy sư Minh Thành cùng đoàn khởi niệm
hồng danh Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Khi các ngọn nến đã trôi xa thì sư
Minh Thành bắt đầu giới thiệu sơ lược về con sông thiêng liêng này. Bình
minh bắt đầu ló dạng bên bờ Đông, lộ rõ một dãy cát thật rộng khiến tôi
liên tưởng đến những bài kinh trong đó Đức Phật thường đem số cát sông
Hằng ví với số nhiều không diễn tả được. Lúc này trời đã khá sáng tỏ,
những ghe bán hàng ngày càng tấp vào ghe chúng tôi nhiều hơn. Tôi để ý
thấy một tấm postcard hết sức đặc biệt: những người lõa thể đang đứng hoặc
ngồi trên một chiếc thuyền. Người bán chỉ cho tôi chỗ người ta chụp hình
các du sĩ lõa thể ngay tại vị trí của chiếc ghe của chúng tôi đây, nhưng
hôm nay trời hãy còn quá sớm nên những đạo sĩ này chưa xuất hiện tại đây.
Tiếc thật!!!
Buổi bình minh trên sông Hằng đẹp tuyệt. Bây giờ
tôi mới hiểu lý do tại sao những đoàn hành hương trước đều đến đây xem
sông Hằng vào buổi bình minh. Chúng tôi chụp một số hình lưu niệm trên
sông trước khi lên đường trở về khách sạn dùng bữa sáng.
Những Hình Ảnh Tại Varanasi
(Lõa thể khổ hạnh trên sông Hằng Hà)
(Đoàn chuẩn bị xong xuôi cho cuộc du hành trên sông
Hằng)
(Ghe buôn bán theo đoàn hành hương)
(Đã gần 6 giờ sáng mà mặt trời vẫn còn yên ngủ trên
sông Hằng)
(Ghe buôn bán luôn cặp sát ghe của đoàn
Anh thanh niên người Ấn này đang rao bán cá phóng
sanh)
(Khoảng 6:15 mặt trời mới bắt đầu ló dạng trên sông
Hằng)
(Cảnh tắm giặt buổi sáng sớm trên sông Hằng)
Vườn Lộc Uyển
(Khu phế tháp trong Vườn Lộc Uyển)
Sau đó viếng khu vườn Lộc Uyển (Sarnath), khu
Lộc Uyển, thuộc thành phố Varanasi, bang Uttar Pradesh, về phía Tây Nam
của thủ đô Tân Đề Li, cách Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) khoảng 200 cây số,
cách thành phố Ba La Nại khoảng 12 cây số. Sở dĩ nơi này có tên là Lộc
Uyển vì xưa kia nơi này có nhiều đàn nai sinh sống tự do và an ổn dưới sự
bảo vệ của vua xứ Ba La Nại. Lộc Uyển theo tiếng Phạn là Mrigadaya hay
Mrgadava, đây là tên xưa kia của Sarnatha bây giờ, có nghĩa là Vườn Nai.
Còn tên Sarnatha hiện nay, theo các nhà ngữ học, có lẽ nó xuất xứ từ một
từ kép của tiếng Sanskrit cổ là “Saranganatha,” có nghĩa là nai chúa hay
lộc vương. Theo thời gian tiến hóa của ngôn ngữ, từ này được giản lược
thành “Sarnatha” mà người ta đang dùng trong ngôn ngữ Prakrta hiện nay tại
Ấn Độ. Đây là một khu đất rộng với nhiều sân cỏ và những nền phế tháp rải
rác khắp nơi. Hôm chúng tôi đến thăm khu Lộc Uyển có rất nhiều đoàn hành
hương cũng đến thăm nơi này. Ngày trước, khu vườn Lộc Uyển cách xa thành
phố, lại nằm trong một vùng hoang sơ, với những ngọn núi cheo leo hiểm
trở, nên rất ít người qua lại, chỉ có các du sĩ Phật giáo và các tôn giáo
khác tìm đến tu tập mà thôi. Tuy nhiên, đối với Phật giáo, Lộc Uyển trở
thành Thánh địa kể từ ngày Đức Thế Tôn cất tiếng “sư tử hống” khởi chuyển
Pháp Luân tại khu vườn này. Tuy nhiên, theo truyền thuyết Phật giáo thì
Lộc Uyển không chỉ là nơi Đức Thích Ca Mâu Ni thị hiện chuyển bánh xe Pháp
thời đó, mà cả ngàn chư Phật trong hiền kiếp cũng đã và sẽ chuyển bánh xe
pháp tại đây. Ngoài ra, Lộc Uyển còn có tên là “Chư Thiên Đọa Xứ”
(Rishipatana) vì đây là nơi có nhiều chuyện liên quan đến những vị độc
giác Phật. Khi ngài Huyền Trang đến đây vào khoảng những năm 629, ngài còn
trông thấy ngôi tháp lớn, nơi đánh dấu 500 vị độc giác Phật nhập diệt. Sau
khi Đức Phật nhập diệt, dù sinh hoạt Phật giáo không còn nhộn nhịp như
thời Đức Phật còn tại thế, hãy còn rất nhiều trung tâm tu học. Sarnatha đã
trải qua nhiều thăng trầm với các triều đại vương triều thời cổ đại tại Ấn
Độ. Vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch, vua A Dục của triều đại Khổng Tước
(Maurya) cũng đã thân hành đến đây chiêm bái và đảnh lễ nơi Đức Phật
chuyển Pháp Luân, và ngài đã cho xây dựng một số tháp thờ Phật, cũng như
một số trụ đá ghi lại chứng tích Đức Phật đã chuyển Pháp Luân tại đây. Tuy
nhiên, ngoài những cổ vật của vua A Dục ra, người ta không tìm ra được tại
Sarnatha cổ vật của các vị vua khác dưới triều Khổng Tước. Năm 184, sau
khi triều đại Khổng Tước (Maurya) bị sụp đổ, triều đại Sunga hưng khởi.
Đây là triều đại của các vị vua theo Ấn giáo, tuy không đánh phá Phật giáo
một cách quyết liệt, nhưng họ cũng không thiết tha gì đến sự tồn vong của
Phật giáo, nên họ chỉ cho xây dựng tại Sarnatha những đền đài dùng trong
việc tế tự theo nghi thức Ấn giáo, và xem đây là những đối tác với các
chùa tháp Phật giáo còn lại tại vùng Sarnatha. Về sau vào thế kỷ thứ nhất
trước Tây Lịch, Kushan thuộc bộ tộc Nguyệt Chi (Yuehchi) đã đánh chiếm
vùng Bắc Ấn và lập lên triều đại Kushans mà lãnh thổ mở rộng từ khắp vùng
Bắc Ấn, đến Kabul, Ganghar và Punjab. Vị vua đầu của triều đại Kushans là
Kaphise I là một người sùng đạo thờ thần Siva, nên không có hoạt động nào
liên hệ tới Sarnatha, nhưng đến đời vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka) thì có một
sự thay đổi lớn tại Sarnatha. Ban đầu vua Ca Nị Sắc Ca cũng thờ thần lửa,
nhưng về sau này vua Ca Nị Sắc Ca cảm thấy mến phục đạo Phật nên ông đã
vận dụng hết khả năng của mình nhằm chấn hưng tôn giáo này tại đây. Ngài
cho trùng tu lại những tu viện cũ và xây cất thêm một số tu viện mới tại
vườn Lộc Uyển. Tuy nhiên, theo bức tượng Bồ Tát (được đúc năm thứ ba dưới
triều Ca Nị Sắc Ca) khai quật được có niên đại của thời ngài, chứng tỏ
ngài là vị quân vương ủng hộ Phật giáo Đại Thừa rất mạnh mẻ. Theo chứng cứ
thì pho tượng có đường nét chạm trổ và nghệ thuật Mathura. Hơn nữa, theo
một tấm bia ký đào được ở Sarnatha do tỳ kheo Bala khắc vào thời đại Ca Nị
Sắc Ca cũng ghi lại rõ ràng: “Thành Ba La Nại nằm dưới sự thống trị của
Đại Vương Ca Nị Sắc Ca và do một phó vương dưới quyền của ngài. Có thể nói
hầu hết các đại vương đều có doanh trại ở Mathura. Tỳ kheo Bala và
Pusyabuddhi thuộc gia đình hoàng gia. Họ đã hành hương chiêm bái những
Thánh tích Phật giáo và cúng dường tượng ở những nơi mà họ đến chiêm bái.”
Sau khi triều đại Kushans sụp đổ, triều đại Gupta lên thay vào thế kỷ thứ
tư sau Tây Lịch. Tuy trải qua các vị vua Chandra Gupta, Samudra Gupta,
Chandra Gupta Isipatana, Kumara Gupta, Skanda Gupta và các vị vua khác
dưới triều đại này đều theo Ấn giáo, nhưng họ không hề thù địch và tàn phá
Phật giáo. Những bia ký khai quật được đã chứng tỏ các vị vua triều Gupta
thường hay ban hành các chỉ dụ bảo vệ cộng đồng Phật giáo. Ngoài ra, các
vị vua dưới triều Gupta còn trợ cấp bảo trì các ngôi chùa Phật giáo tại
đây. Dưới thời Gupta, một loại mỹ thuật mới về điêu khắc xuất hiện và cũng
chính dưới triều đại này, mỹ thuật điêu khắc đạt đến đỉnh cao hoàng kim
của nó. Tại ngôi tháp Jagatsingh, từ các chữ khắc trên bia ký đã cho thấy
rằng phái Nhất Thiết Hữu Bộ, một trong mười tám bộ phái tiểu thừa thời đó,
có ảnh hưởng rất lớn ở vùng Sarnatha vào trước thế kỷ thứ tư. Khi sự hưng
thịnh của bộ phái này chấm dứt vào thế kỷ thứ tư thì phái Chánh Lượng Bộ
(Sammitiya) trở thành nổi tiếng. Cứ thế mà tuần tự các bộ phái đã cố gắng
duy trì sự hấp hối của Phật giáo tại Sarnatha dưới các triều vua theo Ấn
giáo cho đến thế kỷ thứ bảy.
Vào thế kỷ thứ năm, khi du hành sang Ấn Độ, ngài
Pháp Hiển có ghi lại rằng, vào thời gian ngài đến Vườn Lộc Uyển, có hai
ngôi tự viện với nhiều Tăng sĩ tu học và bốn tháp lớn. Đến thế kỷ thứ 7
(khoảng năm 629), ngài Huyền Trang có ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký
như sau: “Tại đây có khoảng 30 ngôi tự viện với trên 3.000 Tăng sĩ theo
truyền thống Chánh Lượng Bộ (Samatiya). Bên cạnh những Tăng sĩ Phật giáo
cũng có khoảng 10.000 du sĩ Ấn giáo đang tu tập khổ hạnh quanh vùng. Họ
cắt tóc hoặc buộc tóc dài, thân không mặc quần áo, mình mẩy trét đầy tro.
Thường thì họ tu tập trong các ngôi đền của Ấn giáo. Phía Đông Bắc thành
phố, về hướng Tây của dòng sông Varana, có một ngôi tháp cao khoảng 3 mét,
do vua A Dục xây lên với một trụ đá phía trước. Trên mặt trụ đá lấp lánh
và sáng láng như gương. Tương truyền nhiều người đã trông thấy hình Phật
trên trụ đá này.”
Trong phần phụ đính về tu viện Sangharama, ngài
Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Tại Chư thiên
đọa xứ có mười lăm ngàn Tăng sĩ đang tu học theo Phật giáo Tiểu Thừa. Tại
đây cũng có một tu viện cao gần 70 mét, được xây dựng kiên cố, mái chùa
được lợp bằng vàng hình lá xoài. Chính giữa tu viện là một tượng Phật
Chuyển Pháp Luân to bằng người thật. Phía Tây Nam có một ngôi tháp bằng đá
do vua A Dục xây. Phía trước tu viện là một trụ đá đánh dấu nơi Đức Phật
thuyết Pháp lần đầu tiên. Gần đó có một tháp khác, được xây để kỷ niệm năm
vị ẩn sĩ hành thiền trước lúc Đức Phật tới đây, và một tháp khác ghi dấu
500 vị Phật Bích Chi nhập Niết Bàn. Kế đó là một cái tháp kỷ niệm nơi Đức
Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài Di Lặc sẽ trở thành Phật trong tương lai.”
Tuy nhiên, những điều mà ngài Huyền Trang đã ghi lại đều đã bị tàn phá và
vùi lấp trong lòng đất vào những thế kỷ sau đó. Đến thế kỷ thứ 12 thì thế
lực quân Hồi giáo hiếu chiến rất mạnh. Họ kéo đến xâm lăng Ấn Độ nhiều
lần. Theo lịch sử Ấn Độ thì vào năm 1193, sau khi đánh bại vua
Jayachandra, vua Hồi giáo Mahommada tuyên bố chấm dứt chế độ Ấn giáo tại
đây và khởi đầu một vương triều Hồi giáo trên toàn lãnh thổ vùng Bắc Ấn
Độ. Ngay từ những ngày đầu, Mahommada đã cho đập phá tan tành trên 1.000
chùa tháp, cả Ấn giáo lẫn Phật giáo, để xây tại chỗ đã đập phá những ngôi
đền Hồi giáo. Kể từ đó đến nay, những ngôi tháp và tự viện Phật giáo bị
chìm hẳn vảo quên lãng, trong khi các đền tháp Ấn giáo được phục hồi vào
những thế kỷ sau này khi Ấn giáo bắt đầu phục hoạt trở lại. Hơn thế nữa,
ngay sau khi đạo quân Hồi giáo bị đánh bật ra khỏi Ấn Độ, có nhiều nguyên
nhân khác khiến Phật giáo bị khai tử tại chính nơi đã khai sanh ra nó. Khi
ấy những người đánh đuổi được quân Hồi giáo lại là những người chủ trương
phục hoạt Ấn Độ giáo trên toàn cõi Ấn Độ, nên giai đoạn đen tối nhất trong
lịch sử Phật giáo tại Ấn Độ từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 18 tưởng đã
qua đi, nhưng chưa hết, sau sự tàn phá cực kỳ dã man tàn bạo của đạo quân
Hồi giáo đến từ vùng Trung Đông, sau sự khởi dậy của Ấn Độ giáo ở khắp nơi
trên xứ Ấn. Đây là thời kỳ mà Kumarila và Sankara đang phát triển và đánh
thốc một cú chí tử cuối cùng vào Phật giáo. Họ không chỉ đánh Phật giáo
bằng vũ lực, hay bằng những bài giảng khơi dậy lòng tham của những giai
cấp có thế lực thời bấy giờ như giai cấp Bà La Môn và Kshatriya (giai cấp
cầm quyền), để làm sống lại Ấn giáo, họ đã cho xây lại rất nhiều ngôi đền
Ấn giáo ngay trên nền cũ của các ngôi đền Hồi giáo, tức là nền cũ của
những chùa viện Phật giáo mà các ông vua Hồi đã đập phá trước đây. Thêm
vào đó là lòng tham danh tham lợi của con người tiếp tục tàn phá. Ôi thảm
thương quá cho số phận của những khu phế tích Phật giáo! Năm 1794, một vị
quan giàu có tại vùng Varanasi tên Shri Jagat Singh, đã bỏ tiền ra mướn
người đến đào xới khu di tích Sarnatha, phá hủy tháp Dharmarajika, rồi lấy
toàn bộ gạch đá trong vùng đem về xây dinh thự cho riêng mình và đặt tên
cho dinh thự này là “Jagatganji,” nhưng về sau này để cho dễ nhớ, ban quản
lý khoa khảo cổ học Ấn Độ đã gọi tháp này là là tháp “Jagat Singh.” Đến
năm 1798, chính quyền Ấn Độ công bố khu Sarnatha là khu di tích quốc gia
và cấm ngặt mọi sự đào xới bừa bãi của tư nhân. Sau đó những nhà khảo cổ
chân chính tiếp tục đào xới để tìm thêm chứng liệu cho một giai đoạn cực
kỳ quan trọng của Phật giáo tại vùng này. Năm 1815 đại tá C. Mackenzee phụ
trách khai quật toàn bộ khu Sarnatha, rồi năm 1835, ông Alexander
Cunningham tiếp nối công trình. Trong thời gian này, đoàn khảo cổ của ông
Cunningham đã khai quật được một tu viện cùng nhiều hình tượng và cổ vật
khác. Tại đây ông Cunningham đã tìm thấy một kho chôn cất tượng và cổ vật
quý ở Sarnatha, điều này cho thấy có lẽ Sarnatha đã bị quân Hung Nô (Mông
Cổ) tàn phá trong cuộc viễn chinh đến vùng Bắc Ấn vào thế kỷ thứ năm. Do
cuộc xâm lăng của Hung Nô mà triều đại Gupta bị sụp đổ. Sau đó cả nước Ấn
Độ bị bao trùm dưới cảnh loạn lạc của ngoại xâm và nội chiến. Đến thời Hậu
Gupta, không có dấu hiệu nào Phật giáo được phục hồi. Đến thời vua
Harshavardhana, có nhiều hoạt động khôi phục lại những kiến trúc chùa
tháp. Mới ngày nào đây Phật giáo hãy còn được mọi người tại đây ấp ủ như
một triết lý sống tuyệt vời. Có thời Lộc Uyển trở thành một trung tâm nghệ
thuật và giáo dục cũng như tín ngưỡng cho toàn xứ Ấn Độ, thế mà trải qua
một thời gian không lâu xa về sau thì ảnh hưởng tốt đẹp này đã bị tàn phá
một cách nặng nề, bị tai trời thì ít mà họa người thì nhiều. Sau đó ông
Major Kittoe tiếp nối vào năm 1851, ông Thomas năm 1853, ông C. Horn năm
1856, ông F. O. Oertel năm 1905. Năm 1905, ông Vieroy Lord Curzon xây dựng
viện Bảo Tàng Sarnatha, năm 1914 ông Hargraves tiếp tục công cuộc khai
quật này. Và sau khi giành lại độc lập, chính phủ Ấn Độ vẫn tiếp tục cho
khai quật và bảo trì những khu di tích lịch sử quan trọng này.
Thời ngài Huyền Trang đến đây thì Lộc Uyển chỉ
mới phần nào điêu tàn vì ảnh hưởng trỗi dậy của Ấn Độ giáo. Tuy nhiên, đến
cuối thế kỷ thứ 12 trở về sau này thì các đạo quân Hồi giáo liên tục xâm
chiến Ấn Độ và các ông vua Hồi giáo đã tuần tự tàn phá hàng trăm, hàng
ngàn ngôi chùa lớn tại đây. Những ông vua Hồi giáo tàn bạo ấy là Mohammed
và Kutubuddin. Vào đầu thế kỷ thứ 12 sau khi xâm chiếm thành Ba La Nại,
tên vua Mohammed đã ra lệnh giết chết đức vua của thành này, đốt phá toàn
bộ chùa chiền và giết sạch Tăng sĩ, biến thành Ba La Nại thành bình địa
với máu và hoang tàn đổ nát. Rồi đến cuối thế kỷ thứ 12 (khoảng năm 1194),
một tên vua Hồi khác là Kutubuddin trở lại khai tử Ba La Nại. Lần này bọn
giặc Hồi hung hãn và tàn bạo hơn tiền nhân của chúng gấp vạn lần. Chúng
đến và chúng giết hầu hết những người chưa chạy kịp. Kể từ đó Ba La Nại
trở thành hoang địa, không một bóng người và bị quên lãng trong nhiều thế
kỷ. Ngày nay Lộc Uyển vẫn còn dáng vẻ thơ mộng, nhưng không còn nhộn nhịp
như thời vàng son của nó nữa. Vào khoảng năm 1856, nhà khảo cổ Cunningham
đã đào được tại khu Lộc Uyển hơn 300 tượng Phật, mà nét nghệ thuật của
những pho tượng này đã lôi cuốn hàng ngàn sinh viên cũng như các nhà
nghiên cứu đổ xô về đây tìm thêm tài liệu về lịch sử cũng như mỹ thuật
Phật giáo qua các thời đại. Hầu hếu những pho tượng này đều bị cháy nám,
chứng tỏ những tự viện hay chùa tháp đã từng bị đốt cháy.
Quần Thể Tượng Đức Phật
Đang Thuyết Bài
Pháp Đầu Tiên Cho Năm Anh Em Ông Kiều Trần Như
Bên cạnh ngôi tháp là nơi thờ tượng Phật đang
thuyết pháp cho năm anh em A Nhã Kiều Trần Như. Theo sư cô Liên Phụng thì
những pho tượng này được tô đắp vào năm 1988 với những đường nét sắc xảo.
Sau bức tượng có cội Bồ Đề được mang từ Tích Lan về trồng năm 1931, xung
quanh cội Bồ Đề là hình ảnh của 28 vị Phật quá khứ. Chính nơi đây Đức Phật
đã thuyết bài pháp đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như. Tương truyền sau
khi thấy Đức Phật nhận bát sữa của nàng Sujata, năm anh em Kiều Trần Như
đã từ bỏ Đức Phật vì cho rằng Ngài đã đi sai đường bằng cách từ bỏ pháp tu
khổ hạnh. Chính vì thế mà sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật đã trải qua
bảy tuần lễ đầu tại những khu vực quanh Bồ Đề Đạo Tràng, đến tuần lễ thứ
tám, Ngài muốn trao lại bức thông điệp cứu khổ của Ngài đến với mọi người.
Thoạt tiên, Ngài nghĩ tới việc độ cho những vị thầy thuở ban đầu của Ngài
như các vị A La Ra Ka La Ma (Alara Kalama), và Uất Đà Ka La Ma Tử (Uddaka
Ramaputta), nhưng cả hai đều đã nhập diệt trước đó. Sau đó Đức Phật nghĩ
đến năm anh em A Nhã Kiều Trần Như, những người bạn đồng tu khổ hạnh với
Ngài trước đây, và Ngài biết rằng hiện họ đang trú tại khu Vườn Nai
(Sarnath), nên Ngài quyết định đi đến đó để thuyết pháp độ họ. Đức Phật đã
đi bộ trên 250 cây số từ Bồ Đề Đạo Tràng đến Vườn Nai tại Ba La Nại, Ngài
đã băng qua sông Hằng Hà bằng phà để đi đến các đền đài của thành phố
Kasi, rồi sau đó Ngài du hành đến Sarnatha. Tại đây Ngài đã gặp lại họ,
tuy nhiên, khi mới thấy thấp thoáng bóng Ngài trở lại khu Vườn Lộc Uyển,
họ đã dự tính ngoảnh mặt với Ngài, nhưng khi thấy dáng vẻ uy nghi của Đức
Phật, cả năm anh em đã tự động đến gặp Ngài, nhưng thoạt đầu họ không chịu
đảnh lễ Ngài với lòng tôn kính như xưa. Tuy nhiên, khi Đức Phật càng bước
đến gần họ, thấy cốt cách oai nghi và dáng vẻ sáng ngời của Ngài, họ quyết
định đảnh lễ và lắng nghe thời Chuyển Pháp Luân đầu tiên của Phật. Bài
pháp nói về “Trung Đạo,” loại bỏ hai thái cực hưởng thọ dục lạ và tu hành
khổ hạnh. Đức Phật đã dõng dạc tuyên thuyết: “Này các Tỳ Kheo, Như Lai
không hề xa hoa, không hề ngừng cố gắng và không trở về đời sống lợi
dưỡng. Như Lai là Đức Thế Tôn, là đấng Toàn Giác. Như Lai đã thành đạo quả
Vô Sanh Bất Diệt và Như Lai sẽ giảng dạy giáo pháp. Nếu hành động đúng
theo lời giáo huấn của Như Lai, các thầy cũng sẽ sớm chứng ngộ bằng trí
tuệ trực giác, và trong kiếp sống này các thầy sẽ hưởng một đời sống cùng
tột thiêng liêng và trong sạch. Này các Tỳ Kheo, có hai cực đoan mà những
người từ bỏ thế tục để tìm cầu con đường giải thoát không nên tu tập.
Những gì là hai? Một là truy tầm và đắm say trong ngũ dục. Đây chỉ là sự
theo đuổi hạ liệt, trần tục, đê tiện, thô thiển và ô uế chứ không có ích
lợi. Hai là thực hành tu khổ hạnh, khổ đau và thô thiển chứ không có lợi
ích gì. Này các Tỳ Kheo, từ bỏ và tránh xa hai cực đoan này là đi theo con
đường ‘Trung Đạo’ do Như Lai giác ngộ, mở tâm và mắt, đưa đến an tịnh,
nhất thiết trí, giải thoát và cuối cùng đạt đến Niết Bàn.” Ngày đó khi vừa
nghe xong thời Pháp chuyển luân của Đức Phật, ngài A Nhã Kiều Trần Như đã
chứng ngay quả vị A La Hán, và sau đó các vị còn lại cũng lần lượt đắc
Pháp Nhãn thanh tịnh khi Đức Phật thuyết đến bài kinh Vô Ngã Tướng
(Anattalakkhana Sutta). Và cũng kể từ đó Pháp luân thường chuyển và Tăng
đoàn cũng được thành lập. Và cũng chính tại đây, Ngài đã thuyết những thời
pháp cực kỳ quan trọng khác, chẳng những cho năm anh em ông Kiều Trần Như,
mà cho hết thảy chúng sanh trên toàn cầu, như Tứ Điệu Đế, và Bát Thánh
Đạo... Chính nhờ những lời dạy dỗ vàng ngọc ấy, mà kể từ thời Đức Phật đến
nay có biết bao nhiêu chúng sanh đã thọ hưởng và đã đi đến chỗ an lạc,
hạnh phúc và giải thoát. Cũng chính tại nơi này, Tăng đoàn cổ đại nhất của
Đức Phật đã được thành lập. Như vậy, Sarnatha trở thành nơi chuyển bánh xe
pháp đầu tiên của Đức Phật, nơi khai sanh ra Tăng đoàn đầu tiên của Đức
Phật, và là chiếc nôi của Phật giáo. Thời Đức Phật còn tại thế, từ vua
quan đến thường dân tại đây đều hoan hỷ đón nhận tinh thần giải thoát và
giáo lý bình đẳng của Đức Phật. Chẳng những thế, bài pháp thoại đầu tiên
này của Đức Phật bao gồm một sự nhận định sáng ngời và độc đáo của một bậc
đại giác ngộ về những vấn đề cơ bản nhất của cuộc đời và những giải pháp
đưa đến cuộc sống an lạc, tỉnh thức và hạnh phúc. Nói cách khác, chính
Sarnatha là trung tâm biểu tượng chân lý, là nơi chôn nhao cắt rún của
Phật giáo.
Ngày hôm sau đó một vị trưởng giả trong làng tên
là Da Xá (Yasa) đến quy y với Đức Phật, và chỉ ngay sau một thời pháp của
Phật, tất cả đều chứng Thánh quả. Như vậy Sarnatha cũng là nơi mà Đức Phật
khai sanh ra chúng Phật tử tại gia. Ngài đã thuyết giảng cho Da Xá và gia
đình của ông rất nhiều về bổn phận hộ pháp của một người Phật tử tại gia,
cũng không kém phần quan trọng và cao quý như một sa môn. Ngài không tuyên
thuyết rằng tất cả mọi người phải từ bỏ đời sống thế tục để đắp y mang
bát, trở thành tu sĩ làm thân “cô lữ vạn lý du” như các vị sa môn, không
cửa, không nhà, không tiền, không bạc. Bởi lẽ nếu ai cũng làm như vậy thì
lấy ai hộ trì giáo pháp?
Lộc Uyển ngày nay không còn các vị tu hành khổ
hạnh như thời Đức Phật nữa, mà hình như chính phủ Ấn Độ muốn biến nơi đây
thành một địa điểm du lịch với những khu Thánh tích Phật giáo, những nền
chùa tháp xưa hãy còn sừng sững đó đây, những công viên đầy bóng mát. Dù
thế nào đi nữa, thì đối với chúng tôi Lộc Uyển vẫn là một trong những nơi
thân thiết nhất trong tâm tưởng.
Hòa Thượng hướng tán thán công đức của Đức Phật
và các vị Thánh Tăng, sau đó ngài hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh cầu
an, sau đó đi nhiễu quanh các Thánh tượng và niệm hồng danh Đức Bổn Sư cầu
nguyện cho thế giới hòa bình an lạc.
Sau đó chúng tôi lần lượt thăm viếng khu Vườn
Nai, tháp Dhamekh (Tháp Chuyển Pháp Luân), khu nền tịnh xá nơi Phật ngụ,
đường Phật đi kinh hành, trụ đá A Dục, khu Tịnh Xá Mulagandhakuti, những
nền tháp khác tại Sarnath, Bảo Tàng Viện Khảo Cổ Sarnath, và Bảo Tàng Viện
Varanasi.
(Tượng Đức Thế Tôn đang thuyết Pháp cho năm
anh em Kiều Trần Như tại Sarnath)
Khu Vườn Nai Tại Sarnath
(Những chú nai vàng ngơ ngác trong khu Vườn Nai tại
Sarnath)
Sau đó Hòa Thượng hướng dẫn đoàn qua thăm khu
vườn nai, nằm ngay phía sau khu tịnh xá Mulgandhakuti. Đây là một khu đất
rộng lớn, tuy không có nhiều cây như một khu rừng, nhưng cũng thanh u và
mát mẻ hơn nhiều nơi mà chúng tôi đã đi qua trong xứ Ấn Độ. Ngày trước là
khu vườn Nai thiên nhiên, với những bóng cây xanh mát, thanh u và tịch
tĩnh, là một môi trường rất tốt cho việc tu tập thiền quán. Bây giờ thì
người ta rào lại và nuôi rất nhiều nai ở đó. Những chú nai vàng ngơ ngác
nhìn khách hành hương qua lại khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh của vườn
Lộc Uyển năm xưa mà lòng ngậm ngùi cho thân phận của những chú nai và của
chính mình hiện tại. Ngày đó những chú nai xem vậy mà có phước, tuy mang
thân súc sanh mà ngày ngày đều thấy Phật. Còn bây giờ! Phật pháp vẫn còn
đây mà chúng con vẫn tiếp tục lăn trôi trong sanh tử trầm luân.
Tháp Dhamekh
(Tháp Dhamekh uy nghi trong khu vườn Lộc Uyển—
The imposing Dhamek Stupa at Sarnath)
Trong vườn Lộc Uyển hãy còn một ngôi tháp
Dhamekh thật lớn, đây có lẽ là ngôi tháp nổi bậc nhất trong khuôn viên Lộc
Uyển, vì tháp được xây dựng trên một khoảnh đất khá cao. Tháp cao khoảng
34 mét và đường kính khoảng 28 mét. Theo sư Minh Thành thì ngôi tháp này
được vua A Dục xây vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch để ghi nhận nơi
Đức Phật lần đầu tiên chuyển Pháp Luân, nơi Đức Phật đã từng đến đây
thuyết pháp ban rải ánh sáng chân lý cho chúng sanh. Tuy nhiên, theo nhiều
nhà khảo cổ học thì ngôi tháp đồ sộ này với trên 300 bức tượng đang trưng
bày trong Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Sarnatha hiện nay, trong đó có một pho
tượng Đức Phật đang ngồi chuyển pháp luân đều thuộc thời đại Gupta. Theo
truyền thuyết Phật giáo thì ban đầu ngôi tháp này chỉ là một ngôi tháp nhỏ
được xây lên để thờ xá lợi của Đức Phật, nhưng về sau này người ta cứ xây
thêm nên ngôi tháp lớn dần theo năm tháng và cuối cùng trở thành một kiến
trúc qui mô như ngày nay. Trên tường tháp những hoa văn sắc xảo vẫn còn y
nguyên, ghi dấu một thời “tiếng sư tử hống” của Đức Phật đã vang dội cùng
nơi khắp chốn. Xung quanh bờ ngoài của tháp còn có 8 bệ thờ bên trong
tường có kích cỡ lớn như người thật. Tuy nhiên, trong các bệ thờ ấy không
còn một tượng Phật nào cả. Theo tiếng Phạn, chữ ‘Dhamekha’ có nghĩa là
‘trầm tư về giáo Pháp’. Hòa Thượng Pháp Chủ tóm lược đại ý của bài pháp
đầu tiên mà Đức Phật đã thuyết cho năm anh em Kiều Trần Như, bài pháp đề
cập đến con đường “Trung Đạo,” không bất cập, mà cũng không thái quá. Sau
đó Thầy hướng dẫn đoàn tụng một thời kinh và đi nhiễu quanh tháp để tưởng
niệm nơi Đức Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký, Huyền Trang đã ghi
lại về nơi này trong khoảng thời gian ngài lưu lại nơi này như sau: “Nơi
này có khoảng 30 tu viện với hơn 3.000 Tăng sĩ tu học.” Thế mà bây giờ
cạnh ngôi tháp lớn chỉ còn trơ lại những nền tháp hay những đống gạch đổ
nát từ các tự viện thuở xa xưa. Theo tài liệu khảo cổ học tại đây thì vào
cuối thế kỷ thứ 18, hai nhà khảo cổ là đại tá MacKenzee và Cunningham khi
đào bới phần trên cùng của ngôi tháp đã tìm thấy một tấm bia đá nhỏ ghi
rằng “Dharmekha” chính là nơi Đức Phật thuyết giảng bài pháp đầu tiên.
Theo các nhà Phạn ngữ học thì Dharmekha có thể dịch là “trầm tư về giáo
pháp” mà có thể nó bắt nguồn từ hai chữ “Dharma” và “Chakra”, nghĩa là
bánh xe pháp hay pháp luân. Tấm bia cũng ghi rõ đây chính là nơi trú ngụ
của năm anh em Kiều Trần Như khi họ rời bỏ Đức Phật tại Bồ Đề Đạo Tràng.
Đây là một trong những tài liệu quý giá và chính xác cho lịch sử Phật
giáo. Bên cạnh Tháp Dhamekh hãy còn dấu vết của rất nhiều những nền tháp
nhỏ rải rác khắp nơi trong khuôn viên Vườn Lộc Uyển.
Nền Tịnh Xá
Nơi Đức Phật Ngự Tại Khu Sarnath
(Đường Kinh Hành của Đức Phật, cạnh nền Tịnh Xá trong khu Sarnath)
Rời khu vườn nai, chúng tôi qua thăm nền tịnh xá
nơi Phật đã từng ngự và tọa thiền, rồi đến con đường nơi Đức Phật đã từng
đi kinh hành. Nền tịnh xá ngày nay chỉ còn là một chuỗi gạch, lớp lớp
chồng lên nhau, có lẽ được xây vào niều giai đoạn khác nhau. Lớp dưới cùng
có một phiến đá có niên đại vào thế kỷ nhất trước Tây Lịch. Theo truyền
thuyết, dân gian vùng này gọi đó là đá ‘tạ ơn’. Có hai bia ký khắc trên
trụ của mái hiên được chấp vá lại với nhau, một cái thuộc thế kỷ thứ 2
trước Tây Lịch, còn cái kia thuộc thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch.
Trụ Đá Của Vua A Dục Trong Vườn Lộc Uyển
Đoàn tiếp tục thăm viếng trụ đá do vua A Dục
dựng lên. Theo truyền thuyết Phật giáo, thì vua A Dục là vị quốc vương đầu
tiên trong lịch sử Ấn Độ có liên quan đến vùng Sarnatha. Vào khoảng những
năm 250 trước Tây Lịch, vua A Dục, một trong những vị đại đế của triều đại
Khổng Tước (Maurya), một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Phật giáo mà rất
nhiều người đã gọi ông là một vị Á Phật. Ông đã tiến hành rất nhiều cuộc
chiến tranh xâm lăng các lân quốc nhỏ. Tuy nhiên, sau trận chiến tiêu diệt
bộ tộc Kalinga, những cảnh tượng giết chóc và bắt làm tù binh hàng trăm
ngàn người đã khiến cho lương tâm ông bị cắn rức, và ông đã quyết định
chuyển hướng bằng cách trở thành một Phật tử và dùng giáo pháp nhà Phật
làm kim chỉ nam trong việc trị dân. Sau đó ông đã vận dụng tất cả lòng
nhiệt thành và khả năng sẵn có của mình để truyền bá thông điệp của Đức
Phật đi khắp mọi nơi. Ông cũng là vị quốc vương Ấn Độ lần đầu tiên đích
thân đến Sarnatha chiêm bái và xây dựng trụ đá này để đánh dấu nơi Đức
Phật đã chuyển Pháp Luân lần đầu tiên và để kỷ niệm nơi Đức Phật thành lập
Tăng đoàn đầu tiên gồm năm anh em Kiều Trần Như, Da Sá (Yasa) cùng 54
người bạn trong thành Ba La Nại. Theo truyền thuyết Phật giáo thì trụ đá
này cao 15,25 mét (có sách viết cao trên 21 thước, tuy nhiên theo thiển ý
thì khó có lý để dựng lên một trụ đá giữa trời mà đường kính chỉ có 7 tấc
trong khi chiều cao lại lên đến trên 21 thước, như vậy giả thuyết trụ cao
15 thước có thể đứng vững hơn), có tượng hình 4 con sư tử trên đầu. Phần
chân trụ gồ ghề và đặt trên một nền đá lớn, phần thân trụ thon và thẳng,
đường kính bên dưới là 71 phân, đường kính bên trên trụ là 56 phân, trụ
được mài bóng láng trước khi khắc chỉ dụ của vua. Đây chẳng những là một
tác phẩm nghệ thuật vô giá trong kho tàng lịch sử Phật giáo và cũng là phế
tích có niên đại xưa nhất được tìm thấy trong khu Vườn Lộc Uyển này, mà
còn là một chứng liệu lịch sử xác thực của Phật giáo nữa. Trụ được làm
bằng một loại sa thạch tuyệt hảo, nên trải qua mười mấy thế mà nó không bị
thời gian tàn phá, ngược lại nếu không giảo nghiệm niên đại, người ta cứ
tưởng đây là những trụ đá mới là về sau này, vì chúng vẫn còn sáng chói.
Trụ đá A Dục đã bị vùi lấp vào quên lãng của thời gian cũng như không gian
qua nhiều thế kỷ. Mãi đến khoảng năm 1934, nhà khảo cổ Kittoe mới tìm thấy
một mảnh của trụ đá tại đây. Sau khi giảo nghiệm niên đại, người ta xác
nhận đây chính là trụ đá do vua A Dục dựng lên vào thế kỷ thứ ba trước Tây
Lịch để đánh dấu nơi Đức Phật và Tăng đoàn đầu tiên của Ngài được thành
lập. Tuy trụ đã bị gãy gần sát đất, nhưng những nét chỉ dụ của vua A Dục
trên đá vẫn còn đó. Hiện phần trên của trụ đá được chính phủ Ấn Độ cho đem
trưng bày trong Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Lộc Uyển, còn phần dưới và những
khúc gãy khác được để nguyên tại chỗ khai quật. Trên trụ đá có khắc ba tấm
bia ký và chữ trên bia ký là một loại chữ Phạn. Tấm bia thứ nhất trừ hai
dòng đầu bị bể nên không còn thấy rõ, phần còn lại hãy còn rất rõ ràng như
sau: “... Tăng đoàn không được chia rẽ. Bất cứ người nào, dù là quý thầy
hay quý cô phân chia bè phái, sẽ bị cho mặc y trắng và đuổi ra khỏi tự
viện. Sắc chỉ này phải được thông báo khắp công đồng Tăng và Ni. Đấng
hoàng đế đã dạy ‘Hãy sao chép lại sắc chỉ này và hãy dán ở những giảng
đường của tu viện một bản sao khác cho các Phật tử tại gia. Những Phật tử
tại gia đến bố tát cần phải biết những sắc chỉ này...” Tấm bia ký thứ hai
thuộc giai đoạn Kushan, có nhắc đến năm thứ 40 của vua Asvaghosha. Vị vua
này cai trị xứ Kausambi, nhưng cũng có thời chiếm cứ toàn cõi Ba La Nại và
Sarnath. Bia ký thứ ba được khắc vào thời đại Gupta, đề cập đến các tổ sư
của phái Chánh Lượng Bộ (Sammmitiya) và Độc Tử Bộ (Vatsiputraka). Phế tích
của những trụ đá tại Sarnatha hiện được xem như là những tích hùng hồn về
sự huy hoàng của Phật giáo từ đầu Tây Lịch đến thế kỷ thứ 12. Sau khi quan
sát những trụ đá tại đây, ngài Huyền Trang đã ghi lại trong Đại Đường Tây
Vực Ký như sau: “Về phía Tây Nam ngôi chùa có một tháp do vua A Dục xây
dựng, dù đã bị đổ nát nhưng vẫn còn một trụ đá bóng loáng, chẳng khác gì
ngọc thạch. Đây là những trụ đá nhẵn bóng như ngọc bích và chiếu sáng như
gương. Những ai đến đây chiêm bái vá thành tâm đảnh lễ, thì tùy theo lời
cầu nguyện của mình, sẽ thấy những hình ảnh tốt hay xấu ứng hiện. Chính
tại chỗ này, sau khi đắc thành đạo quả, Đức Phật đã chuyển Pháp Luân lần
đầu tiên.” Hiện nay người ta cho rào phế tích của trụ đá lại trong một
hàng rào sắt cao trên 2 mét để bảo vệ phần còn lại của nó. Tưởng cũng nên
nhắc lại là hiện nay hình trụ đá có hình sư tử trên đỉnh trụ đã trở thành
quốc huy của Ấn Độ, và trên quốc kỳ Ấn, bánh xe pháp nằm ở giữa cũng được
lấy ra từ trụ đá sư tử ở đây. Như vậy, Sarnatha chẳng những là niềm tự hào
cho nước Ấn dân Ấn, mà còn là niềm tự hào cho những Phật tử khắp nơi, và
cho cả thế giới nữa.
(Trụ đá do vua A Dục dựng lên tại Sarnath)
Tịnh Xá Mulagandhakuti
Trong khuôn Vườn Lộc Uyển
Trong khuôn
viên Vườn Lộc Uyển, Tích Lan đã xây một ngôi Tịnh Xá tên Mulagandhakuti
Vihara vào năm 1931 với lối kiến trúc giống như Đại Bảo Tháp tại Bồ Đề Đạo
Tràng để thờ xá lợi Phật. Theo các vị sự Tích Lan đang trụ trong chùa thì
ngôi chùa này được xây ngay trên nền của túp lều nguyên thủy nơi mà Đức
Phật đã từng trú ngụ trong thời gian Ngài ở Sarnath, vì vậy chùa mới có
tên là Hương Phòng Nguyên Thủy (Original Fragrant Hut). Theo lịch sử Phật
giáo Ấn Độ thì trong nhiều thế kỷ sau này, hương phòng của Đức Phật được
trùng tu nhiều lần và từ từ phát triển thành một ngôi chùa lớn mà Ngài
Huyền Trang có ghi lại trong Đại Đường Tây Vực Ký như sau: “Hàng rào lớn
của chùa cao khoảng 70 thước, trên mái hình cây xoài mạ vàng. Nền chùa
bằng đá và cầu thang cũng vậy, những ngôi tháp và khung thờ bằng gạch.
Những khung thờ được sắp xếp kế tiếp nhau và mỗi khung đều có thờ một
tượng Phật bằng đồng, kích thước bằng như Đức Phật thật và tượng ngồi ở tư
thế đang chuyển bánh xe pháp.”
(Tượng Đức Phật trong Tịnh Xá Mulagandhakuti Vihara
trong tư thế ngồi kiết già đang chuyển Pháp Luân tại
Sarnath)
Những Nền Tháp Khác Tại Sarnath
Ngoài những khu phế tích chính, Sarnath còn rất
nhiều tháp khác. Tháp Chaukhadi hình bát giác được vua Akbar xây vào năm
1588 trên một mô đất lớn, để tưởng niệm vua cha là Humayun đã đến chiêm
bái nơi này. Tháp Dharmarajika, gần trụ đá A Dục do chính vị vua này xây
vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch để thờ xá lợi Phật và cũng để
đánh dấu nơi chuyển Pháp Luân đầu tiên của Đức Thế Tôn. Trong những lần
khai quật cho thấy ngôi tháp này đã được xây thêm sáu lần rộng hơn ngôi
tháp nguyên thủy của nó. Nền tháp nguyên thủy thời vua A Dục có đường kính
là 13,49 mét, xây bằng loại gạch có kích thước 49,50 x 36,80 x 6,40 và
những loại gạch mỏng và nhẹ khác. Ngày trước khi ngài Huyền Trang đến đây
vào tiền bán thế kỷ thứ 7 (629) thì ngôi tháp hãy còn cao 30 mét, thế mà
hiện nay chỉ còn trơ lại một cái nền gạch cao không đầy một thước tây,
trông thật là tiêu điều buồn bã.
Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Sarnath
Bên kia khu
Thánh tích Sarnath là Viện Bảo Tàng Khảo Cổ Sarnath, được chính phủ thuộc
địa Anh bảo trợ và ông Vieroy Lord Curzon đứng ra xây cất vào năm 1905.
Đây là một trong những viện bảo tàng lâu đời nhất của Ấn Độ. Bên trong
trưng bày nhiều bộ sưu tập về mỹ thuật và điêu khắc Phật giáo đã khai quật
được tại khu Sarnath. Trong gian phòng lớn của viện người ta trưng bày trụ
đá có đầu sư tử. Đây là tác phẩm điêu khắc hùng vĩ thuộc nghệ thuật thời
Khổng Tước (Maurya), vào thế kỷ thứ ba trước Tây Lịch. Trụ này cao khoảng
2,31 mét, được chạm trổ rất khéo léo và sống động. Đây cũng chính là quốc
huy của nước Cộng Hòa Ấn Độ. Biểu tượng này cũng được thấy trên các đồng
bạc rupees của nước Ấn. Trong viện Bảo Tàng Sarnath còn có tượng Đức Thế
Tôn đang chuyển pháp luân, một kiệt tác dưới thời Gupta, với nét điêu khắc
tuyệt hảo, làm nổi bật ý chí và sức mạnh kiên cường của Đấng Thế Tôn, dù
Ngài đang ở trong tư thế thiền định tĩnh mặc. Nhìn pho tượng người ta thấy
ở Ngài toát ra đầy đủ những nét đại từ, đại bi, đại hỷ và đại xả của một
đấng đại giác. Đã qua rồi biết bao thịnh suy suy thịnh của Phật giáo tại
Sarnatha nói riêng, và trên khắp xứ Ấn Độ nói chung. Nhìn những pho tượng
mất đầu, gãy tay, gãy chân... có ai trong chúng ta tránh khỏi ngậm ngùi
chua xót cho số phận nghiệt ngã của Phật giáo trên đất nước này. Bên cạnh
sự vươn dậy của Ấn Giáo vào thế kỷ thứ mười, cùng với những ông vua tàn
bạo của đạo quân Hồi giáo thời đó như Muhammad Gori, Sultan Muhammad
Ghazani và Mughal, chỉ trong vòng không đầy ba thế kỷ (từ thế kỷ 11 đến
14), mà hầu như tất cả các đền đài chùa tháp Phật giáo đều bị đập phá tan
tành, tất cả kinh sách đều bị thiêu hủy, hàng chục hàng trăm ngàn
chư Tăng bị tàn sát một cách dã man. Ngày nay hầu như những phế tích
đã bị dìm sâu vào lòng đất, chỉ có một số ít được khai quật và phục hoạt
trở lại mà thôi. Nếu không nhờ những bài bút ký của các ngài Pháp Hiển và
Huyền Trang, cũng như nếu không có sự nhiệt tâm của các ngài đại tá
Mckenzee (1815), Alexander Cunningham (1835), Major Kittoe (1851), Thomas
(1853), Horn (1856), Oertel (1905), và Hargraves (1914), có lẽ giờ này các
Thánh tích ở Sarnatha và các nơi khác vẫn còn nằm yên trong lòng đất như
số phận nghiệt ngã của chính đạo giáo này trên đất Ấn.
Những Hình Ảnh Khác Tại Vườn Lộc Uyển
(Bên ngoài khu Lộc Uyển-Ba La Nại)
(Bia tưởng niệm tháp Chakhandi-Ba La Nại)
(Tháp Chaukhandi nhìn từ xa-Ba La Nại)
(Khu phụ cận Lộc Uyển nhìn từ đỉnh tháp Chaukhandi)
(Trên đỉnh phế tháp Chaukhandi-Ba La Nại)
(Chụp hình lưu niệm tại Lộc Uyển)
(Tháp Dhamek uy nghi sừng sững trong Vườn Lộc Uyển)
(Phế tháp Dhamek hầu như còn nguyên vẹn trong khu Lộc
Uyển-
Chỉ mất những tượng Phật chung quanh tường tháp)
(HT Thích Giác Nhiên đang hướng dẫn đoàn đi nhiễu
quanh tháp Dhamek)
(Bên trong vườn Lộc Uyển-Ba La Nại)
(Phế tích những tịnh xá trong khu Lộc Uyển)
(Những chú nai trong Vườn Lộc Uyển)
(Nền các phế tháp nhỏ-Lộc Uyển)
(Chụp hình lưu niệm tại phế tháp-Lộc Uyển)
(H T Giác Nhiên tại khu phế tháp-Lộc Uyển)
Viện Bảo Tàng Varanasi
Sau khi thăm viếng vườn Lộc Uyển, đoàn chúng tôi
ra xe tiếp tục đi thăm viện bảo tàng Varanasi và đảnh lễ xá lợi Phật. Đây
cũng là một trong những viện bảo tàng lớn của Ấn Độ. Tuy nhiên, không như
tại viện bảo tàng Sarnath, viện bảo tàng Varanasi trưng bày di tích của cả
Ấn giáo lẫn Phật giáo. Vì thế có rất nhiều vị trong đoàn, dù đã đi đến tận
nơi nhưng lại không chịu vào, có lẽ các vị chỉ thích thú thăm viếng và
chiêm bái những gì có liên quan đến Phật giáo mà thôi.
(Xá lợi Phật tại viện Bảo Tàng Vanarasi)
(Nền văn minh Harappan trong lưu vực Ấn Hà)
(Triều đại Maurya từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 3
trước TL)
(Triều đại Satavahana từ thế kỷ thứ 2 trước TL đến
thế kỷ thứ 2 sau TL)
2:00 giờ chiều về lại khách sạn ăn trưa. Sau đó,
lúc 3:00 giờ chiều Hòa Thượng ngỏ lời cảm ơn và tán thán công đức của chư
Tăng Ni và Phật tử trong đoàn hành hương. 4:00 giờ chiều ra ga Varanasi,
và lúc 6:30 giờ chiều đáp tàu Shiv Ganga Express trở về Delhi.
7:30 giờ sáng ngày 9 tháng 12, 2005, đoàn về
đến Delhi. Đoàn Canada và Hòa Thượng nghỉ tại khách sạn Grand, trong khi
đoàn từ Mỹ và Pháp nghỉ tại khách sạn Tourist. Cả buổi chiều ngày 9 tháng
12, đoàn tự do đi mua sắm quà.
Đền Taj Mahal-Agra
5:00 giờ sáng ngày 10 tháng 12, đoàn khởi hành
đi Agra thăm viếng đền Taj Mahal.Từ Delhi đi Agra, dù đường tương đối tốt,
chúng tôi vẫn phải đi trên 2 giờ xe buýt. Đền Taj Mahal là một trong bảy
kỳ quan của thế giới. Nó là niềm tự hào của dân tộc Ấn Độ. Đền được xây
vào thế kỷ thứ 16, với lối kiến trúc cẩm thạch trắng khá độc đáo, nghệ
thuật điêu khắc tỉ mỉ và sắc xảo. Sau đó đoàn đi qua Agra Fort thăm viếng
cung điện của nhà vua. Từ bên cung điện này có thể nhìn thấy đền Taj Mahal
rất rõ ràng.
Đoàn về đến Delhi lúc 10:30 giờ tối cùng ngày.
(Đền Taj Mahal, được vua Mughal thuộc triều đại Shah
Jahan xây dựng
vào năm 1648 tại tỉnh Agra, cách New Delhi khoảng 200
cây số về phía Đông Nam)
(Taj Mahal-Agra, nhìn từ cổng vào)
(Bia tưởng niệm nơi cổng vào đền Taj Mahal-Agra
(Cổng cung điện Amar Singh tại Agra-Được vua Akbar
xây năm 1565)
(Bên hông hoàng cung của vua Akbar)
(Đền Ấn giáo về đêm-New Delhi)
9:00 giờ sáng ngày 11 tháng 12, đoàn đi thăm
Viện Bảo Tàng New Delhi, chiêm bái xá lợi Phật. Sau đó một số anh em trong
đoàn tiếp tục thăm viếng đền Bahai hoặc khu lưu xá của Tăng Ni sinh tại
New Delhi.
(Khu lưu xá Tăng sinh-New Delhi)
5:30giờ chiều ngày 11 tháng 12, 2005, Hòa Thượng
cùng phái đoàn họp mặt với Tăng Ni sinh du học Ấn Độ tại khách sạn Ashoka,
New Delhi. Đây là cơ hội cho chư Tăng Ni sinh thăm viếng vấn an sức khỏe
của Hòa Thượng, và cũng là cơ hội để các Phật tử khắp nơi từ Mỹ, Canada và
Pháp gặp gỡ Tăng Ni sinh tại Ấn Độ. Trong buổi họp mặt này, Hòa Thượng
cũng gặp gỡ thăm hỏi sức khỏe và việc học tập, cũng như khuyến tấn, tặng
quà và một số tịnh tài cho Tăng Ni sinh.Hòa Thượng nói trong sự xúc động
mạnh: “Trước khi đến thăm quý vị, tôi đã mang theo mình một số tịnh tài,
nhưng thấy số tịnh tài ấy không thấm vào đâu nên tôi đã làm một chuyến
hoằng pháp ở Úc trong vòng một tháng, từ 30 tháng 10 đến 25 tháng 11, tôi
đã thuyết trên 50 thời pháp, đồng thời kêu gọi thêm sự đóng góp của các
Phật tử ở Úc Châu. Tôi nói vì tôi đã quá già, nay đã 84 tuổi, có thể đây
là lần cuối cùng tôi sang đây giúp đỡ quí vị, nên ai cũng hết lòng hỗ
trợ.” Lời nói chân tình của Hòa Thượng làm cho người người có mặt trong
buổi họp mặt hôm đó đều ngấn lệ lưng tròng. Buổi họp mặt chấm dứt trong
không khí luyến tiếc ngậm ngùi. Lúc ra về, một vị Tăng sinh đang du học
tại Ấn Độ chia sẻ với chúng tôi: “Nguyện cầu hồng ân Tam Bảo gia hộ cho
Hòa Thượng luôn pháp thể khinh an, để Ngài tiếp tục hoằng pháp độ sanh,
tiếp tục ban rải tình thương và lòng từ đến cho mọi người, để Tăng Ni
sinh chúng con thỉnh thoảng tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Ngài.”
Riêng thầy Chúc Thông từ Đài Loan tâm sự: “Tôi là thầy tu Bắc Tông, nhưng
khi gặp được Hòa Thượng, lòng từ bi nhân ái của Ngài khiến tôi không còn
thấy đâu là bờ mé của Bắc Nam nữa. Đức độ của Hòa Thượng vượt hẳn bờ mé
của bất cứ sự phân biệt nào nếu có.”
Hình Ảnh Trong Ngày Họp Mặt Với Tăng Ni Sinh Tại New Delhi
(Tăng Ni sinh và đoàn hành hương mừng sinh nhật lần
thứ 84
của Hòa Thượng Giác Nhiên-Delhi)
(Chiếc bánh sinh nhật đầy tình nghĩa của Tăng Ni sinh
và đoàn
hành hương dành cho Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác
Nhiên)
(Họp mặt Tăng Ni sinh-New Delhi 11/12/05)
(Họp mặt chia tay trong bùi ngùi xúc động)
(Chư Tăng Ni sinh tại Delhi đang lắng nghe những lời
nhắn nhủ của
Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên)
(Trước khi lên đường trở về Mỹ HT Thích Giác Nhiên đã
ghé lại
nhà Tập Thể nhắn nhủ Tăng Ni sinh trong Giáo Hội
Khất Sĩ)
11:00 giờ tối ngày 11 tháng 12, đoàn đưa tiễn
đoàn Canada do Thầy Minh Giác hướng dẫn lên máy bay về lại Canada.
Sáng ngày 12 tháng 12, đoàn Mỹ đi tour Delhi.
Đoàn chúng tôi có người ở lại khách sạn nghỉ ngơi, có người tháp tùng chư
Tăng Ni sinh du học ở Ấn Độ đi thăm viếng khu trường Đại Học Delhi và phân
khoa Phật Học. Sau đó chúng tôi đi mua sắm một ít quà lưu niệm rồi trở về
lại khách sạn.
11:00 giờ sáng ngày 13 tháng 12, Hòa Thượng cùng
đoàn lên đường trở về Mỹ. Và khuya hôm đó đoàn 4 người từ Canada gồm các
anh chị Thiện Minh, Thiện Tài, Thiện Hiếu và chị Mỹ cũng lên đường trở về
Canada.
Cuộc hành hương chiêm bái Phật tích của chúng
tôi coi như đã hoàn mãn, nhưng hương vị của cuộc hành trình thiêng liêng
vẫn còn phảng phất trong tâm tư của mỗi người chúng ta. Đã chiêm bái hết
các Thánh tích, đã nghe hầu hết các truyền thuyết cũng như chánh sử Phật
giáo về Đức Phật, chúng ta mới thấy được sự bình dị và mộc mạc của chính
Đức Phật. Lúc nào Ngài cũng hòa mình với thiên nhiên, với cỏ cây, với đất
trời. Tại Lâm Tỳ Ni, chúng ta thấy dù là con của một vị vua trị vì một
vương quốc trú phú, nhưng khi sanh ra Ngài không sanh ra trong cùng vàng
điện ngọc, giữa nệm ấm chăn êm, mà lại sanh ra giữa một vườn cây thiên
nhiên của núi rừng. Khi lớn lên, Ngài không khứng chịu cảnh sống trong
kinh thành tráng lệ nguy nga với một cuộc sống xa hoa trong khi thần dân
của Ngài hãy còn trầm luân trong thống khổ triền miên. Thế nên Ngài đã rời
bỏ cung vàng điện ngọc, ra đi về với núi rừng để tầm đạo giải thoát. Khi
Ngài thành đạo, Ngài cũng thành đạo dưới cội Bồ Đề bên dòng Ni Liên Thiền,
cũng trên một vùng đất hoang dã của khu Gaya. Lúc chuyển Pháp Luân, Ngài
đã làm rung chuyển đất trời trong một khu vườn Nai thanh u tịch mịch chứ
không tại một đền tháp nào như bao nhiêu đạo sĩ thời bấy giờ. Để rồi cuối
cùng trước khi nhập diệt, Ngài lại cũng đi về một nơi vắng vẻ của vùng Câu
Thi Na mà buông bỏ xác thân tứ đại giữa hai cây Sa La song thọ. Ngài thật
là một vĩ nhân, một bậc Đại Giác “Vô tiền tuyệt hậu.” Ngài là một bậc
Thánh đã khai mở chân lý giải thoát cho chúng sanh mọi loài, rồi sau đó
Ngài an nhiên ra đi, không muốn để lại một dấu tích nào tại những nơi
hoang dã. Thế nhưng đời sau chúng con vẫn muốn tìm về những dấu tích ấy,
dù những nơi ấy ngày nay chỉ còn trơ lại những nền tháp hay những đống
gạch vụn vỡ. Nhưng đối với chúng con, nó là di tích khai sanh ra một nền
văn hóa thật vĩ đại, thật tuyệt vời mà chúng con đang thọ hưởng. Riêng đối
với dân tộc Việt Nam chúng ta, đạo Phật và dân tộc quê hương tương quan
như xương máu với thịt da. Sự thịnh suy thăng trầm của đạo pháp và đất
nước đã bao đời nay gắn liền nhau như hình với bóng. Hình ảnh đấng cha
lành lại một lần nữa đậm nét trong mỗi chúng ta. Ngài cũng là một con
người như bao người chúng ta nhưng Ngài đã dũng cảm vượt thoát khỏi bờ mé
sanh tử để tìm đường giải thoát cho chúng sanh vạn loài. Chính vì vậy mà
từng nơi chúng ta chiêm bái, từng chiếc lá Bồ Đề rơi rụng trong Bồ Đề Đạo
Tràng, từng đống gạch vụn vỡ nơi vườn Lâm Tỳ Ni và Thành Ca Tỳ La Vệ, hay
từng nhúm cát, từng giọt nước trên sông Hằng, hoặc những chú nai vàng ngơ
ngác trong vườn Lộc Uyển... đều là những bài pháp thật, những món quà muôn
thuở mà Đức Thế Tôn như muốn trao truyền lại cho chúng ta trong lần trở về
tìm lại cội nguồn này. Và ai trong chúng ta đều vẫn còn mang tâm trạng
ngậm ngùi, dù là con Phật ai cũng hiểu rõ luật vô thường, nhưng làm sao
khỏi ngậm ngùi cho một thời hoàng kim của những nơi thiêng liêng, những
nơi đã từng lưu lại bóng dáng của đấng cha lành. Ngậm ngùi cho thân phận
kém phước vô duyên nên không được sanh ra vào thời có Phật, để rồi hôm nay
dù có diễm phúc được đến đây, đến tận nơi, thấy tận mắt những dấu tích một
thời đã ôm ấp bước chân Phật, chỉ còn biết xúc động và tự hứa với lòng
quyết chí đi theo bước chân Ngài. Chúng con xin nguyện đem sự tinh tấn tu
trì nơi tự thân cúng dường lên chư Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật