...... ... |
. |
Thỏng Tay vào Chợ
TT. Thích Đức Thắng
---o0o---
Sau khi chúng
ta được các ngài hướng dẫn chỉ bày, và đánh thức mọi trói buộc đã được
thể hiện trong cuộc sống của mỗi chúng ta; qua đó vọng tâm phân biệt
chấp trước, nó làm chủ tạo ra mọi cái nhìn sai lạc cho mọi hành động,
theo đó nghiệp nhân được hình thành, và hiện hữu qua cái gọi là quá khứ,
hiện tại, vị lai trong ba cõi sáu đường. Trong khi đó, cũng cuộc sống
này có những lúc lại có những hành động, lời nói của chúng ta được thể
hiện ra như là vô tình bất chợt, nên chúng ta không để ý chúng, vì chúng
không bị trí năng ý chí can thiệp vào nên trở thành vô tác dụng đối với
trí năng phân biệt của chúng ta. Do đó, chúng trở thành như là không
hiện hữu giữa cuôsống của chúng ta. Nhưng thật ra những thể hiện này
chính là những cái đáng được thấy đáng đuợc biết. Cái đó được các ngài
dùng để chỉ thẳng cho chúng ta, vì chúng tự thể hiện cái tâm vô phân
biệt. Cái được thể hiện này chúng tôi tạm gọi là cái bản lai diện mục
xưa nay của mỗi chúng ta, cái bản lai diện mục này vẫn thường thê堨iện
ra bên ngoài, trong cuộc sống của chúng ta, một cách trần truồng như một
vô vị chân nhân, thường hay ra vào nơi mặt mũi trong một cục thịt đỏ au
của mỗi người chúng ta như ngài Lâm Tế đã bảo. Cái mà thường ngày nó ra
vào đó, chính là cái mà ngài Huệ Năng đã từng chỉ dạy cho Huệ Minh
thượng tọa khi ông hỏi pháp. Huệ Năng bảo:
"- Nhà
ngươi đã vì pháp mà đến, thì hãy dẹp bỏ các duyên chớ sanh một niệm,
ta sẽ vì nhà ngươi mà nói rõ trong giây lát. Ngài bảo tiếp:
- Không
nghĩ thiện không nghĩ ác, ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của
Huệ Minh thượng tọa?
Ngay câu
nói này Huệ Minh đại ngộ."
Huệ Minh đã ngộ
được cái chi đây? Phải chăng ông đã nhận ra được cái bản lai diện mục
xưa nay của chính mình qua: "Không sanh một niệm và, không nghĩ thiện
không nghĩ ác?"Ở đây, vừa phủ định vừa khêu gợi để cho người đối thoại
tự nhận ra mình, theo đó Huệ Minh đã đủ lanh cơ để nhận diện. Lúc này là
lúc chính cuộc sống vô sự của chúng ta được thể hiện qua biểu tượng vô
phân biệt. Không phải 'Chớ sanh một niệm, không nghĩ thiện không nghĩ ác'
chúng không có bất cứ một sự sinh hoạt nào, mà chính nó là nếp sống, bề
ngoài xem như là tiêu cực, nhưng thật sự bên trong chúng mang một tính
tích cực vượt thoát. Chính vì tính tích cực vượt thoát này, nên trong
mỗi hành động của chúng ta được thể hiện tự tại không bị trói buộ, hay
lệ thuộc vào bất cứ khái niệm hóa nào. Do đó, khi tâm vô sự của các
thiền sư hay của chúng ta thể hiện thì, đối với các duyên giờ đây không
còn là đối tượng để "đoạn tuyệt"nữa, vì tự thân chúng không mang một rắc
rối chướng ngại nào cả, mà chúng luôn luôn tự dung thông vô ngại đối với
mọi pháp, như Linh Hựu đã trả lời nhân Huệ Tịch hỏi:
"- Trăm
ngàn muôn cảnh cùng lúc đến thì phải làm thế nào?
Linh Hựu
đáp:
- Xanh
chẳng phải là vàng, dài chẳng phải là ngắn; các pháp tự chúng ở vào
địa vị của chúng chẳng can hệ gì đến công việc của ta."
Khi thiền sư
không khởi tâm phân biệt đối với cuộc sống, thì đối với các duyên bên
trong hay bên ngoài, giờ đây trở thành không can hệ và lệ thuộc nhau, vì
tự thân chúng (tâm và vật) không mang bất cứ một ý niệm thủ-xả,
thường-đoạn, có-không, dài-ngắn, tốt-xấu, một-khác, sanh-diệt hay bất cứ
một hiện tượng nào khi chúng hiện hữu hay biến dịch, mà qua đó chúng nói
lên được một sinh hoạt sống động linh nghiệm qua cuộc sống trong cuộc
chơi: "Tuỳ duyên pháp hiệp, xứng vật dụng thành. Tuỳ duyên pháp biến,
theo vật dụng thông." Tooàn thể cuộc sống này được hiện hữu trong cái
Hiệp và Biến không mang bất cứ nhãn hiệu nào; chúng không thuộc về tâm
hay vật, hay không phải tâm-vật, mà chúng thể hiện cái nhiệm màu dung
nhiếp một cách sinh động vô ngại.
Ở đây, chính
cái vô sự của toàn thể cuộc sống đã nói lên được cái lẽ đang hiệp-biến
tùy duyên, mà chúng tôi tạm gọi là: "Đương-Niệm"trong cái toàn thể "Đang-là"của
chúng xuyên qua cái cá-biệt không can hệ. Từ đó, chúng quyết định được
sự giải thoát toàn thể cuộc sống của thiền sư qua cái nhìn trói buộc của
chúng ta như là xa lạ, như vua Lý thái Tôn hỏi Thiền Lão một thiền sư
Việt Nam.
"Lý thái
Tôn hỏi Thiền Lão:
- Hòa
thượng ở núi này được bao lâu?
Thiền Lão
đáp:
- Chỉ biết
ngày tháng này,
Ai rành
xuân thu trước.
Vua hỏi:
- Hằng ngày
làm việc gì?
Thiền Lão
đáp:
- Trúc biếc
hoa vàng không ngoài cảnh,
Trăng trong
mây bạc hiện toàn chơn.
Vua hỏi:
- Có ý chỉ
gì?
Thiền Lão
đáp:
- Nhiều lời
sau không ích!"
Con người đang
ở trong hiện tại mà không biết sống cho hiện tại, luôn luôn sống cho quá
khứ và tương lai ở bên ngoài giây phút hiện tại này! Ở đây, họ đã đánh
mất chính họ, nghĩa là họ đã đánh mất tất cả cái toàn thể ngay bây giờ
và tại đây mà họ không biết. Họ luôn luôn muốn tìm hiểu chúng ngoài cuộc
sống này, họ loại bỏ cuộc sống nhiệm mầu hiện có nơi họ. Vì vậy các
thiền sư luôn luôn dùng cuộc sống chính mình và môn hạ, để chị cho họ
cách nhìn cách sống nơi chính dòng sống nơi mỗi người đang thể hiện, mà
họ không nhận thấy, như thiền sư Đạo Ngộ đã dạy môn đệ mình.
"Một hôm
Sùng Tín thưa Đạo Ngộ:
- Từ ngày
con vào đây cho đến giờ, mà chưa được thầy chỉ dạy tâm yếu!
Đạo Ngộ bảo:
- Từ ngày
nhà ngươi vào đây, ta chưa từng chưa chỉ dạy tâm yếu cho nhà ngươí!
Sùng Tín
thưa:
- Chỉ dạy ở
chỗ nào?
Đạo ngộ bảo:
- Ngươi
dâng trà ta vì ngươi mà tiếp, ngươi bưng cơm đến ta vì ngươi mà nhận,
ngươi xá lui ta vì ngươi mà gật đầu. Chõ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu
đây!? Gã cuối đầu lặng thinh giây lâu.
Đạo Ngộ bảo:
- Thấy thì
ngay đó thấy liền, suy nghĩ liền sai. Ngay câu nói này sư được khai
ngộ."
Tâm yếu là gì?
Ở đâu? Tại sao phải tìm kiếm? Trong khi cuộc sống đơn sơ bình thường
hằng ngày chúng ta lại bỏ quên, không màn để mắt đến để nhìn ra cái như
thật chính nó như ngài Nam Tuyền đã từng dạy: "Bình thường tâm thị Đạo:
Tâm bình thường là Đạo." Ở đây, tâm bình thường luôn luôn được thể hiện
ra bên ngoài, trong những hành động bình thường hằng ngày trong cuộc
sống của chúng ta, mà chúng ta đã bỏ quên, chỉ vì chúng xuất hiện từ tâm
vô phân biệt, do đó cái hiệu quả tác dụng là vô sự đối với trí năng phân
biệt, thành ra cái hậu quả trói buộc cũng theo đó trở thành không hiện
hữu. Đó cũng chính là cái kỳ đặc của thiền sư Tịnh Không (Việt nam) trả
lời cho một vị tăng.
"Tăng hỏi
Tịnh Không:
- Hoà
thượng có việc kỳ đặc, tại sao không nói cho người học biết?
Tịnh Không
đáp:
- Ông thổi
lửa tôi vo gạo, ông khất thực tôi cầm bát, ai phụ ông đâu?! Nghe qua
vị tăng liền tỏ ngộ."
Qua những trích
dẫn trên, cho chúng ta một cái nhìn mới về tâm. Khi tâm vô phân biệt
được thể hiện ra bên ngoài, thì hành động vô sự không có tác dụng đối
với trí năng, do đó cuộc sống của chúng ta không bị trói buộc đối với
bất cứ duyên nào, cho dù là ờ bên trong hay bên ngoài nữa. Chính cái
nhìn mới toanh này, giờ đây mới thấy được cuộc sống phiêu bồng vô ngại
của các thiền sư trong cái lẽ tuỳ duyên. Ở đây, vì tùy duyên nên vấn đề
buông-giữ không cò tác dụng nữa, và vì vậy cho nên cái Đương-là vô phân
biệt đó, chính là mặt động của phản diện tĩnh của Đương-niệm chú không
gì khác hơn. Động (dụng) Tĩnh (thể) của một toàn thể, chúng không phải
là một cũng không phải là khác. Do đó, sự xuất hiện của chúng, giờ đây
mang một bộ mặt mới toanh, hoàn toàn không bị trí năng phân biệt can
thiệp vào, và sự thể hiện này trở thành toàn thể sung mãn căn đầy nhiệm
mầu tự tại. Giây phút này là giây phút đúng lúc của bắt đầu và chung
cuộc Đương-là của cuộc sống các thiền sư mà qua đó, chúng xuất hiện như
chính chúng ta đã từng thấy trong cuộc sống bình thường hằng ngày của
chúng ta.
"Một hôm
Thúy Vi dâng lễ vật cúng dường cá vị A-la-hán, một ông tăng hỏi sư:
- Đơn hà đã
cho Phật gỗ vào lửa, sao thầy còn lễ bái A-la-hán?
Sư đáp:
- Trong lửa
mà chẳng cháy. Về việc lễ A-la-hán hãy để một mình ta."
Ở đây, rõ ràng
vì tâm phân biệt của phàm tăng cho nên việc lễ bái A-la-hán trở thành có
vấn đề trở ngại, trong cái lệ thuộc thủ đắc bỡi hành động của Đơn Hà, và
cho đó là một biện pháp khả thi để thủ đắc, chính vì phân biệt cho nên
có trở ngại. Ngược lại, các vị thiền sư vì không có chỗ khả đắc, cho nên
việc làm của các ngài trở thành tự tại như trường hợp Vân Nham dạy chúng.
"Vân Nham
dạy chúng:
- Có đứa
trẻ nhà kia, khi hỏi đến không gì không đáp được.
Động Sơn
Lương Giới hỏi:
- Ở trong
đó kinh sách nhiều hay ít?
Đáp:
- Một chữ
cũng không.
Hỏi:
- Sao biết
được nhiều vậy?
Đáp:
- Ngày đêm
chưa từng ngủ.
Hỏi:
- Làm một
việc được không?
Đáp:
- Nói được
nhưng chẳng nói."
Ngày đêm chưa
từng ngủ là con đường Đại định của Đương-niệm hiện tiền trong tùy duyên
bất biến. Chính nhờ tùy duyên bất biến này, nên khi hỏi đến không gì
không đáp được, không gì không làm được, vì chúng thể hiện con đường tự
tại vô phân biệt. Đó cũng là con đường mà ngài Mã Tổ-Đạo Nhứt đã áp dụng
vào phương pháp dạy người của ngài.
"Mã Tổ bảo:
- Ta có khi
dạy Y nhướng mày chớp mắt, có khi không dạy Y nhướng mày chớp mắt.
Có khi nhướng mà chớp mắt là phải, có khi nhướng mày chớp mắt không
là phải, ngươi làm sao?
Ngay câu
nói này Dược Sơn khế ngộ, bèn lễ bái.
Mã Tổ hỏi:
- Ngươi
thấy đạo lý gì mà lễ bái?
Dược Sơn
thưa:
- Con ở chỗ
Thạch Đầu như con muỗi đậu trên trâu sắt.
Mã Tổ bảo:
- Ngươi đã
biết nyhư thế thì nên tự khéo léo giữ gìn!"
Duyên phải
duyên không phải tự chúng không có ý phân biệt, cho đến tâm như một con
trâu sắt cũng vậy, và chính con muỗi đang thể hiện cái "Vô trụ xứ"của
mình trên con trâu sắt. Ở đây, mọi việc trở nên thông suốt, tự tại không
trói buộc nhau. Lúc này là lúc tự do được thể hiện trọn vẹn trong dòng
sống, do đó ở đây không gì không là Đạo, như Huệ Tịch và Trí Nhàn thể
hiện qua cuộc trắc nghiệm của Linh Hựu.
"Linh Hựu
vừa thức giấc, Huệ Tịch vào thăm hỏi, Linh Hựu liền xoay mặt vào
vách, Huệ Tịch thưa:
- Hoà
thượng không được như vậy!
Linh Hựu
chỗi dậy bảo:
- ta vừa
nằm mộng thấy một điềm, con có thể vì ta đem lại xem.
Huệ Tịch
liền lấy thau múc một thau nước đem lại cho sư. Sư rửa mặt xong,
giây lát Hương Nghiêm Trí Nhàn cũng đến thăm hỏi, Sư bảo:
- Vừa rồi
ta nằm mộng thấy một điềm, Huệ Tịch Ngưỡng Sơn đã vì ta đem lại cho
ta xem rồi, nhà ngươi cũng nên đem lại cho ta xem thử !
Hương
Nghiêm liền đi rót một chung trà mang đến.
Sư bảo:
- Hai con
thấy hiểu còn hơn cả Xá-lợi-phất."
Giờ đây bảo gì
không là Đạo. Trắng đen vàng tía xanh lam đỏ thắm, ngắn dài, tốt xấu là
gì đi nữa mà tự chúng không có niệm phân biệt, thì đối với người thể
hiện tâm vô phân biệt có gì là sai trái chướng ngại đâu. Xuôi ngược tuỳ
duyên, xuống lên tự tại nào buộc nào vương, tâm vật nhất như ngoài tâm
không khác. Ở đây, mọi chuyện không gì là không nhiẹm mầu dung nhiếp,
như Đại Mai đã thể hiẹn trong cuộc sống của chính mình khi được Mã Tổ
trắc nghiệm.
"Mã Tổ nghe
Đại mai lên núi ở, bèn sai một người đến thăm dò, tăng đến hỏi Đại
Mai:
- Hoà
thượng gặp Mã Tổ được cái gí mà về ở núi này?
Sư đáp:
- Mã Tổ nói
với tôi "Tức tâm tức Phật"tôi bèn ở núi này.
Vị tăng
thưa:
- Gần đây
Mã Tổ nói "Phi tâm phi Phật."
Đại mai nói:
- Ông già
mê hoặc người chưa lúc nào nghỉ. Mặc ông phi tâm phi Phật, tôi chỉ
biết tức tâm tức Phật.
Vị tăng trở
về thưa lại Mã Tổ những lời sư nói. Mã Tổ bảo với đại chúng:
- Trái Mai
(me) đã chín rồi."
Khi tâm thức đã
chín mùi bùng vỡ thì còn gì để chướng ngại trong cuộc sống nữa. Giờ đây
dù nói ngược nói xuôi, nói phải nói quấy đều là những thể hiện nhiệm mầu
của cuộc sống, có gì sai trái nhau đâu. Khi mê thì có tâm có Phật, có
mọi thứ thể hiện đối lập ngăn cách nhau, còn khi ngộ ra rồi chúng đâu có
ngăn cách sai biệt nữa. Vì vậy mà việc thể hiện hằng ngày của các thiền
sư trong cuộc sống luôn luôn tự tại thong dong, như thiện sư Viên Chiếu
(Việt Nam) đã trả lời nhân một vị tăng hỏi:
"Tăng hỏi
Viên Chiếu:
- Nếu gặp
lúc cấp bách đôi đường thì sẽ xử sự như thế nào?
Viên Chiếu
đáp:
- Trượng
phu theo phóng khoáng
Trăng gió
hãy vui chơi."
Giờ đây cái gì
không thể hiện việc vui chơi. Tất cả giờ đây đều trở thành một trò đùa
không hơn không kém. Một trò đùa vô tư lự, không mang bất cứ một giá trị
nào được áp đặt lên chúng, để biến chúng trở thành cái xác chết cứng
nhắc không hồn, mà chúng luôn luôn thể hiện một cách linh động uyển
chuyển, tuỳ theo duyên khởi Hiệp-biến mà thể hiện cái tâm vô phân biệt,
không dính mắc đối với cuộc sống. Ở đây, sẽ rõ ràng hơn trong cung cách
thể hiện tâm không phân biệt vượt thoát trong cuộc sống được Linh Hựu và
Vân nham thể hiện qua cuộc đối thoại sau.
"Linh Hựu
hỏi Vân nham:
- Nghe nói
huynh ở Dược Sơn lâu lắm phải không?
Vân Nham
đáp:
- Phải.
Linh Hựu
hỏi:
- Tướng
Dược Sơn đại nhơn như thế nào?
Vân Nham
đáp:
- Sau khi
Niết bàn mới có.
Linh Hựu
hỏi:
- Sau khi
Niết bàn mới có là thế nào?
Vân Nham
đáp:
-Rưới nước
chẳng dính.
Vân Nham
hỏi lại Linh Hựu:
- Bách
Trượng đại nhơn tướng thế nào?
Linh Hựu
đáp:
- Chững
chạc vòi vọ, sáng suốt rực rỡ. Trước tiếng chẳng phải tiếng, sau sắc
chẳng phải sắc. Con muỗi đậu trên trâu sắt, không có chỗ cho huynh
cắm mỏ."
Cái gì rưới
nước chẳng dính, cái đó không bị nhiễm; cái gì cắm mỏ vào mà không có
chỗ để cắm, thì cái đó không rỉ lậu. Ở đây tâm vô phân biệt của các
thiền sư được thể hiện một cách tự do tự tại không nhằm bất cứ một chủ
đích nào cả. Do đó cũng không có bất cứ một hậu quả nào khả dĩ tác động
trong tương lai, và vì vậy hệ thống nhân-quả sẽ không còn can hệ lệ
thuộc vào cuộc sống của các ngài, mặc dù các ngài sống với nó như muôn
ngàn các duyên khác. Đây cũng là nếp sống mà thiền sư Thạch Đầu đã từng
tuyên bố.
"Một hôm
Thạch Đầu tuyên bố như vầy:
- Dù các
ông có nói gì, các ông có hành xử như thế nào, nhưng những điều như
thế vẫn không liên hệ gì đến cái đó.
Duy Nghiêm
ở Dược Sơn luận giải lời tuyên bố ấy như vầy:
- Ngay cả
khi các ông không nói gì, ngay cả khi các ông không hành xử theo
cách nào hết; nhưng nhũng điều như thế cũng không liên hệ gì đến cái
đó.
Thạch Đầu
bảo:
- Ở đây dù
muốn cắm mũi kim cũng chẳng có chỗ.
Duy Nghiêm
nói:
- Ở đây
giống như người trồng hoa trên đá."
Có nói hay
không có nói, hành xử hay không hành xử, thì cũng không liên hệ đến
cái đó. Vậy, cái đó là cái gì? Trong khi chúng vẫn luôn luôn hiện
hữu tất cả thời tất cả nơi, mà vẫn không có chỗ để cắm mũi kim, không có
chỗ để bám rễ, hay chính hoa không thể nào ccó thể ra rễ được. Ở đây,
nếu có chỗ để cho hoa bám rễ thì điều đó sẽ báo hiệu cho chúng ta một sự
lệ thuộc đang hiện hữu; hay có chỗđể cắm được mũi kim thì chính chỗ đó
đang rỉ lọt. Cả hai điều này nói lên tánh cách mất tự tại của cuọc sống
chúng ta, nhưng ở đây thiền tông luôn luôn thể hiện nếp sống tự tại giải
thoát ngay trong dòng sống. Do đó những gì được thể hiện ra bên ngoài mà
mang tánh cách trói buộc lệ thuộc thì không phải là nếp sống của thiền
tông. Cho nên từ điều kiện không điều kiện này, đã tạo ra bước đi phiêu
bồng tự tại. Các thiền sư tự thân đã không bị lệ thuộc vào các duyên,
thì các duyên tự chúng cũng chả can hệ gì đến các ngài. Do đó, cho dù
chúng đã bị tâm phân biệt con người áp đặt lên tự thân chúng những nhãn
hiệu mà tự thân chúng không có, thì đối với cái hậu quả không hậu quả
của vô sự giữa chúng và các thiền sư sẽ trở thành tự tại vô ngại.
Ở đây, mọi giá
trị luân lý đạo đức theo cuộc sống thế tục của nhân-quả nhị nguyên, đều
bị hành động của các thiền sư vô hiện hóa, bỡi sự thể hiễn vô phân biệt
vượt thoát này, mặc dù đối với giá trị nhân-quả của chúng ta là một điều
tối kỵ. Đó là bước đi tự tại được thể hiện qua cuộc sống, vừa đoiidi trị
vọng chấp, vừa đem lại hiệu quả chuyển đổi đột biến trong lối nhìn và
bước đi kế tiếp của hành giả. Ở đây, mọi trở ngại mâu thuẫn sai biệt đều
không hiện hữu, nên vấn đề thắc mắc tại sao như thế này mà không như thế
kia hay ngượ lại như ngài Triệu Châu đã thể hiện.
"Triệu Châu
hỏi một vị tăng mới đến:
- Đã từng
đến đây chưa?
Tăng thưa:
- Đã từng
đến.
Sư bảo uống
trà đi, sư lại hỏi một vị tăng khác:
- Đã từng
đến đây chưa?
Tăng thưa:
- Chưa từng
đến.
Sư bảo uống
trà đi. Sau đó viện chủ hỏi sư:
- Vì sao đã
từng đến dạy uống trà, và chưa từng đến cũng lại dạy uống trà?!
Sư gọi:
- Viện chủ!
Viện chủ
đáp:
- Dạ!
Sư bảo:
- Uống trà
đi!
Việc uống trà
là một viẹc bình thường trong việc đói ăn khát uống, trong những cuộc
tiếp xúc gặp gỡ nhau, chứ có chi lạ đâu; chúng cũng chả can hệ chi đến
việc đã từng đến hay chưa từng đến. Vậy thì việc viện chủ nêu lên thắc
mắc đó, là tự treo tâm mình lên trên cầu sanh tử, trong khi tách nước
trà đang ở trên tay mà vẫn bị chết khát. Thử hỏi ở đây, ai có thể vì
viện chủ, mà trong một hớp uống hết nước sông sanh tử thay cho ông đưỡc
không? Nếu được thì cho dù lão Triệu Châu, có làm chi nữa cũng chả can
hệ chi đến chúng ta, và lúc này là lúc đạt được bước đi tự tại.
* * *
Để thay lời kết
luận chúng tôi xin trích dẫn, những lời tự thuật của thiền sư Lâm Tế sau
đây:
"Hỡi các
đạo lưu, kẻ hiện lúc này, trước mắt chúng ta, sáng tỏ đơn độc, rõ rõ
ràng ràng, đang lắng nghe, kẻ này chẳng trệ ở bất cứ chỗ nào, thông
quán mười phương tự tại trong ba cõi. Vào tất cả cảnh giới sai biệt,
mà cũng không hề bị chuyển biến. Kẻ ấy trong một sác na đi vào pháp
giới. Gặp Phật nói Phật, gặp Tổ nói Tổ, gặp La Hán nói La Hán, gặp
ngạ quỷ nói ngạ quỷ.
Vào khắp
mọi nơi, lang bạt các quốc độ, giáo hóa các chúng sanh thế mà chưa
từng lìa nhất niệm. Ở bất cứ nơi nào cũng thanh tịnh, ánh sáng thấu
nhập mười phương, vạn pháp nhất như ...
"Duy có kẻ
hiện đang nghe pháp trước mắt các đạo lưu, vào lửa không bị thiêu,
vào nước chẳng bị chìm, vào ba nẻo địa ngục như vào vườn ngắm cảnh,
vào cõi của ngạ quỷ súc sanh mà chẳng phải chịu báo. Tại sao lại như
vậy? Vì chẳng có pháp nào để ghét vậy.
"Nếu ông
yêu thánh ghét phàm, ông hẳn bị trôi nổi trong biển sanh tử. Phiền
não do tâm mà có; vô tâm phiền não trói buộc ai? Đừng bận phân biệt
chấp tướng, tự nhiên đắc đạo trong khoảnh khắc. Ông còn cho rằng bôn
ba theo kẻ bên cạnh mà học được, trong ba kỳ kiếp rốt cuộc thế nào
cũng quay về sanh tử. Chẳng bằng vô sự quay về chốn tòng lâm, lên
góc giường mà ngồi khoanh chân...
"Sư núi tôi
ở đây chẳng luận tăng tục. Nhưmg có kẻ đến tôi đều biết rõ hắn, dù
hắn từ nơi nào lại. Hễ có danh văn ngôn cú, thảy đều mộng huyễn. Tôi
chỉ thấy con người cỡi các cảnh, kẻ ấy huyền chỉ của chư Phật vậy...
"Nếu có
người đến hỏi tôi là muốn cầu Phật, tôi tức ứng hợp cảnh thanh tịnh
ma 2xuất hiện. Có người hỏi tôi Bồ tát, tôi tức ứng hợp với từ bi mà
xuất hiện. Nếu có người đến hỏi tôi về Bồ đề, tôi tức ứng hợp với
cảnh tịnh diệu mà xuất hiện. cảnh thì vạn loại sai biệt, nhưng Nhân
thì không sai biệt. Cho nên ứng vật hiện hình, như mặt trăng phản
chiếu trong nước...
"Hỡi các
đạo lưu! Sư núi tôi thuyết pháp, thuyết pháp gì vậy? Ấy là thuyết
tâm địa pháp, cái pháp đi vào phàm, đi vào thánh, đi vào tịnh, đi
vào uế, đi vào chân đi vào tục. Điểm chính yếu là các ông (Nhân)
không phải chân tục phàm thánh, mà các ông có thể gán cái danh cho
chân tục phàm thánh. Chân tục phàm thánh đối với người (Nhân) không
gán cho cái danh được. Hỡi các đạo lưu! Như các ông mà nắm được thì
tha hồ mà dùng nó. Đừng có chấp trước vào danh tự. Ấy gọi là huyền
chỉ...
"Như chỗ
dụng xứ hôm nay của sư núi tôi, dù thành dù hoại đều ứng hợp với
chân tri. Ngoạn lộng thần biến đi vào tất cả cảnh mà đâu đâu cũng
như vô sự. Cảnh chẳng ảnh hưởng được đến tôi.. Như có kẻ đến cầu gì
nơi tôi, tôi chỉ ra mà xem hắn. Hắn không nhận được tôi, tôi bèn mặc
một vài thứ áo, những người học bèn rơi vào ngôn cú của tôi mà làm
ra hiểu biết. Khổ thay những kẻ ngốc nghếch mù quáng, kẻ không có
mắt bám vào y phục tôi mặc, mà nhận là xanh vàng đỏ trắng. Ta bèn
cởi bỏ mà vào cảnh giới thanh tịnh, kẻ học khi thấy bèn sinh ham
thích; tôi lại cởi bỏ nữa, kẻ học liền ngơ ngác hoang mang chạy
quanh nói rằng tôi vô y. Tôi bè quay qua hắn mà bảo: "Ông có biết
cái Người mặc áo đó chăng?"Hốt nhiên họ quay đầu lại mà nhận ra tôi.
"Này các
đại đức, đừng nhận lầm y phục, y phục không tự quyết được, Người mặc
được y phục: Có thanh tịnh y, có vô sanh y, có bồ đề y, có niết bàn
y, có tổ y, có phật y. Này các đại đức, chúng ta chỉ có âm thanh,
danh từ ngôn cú, thảy đều là y phục mà chúng ta thay đổi. Từ cái khí
hải trong bụng đánh vào răng, gõ vào khẩu cái thành cú nghĩa. Như
thế ta mới rõ rằng chỉ là huyễn hóa.
"Này các
đại đức, bên ngoài phát ra cái âm thanh của nghiệp ngôn ngữ, bên
trong biểu hiện tâm sở pháp, để suy nghĩ mà khởi niệm, thảy đều là y
phục mà ta mang. Sao các ông lại nhận cái y phục mà người ta mang là
thực tại. Dù có trải qua số kiếp như vi trần, cũng chỉ là kẻ không
hiểu y phục thôi. Các ông sẽ tuần hoàn trong ba cõi, luân hồi trong
sanh tử. Như thế sao bằng được vô sự. Cổ đức nói:
- "Gặp nhau mà
chẳng biết,
- Cùng nói chẳng
biết tên."
- (Tương phùng bất
tương thức,
- Cọng ngữ bất tri
danh.")
---o0o---
|
Thư mục Tác Giả |
Cập
nhật : 01-04-2002
|
|