Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Tịnh Độ


......... .

 

 

Những mùa Vu Lan

Thích Đức Niệm

---o0o---

 

Thay Lời Tựa

Ta hiện hữu trên cõi đời này do nghiệp duyên đưa đẩy. Nghiệp là năng lực dẫn dắt ta đi theo nghiệp nhân mà ta đã tạo để rồi kết hợp với người hữu duyên hình thành thân này trong hoàn cảnh xứng hợp.

Thân này có và được tồn tại phải nhờ đến nhiều yếu tố của thế gian, mà trực tiếp là cha mẹ cưu mang chắt chiu chăm sóc.  Mà phải nào chỉ có săn sóc hình hài ta thôi đâu, đến cả tâm trí hiểu biết cũng thường hằng trực tiếp nhờ cha mẹ giáo dưỡng mà thành.  Đích thực cha mẹ là nơi đã tạo ra chúng ta.  Không có cha mẹ thì không có ta.  Nếu cha mẹ không muốn ta ra đời, không có thiện tâm để ta sống, thì ta cũng không thể tồn tại hiện hữu được.  Thế nên cha mẹ là đấng nắn tạo ra đời con, là giòng suối ngọt để con giải khát, là bóng mát trời nắng hạ, là bát cơm thơm ngon, và còn biết bao chất liệu ân tình chứa chan qua tiếng hát lời khuyên bằng dòng nước mắt yêu thương, bằng nụ cười hiền dịu an ủi vỗ về trải dài tháng năm, bằng tâm tình tha thiết trao trọn cho con.

Do vậy, các bậc thánh hiền cổ đức mà nhứt là đức Phật Thích-Ca đều khuyên ta phải ghi nhớ ân cha mẹ để lo báo đền.  Bất cứ đạo lý nhân bản nào cũng đề cao đạo hiếu, phụng thờ cha mẹ.  Kinh sách Thánh Hiền nói: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.  Bởi lẽ, có hiếu là có nghĩa, có trung, có tín, có thành.  Nếu không có lòng hiếu kính cha mẹ thì là bất hiếu.   Bất hiếu sẽ đưa đến bất nghĩa, bất trung, bất tín, bất thành!

Sống ở đời muốn được an lành hạnh phúc, thành danh vinh hiển mà không lấy hiếu đạo làm đầu để làm nền tảng tiến thân thì tự đào sâu hố thẳm bất hạnh, ô danh tiếng đồn.  Người còn có lương tâm không thể nào phủ nhận ân đức sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Thực tế và rõ ràng là mẹ mang nặng đẻ đau cưu mang ẵm bồng săn sóc.  Cha ngày ngày làm việc cực nhọc để kiếm tiền nuôi con khôn lớn.  Cha mẹ đã kiên nhẫn cực khổ ngày đêm nuôi dưỡng dạy dỗ vỗ về khuyên nhủ trải suốt bao tháng năm, con mới được lớn khôn hiểu đời.  Điều hiển nhiên thế đó!  Ấy vậy mà có kẻ cuồng tín cho rằng thần linh thượng đế sanh tạo ra mình, nên chẳng cần phụng thờ cha mẹ.  Lại có kẻ điên rồ mê dại nghe theo tà nhơn ác đảng đem cha mẹ ra tố khổ, cho đó là hành động theo tư tưởng tiến bộ, đỉnh cao trí tuệ của loài người!  Thảo nào Đức Phật huyền ký: Vào thời mạt pháp cách Như Lai diệt độ lâu xa, có hạng tà nhơn giả chánh nhơn thuyết chánh pháp, mạo xưng là Phật, Bồ Tát hiện thân để mê hoặc lòng người.  Lại có kẻ tự xưng là tăng, nhưng không thọ trì giới pháp, thích làm những điều danh lợi thế gian.  Trong hàng Phật tử có những kẻ hình người tâm ma thích phá rối Tam Bảo, mưu toan chiếm đoạt quyền hành thao túng cửa Phật. Nhân gian phát sanh nhiều thứ đạo tặc lập bè kết đảng phá hại chánh pháp, hãm hại người hiền, huỷ hoại Phật tượng, chùa viện, luân thường đạo lý, ưa thích tạo hận thù hãm hại lẫn nhau, lấy đó làm vui.  Đồng thời xuất hiện những bệnh hoạn ngặt nghèo, tai ương khủng khiếp, mà con người vẫn thản nhiên vui với kiếp sống mong manh bất ổn đó.!

Ta thử định thần lắng lòng tự hỏi lời Phật huyền ký có đúng chăng?  Và vì đâu nhân loại ngày một phát minh tiến bộ mà lòng người không được an lành theo nhịp độ của sự tiến bộ văn minh đó?  Trái lại càng lúc đời sống con người càng bất ổn, tâm thần nhiều lo âu, vẻ đẹp thiên nhiên mất dần và thu hẹp.  Phải chăng con người chỉ dong ruổi theo vật chất mà quên mất phần tinh thần trau dồi đạo đức?

Đức Phật dạy: “Lấy ân báo oán, oán tự tiêu diệt. Lấy oán báo oán, oán thêm chất chồng”.  Đối với bổn Phật, đức Phật dạy: “Trên đền trả bốn ân lớn, dưới cứu giúp ba đường khổ”.  Bất cứ người Phật tử chân chánh nào cũng ghi tâm tạc dạ điều này, mà đặc biệt là hiếu kính cha mẹ.

Như vậy, Phật giáo tuy hướng đạo con người tiến lên Phật đạo giác ngộ giải thoát để được sống an vui trong cảnh giới Cực-Lạc Niết-Bàn, nhưng đồng thời ngay trong hiện đời, đức Phật dạy phải hoàn thành nhân đạo hiếu nghĩa.

Sách đây ghi lại dấu vết cõi lòng cảm xúc của người con không còn gần cha mẹ, người dân xa quê hương trong hoàn cảnh đau thương của đất nước, dòng tâm tư xúc động mỗi độ Vu Lan về.

            Hoa Kỳ, Vu Lan 2540-1996

            THÍCH ĐỨC NIỆM

 

 

Những Mùa Vu Lan

Nay nhân mùa Vu Lan thắng hội, tôi có đôi dòng cảm nghĩ về người con hiếu hạnh trong ý nghĩa Vu Lan.

Khi tôi còn nhỏ ở cái tuổi mười một mười hai, mỗi lần gần đến rằm tháng bảy, tôi nghe thấy bà con xóm làng bảo nhau, rủ nhau mua sắm nhang đèn hoa quả mang lên chùa cúng lễ Vu-Lan, cúng dường Tam-Bảo, cầu siêu độ mẹ cha ông bà quá cố, cửu huyền thất tổ siêu thăng.  Tôi còn nhớ câu ca dao khi còn ở lớp tiểu học: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.  Lúc đó, tôi chỉ biết thế thôi, chứ không biết ý nghĩa sâu xa tại sao lại tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.  Đến khi vào chùa xuống tóc xuất gia theo thầy học đạo, tôi mới thật sự hiểu ý nghĩa thâm sâu về Vu-Lan, tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân.

Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền.  Có nghĩa là cởi mở giải thoát cho tội nhân bị hành hạ treo ngược.  Lễ Vu-Lan hay nói cho đúng ý nghĩa của nó là Pháp hội Vu-Lan hay Vu-Lan thắng hội, tức là tăng tục câu hội y như Phật Pháp mà cử hành lễ để cầu nguyện cho những chúng sanh đang bị tội khổ trong ba đường ác được giải thoát.  Chúng sanh trong địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thống khổ vô cùng như người bị treo ngược hành hạ thì lễ Vu-Lan chính là cứu khổ giải thoát cho những vong hồn thoát ly khỏi chốn đọa đày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Đức Phật nói, chư Tăng mỗi năm tịnh tâm chuyên ròng tinh tấn tu niệm suốt ba tháng an cư.  Thời gian an cư kiết hạ bắt đầu từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy.  Trong suốt thời gian ba tháng này, chư Tăng cấm túc an trụ một nơi, kiết giới ngày đêm chuyên ròng tu tập, thân tâm thanh tịnh.  Do chuyên ròng tu tập mà giới đức tăng trưởng tròn đầy.  Đến ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày thêm được hạ lạp, nghĩa là thọ lãnh thêm một tuổi đạo.  Ngày ấy là ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, vì thấy hàng đệ tử nghiêm trì giới luật, giới thể châu viên, thân tâm thanh tịnh, bước đến gần thêm đạo quả giác ngộ giải thoát.

Tuân theo lời đức Phật chỉ dạy, Mục-Kiền-Liên tôn-giả cũng trong dịp Vu-Lan thắng hội này, đã thiết lễ trai tăng cúng dường, chư Tăng hoan hỷ thọ dùng, thành tâm chú nguyện cho mẹ tôn-giả.  Nhờ lòng hiếu thảo, nhờ công đức cúng dường trai tăng, nhờ sức thành tâm chú nguyện của chư đại-đức Tăng tạo thành năng lực thù thắng đã khiến bà Thanh-Đề, mẹ của Ngài Mục-Kiền-Liên tôn-giả nhờ đó mà tâm được chuyển hoá thoát khỏi kiếp ngạ quỷ đói khổ.  Đây là mở đầu kỷ nguyên Vu-Lan hiếu hạnh cho ngàn đời về sau:

Rồi cứ năm năm rằm tháng bảy

Hồn con nương tựa bóng từ bi

 

***

 

Chư Tăng trọn chín mươi ngày

Cát tường bảo tọa trải bày tâm can

Bao nhiêu nghiệp hải chướng san

Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên

Từ đấy trở đi, mỗi độ thu sang rằm tháng Bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền đều thành tâm nghiêng mình trước đấng từ bi Phật-Đà, nguyện noi theo hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, sắm sửa trai diên cúng dường Tam-Bảo, cúng dường trai tăng, đem công đức hồi hướng cầu nguyện cho ông bà cha mẹ thân nhân quá cố sớm thoát khỏi cảnh u đồ đày đọa khổ đau đen tối nơi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Dù cho ai đó có dong ruổi theo công danh sự nghiệp, mưu kế sanh nhai, hay mê dại đắm đuối trong ái tình danh lợi đến đâu đi nữa, thì mỗi độ thu sang rằm tháng bảy, tiết thu mát lạnh khắp người, gió thu hiu hắt lá vàng nhẹ rơi, chắc cũng phải chạnh lòng trong giây phút nào đó, hồi tâm tưởng nhớ đến đấng sanh thành, nhớ lại thân bằng quyến thuộc, nhớ nơi chôn nhau cắt rún của mình.

Lòng hiếu kính là nền tảng vững chắc của tình gia tộc, là nguồn sống an lành hạnh phúc thiêng liêng của gia đình, là nguồn sống tinh thần của cả một dân tộc.  Nên những đứa con học Tây học Mỹ có bằng cấp nọ kia, nếu không thấm nhuần tư tưởng hiếu hạnh Đông phương, truyền thống của tổ tiên ngàn đời, thì những đứa con đó sẽ là những đứa con mất gốc, sẽ bỏ cha mẹ sống trong cô đơn hiu quạnh lạnh lẽo không người săn sóc, không biết thân gần an ủi cha mẹ khi tuổi già.  Với những kẻ bất hiếu bất nhân vong bản tất nhiên mang lại cho cha mẹ cảnh sống bơ vơ, thiếu sự đầm ấm của gia đình khi cha mẹ còn sanh tiền, và một khi cha mẹ trăm tuổi già qua đời thì tất phải rơi vào cảnh nhang tàn khói lạnh.  Đối với quốc gia xã hội, những đứa con bất hiếu bất nghĩa này trở thành những người con mất gốc, những người dân vong bản, quên hẳn truyền thống của ông cha tiên tổ, chỉ biết ích kỷ hưởng thụ, cúi đầu vọng ngoại, tôn sùng những tín điều chủ nghĩa lý thuyết ngoại lai, mang lại không biết bao là tai hại cho gia đình, dân tộc xứ sở.  Bằng chứng hiển nhiên cho ta thấy, tiếng khóc của đồng loại kéo dài suốt cả trăm năm chưa dứt, cũng do những con người vong bản vọng ngoại thiếu tinh thần hiếu hạnh tạo ra.

Đồng bào đã và đang mang tâm trạng hoài nghi đố kỵ hận thù hãm hại nhau, gây đau thương tang tóc cho nhau, đầu giây mối nhợ, cũng bắt nguồn từ những kẻ thiếu lòng hiếu hạnh, quên đạo truyền thống của ông cha thời đại Lý, Trần, thiếu mất tâm đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm lương tâm với tiền đồ dân tộc, chỉ biết cúi đầu rập theo danh lợi cặn bã của tà giáo ngoại lai, giáo điều chủ nghĩa, lập bè lập đảng phản dân hại nước, chỉ biết làm bồi bút viết lên những điều vô luân vô đạo, tạo nên sự đầu độc tâm trí người nhẹ dạ, hoặc lớp trẻ thơ, gây ra hoang mang nghi ngờ đối với tư tưởng niềm tin chánh tông truyền thống của dân tộc giống nòi, để được thỏa mãn tham vọng của ngoại bang và hả dạ ích kỷ hận thù riêng tư.  Thảm trạng tan nhà, mất nước, đồng bào triền miên trong cảnh chết chóc đọa đày dày xéo lên nhau, đạo Phật, đạo ông bà bị áp bức nghiệt ngã, dân tình nghi nhau hại nhau, nguyên nhân từ những kẻ thiếu lòng hiếu thảo, thiếu ý thức đạo đức truyền thống của ông cha, vô minh chạy theo tà thuyết tà đạo, mù quáng tin theo chủ nghĩa phi nhân, để được chút quyền lợi cặn bã, mặc tình phá nước hại dân.

Nhà Nho dạy rằng: “Muốn cho gia đình hạnh phúc, quốc gia hưng thạnh, dân tộc thái bình, trước hết phải tu thân”.  Kinh sách của Khổng-Mạnh còn dạy: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.  Lời dạy này bao hàm ý nghĩa: “Dù cho thông thái đến đâu, chức tước đến bậc công hầu khanh tướng đi nữa, thì vẫn phải lấy hiếu đạo làm đầu”.  Cổ đức tiên hiền nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.  Nghĩa là, hiếu là đầu trong muôn hạnh.  Cha mẹ sinh ta ra, nuôi ta lớn, cho ta ăn học nên người, giúp ta lập thành gia thất, tạo nên công danh sự nghiệp.  Công lao sanh dưỡng suốt đời tận tụy khổ cực nuôi con, ân đức của cha mẹ to lớn sâu dày như trời cao bể rộng sông dài vậy đó, thế mà ta không nghĩ nhớ thương kính tỏ lòng biết ơn, thì thử hỏi còn tôn kính biết ơn ai!?

Những hạng người không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì đối với vợ không có thành thật, đối với con không có thâm tình, đối với bạn bè xã hội không có thành tín, đối với vua với nước không có trung nghĩa.  Người không có đức tánh thành, tín, trung, nghĩa, chân tình, nếu là thường dân thì gian xảo đạo tặc, còn làm vua quan thì tham nhũng, phản tặc, nuôi dưỡng ý đồ vong nô thừa dịp rước ngoại nhân về dày xéo mã tổ, hãm hại đồng bào.  Còn nếu làm văn hoá thì bồi bút, đầu độc tư tưởng, chụp mũ vu khống, nhằm hướng dẫn dư luận quần chúng đến chỗ hoài nghi, phá sản niềm tin đạo đức truyền thống của dân tộc, không có tâm kính trọng đạo đức, khiêm nhường bậc tiền bối, tôn trưởng.  Nếu bất hiếu thì sẽ đưa đến bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất tín.  Bởi vì ông bà cha mẹ mà còn không kính trọng phụng thờ thì thử hỏi còn biết kính trọng ơn nghĩa ai!

Dân tộc Việt-Nam nói riêng, dân tộc Á-Đông nói chung, nhờ tinh thần hiếu kính, mà duy trì tình dân tộc, nghĩa đồng bào, lòng yêu tổ quốc, mồ mả núi sông, hồn thiêng tiên tổ đất nước vững vàng trải suốt bao ngàn năm.  Có hiếu thảo, dù cho cuộc sống kém về phần vật chất, nhưng đời sống tinh thần thật là phong phú êm đềm.  Trọng đạo hiếu thì ít xảy ra cảnh loạn luân bội tín, phụ bạc thay trắng đổi đen, quê hương dân tộc giống nòi không nghẹt thở bởi thứ văn hoá đạo giáo chủ thuyết sắt máu phi nhân, ép ngặt bức bách mê hoặc vô luân phi lý, tạo sự mất chủ quyền xứ sở, xáo trộn luân thường đạo lý.

Đạo truyền thống của dân tộc là đạo từ bi trí tuệ, bình đẳng lợi tha, nhân bản hiếu nghĩa trung tín tình người, nên đã tạo thành người dân Việt cái tinh thần trọng đạo nghĩa, tuy sống trong nghèo bạc nghèo tiền, chớ không nghèo tình thương, không nghèo lòng nhân đạo, không nghèo lòng hiều thảo.  Vợ chồng tuy sống vất vả, nhưng tình nghĩa vợ chồng nương nhau, thương nhau, trinh thuận sống không có cảnh tan rã, đầu năm cưới ở, cuối năm ly dị ly hôn.  Quê hương Việt-Nam tuy nghèo, cuộc sống vẫn bình thản, không có dập dồn xô bồ ích kỷ, hấp tấp tranh đua, hại người để mình được lợi.  Những đứa con Việt-Nam vì vô minh tham vọng bắt bóng lợi danh mà vong bản vọng ngoại đã mang lại cho mẹ Việt-Nam lắm nỗi điêu đứng, văn hoá đồi trụy, tôn giáo vô luân vô đạo, chủ nghĩa lý thuyết phi nhân phi dân tộc, dồn dập đao binh khói lửa làm cho mẹ Việt-Nam rách nát, con mẹ Việt-Nam điêu linh, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng tạo thành tâm trí mát điên lừng khừng.

Tất cả những hậu quả tốt xấu, thành bại của con người hầu hết bắt đầu từ nền tảng hiếu.  Có hiếu thì có lòng nhân.  Bất hiếu thì bất thành nhân.  Nên Thái tử Tất-Đạt-Đa sau khi tu hành thành đạo giác ngộ hiệu là Phật Thích-Ca Mâu-Ni, Ngài trở lại hoàng thành thăm viếng hoàng tộc, và an ủi thuyết pháp cho phụ vương nghe, nhờ đó mà vua Tịnh-Phạn giác ngộ đạo lý vô thường, trước khi nhắm mắt lìa đời.  Không những thế, Ngài đã nghiêng vai khiêng quan tài vua cha đến nơi an nghỉ cuối cùng.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên vô cùng xúc động, khi thấy mẹ sa đọa làm loài ngạ quỷ, đã đích thân bưng cơm dâng mẹ, đã bán hết tài sản để lo cúng dường trai tăng siêu độ mẹ:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong

Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng

Đây còn tình nặng trong tha thiết

Ơn nghĩa sanh thành chưa trả xong

***

Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm

Khắp tìm từ mẫu cõi xa xăm

Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng

Phụ đức sanh thành biết mấy năm

Tác dạ báo đền ơn nghĩa nặng

Tấm lòng mong nguyện hiếu tình thâm

Vì chân Phật dạy Vu Lan hội

Luống để cho ai những khóc thầm.

Kẻ viết bài này đã khóc thầm mỗi lần thấy gió thu hiu hắt, lá vàng nhẹ rơi, hơi nước khói hương bàng bạc của tiết trời thu Vu-Lan tháng bảy.  Lòng tự xót xa thầm khóc cho thân phận mình không còn mẹ từ thuở lên bốn:

Mẹ ơi! Mẹ ở nơi nào

Trần gian lẻ bóng con sầu nhớ thương

Lòng thành dâng trọn nén hương

Cầu xin Phật tổ chỉ đường con đi

Khấn nguyền đức Phật từ bi

Mẹ cha sớm được thoát ly luân hồi

Thấy người ở lứa tuổi mình còn mẹ còn cha để phụng dưỡng, đưa cha mẹ đi chùa lễ Phật nghe kinh thuyết pháp, điều đó nó ấm cúng làm sao! Lòng thật thèm được cái cảnh có mẹ có cha để ngày ngày vào ra thấy mẹ.  Nên ai đó có phước còn cha mẹ là còn nguồn vui bất tận:

Sung sướng nhỉ! Những người còn mẹ

Còn mẹ, em còn cả đất trời

Đau đớn nhỉ, những người mất mẹ

Mất mẹ là mất hết em ơi!

Còn riêng tôi, khi tôi xuất gia thì mẹ đã qua đời.  Mẹ tôi qua đời khi tôi còn quá ngây thơ khờ dại không biết gì.  Người trút hơi thở cuối cùng vào một buổi mai trời tiết thu, nhằm ngày vía đức Quán-Thế-Âm-Bồ-Tát. Mẹ tôi vĩnh biệt cõi trần một cách bất ngờ.  Bất ngờ đến nỗi đôi má của bà còn hồng nhuận như người sống.  Bất ngờ đến nỗi bà tắt thở lúc nào mà cả nhà không hay biết, trên tay bà vẫn còn ôm chặt người em gái út của tôi trong lòng.  Em ngo ngoe miệng vẫn ngậm lấy vú bú sữa khi mẹ tôi tắt thở từ giã cuộc đời.  Hình ảnh thảm đạm xót xa này, tuy đã hơn nửa thế kỷ rồi, nhưng mỗi lần tiết thu sang, Vu-Lan đến là mỗi lần tôi nhớ mẹ vô cùng! Nối tiếp hình ảnh mẹ tôi qua đời bất ngờ là hình ảnh cha tôi ra người thiên cổ.  Hình ảnh này, cảnh huống này cứ mồn một hiện rõ về trong trí óc tôi.

Mẹ tôi chết, chúng tôi mất hết tất cả sự vỗ về an ủi.  Mất hết tất cả sự thương yêu ngọt bùi trên đời của tình mẹ dành cho!  Chỉ còn lại người cha lẻ bóng, sống với chị em chúng tôi, như gà trống nuôi con.  Cha tôi lại theo bạn bè đi buôn xa.  Ông lại thích làm quan, thích danh vọng, thích hoạt động xã hội, thích giúp đời, nên chúng tôi lại càng thấm thía cái thân phận mồ côi:

Mồ côi cha ăn cơm với cá

Mồ côi mẹ lót lá mà nằm

Ca dao ngạn ngữ Việt-Nam thật là chí lý, nói lên được sự thật của tình đời, của kiếp người. Ca dao ngạn ngữ Việt-Nam không khác gì kinh thi Trung-Quốc, nói lên tất cả sự thật bằng kinh nghiệm kiếp sống nhân sinh qua những câu thơ đơn giản mà nội dung vô cùng hàm xúc.  Hai câu trên đây đã làm cho tôi xúc động mỗi lần tôi đọc đến, nhất là vào dịp Vu-Lan tôi không cầm được nước mắt, dù nay tôi đã lớn rồi!

Ở vào cái thời ly loạn Nhật, Tây xâm chiếm đất nước, cha tôi thường đi lo việc dân việc nước hơn ở nhà, vì vậy mà ông đã bị Tây bắt và Việt Minh giam tù suýt chết. Chị hai tôi chỉ mới mười sáu tuổi, đã phải đảm đang trách nhiệm cả cha lẫn mẹ lo việc nhà dạy em.  Có những đêm tối trời mọi người đang lúc chìm sâu trong giấc ngủ hoang dại, đột nhiên lính Tây ập vào nhà lục soát hung bạo, phá hại đồ đạc, chị em chúng tôi ngồi ôm nhau ngơ ngác, hoảng hồn thất kinh run sợ.  Cái cảnh mất mẹ, thiếu cha, cái cảnh lính Tây, lính mã tà ngày đêm bố ráp, làm cho tinh thần chúng tôi khủng hoảng hãi hùng!  Rồi đêm về, lại đến nạn du kích Việt Minh lùng bắt bịt mắt dẫn đi thủ tiêu chôn sống những người bị tình nghi là Việt gian hay những người giàu sang có tiền.  Tình trạng này lại càng tăng thêm cái cảnh thê lương ảm đạm lạnh lùng hãi hùng của lòng con trẻ sống trong cảnh côi cút, thiếu nơi nương tựa tinh thần, thiếu vắng tình thương của đấng sanh thành dưỡng dục:

Năm xưa em còn nhỏ

Mẹ em đã qua đời

Lần đầu tiên em hiểu

Thân phận trẻ mồ côi

Quanh tôi ai cũng khóc

Yên lặng tôi sầu thôi

Để dòng nước mắt chảy

Là bớt khổ đi rồi

Hoàng hôn phủ lên mộ

Chuông chùa lạnh rơi rơi

Em thấy em mất mẹ

Là mất cả bầu trời

Cha mẹ cho tôi cái thân này.  Sau mấy mươi năm gắng công đèn sách, chuyên tâm nghiên tầm tu học, một lòng hướng theo con đường giác ngộ của đức Phật, nay tôi đã thành người thì cha mẹ không còn nữa:

Mẹ bỏ con đi thật không ngờ

Khi con còn ở tuổi bé thơ

Khăn tang con đội chưa biết khóc

Con trẻ bơ vơ luống dại khờ

Giờ đây quê hương tôi tuy vẫn còn đó, nhưng đã quá rách nát đói nghèo tang thương khủng khiếp do loài quỷ đỏ thời đại man dại làm kiếp vong nô ngoại bang gây nên cảnh áp bức kinh hoàng, chúng tôi đành phải nghẹn ngào tức tưởi bỏ nước ra đi lang thang đem thân sống trên đất khách quê người.

Nhớ lại cha mẹ tôi hồi còn sanh tiền chưa từng được nghe tôi nói lên một lời hiếu thảo tha thiết, mặc dù lúc đó lòng tôi đã chứa đầy tình thương cha kính mẹ, nhưng cổ họng thốt không ra lời thương kính đối với song thân.  Không biết tại sao nữa!  Phải chăng vì tuổi còn thơ ấu dại khờ hay vì mắc cỡ?  Rồi vừa lên cái tuổi mười hai mười ba, tôi trốn nhà xuất gia đầu Phật, đi khắp các tự viện thiền lâm danh tiếng để tầm thầy học đạo.  Từ đấy ngày say sưa với lý tưởng cầu đạo giác ngộ, sáng chiều chuyên tâm kinh kệ, miệt mài đèn sách, phần để theo kịp chúng bạn, phần sợ lộ tông tích phải bị gia đình bắt về, nên đã hơn suốt tám năm trời, tôi giữ bặt tăm hơi thơ tín, không một lời gửi về thăm nhà.  Cha, cậu, dì, chị em tôi nước mắt chảy ròng và đã đi khắp nơi tìm kiếm, mong được tin tức về tôi.  Nhưng suốt thời gian tám năm biền biệt tăm hơi, chẳng một lời nhắn gửi, không tìm thấy tôi đang ở nơi nào.  Sau bao tháng năm dò thăm tìm kiếm chỗ tôi tu đều vô hiệu quả.  Ở cái thời buổi 1946-1952 giặc dã loạn lạc khắp non sông, thực dân Pháp và Việt Minh tự do tàn sát đốt phá, người dân khó tránh lằn tên mũi đạn của loài quỷ dữ bạo tàn mang hình người.  Khắp non sông, mọi người đang sống trong cảnh bom đạn khói lửa tự do tàn sát dân lành.  Lúc đó tất cả bà con xóm làng đều nghĩ rằng, thân tôi cũng đã tan nát hoặc gửi vào lòng đất lạnh ở một nơi nào đó, không có nhang khói mồ mả, đã thành hồn ma vô chủ vô y rồi!

Sau khi thọ giới xuất gia xong, trên con đường tìm đến Phật-Học-Đường Nam-Việt chùa Ấn-Quang Sàigòn cầu thầy học đạo, lần đầu tiên tôi ghé lại quê nhà thăm cha già em dại.  Người nhà ai nấy đều ngạc nhiên trước sự xuất hiện bất ngờ của tôi trong hình thức hoàn toàn đổi khác. – Hình thức cung cách của một người xuất gia.  Ngạc nhiên, bởi vì trước đó hơn tám năm, ngày trốn nhà đi tu, tôi chỉ là cậu bé mới mười ba tuổi thơ.  – Tôi buớc vào nhà, mặt trời đã khuất núi, hoàng hôn sắp nhường cho bóng tối của đêm về.  Dưới ánh đèn dầu mờ ảo, tôi thấy cha già đôi mắt ngấn lệ nhìn con, đôi môi run run một hồi mới nói nên lời xúc động: “Đã bao năm bặt tin tức, tưởng con đã chết bụi chết bờ không ai thờ cúng, nên cha đã thiết bài vị cho con, không ngờ nay con còn sống trở về, vậy con hãy vào rút bài vị đốt đi!”

Nghe chị tôi kể lại, khi tôi trốn nhà ra đi xuất gia, cha tôi đã lo buồn nhiều ngày.  Mặc dù lúc tôi còn ở nhà, ông thường hay la rầy tôi.  Cậu tôi thì đã khóc sưng đôi mắt, vì cậu tôi thương tôi lắm.  Ông thương, vì tôi là đứa cháu mồ côi mẹ, hay tánh tình của tôi hạp với ông, cho đến giờ đây tôi vẫn chưa rõ.  Dì Tám tôi đã lặn lội khắp nơi tìm kiếm.  Từ sự lo âu cho mạng sống của tôi ở vào thời chiến tranh bom đạn loạn lạc.  Bởi tôi bỏ nhà ra đi khi tuổi còn quá nhỏ dại, để rồi đưa đến sự buồn giận nguyền rủa, nhớ thương!  Nhưng tôi thì đã tìm đến được cửa Phật.  Từ đấy ngày ngày tôi nương tựa bóng Từ-Bi.  Trong cảnh thanh tịnh thiền môn, tôi đã được đào luyện trong dòng suối tình thương mát lành của nhà Phật.  Và ngày nay tôi đang đi trên con đường đức Phật đã đi.  Tôi không ngừng cố gắng làm những gì những bậc Thầy tôi đã dạy, những điều đức Phật đã làm.  Khi tôi nhận thức ý nghĩa xuất gia thật là cao cả, thì kể từ đó tôi tự nguyện dân trọn đời mình cho đạo pháp, cho công cuộc hoằng pháp lợi sanh, hầu báo đền công ơn sanh dưỡng của cha mẹ trong muôn một.

Ngày xưa Thái-tử Tất-Đạt-Đa cũng đã trốn đi tu, bỏ lại sau lưng hoàng thành Ca-Tỳ-La, với bao nỗi nhớ niềm thương, làm cho biết bao người vì thương mà sanh bất bình, giận tức.  Nhưng Thái-tử đã quyết chí tu và thành đạo, đã vượt ngoài phiền lụy thị phi, giải thoát sanh tử luân hồi, đã hoá đạo độ sanh, đã khai mở kỷ nguyên từ bi trí huệ vị tha bình đẳng cho nhân loại.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên cũng đã hành động chống trái với ý muốn của gia tộc, khi bỏ ngoại đạo theo Phật xuất gia để lại sự buồn phiền thương tiếc của mẹ cha trong gia đình.  Nhưng tôn-giả Mục-Kiền-Liên tu thành chánh quả, đã cứu độ được mẹ thoát khỏi cảnh khổ của loài ngạ quỷ, mở kỷ nguyên hiếu hạnh ngàn đời.  Còn tôi, tự xét lại mình, nghĩ càng thêm chua xót cho thân phận!  Đã trên bốn mươi năm hành đạo rồi, không lúc nào dám giải đãi thối tâm, thế mà vẫn chưa kiến tánh đắc đạo.  Tôi tự nghĩ thật là hổ thẹn với Phật, thật là bất hiếu với mẹ cha, thật không xứng đáng lòng tin cậy của sư trưởng và đàn na thí chủ.  Thái-tử Tất-Đạt-Đa, tôn-giả Mục-Kiền-Liên và biết bao đệ tử Phật trốn nhà đi tu làm cho cha mẹ thương nhớ buồn phiền, nhưng đã chứng đạo, có cơ duyên đền đáp bốn ân nặng.  Còn tôi đi xuất gia cũng đã làm cho cha già buồn phiền, dì cậu thương nhớ, chị em trông chờ, mà đến giờ vẫn chưa thành đạo quả, chưa có đền đáp được gì cho bốn ân!

Thật tình mà nói, tôi chưa có dịp bưng cho cha già một tách nước trà thơm, dâng một mâm cơm tươm tất, một lời nói thật hiếu kính với cha mẹ.  Mẹ qua đời khi tôi còn thơ dại đã đành.  Còn đối với cha tôi cũng chưa!  Trong lúc đó, tôi đã biết bao lần bưng nước mời Phật tử, niềm nở mời mọi người, ân cần thăm hỏi tất cả không luận thân sơ, thế mà vẫn tránh không khỏi những lời trách móc của người tín chủ!  Làm như thế, nào phải tôi chiều chuộng để kiếm tiền hưởng thụ riêng tư, hay cất chùa to Phật lớn để tự hào tự mãn, rồi xem chùa như nhà riêng tư của mình, sống với vài mươi người bổn đạo cho qua ngày, khoanh tay ngồi an nhiên tọa thị để thời gian vô ích trôi qua, mặc cho đạo pháp thế nhân thăng trầm ra sao chẳng cần biết đâu!  Sự thật, tôi không muốn có chùa miếu gì hết.  Tôi quan niệm chùa là chung của thập phương bá tánh, để bá tánh có chỗ dựa tinh thần cùng tu tập, là nơi để thập phương tăng hành đạo, là nơi cầu nguyện trưởng dưỡng thân tâm tu bồi đạo đức, là nơi duy trì phát triển văn hóa, giảng dạy giáo lý tu học, hoằng pháp lợi sanh, là nơi đào tạo tăng ni tài đức giúp đời.  Chùa viện như thế mới có ý nghĩa.  Đó là tâm nguyện tôi.

Nếu tôi không trốn nhà đi tu, thì không chắc gì tôi xuất gia theo chân Phật như ngày nay.  Bởi lẽ thường tình cha mẹ nào cũng muốn nuôi con ăn học khôn lớn để rồi dựng vợ gả chồng cho con.  Muốn cho con lập thành gia thất, có đôi có bạn ở đời làm ăn lập nghiệp, nối dòng nối giống.  Tuy biết có gia đình thì bị ràng buộc khổ lụy, nước mắt luôn chảy vì buồn thương, phải hệ lụy vợ vợ, chồng chồng, con con suốt đời, cho đến hơi thở cuối cùng.  Nhưng cha mẹ lúc nào cũng muốn con theo con đường cha mẹ, tức là có vợ có chồng.  Cái thương của cha mẹ là cái thương tục lụy, cái tình ái ân, cái thương dẫn đến buộc ràng con cháu vào đường ái nhiễm phiền não khổ lụy tử sanh, nổi chìm xoay quanh trong lục đạo luân hồi.  Cha mẹ vẫn biết tu là cội phước, tình là dây oan.  Cha mẹ vẫn biết tu là giải thoát phiền lụy, thanh nhàn an vui ngay hiện đời và đời sau.  Cha mẹ vẫn biết quý kính người tu hành và đạo đức.  Ấy thế mà không mấy khi cha mẹ khuyên con cái phát tâm xuất gia tu hành để được an lành giải thoát.  Chẳng những không khuyến khích con cháu phát tâm tu học đạo giác ngộ để thoát ly phiền não sanh tử mà con ngăn cản cấm đoán nữa là khác.  Từ cái quan niệm lạ lùng kỳ quặc mâu thuẫn chung chung của những bậc cha mẹ đó, nên tôi bắt chước Thái-tử Tất-Đạt-Đa quyết trốn nhà ra đi tầm thầy học đạo hầu tạo phước đức, để còn có dịp đền đáp trọn vẹn ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của mẹ cha.  Nhờ xuất gia tu hành mà tôi có hoàn cảnh tu tâm sửa tánh gắng công bồi đức, thực hành hạnh lợi tha giải thoát.  Sự xuất gia của thái tử Tất-Đạt-Đa đã cho tôi ý thức “xuất gia là phải trốn nhà ra đi mới hy vọng đạt thành đại nguyện xuất trần thượng sĩ”.  Không trốn nhà xuất gia thì không mấy khi cha mẹ khuyến khích đi tu.

Tôi sớm tự nghĩ, ở đời có vợ con nhiều lúc không giúp đỡ được cha mẹ, không làm cho cha mẹ được vui lòng khi tuổi già, mà còn bắt cha mẹ giúp đỡ, nhờ vả cha mẹ, làm phiền cha mẹ nữa là khác.  Bởi vợ con trói buộc đâu còn hoàn cảnh tự do, thời gian tự tại, tinh thần thoải mái để phụng dưỡng mẹ cha chu toàn!  Thân xác cha mẹ đã không yên mà cả về phần tinh thần,  mình cũng chẳng cứu giúp tế độ được.  Nên chỉ con đường xuất gia là thượng sách cho những ai muốn đền đáp ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.

Xuất gia còn là con đường tốt cho những ai muốn tiến thân trên đường thánh thiện giác ngộ.  Xuất gia là môi trường tốt cho những ai muốn làm việc đại nghĩa giúp đời.  Như lời học giả Nghiêm-Xuất-Hồng đã tỏ bày với bút giả trong một dịp đàm đạo ở Phật-Học-Viện: “Tất cả sự thành công danh vọng ở đời chỉ là huyễn mộng, không ích lợi gì cho mình.  Sự thành công đó không thể nào báo đền được công ơn cha mẹ.  Chỉ có con đường xuất gia.  Tôi đem tuổi đời còn lại, hy vọng thuận duyên sẽ xuống tóc xuất gia trong một tương lai gần.  Làm như thế mới hầu mong báo đáp được ân đức sâu dầy của cha mẹ.”

Dù cho ai đó có nói yêu nước, yêu dân, trương cờ, to miệng huênh hoang la làng làm văn hóa, khôi phục cơ đồ, đưa dân tộc nhân loại đến vinh quang tiến bộ gì đi nữa, nếu không có lòng hiếu kính mẹ cha, thì những cách nói hay, những lời hứa đẹp đó chẳng qua là kẻ rao bán thuốc cao đơn hoàn tán, có khác nào tiếng lá vàng rơi xào xạc cuối thu, tiếng thân cây khô nứt nẻ giữa mùa đông giá buốt, tiếng quạ cú kêu trong buổi hoàng hôn!  Không có lòng hiếu thảo là kẻ có xác không hồn, chẳng khác nào loài trùng dòi trong đống phân:

Những người bất hiếu tử

Nhung nhúc sống bằng thừa

Không nghĩ ơn cha mẹ

Khác nào thân cây khô…

Từ ngày nằm trong bụng mẹ cho đến ngày lập thành gia thất, không lúc nào cha mẹ ngơi nghỉ chăm sóc lo lắng cho con.  Có những lúc vì muốn con nên người mà cha mẹ tha thiết khuyên dạy con, khuyên dạy từng lời ăn tiếng nói, cung cách làm người.  Lắm lúc cha mẹ dạy con trong nước mắt bằng lời tha thiết như van nài, với lòng hy vọng con vâng lời!  Nhưng con nào có biết lúc đó lòng mẹ quặn đau vì thương con!  Vậy mà con trở lại trách hờn cha mẹ.  Cha mẹ âm thầm nước mắt trào dâng, chẳng dám có lời than, chỉ sợ làm phật lòng con, con sẽ buồn trách.  Tâm hồn mẹ không rời săn sóc con trong mọi hoàn cảnh:

Ngày xưa mẹ dắt con chơi

Mẹ ru con ngủ, mẹ ngồi nhìn con.

Bây giờ con đã lớn khôn

Mẹ mua sách vở dẫn con đến trường

Ngày kia con sẽ thành nhơn

Mẹ lo gia thất cho con vui đời.

Mẹ thương dặn con một lời:

“Giàu sang bất chánh, con đừng có ham

Lợi đời, lợi đạo con làm

Vong ơn, vong bản chớ tham dự vào”

Mấy lời tâm huyết mẹ trao

Mong con ghi nhớ truyền nhau cho đời.

Suốt trọn đời mẹ lo cho con.  Tất cả những gì quý giá của cõi đời, cha mẹ không tiếc, đều trọn trao cho con:

Nâng niu con lúc dỗi hờn

Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào

Một đời vốn liếng mẹ trao

Cho con tất cả mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Mẹ hy sinh tất cả cho con. Mẹ nhường nhịn cho con tất cả.  Mẹ lo lắng cho con tất cả.  Hy sinh, nhịn nhục, lo lắng suốt cả cuộc đời của mẹ đều vì con và cho con.  Cha mẹ là đóa hoa trời tươi đẹp muôn thuở.  Đóa hoa tô điểm vẻ đẹp suốt trọn đời con.  Mẹ là bóng cây, là nguồn suối, là nải chuối buồng cau, là tiếng hát nhiệm màu.  Mẹ là nguồn an vui bất tận, nguồn an vui không tìm được ở trần gian:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhân gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm

Mẹ cha là hương hoa đất trời thơm đẹp, là nguồn an ủi vô biên của con.  Con dù có khôn lớn đến đâu, hễ ngày nào cha mẹ còn trên cõi trần gian này là còn săn sóc con, còn lo lắng cho con.  Nên hương sắc hoa hồng là tượng trưng cho tình mẹ.  Tình mẹ thắm tươi thơm đẹp mềm dịu mát lành như đóa hoa hồng, đóa hoa hồng tươi thơm trong ngày rằm tháng bảy:

Ôi! Những cánh hoa hồng của mẹ

Của ngày rằm tháng bảy Vu-Lan

Ngày mẹ đấy nhớ về em nhé!

Và nhớ cài hoa nhé, nghe em.

Hoa hồng thắm là tượng trưng cho lòng mẹ thơm tươi mát dịu yêu mến ngọt  ngào.  Dù cho ngày nào đó mẹ có ra người thiên cổ thì tình mẹ vẫn trinh nguyên như đóa hoa hồng trắng.  Nghĩ nhớ đến mẹ thắp nén hương tưởng niệm, ngồi thật yên tĩnh nhìn theo làn khói hương quyện tỏa, chiêm nghiệm suy tư về mẹ cũng đủ thấy lòng sưởi ấm trong tình thương của mẹ:

Mẹ là cả một trời thương

Mẹ là cả một thiên đường trần gian…

***

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm..

Tuy nhiên đôi khi có vài trường hợp gặp phải những bậc cha mẹ quá nghiêm khắc, khó tánh, cố chấp, thiếu sáng suốt mà trở nên hẹp hòi làm trở ngại tương lai, bước tiến hóa đạo đức của con, làm cho con cháu giảm thiếu niềm vui hạnh phúc, thì bổn phận làm con phải sáng suốt khéo léo chớ nên chiều thuận theo lòng ích kỷ cố chấp của cha mẹ.  Trong trường hợp này, người con cũng chớ nên phiền trách, trái lại phải cố gắng tìm cơ hội dùng lời dịu ngọt khuyên cha mẹ thức thời, tin Tam-Bảo, tin nhân quả luân hồi, nghiệp báo, làm lành, tránh xa ác tri thức.  Đem chuyện nhân quả luân hồi, đem chuyện Mục-Liên Thanh-Để mà hết lòng khéo léo khuyên nhắc mẹ cha.  Nếu cha mẹ nghiệp chướng quá nặng, thiếu thiện duyên với Phật Pháp, thì bổn phận làm con cố gắng học Phật, tu tâm, âm thầm cầu nguyện cho cha mẹ sớm hồi tâm giác ngộ.

Báo hiếu cha mẹ là làm cho cha mẹ hiểu biết Phật pháp, quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi, tu tâm tạo phước, đó mới đích thật là báo hiếu cao thượng cứu cánh nhất.

Báo đáp ân đức cha mẹ bằng cung phụng đầy đủ vật chất đã là khó, nhưng vẫn chưa đầy đủ.  Muốn hiếu kính trọn vẹn, ngoài phần vật chất ra, còn phải khuyên cha mẹ hồi tâm hướng thiện, mà phần này mới là quan trọng và đầy đủ ý nghĩa hiếu kính.

Bổn phận làm con phải làm sao sống đời sống có ý thức chánh tà, hướng tâm vun bồi phước đức, sống có ý nghĩa lợi mình lợi người, để cho tiếng thơm, lời khen tặng của người đời đồn đến tai cha mẹ.  Được như thế là cha mẹ an ủi vui lòng đẹp dạ.  Ngày nào người con đạt được công thành danh thơm là ngày ấy cha mẹ cảm thấy hãnh diện với làng nước.  Bao nhiêu công lao cực nhọc của cha mẹ dành cho con cũng chỉ kỳ vọng thế thôi.  Và lúc đó là cơ hội tốt để khuyên cha mẹ hồi tâm giác tỉnh tu tâm dưỡng tánh hành thiện.

Nay tính đã tám mùa Vu-Lan, tôi vẫn còn sống kiếp lang thang trên đất khách quê người.  Hướng vọng về nơi chôn nhau cắt rún vạn dặm xa xăm trong khói lửa mịt mù, người con thảo cháu hiền lòng mang nỗi u hoài thương nhớ đấng sanh thành.  Nơi đây, tôi xin chắp hai tay thành tâm khấn nguyện song thân được vạn điều an lành nơi trần thế cũng như nơi cảnh Phật Tây phương chín phẩm sen vàng ngát hương giải thoát.  Nguyện cầu những đấng anh hồn tử sĩ, những vị hy sinh vì đại nghĩa hòa đồng với hồn thiêng đất nước, những oan hồn uổng tử vô chủ vô y, tất cả đều được an lành trong cảnh tịnh.  Nguyện cho quê hương dân tộc sớm được phước duyên, sống trong hào quang thanh bình, thạnh vượng tự do no ấm trong một đất nước Việt-Nam độc lập thái bình.

 

 

Vu Lan Tha Hương

Mỗi năm cứ vào tiết thu, trời cao xanh ngắt, cỏ cây đổi màu, lá vàng lìa cành lác đác nhẹ rơi.  Người con thảo cháu hiền không thốt nên lời xúc cảm nỗi nhớ niềm thương, chạnh lòng tưởng nhớ đến bậc thương thân cha mẹ.  Tiếng chuông chùa chiều thu ngân nga từ xa vang vọng, hình bóng cha già mẹ yếu, hình ảnh người con hiếu hạnh muôn thuở Mục-Kiền-Liên lại rạng rỡ hiện về trong mùa Vu-Lan.  Đó đây phảng phất khói trầm hương nghi ngút quyện lấy lời cầu nguyện của chư Tăng, âm vang lan dần cao ngất tỏa khắp mười phương thấm nhập vào các cõi hư không pháp giới.

Vu-Lan năm nay đã là mười ba mùa Vu-Lan tha hương đầy đau thương và nước mắt.  Nhìn vào thực trạng kiếp người Việt-Nam đó đây vẫn còn dẫy đầy ngập trời đau thương khổ nhục dưới chế độ được tung hô là giải phóng, là độc lập, là xã hội chủ nghĩa!

Thật là mỉa mai, tung hô cách mạng giải phóng, độc lập, thế mà tài sản người dân một sớm một chiều tan nát, bị tịch thâu, bị tù đày tập thể.  Nhà tù nhiều người chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc!  Người dân bỏ nước vượt biển cả thập tử nhất sanh để tìm cuộc sống tự do mà phải đành đoạn lòng đau ruột thắt cho thân phận mang kiếp sống tha hương!

Xót thương cho nghiệp dân vận nước quá đỗi điêu linh thống khổ, bởi do mê hoặc danh từ hoa mỹ giải phóng, cách mạng, tự do, hạnh phúc!  Chẳng khác nào cô bé ngây thơ mê lời đường mật của tên sở khanh để phải tan tành kiếp trinh nữ!  Tiếng than khóc của trinh nữ vụng dại nào có khác tiếng khóc thương tủi hận của người Việt khắp nơi từ biển cả cho đến rừng sâu!?  Nghiệp dân vẫn mãi đeo đuổi những chuỗi ngày tủi nhục cực khổ lầm than.  Tiếng rên xiết của trên năm mươi triệu người con dân nước Việt da vàng máu đỏ hoạn nạn khổ nhất trần gian mà chẳng có mấy ai màng đến.  Những kẻ đã từng giành giựt lên ngai ngự trị muôn dân, dành độc quyền lèo lái con thuyền quốc gia đã sớm vơ vét tiền của lén bỏ nước ra đi từ trước, giờ đây họ hưởng dục lạc trên đống vàng bạc đã được bí mật chuyển sang nước ngoài từ trước, để mặc cho sinh dân thống khổ ngày sống cũng như đêm, lủi thủi dẫy dụa trong kềm kẹp của chủ nghĩa vô thần phi nhân lửa đỏ, chủ nghĩa cằn cỗi sắt máu ác nghiệt theo chỉ thị của ngoại lai, như những con trâu già gầy ốm mệt mỏi nằm nhơi giữa trời nắng hạ đồng khô cỏ cháy.

Đó đây trên khắp các nước tự do lân bang dựng nên những trại tỵ nạn ngày đêm khắc khoải.  Khắp non sông đất Việt, thay vì kiến thiết cơ sở văn hóa kinh tế xã hội từ thiện để phát triển quốc gia, cứu tế dân chúng bệnh tật đói nghèo thời hậu chiến, thì trái lại nhan nhản những trại tâp trung cải tạo ngày đêm bị hành hạ đọa đày khắp cả đất nước, dân chúng dẫy dụa trong cảnh lầm than cơ cực.  Đất nước tiếp tục lụn bại suy tàn, chẳng khác con thuyền nan mục gỗ, lủng khoang không sửa chữa, đang bồng bềnh giữa biển cả đầy sóng gió, mà kẻ có trách nhiệm lèo lái ngồi trên đó tay không có địa bàn, lại vênh váo tự hào tự mãn chẳng biết ngước nhìn ánh sáng trăng sao của thế giới để tìm phương định hướng.  Do vậy mà con thuyền nan đất nước càng thêm mục riệu vô định bềnh bồng giữa biển cả mêng mông của cộng đồng nhân loại tiến bộ không biết chừng nào tìm ra bến đỗ, để cho con thuyền Việt-Nam thoát khỏi cảnh đổ nát lạc hậu, người dân thoát khỏi cảnh ngộp thở cơ cực đọa đày.

Đã mười ba mùa Vu-Lan ly hương rồi, mà ngày ngày người dân lành vẫn phải tức tưởi lìa bỏ đất mẹ ra đi, , vẫn phải chấp nhận “thà chết trên biển cả, trong rừng sâu” để tìm đời sống tự do chứ không có cách nào sống được trên đất mẹ!  Đất mẹ dẫy đầy các ngục tù trại giam trá hình là trại cải tạo vẫn ngày ngày tiếp tục đày đọa bao kiếp người vì lý tưởng dân chủ tự do.   Trong lúc đó, người được cái may mắn ra nước ngoài có hoàn cảnh tự do, cơm no áo ấm lại không lo đùm bọc lấy nhau mà cứ lo mưu mô quỷ kế lợi đường riêng tư, gây thù tạo oán dấy bùn phun bọt làm phiền khổ cho nhau, khiến cho người bản xứ khinh chê.  Điều này làm đau lòng người đã nằm xuống vì đại nghĩa, làm hư hỏng đại cuộc đoàn kết khôi phục quê hương.

Hôm nay nhân mùa Vu-Lan, trong kiếp sống tha hương đau lòng tủi phận thương than trên đất khách quê người, con hồi tưởng lại những mùa Vu-Lan khi còn ở quê hương, nó chan chứa tình thương, nồng hậu tình tự dân tộc đầm ấm làm sao!

Dòng tâm thức con miên man hướng về dĩ vãng hai ngàn năm trước đây:  Cũng trong dịp Vu-Lan này, vua Ba-Tư-Nặc thỉnh đức Phật và chư Tăng vào cung để cúng dường trai tăng cầu siêu độ cho phụ hoàng.  Nơi đó, con học được bài học quý giá qua sự bị nạn nghiệp tình của tôn giả A-Nan được đức Phật cứu thoát ra khỏi vòng ái nghiệp.  Nhân dịp này, đức Phật đã bảy lần khai thị và A-Nan cũng đã bảy lần hồi quang phản chiếu trở về bản tánh tự tâm.  Nhờ đức Phật bảy lần khai thị, A-Nan mới hồi quy trực diện thể nhập chơn tâm của mình.  Bảy lần Phật khai thị cho A-Nan giá trị như bảy hạt ngọc kim cương kết thành xâu chuỗi tràng kinh Thủ-Lăng-Nghiêm vô giá, có hiệu năng phá tan màn vô minh nghiệp thức từ bao đời.  Tràng chuỗi ngọc Thủ-Lăng-Nghiêm có hiệu năng khai thị chỉ thẳng vào tâm thức, khơi đèn trí tuệ cho những chúng sanh có chí hướng vượt thoát sông mê bể khổ luân hồi tử sanh.  Ngay đó, kinh Thủ-Lăng-Nghiêm đã trở thành bộ triết lý của đạo Phật, bí quyết giải triệt lộ tuyến vô minh, để thể nhập chân tâm tuệ giác cho những hành giả thiết tha trực diện Phật tánh, tránh nẻo luân hồi.

Rằm tháng bảy là ngày lễ Vu-Lan báo hiếu, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, khi các Ngài thấy chư Tăng, hàng trưởng tử Như-Lai đã tròn đầy ba tháng an cư chuyên ròng tịnh tu thân tâm thanh tịnh.  Ngày rằm tháng Bảy cũng là ngày chư Tăng tự tứ, nghĩa là các thầy một dạ chí thành giải bày tâm can phát lồ sám hối tất cả lỗi lầm của mình, đồng thời thỉnh cầu thầy bạn mở lòng từ bi hoan hỷ chỉ cho những lỗi lầm của mình giùm để được sám hối, và nguyện không bao giờ tái phạm, để cho thân tâm được thanh tịnh, ngõ hầu tiến gần đến đạo quả giác ngộ giải thoát.  Rằm tháng bảy, ngày lễ Vu-Lan, chư Tăng mãn hạ, cũng là ngày chư Tăng được thêm một tuổi đạo của đời người xuất gia tu hành.

Trong đạo Phật mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, thời gian này các thầy tỳ-kheo an cư kiết hạ, chuyên ròng tu tập, tròn đầy ba tháng thì được một tuổi đạo.  Trong cửa Phật, đời sống tăng đoàn mỗi năm có an cư kiết hạ nghiêm chỉnh tịnh tu tròn mãn, thường gọi là hạ lạp.  Hạ lạp càng nhiều, tuổi đạo càng cao, đức hạnh càng sâu dày, thì ngày tiến đến quả vị giác ngộ càng mau chóng.  Ngược với người thế gian, mỗi năm đến ngày mùng một Tết là ngày tăng thêm tuổi thọ.  Tuổi đời càng cao mà không biết đạo đức tu hành thì cuộc sống lâu dài chỉ đào sâu thêm hố tội lỗi đọa lạc, càng xa với cảnh giới Niết-Bàn giải thoát.  Đức Phật nói: “Người sống một trăm năm mà không có đạo đức, không biết tỉnh thức tu tâm dưỡng tánh cải thiện đời sống, thì chẳng bằng người sống một ngày mà có tu hành đạo đức”.  Ngạn ngữ có câu: “Đa thọ đa nhục”.  Có nghĩa là, kẻ sống không đạo đức, chỉ thêm tội lỗi khổ nhục chứ chẳng lợi ích gì.  Do vậy mà bậc cổ đức đã từng dạy: “Triêu văn đạo tịch tử khả hỷ”.  Nghĩa là, sáng được nghe đạo, chiều chết cũng cảm thấy an vui.  Hiền nhân quý đạo đức hơn tiền bạc.  Ác nhân quý tiền bạc hơn đạo đức.

Trong đạo Phật nhất là hàng xuất gia, không đặt trọng về tuổi đời mà tôn trọng về tuổi đạo.  Dù vị đó tuổi đời có lớn bao nhiêu đi nữa, nhưng khi xuất gia nhập đạo mới là bắt đầu cuộc sống đạo hạnh, mới cất bước trên đường giải thoát, mới tập sự hành đạo giác ngộ, mới bước lên quang lộ Niết-Bàn, nên phải hết sức khiêm cung kiên nhẫn, dẹp bỏ tự ái danh vị thế gian để đem lòng kính nhường những vị có tuổi đạo cao, dù cho vị nầy còn trẻ.  Cũng trong tinh thần đạo đức đó, đức Phật có dạy rằng: “Dù cho người có tuổi lớn, hoặc xuất gia thọ giới trước, nhưng một khi đã phá trai phạm giới hoặc sống đời đắm nhiễm thế tục mà không biết khởi tâm tàm quý, thành tâm sám hối ăn năn cầu tiến, thì chẳng khác nào như cây dừa chặt đọt, như trái dừa thúi mọng không sao còn sống được.  Người phạm giới cũng giống như thế, không còn giới thể, không được kể là tỳ-kheo.  Đã phạm trai phá giới sống như người thế tục thì không còn tư cách theo sống trong hàng tăng đoàn trưởng tử Như-Lai, trừ phi biết ăn năn cầu sám hối phục giới.  Nếu ai còn tin theo, cúng dường giúp đỡ hạng tỳ-kheo thất hạnh phá giới này, thì chẳng khác nào bón phân tưới nước vào cỏ gai, làm hư hại vườn hoa đạo pháp, đắc tội không khác tỳ-kheo phá giới kia.  Như kinh Hoa-Nghiêm phẩm Phổ-Hiền sớ giải nói: “Hoặc mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm mà vui mừng theo; hoặc biết người phạm mà vẫn tin theo thì đắc phải tội như nhau”. 

Trong kinh điển Phật giáo còn ghi đậm nét rằng, người tu học theo hạnh Phật, ngoài sự đền đáp ân nghĩa sanh thành của cha mẹ còn phải đem lòng báo đền ân nghĩa khắp cả chúng sanh, bằng hữu, sư trưởng và chư Phật.  Bởi tất cả chúng sanh đều là ân nhân quyến thuộc của ta hoặc đời nầy hoặc nhiều đời trước.  Bởi thế cho nên kinh Đại-Báo- Ân dạy rằng: “Cứu giúp chúng sanh tức là cúng dường chư Phật”.  Hiếu hạnh có nghĩa là làm cho người khác được an vui và tiến bộ trong chiều hướng thánh thiện hóa, thăng hoa đời sống.  Như thế mới là chân thật hiếu hạnh, chơn chánh hành đạo và hộ đạo.

Sau khi Mục-Kiền-Liên tôn-giả tu chứng được đạo quả, Ngài dùng huệ nhãn quán sát khắp pháp giới chúng sanh, thấy mẹ là bà Thanh- Đề đang đọa trong loài ngạ quỷ đói khát, bụng to như trống, cổ nhỏ như kim, da bọc lấy xương, ngày đêm lửa nghiệp thiêu đốt khổ sở vô ngần.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên rất đỗi xót thương không cầm lòng được, liền dùng thần thông đem bát cơm đến dâng cho mẹ.  Nhưng khi bà Thanh- Đề vừa thấy cơm lòng tham bộc phát, nên cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa cháy cả miệng, mặt, tay, khiến cho bà đau đớn không lời tả xiết.  Mục-Kiền-Liên thấy cảnh bi ai như vậy điếng trân cả người, cổ họng nghẹn ngào không thốt nên lời, lệ rơi như suối, cúi đầu chào mẹ, liền vội trở về ra mắt Phật đảnh lễ, bày tỏ đầu đuôi tự sự, mong Phật từ bi chỉ bày phương pháp cứu độ.

Nghe xong, đức Phật nói với Mục-Kiền-Liên rằng: “Mẹ ông do lòng tham sân, bỏn sẻn, ích kỷ, đố kỵ, khinh khi Tam-Bảo, hủy báng các bậc chân Tăng, chẳng tin nhân quả luân hồi nghiệp báo, gây nên tội ác nặng nề, phước đức một mình ông không thể cứu độ được, dù lòng hiếu thảo của ông cảm động đến đất trời, thiên thần địa quỷ.  Vậy, nhân ngày rằm tháng Bảy, ngày chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư chuyên rằm thúc liễm thân tâm thanh tịnh, giới thể châu viên, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, ông nên nhân ngày ấy thiết lập trai đàn, cung thỉnh các bậc chân Tăng tu nơi rừng núi, am chùa, tịnh thất, vân tập về mà thành tâm thiết lễ trai đàn để cúng dường.  Hy vọng nhờ công đức cúng dường, nhờ giới hạnh thanh tịnh đạo đức của các vị chân Tăng đạo cao đức trọng đồng tâm nhất niệm nguyện cầu, chắc sẽ cảm hóa được tâm tánh mẹ ông, cảm thông đến mười phương pháp giới chư Phật hộ niệm, như thế mới mong giải thoát được tội khổ.  Đức Phật nói tiếp: “Mẹ ông tội căn sâu nặng như tảng đá to lớn, mà công đức tu hành của ông chỉ mới như thuyền nan không thể nào chở nổi, mà phải cần nhiều chiếc thuyền kết lại thành bè mới có thể nhẹ nhàng đưa tảng đá to nặng kia qua sông ngạ quỷ, thoát vòng trầm luân”.

Mục-Kiền-Liên tôn-giả tuân lời Phật dạy, đem hết tất cả gia sản của bà Thanh- Đề để lại bán đi, để tập trung tài lực lo việc đàn chay trai tăng cúng dường.  Khi việc cúng dường trai tăng vừa xong, bà Thanh- Đề liền thoát khỏi cảnh ngạ quỷ sanh lên cõi trời hưởng phước.  Thấy mẹ được sanh lên cõi trời, Mục-Kiền-Liên rất đỗi vui mừng liền đảnh lễ Phật, quỳ thưa: “Bạch đức Thế-Tôn, trong đời sau, nếu có những người con hiếu thảo muốn siêu độ mẹ cha, ông bà có thể thiết lễ trai tăng cúng dường như con được không?”

Đức Phật đáp: “Hay thay!  Hay thay!  Mục-Kiền-Liên, ông đúng là đệ tử lớn của ta.  Ông quả là người con hiếu thảo nêu cao gương sáng hiếu hạnh muôn đời.  Lời hỏi của ông đích thực khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho chúng sanh đời sau.  Nầy Mục-Kiền-Liên, sau khi Như-Lai nhập Niết-Bàn, nếu có những chúng sanh nào muốn làm tròn hiếu hạnh người con thảo cháu hiền báo đền ân sâu nghĩa nặng, siêu độ mẹ cha ông bà thân quyến, mà khéo biết theo khả năng hoàn cảnh của mình, thành tâm thiết lễ cúng dường trai tăng, thì cũng được công đức thù thắng chẳng khác gì ông làm ngày hôm nay”.  Từ độ ấy đến nay, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, những người con thảo cháu hiền làm sống lại ý nghĩa Vu-Lan từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, trải qua bao ngàn năm vẫn chưa phai mờ.

Nhưng tại sao ơn nghĩa cha mẹ lại sâu nặng mà hầu hết tất cả mọi người, mọi chủng tộc, mọi tôn giáo của thế giới nhân loại, ngoại trừ người cộng sản phi nhân, kẻ cuồng tín thần linh thượng đế, thì đều tôn trọng thuận hành?  Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, qua sách sử nhân loại, qua kinh điển thánh hiền đã diễn tả thuyết minh về tình mẫu tử, ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của mẹ cha, đạo làm con hiếu kính, tính ra đến vạn triệu quyển, văn từ về lòng mẹ, ngôn ngữ về hiếu thảo của con vẫn bất tuyệt.  Kinh Thi của Trung-Hoa, ca dao của Việt-Nam v.v… bàn bạc về tình mẹ, về lòng hiếu thảo đã chiếm hết một phần tư kho tàng văn hóa tư tưởng của dân tộc mỗi xứ.  Văn từ nói về tình mẹ, ngữ ngôn diễn tả về lòng hiếu thảo của con hết sức đơn giản nhẹ nhàng như áng mây trôi, như bức tranh thủy mặc, như bóng trăng non rung rinh trong làn gió nhẹ thoảng qua cửa sổ, như mặt nước hồ thu gợn sóng, nhưng lại cũng rất sâu sắc thâm thúy như những pho triết lý cổ mà bao bộ óc thông minh xuất chúng của nhân loại đã phải dày công trải bao thế hệ khô mực cùn bút cũng vẫn chưa diễn tả giải thích hết tình mẫu tử.

Tình thương của mẹ là suối nguồn hạnh phúc của con, là chất liệu mát dịu ngọt ngào cho lẽ sống còn của nhân loại.  Cũng như mặt trời là nguồn sáng của vạn vật, là hơi ấm khởi sắc cho muôn loài chúng sanh.  Mặt trời và không khí cần thiết cho sự sống loài người bao nhiêu, thì tình mẹ lại cần thiết cho sự sống vui lớn khôn hạnh phúc của con cái gấp trăm ngàn lần hơn:

Mẹ  là cả một trời thương

Mẹ là cả một thiên đường trần gian

Tiếng ru mẹ ấm vô vàn

Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương

Ngày còn cắp sách đến trường

Chắt chiu cặp sách khăn choàng mẹ lo

Mẹ đã dùng hết năng lực, thời gian quãng đời son trẻ để lo cho con.  Mẹ hy sinh cho con không còn biển trời nào mà không thấm mát tình thương, không có nẻo đường nào trên cõi đời in vết chân của con mà mẹ không trải tình thương đến, không có chân trời góc bể nào mà mẹ không ngóng trông bónh hình của con:

Mẹ hy sinh tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh

Mẹ  là gió mát tinh anh

Là cây tiên dịu, là cành thùy dương

Mẹ  là hoa, mẹ là hương

Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu

Bây giờ bóng mẹ còn đâu

Chỉ còn non nước một màu xanh xanh

Ngay từ buổi đầu khi con mới gá vào thai mẹ, thì kể từ giờ phút đó trở đi, mẹ đã vì con mà kiêng cữ từ sự nói năng ăn ngủ cho đến việc đứng đi nằm ngồi suốt mười tháng trời đằng đẵng.  Đến ngày con ra chào đời thì mẹ đau đớn banh da xé thịt, như dao cắt, ruột thắt, đau thốn đến tủy xương.  Tiếng khóc chào đời của con vừa ré lên thì cùng lúc đó mẹ mới thoát khỏi sự mang nặng như đá trì hông bụng, còn phải đớn đau hao mòn thân thể, có lúc mẹ tưởng chừng như chết theo hơi thở nhau rún của con.  Khi được nghe tiếng khóc chào đời của con, mẹ mừng như được thoát qua một lần chết.  Tiếng khóc chào đời của con kết chặt với tâm trí suy tư và đồng thời dính liền với sự vui khổ thăng trầm vinh nhục suốt cuộc đời của mẹ.  Mỗi tiếng khóc của con làm cho lòng mẹ xót xa, đau nhức như dao cắt tim, như ruột thắt thành từng đoạn.  Mỗi nụ cười của con là nguồn an ủi vơi nhẹ đi não phiền của mẹ.

Vì con mà mẹ phải buôn tảo bán tần.  Vì con mà mẹ phải bao lần chịu cha rầy la đánh mắng.  Vì con mà mẹ phải bị nội ngoại miệt thị khinh chê v.v… nhưng mẹ vẫn cam lòng nhẫn chịu không biết thở than bày tỏ cùng ai, miễn sao cho con được an vui mạnh khỏe.  Vì con mà mẹ phải dãi nắng dầm mưa, đi sớm về trưa, một nắng hai sương.  Vì con mà mẹ phải chịu nhục luồn cúi để cho con được công ăn việc làm, no cơm ấm áo, học thi đỗ đạt, thăng quan tiến chức.  Mẹ đã suốt đời tần tảo đắng cay cực khổ vì con:

Ôi! Chiếc lưng của mẹ

Đã còm bởi thương đau

Ôi! Cuộc đời của mẹ

Trăm năm nối chuyện sầu

Tất cả những gì tươi đẹp nhất cuộc đời, tất cả những gì ngọt bùi của trần thế, tất cả những gì quý giá nhất của đời mẹ, mẹ đều dành dụm trao trọn cho con:

Một đời vốn liếng mẹ trao

Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Bởi tình thương của mẹ bao la không biên giới, tình thương của cha rộng lớn không bến bờ, nên cha mẹ không những là trụ cột yên vui gia đình, mà còn là suối nguồn sinh động duy trì dòng tộc và phát triển giống nòi của nhân loại từ thế hệ này đến thế hệ khác.  Tình mẹ là nước nguồn trong mát xúc tác gây nên cảm hứng bất tuyệt cho biết bao thi nhân, văn sĩ, triết gia viết ra thành văn, sáng tác thành thơ, nói nên thành lời, tạo cho đời những cung đàn, điệu nhạc êm đềm thâm thúy, tươi mát ngát thơm, hình thành những kiệt tác sáng giá muôn đời.  Bởi ý nghĩa thiêng liêng nhiệm mầu như vậy, nên xưa nay tình mẹ được ví như hương hoa của đất trời, như bình minh xuân mát, như lời nhạc muôn điệu:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhân gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm

Bởi cái tính chất thiêng liêng huyền diệu đó, nên cho dù người có được quyền uy, chức trọng, danh vọng, giàu sang trong xã hội, mà không có lòng hiếu kính mẹ cha, thì cũng chỉ là kẻ vong ơn bội nghĩa bị đời mỉa mai chê cười ngao ngán!  Hạng người này chỉ gây tai họa cho đời, làm bia xấu miệng đời, làm cho làng nước nhân loại khổ đau, và họ chẳng khác nào loài trùng giòi, củi mục, đất đá, gai sỏi ở xó cầu đầu ngõ:

Những người bất hiếu tử

Nhung nhúc sống bằng thừa

Không nghĩ ơn cha mẹ

Khác nào thân cây khô…

Nên cho dù ở đâu, hoàn cảnh nào, thời đại chuyển biến ra sao đi nữa, thì hiếu hạnh vẫn làm đầu.  Cổ đức nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.  Nghĩa là, hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành.  Khi Thi nói: “Vô phụ hà hổ, vô mẫu hà thị”.  Nghĩa là, không cha thì ta cậy ai, không mẹ thì ta nhờ ai.

Trên đường luân lạc, vào một chiều thu, gió thu hiu hắt, lá thu úa vàng lác đác nhẹ rơi.  Thúy-Kiều lòng bâng khuâng miên man nhớ đến cha mẹ:

Duyên hội ngô, đức cù lao

Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn?

Để lời thệ hải minh sơn

Làm con trước phải đền ơn sanh thành.

Ngọc-Hân công chúa, con vua Lê-Thánh-Tôn, vợ của vua Quang-Trung Nguyễn-Huệ, sau khi nhà Tây-Sơn bị Gia-Long tiêu diệt, Ngọc-Hân công chúa cảm thấy bơ vơ chạnh lòng thương nhớ đến mẹ cha và chồng:

Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng

Nỗi đoạn trường còn sống còn đau

Mấy lời tâm sự trước sau

Đôi vầng nhựt nguyệt trên đầu chứng cho.

Ơn cha mẹ đối với con như trời cao bể rộng. Con mà không biết hiếu thảo báo đền thì đắc phải tội to lớn, quả báo không lường.  Cho nên dù tuổi đời có cao, có cháu có chắt đi nữa, hễ mỗi lần nhắc đến mẹ cha là chạnh lòng thương nhớ.  Tình mẹ nghĩa cha thâm sâu lạ lùng.  Người có nhân đạo dù ở hoàn cảnh nào, ở tuổi tác nào rồi cũng tưởng nhớ mẹ cha. Ân đức mẹ cha rộng sâu vô tận như vậy.  Nên kinh Nhẫn-Nhục nói: “Thiện chi cực mạc đại ư hiếu, ác chi cực bất hiếu giả”.  Nghĩa là, không điều lành thiện to lớn bằng hiếu, không điều ác nào to lớn bằng bất hiếu.  Hiếu quan trọng như vậy, nên kinh Đại-Tập nói: “Thế nhược vô Phật thiện sự phụ mẫu, sự phụ mẫu tức thị sự Phật”.  Nghĩa là, sanh ra đời nếu không gặp Phật mà chúng ta khéo phụng dưỡng kính thờ cha mẹ thì cũng như kính thờ Phật.

Muốn thoát nợ ân nghĩa trả vay, muốn thoát kiếp đọa đày trong sáu nẻo luân hồi, muốn chóng đạt thành đạo quả Vô-thượng Bồ-đề Chánh-giác, thì trước phải hiếu đạo phải tròn đầy.  Nhưng muốn hiếu hạnh được trọn vẹn thì không phải chỉ cung cấp vật chất cho cha mẹ là đủ, mà điều quan trọng hơn hết là khuyến khích cha mẹ phát tâm quy y Tam-Bảo, tu tâm dưỡng tánh, tin sâu nhân quả luân hồi, nghiệp báo tinh tấn làm việc từ thiện.  Như thế là cung dưỡng cha mẹ vật chất đầy đủ, tinh thần an vui, hiếu đạo mới vẹn toàn.  Cổ đức nói: “Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu”.  Nghĩa là, cha mẹ được siêu thoát phàm trần an vui trong cảnh tĩnh, thì hiếu đạo của người con mới trọn thành.

Hôm nay nhân ngày Vu-Lan báo hiếu, với nỗi u hoài khắc khoải thâm sâu nơi lòng, hướng vọng quê hương nguyện cầu hồn thiêng đất nước, anh linh tử sĩ phò trì cho quê hương dân tộc Việt-Nam sớm thoát khỏi cảnh điêu linh đổ nát lạc hậu đọa đày, để cho dân Việt sớm có ngày được sống thanh bình tự do trên đất mẹ thân yêu.  Đồng thời, nơi đất khách quê người, nguyện đem quãng đời còn lại noi gương hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên tôn-giả, theo gót chân Phật Đà Từ-Phụ Thích-Ca, học theo đời sống vị tha để báo đền ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ và nguyện đền đáp bốn ân sâu nặng, để hồi hướng khắp cùng pháp giới chúng sanh đồng tu chánh giác, sớm thành đạo quả giải thoát Vô-thượng Bồ-đề.

 

Ý Nghĩa Vu Lan

Vu-Lan lại về.  Vu-Lan về với người con Phật.  Đặc biệt với người con Phật tha hương, những người con thảo cháu hiền còn nghĩ đến ân sâu nghĩa nặng của mẹ cha, thì nỗi nhớ niềm thương trong mùa Vu-Lan lại càng thắm thiết hơn bao giờ!  Nhưng Vu-Lan mang ý nghĩa gì?  Tại sao mỗi độ Vu-Lan về những người con thảo cháu hiền cảm thấy bồi hồi với những kỷ niệm cùng người khuất bóng, mà mình đã từng sống, từng quen thân, từng chịu ân?  Có những cõi lòng cảm thấy trơ trọi cô đơn mỗi lần khói trầm hương Vu-Lan quyện tỏa, hòa với lời kinh nguyện cầu trong ngày rằm tháng bảy Vu-Lan thắng hội.

Vu-Lan còn gọi là Vu-Lan thắng hội.  Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền.  Giải là cởi mở.  Đảo là lộn ngược.  Huyền là treo.  Nói trọn nghĩa chữ Vu-Lan là giải cứu những người đã lỡ lầm thất đức tạo những tội lỗi nặng nề phải bị các hình phạt đớn đau như người bị treo ngược, đói khát thống khổ suốt ngày đêm không ngừng.

Nhớ lại khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, một trong những người đệ tử lớn của Ngài là tôn-giả Mục-Kiền-Liên, sau khi nhận chân đâu là chánh pháp giác ngộ, đâu là tà đạo, đã bỏ tà về chánh quy y Phật, được Phật nhận làm đệ tử cho thọ giới mặc áo cà-sa, nhập hàng tăng chúng.  Từ đó, Mục-Kiền-Liên đã dốc lòng chuyên tâm tinh tấn tu học không giây phút giải đãi.  Chẳng bao lâu, tôn-giả chứng được thánh quả đắc pháp thần thông, trở thành một trong số mười người đệ tử lớn của đức Phật, đặc biệt sở đắc về thần thông đệ nhất.

Nhưng sự đời trái ngược, không thuận như gió thoảng nhẹ, như nước chảy xuôi dòng!  Mục-Kiền-Liên tôn-giả sau khi qui đầu theo Phật, tinh tấn tu học, niềm tin thâm sâu vào đạo giải thoát.  Tôn-giả nhiều lần khuyên mẹ là bà Thanh-Đề nên cùng phát tâm tu học đạo giác ngộ của đức Phật để được giải thoát sanh tử luân hồi.  Nhưng bà Thanh-Đề nghiệp chướng tham sân chấp ngã, bỏn sẻn keo rít, ác tâm quá nặng.  Tâm bỏn sẻn, lòng ích kỷ của bà đã thành định tánh.  Lại hay cố chấp, bo bo giữ của, nên tánh nào tật nấy, không mấy nghe theo lời khuyên khẩn thiết của tôn-giả Mục-Kiền-Liên.  Tánh tình chập hẹp của Bà chẳng thay đổi.  Tuy Mục-Kiền-Liên tôn-giả hết lòng thương mẹ, lo âu cho tâm tánh nghiệp chướng của mẹ, đã nhiều lần thống thiết khuyên mẹ hồi tâm phản tỉnh quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả nghiệp báo luân hồi, buông xả tham chấp.  Nhưng lời khuyên thành khẩn của người con hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên không lay chuyển được người mẹ, tâm dạ nặng nghiệp tham chấp.  Năm tháng lặng lẽ trôi đi, người con hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên quyết chí tu hành được đắc thánh quả A-la-hán.

Ngày tháng như thoi đưa.  Bốn mùa luân lưu thay đổi.  Người mẹ cố chấp tham tâm ác tính theo định luật vô thường rồi phải bỏ thân tứ đại mộng huyễn, theo nghiệp ác đọa vào ngạ quỷ, bụng to như trống, cần cổ như cây kim, đứng trên lửa đỏ, ngồi trên bàn chông, đói khát khổ sở vô cùng không sao tả xiết!

Mục-Kiền-Liên tôn-giả khi chứng được đạo quả, thường bên cạnh đức Phật Thích-Ca trợ lực giáo hóa thuyết pháp độ sanh.  Lắm lúc tôn-giả nhớ thương đấng sanh thành dưỡng dục vô ngần.  Thế rồi một ngày nọ, tôn-giả dùng huệ nhãn quan sát khắp trong sáu nẻo luân hồi, thấy cha mình nhờ khi sanh tiền biết quy y Tam-Bảo, tu thiện nghiệp, nên khi chết được sanh lên cõi trời hưởng phước báo an vui.  Còn mẹ là bà Thanh-Đề do tham sân cố chấp tạo ác nghiệp, nên phải sanh vào loại ngạ quỷ đói khát rên xiết thảm não.  Tôn-giả hết sức đau lòng xót thương.  Ngài liền đem bình bát cơm vận dụng phép thần thông đến chỗ bà Thanh-Đề, để dâng cơm lên cho người mẹ khốn kiếp đọa đày, ăn cho đỡ dạ.  Nào ngờ bà Thanh-Đề vừa thấy bát cơm, lòng tham lam ích kỷ lại khởi lên, sợ các quỷ khác xúm lại xin ăn, nên bà liền lấy tay trái che bát cơm, tay phải bốc ăn.  Nhưng đau đớn thay, cơm hóa thành lửa, không thể nhai nuốt được nữa!  Mục-Kiền-Liên xót xa rơi lệ, biết mẹ mình nghiệp chướng quá nặng, không thể cứu được. Tôn-giả xót xa rơi lệ, chào từ biệt mẹ, vội vã trở về bạch mọi sự việc đau lòng vừa xảy ra, cầu mong đức Phật từ bi chỉ dạy phương pháp giải cứu mẹ.

Đức Phật bảo tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: Mẹ ông khi còn sống ở đời, thường ỷ mình đep khỏe giàu có, không biết làm phước bố thí cúng dường.  Không chịu phát tâm quy y Tam-Bảo, khinh thường nhân quả nghiệp báo luân hồi.  Lại do lòng tham lam bỏn sẻn gồm thâu gom góp tiền của mà tạo nhiều tội lỗi.  Hay khinh chê mỉa mai người có nhiệt tâm hăng hái làm việc thiện.  Thiếu từ tâm hoan hỷ khuyến khích người tu học, làm việc nghĩa.  Suốt ngày nói chuyện thị phi, chê bai tăng ni, khi dễ người hiền, bỏn sẻn keo kiết, gom góp tiền của không biết bố thí, cúng dường, giúp đỡ.  Mẹ ông đã tạo nên bao nhiêu điều ác đức tổn phước như vậy, nên phải chịu lấy ác quả.  Các tội ác đó kiếp kiếp ở trong ba ác đạo, cho dù lòng hiếu thảo của ông có to lớn cảm động đến cả thiên địa, nhưng phước đức một mình ông không thể cứu nổi cái tội nặng nề của mẹ ông, dù ông ngày nay đã chứng quả A-la-hán.  Muốn cứu thoát mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ, chỉ còn phương pháp duy nhất là nhân dịp rằm tháng Bảy chư tăng tự tứ.  Ngày đó chư tăng tự tứ cũng là ngày chư Phật Bồ-Tát mười phương hoan hỷ, chư thiên đều tán thán và chư thiện thần đều gia tâm hộ trì.  Bởi vì, ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng đã tròn đủ ba tháng an cư kiết hạ, giới luật tinh nghiêm, tâm niệm thanh tịnh, tăng thêm tuổi đạo, công đức cao dày.  Ngày này cũng là ngày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, được dừng nghỉ hành hạ, để cho chúng sanh nào biết hồi tâm hướng thiện niệm Phật, hồi tâm giác tỉnh theo tiếng chuông u minh, theo lời cầu kinh của chư tăng thì liền đó đức Địa-Tạng Bồ-Tát đến phóng quang tiếp độ, cứu thoát khỏi cảnh khổ.

Phật lại dạy tôn-giả Mục-Kiền-Liên: Vậy nhân ngày rằm tháng Bảy chư Tăng tự tứ, ngày công đức cao dày của thập phương Tăng, ông nên sắm sửa trai diên, đồ ăn vật dụng hằng ngày mỗi phần đầy đủ để trong bồn.  Ông phải thành tâm đi thỉnh các vị thanh tịnh tăng khắp đó đây về để thiết lễ dâng cúng dường trai tăng.  Nhân dịp nầy, ông thành tâm khẩn bạch rõ tâm nguyện hiếu thảo để chư Tăng thành tâm cầu nguyện. Mẹ ông sẽ nhờ công đức cúng dường do lòng thành hiếu thảo của  ông, đồng thời nhờ công đức thanh tịnh của chư Tăng tinh tấn tu hành trong ba tháng an cư, cùng sức chú nguyện khác miệng cùng một lòng thanh tịnh của chư Tăng, tạo thành năng lực bất khả tư nghì có thể hoán cải được tâm thức ác nghiệp của mẹ ông, thì mẹ ông nhất định thoát kiếp quỷ đói.  Tội của mẹ ông to nặng chẳng khác nào như tảng đá to rớt trong vũng sình lầy.  Phải nhờ sức nhiều người mới khiêng đẩy lên được.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên nghe Phật dạy xong, nức nở thương xót cho số kiếp của người mẹ mê mờ tham lam cố chấp, nhưng Ngài cũng lại rất vui mừng được Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ thù thắng viên mãn.  Ngay khi tôn-giả Mục-Kiền-Liên chí thành thực hành lễ trai tăng xong, với công đức chú nguyện của chư Tăng tạo thành thần lực vạn năng, chuyển đổi tâm địa của bà Thanh-Đề ngay khi đó được thoát kiếp ngạ quỷ.

Thấy mẹ được thoát kiếp đọa đày thống khổ, ngài Mục-Kiền-Liên vô cùng mừng rỡ vội trở về đảnh lễ đền đáp ân Phật.  Đức Phật dạy tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: “Ân cha mẹ cao rộng như trời như biển.  Dù cho người con có vai trái mang cha, vai phải mang mẹ đi khắp quả địa cầu nầy nhiều lần như số cát sông Hằng cũng không thể đền đáp được ân sanh thành dưỡng dục rộng sâu như trời biển đó.  Chỉ cần phát tâm Bồ-đề học đạo giác ngộ giải thoát và khuyên cha mẹ cũng làm được như thế tức là có thể báo đền ân đức sanh dưỡng của cha mẹ.  Ngược lại, nếu người con chẳng biết đạo đức, thiếu tu học đạo giác ngộ, không tin nhân quả tội phước nghiệp báo luân hồi, tự mình tội lỗi đọa đày, điều nầy không khéo lại làm cho cha mẹ tăng lòng tham đắm ngũ dục lạc, vậy là tự tạo ác nghiệp cho mình và vô tình làm duyên tạo thêm tội lỗi cho cha mẹ.  Việc làm hiếu kính của ông vừa rồi để cứu mẹ ông đã có kết quả nhiệm mầu.  Đấy là phương pháp báo hiếu hiệu quả nhất, nhiệm mầu nhất cho những người con hiếu thảo.  Đời sau những người con thảo cháu hiền nào muốn thực hành để báo đền ân nghĩa cha mẹ thì nên làm như ông”.

Từ ấy đến nay, suốt dòng lịch sử truyền bá đạo Phật, trải hơn hai ngàn năm trăm năm, người Phật tử khắp năm châu bốn biển, hễ mỗi độ thu về, rằm tháng bảy đến, thì biết đó là mùa báo hiếu.  Hình ảnh Mục-Kiền-Liên, người con hiếu hạnh muôn thuở lại sống dậy cùng với hình ảnh đức Phật từ bi hóa độ chúng sanh.  Đặc biệt hình ảnh đức Phật mừng cho chư Tăng, những người con được Ngài mệnh danh là trưởng tử Như-Lai, Đạo Phật tuyên dương chánh pháp, đã tròn đầy ba tháng an cư chuyên ròng tịnh tâm tu học, xứng đáng nhận thêm một tuổi đạo.  Người xuất gia hồi hướng công đức tu hành của mình đến cha mẹ và chúng sanh hiện còn được an lành, quá vãng được giải-đảo-huyền.  Kinh Phật dạy rằng: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu hành phương thành tựu”.  Nghĩa là cha mẹ có thoát khỏi được cảnh đọa đày thống khổ thì sự tu hành của người con mới chứng tròn đạo quả.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên mở đầu kỷ nguyên hiếu hạnh cho hậu thế vạn kỷ nhân loại noi theo.  Hôm nay ngày Vu-Lan, mời các bạn phát nguyện noi gương hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, để cha mẹ được an vui nơi cảnh tịnh:

Hôm nay gặp lễ giải đảo huyền

Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên

Chư tăng tự tứ con cầu nguyện

Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền

 

Rằm Tháng Bảy

Rằm tháng bảy đối với đạo Phật mang ý nghĩa đặc thù, tưởng cũng nên lược nêu ra đây vài đặc điểm:

1) Ngày tự tứ: Khi đức Phật còn ở đời, ngày ngày Ngài đi hoằng pháp khắp đó đây, nhưng đến mùa mưa từ khoảng rằm tháng tư đến rằm tháng bảy, trong suốt thời gian ba tháng mùa hạ nầy, đức Phật và hàng đệ tử xuất gia đều tập trung ở một chỗ chuyên tâm tu học không ra ngoài, việc làm nầy ngoài ý nghĩa tránh sự giẫm đạp trùng kiến và mầm non cỏ cây, còn là thời gian để tăng chúng thúc liễm, thân tâm tinh tấn tu tập, gọi là thời gian kiết hạ an cư.  Kiết hạ an cư tức là kiết giới an trú một chỗ tịnh tu suốt ba tháng mùa hạ, nên cũng gọi là cấm túc.

Ở Ấn-Độ, vào mùa hạ trời thường mưa ẩm ướt, côn trùng sanh sản, cỏ cây nẩy mầm, nên đức Phật khuyên hàng đệ tử tốt nhứt tập trung ở một chỗ để chuyên tâm tịnh tu. Trong suốt thời gian ba tháng hạ, đức Phật ròng rã thuyết pháp, chư Tăng tĩnh tâm chuyên cần ngày đêm tinh tấn tu học không ngừng, đồng thời cũng là dịp trình giải sở đắc, trao đổi kinh nghiệm tu học và hoằng pháp.  Thời gian ba tháng an cư nầy, chư Tăng ngày đêm gia công chuyên ròng tu tập gấp bội ngày thường, nên giới hạnh công đức cũng theo đó mà tăng trưởng cao dày.  Do ý nghĩa đặc thù nầy, hằng năm chư Tăng đều y theo lời Phật chế định mà hành trì.  Tuy đức Phật đã niết-bàn từ lâu, nhưng ở bất cứ quốc độ nào, có đạo Phật, có thanh tịnh tăng chánh truyền, vẫn thực hiện thời gian an cư kiết hạ tinh tấn tu tập như khi Phật còn ở đời.  Thời gian kiết hạ an cư chính là thời gian trưởng dưỡng đạo hạnh, tài bồi công đức, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm kiên cố.  Chư Tăng giới hạnh thanh tịnh là trang nghiêm mạng mạch đạo pháp vững mạnh trường tồn.  Thế nên, trước giờ nhập Niết-Bàn, đức Phật ân cần nói: “Giới luật còn thì đạo pháp còn”.  Có nghĩa là hàng đệ tử Phật còn biết tôn trọng giữ gìn giới luật thì sức sống của đạo pháp còn.  Phật Pháp thịnh suy tùy theo sự hành trì giới pháp.

Chư Tăng kiết hạ từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy là thời gian tròn đủ ba tháng, do đó rằm tháng bảy cũng thường gọi là ngày mãn hạ.  Ngày mãn hạ còn gọi là ngày giải hạ.  Ngày nầy chư Tăng hội họp để làm pháp tự tứ, nghĩa là mỗi người tự trình bày những điều mình thấy, nghe, hay, biết và chỗ sở đắc, đồng thời thành tâm thỉnh các bậc trưởng lão và đại chúng hoan hỷ nêu chỉ những điều nghi là có lầm lỗi qua sự thấy, nghe, hay, biết, mà chính mình không hay biết để được sám hối và sửa đổi.  Thế nên, khi tự tứ, mỗi vị tăng ở giữa đại chúng, quỳ lạy trước vị trưởng lão thành tâm thưa: “Bạch Đại-Đức, chúng Tăng ngày nay tự tứ, con tỳ-kheo là (xưng tên mình) cũng xin được tự-tứ, nếu thấy tội, nghe tội, nghi có tội, xin Đại-Đức thương xót chỉ bảo cho con.  Nếu con thấy có tội sẽ y như pháp mà sám hối”.  Phải ba lần thưa như vậy.  Tự mình đem hết cõi lòng chân thành hoan hỷ trình bày chỗ thấy nghe hay biết rồi đồng thời thỉnh trưởng lão và đại chúng hoan hỷ chỉ giáo, trong tinh thần từ mẫn tương thân tương kính tương sám để tự và tha đều hoan hỷ chân tình cởi mở hết cõi lòng đồng hỗ tương sách tấn bằng cách chỉ nhắc cho nhau khi mãn hạ trong ngày rằm tháng bảy, nên nhà Phật gọi là ngày tự tứ.

2) Ngày tăng-trưởng hạ lạp, tức là ngày được thêm tuổi đạo. Người đời, cứ mỗi năm đến ngày mùng một Tết là thêm một tuổi thọ.  Và bao nhiêu lần Tết là được bao nhiêu tuổi thọ.  Nhưng nhà Phật thì không như thế.  Nhà Phật tính theo tuổi đạo mà không tính theo tuổi đời.  Tuổi đạo là tuổi căn cứ đạo hạnh, tức là thọ tỳ-kheo giới, thực hành kiết hạ an cư mới có hạ lạp, tức là mới được có tuổi đạo.  Thế nên người đó cho dù có năm bảy chục tuổi đời mà không có thọ giới tỳ-kheo, không theo đại chúng làm pháp an cư kiết hạ, hoặc không thỉnh giới nơi bậc trưởng lão chứng pháp để tự tứ an cư tức là an cư kiết hạ chỗ mình đang ở, thì vẫn không có tuổi đạo.  Dù có cạo tóc ở chùa thọ giới đi chăng nữa mà không có tâm thức và ý nghĩa an cư, không có ý thiết tha cầu học nơi bậc trưởng thượng để kiết giới an cư, cũng chẳng có tâm niệm thành thiết nghĩ đến kiết hạ an cư, thì đó là hạng người hình đồng xuất gia, danh tướng tỳ-kheo, chỉ được giới tướng, mà giới thể tâm đức vẫn bất khả nhập, dĩ nhiên không có hạ lạp, không có tuổi đạo.  Người có thọ giới mà không an cư kiết hạ còn thế, huống chi là kẻ không thọ giới mà mặc áo cà-sa làm tăng!

Kinh Di-Giáo, trước giờ vào Niết-Bàn, Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ-kheo, hãy giữ tịnh giới đừng để thiếu sót hủy phạm, giữ tịnh giới thì có thiện pháp.  Không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không phát sanh”.  Thời mạt pháp có kẻ cạo tóc mặc áo làm tăng mà chẳng cần thọ giới tu hạ, lại tư xưng là thầy tăng.  Đạo-Tuyên Luật-Sư nói: “Kẻ ngụy tăng cạo tóc đắp y thì chẳng cần thọ giới!  Giới không có, thì định huệ sao thành, cữa ngõ nào để vào đạo, đức hạnh từ đâu sanh?”  Ngài Đạo-An cũng nói: “Kẻ cuồng thiền chẳng cần giới.  Kẻ ngụy tăng chẳng cần kiết hạ.  Ngã mạn tăng chẳng cần nương học hỏi nơi bậc trưởng thượng”.  Đối với những kẻ khinh thường thọ giới, kiết hạ an cư, ngông nghênh vượt bậc, khoa trương mong người biết danh cung dưỡng, ngài Châu-Hoằng nói: “Kẻ ngu mờ mịt chẳng biết thứ bậc hạ lạp, người cuồng khinh giới chẳng học, bèn toan tính vượt bực cao xa, thật đáng đau lòng thương xót!”.  Người chân chánh tu thiền thì tinh nghiêm giới luật cầu thầy học đạo, theo thứ bậc hành trì.  Kẻ tà thiền thì ngông cuồng vượt bậc chẳng giới luật, cho rằng: “Thọ giới đắp y chỉ là hình tướng, tu thiền không cần”.  Thật là ăn nói quàng xiên, không hợp kinh điển, nên thiền tổ Bách-Trượng âu lo cho Phật pháp suy tàn, mang tâm nguyện duy trì kỷ cương đạo pháp, chỉnh lý sự tướng, phò trì luật nghi phát huy đạo hạnh, nên làm ra bộ Tòng-Lâm-Thanh-Qui Bách-Trượng.

Chư Tăng y giới pháp an cư kiết hạ, suốt ba tháng, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy chuyên tâm tinh tấn tu tập, sau khi tự tứ tức là ngày 16 tháng 7 âm lịch là ngày được thêm một tuổi đạo, cũng gọi là ngày thọ tuế.  Người xuất gia tỳ-kheo có thực hành bao lần kiết hạ an cư là được bao tuổi đạo, tức là hạ lạp tăng trưởng theo số lần kiết hạ.

3) Ngày Phật hoan hỷ:  Đức Phật trải nhiều kiếp tu hành gian nan khó khổ cũng vì mang đại nguyện lợi tha cứu độ chúng sanh.  Đức Phật ra đời đang sống trong cung vàng điện ngọc, vì nhận rõ thật tướng cuộc đời là mộng huyễn khổ đau, nên Ngài rời bỏ cung vàng điện ngọc, độc thân vào rừng tu khổ hạnh với tâm nguyện cứu độ chúng sanh.  Sau khi chiến thắng ma quân, điều ngự chướng nạn nội tâm ngoại cảnh, Ngài chứng thành đạo quả Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh giác dưới gốc cây Bồ-đề. Kể từ đó và suốt cuộc đời, Ngài ngày đi đêm nghỉ khắp đó đây trên vạn nẻo đường thành thị thôn quê để hoằng pháp độ sanh.  Nghĩa là, đức Phật cống hiến trọn đời cho sự nghiệp đem chánh pháp thức tỉnh quần sanh, những mong người đời giác ngộ để thoát vòng luân hồi sanh tử.  Vì thương chúng sanh mà phải hy sinh tất cả lạc thú riêng mình cho sự nghiệp giáo hóa độ sanh.  Không phải chỉ một đức Phật Thích-Ca tha thiết thương chúng sanh, mà mười phương chư Phật cũng đều thương chúng sanh như thế.  Do vậy mà ngày rằm tháng bảy chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư tu tập, giới hạnh thanh tịnh, đạo niệm kiên cố, tuổi đạo tăng trưởng, tức là hàng trưởng tử Như-Lai rút ngắn đường đến đạo quả giác ngộ giải thoát, nên chư Phật vô cùng hoan hỷ.  Do đó, kinh Phật nói rằm tháng bảy là ngày chư Phật hoan hỷ.

4) Vu-Lan thắng hội:  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên trước kia tu theo ngoại đạo, sau khi được nghe Phật thuyết pháp rồi tỉnh ngộ, hồi đầu quy Phật, xin theo Phật xuất gia tu hành.  Do chuyên ròng tinh tấn tu tập, nên chẳng bao lâu Mục-Kiền-Liên chứng quả A-la-hán, trở thành một trong những đại đệ tử của Phật, đặc biệt sở đắc về thần thông đệ nhất.  Một ngày nọ, tôn-giả Mục-Kiền-Liên dùng thần thông huệ nhãn quán sát tìm xem mẹ cha hiện giờ sanh ở nơi nào, thì thấy cha ở cõi trời hưởng phước báo an vui, nhưng không thấy mẹ đâu cả.  Ngài vội vã xoay tìm khắp nhân gian cũng không thấy hình bóng mẹ.  Quá đỗi kinh ngạc, Ngài quán sát khắp trong sáu nẻo luân hồi, thì thấy mẹ là bà Thanh-Đề sanh trong loài ngạ quỷ, thân hình ốm gầy khắp người mọc đầy lông lá, da bọc lấy xương, lửa nghiệp đói khát nung đốt khổ sở vô cùng.

Quá xúc động, lòng trào dâng nỗi xót thương, tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền bưng cơm đến dâng cho mẹ, nhưng cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa bốc cháy cả tay miệng, mặt bà Thanh-Đề, làm cho Ngài vô cùng sửng sốt đau lòng đến tột độ, liền về bạch hết sự tình lên Phật.  Đức Phật nói: “Mẹ ông khi còn ở đời tham lam, bỏn xẻn, ganh ghét, đố kỵ, khinh khi sư tăng, chẳng kính tin Tam-Bảo, lừa đảo hơn thua đố kỵ, tạo nhiều tội ác như vậy, nên nghiệp lực dẫn dắt sanh vào ngạ quỷ!  Ông nay tuy chứng đạo quả A-la-hán, lòng hiếu thảo của ông cảm động đến trời đất, nhưng đạo đức một mình ông không thể cứu được mẹ.  Nghiệp ác của mẹ ông như quả núi to, mà đạo đức của ông như chiếc thuyền nan nhỏ, đâu có thể chở nổi quả núi qua sông.  Chỉ còn phương pháp duy nhất là, vào ngày rằm tháng bảy, nhân lúc chư Tăng tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, làm lễ tự tứ, ông nên nhân dịp đó thành tâm sắm sửa y phục thức ăn dâng cúng dường chư Tăng, nhờ công đức tu hành, giới hạnh thanh tịnh trang nghiêm trong ba tháng an cư, sức chú nguyện của chư Tăng, đức chúng như hải mới có năng lực chuyển hóa được nghiệp tội của mẹ ông.  Do sự thành tâm cúng dường, nhờ chư Tăng giới hạnh thanh tịnh chú nguyện, đức chúng như hải vạn năng mới có thể cứu độ tội nhân”.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền y theo lời Phật dạy thành khẩn nhất tâm thực hành, bà Thanh-Đề nhờ phước đức đó mà thoát kiếp ngạ quỷ sanh về cõi trời.

Phương pháp báo hiếu nầy được Phật khuyến khích hàng đệ tử noi theo và được tiếp nối truyền mãi cho đến ngày nay.

Tóm lại, ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Tăng thêm tuổi đạo, ngày chư Phật hoan hỷ, ngày Vu-Lan báo hiếu.  Với những ý nghĩa đặc thù nầy, nên ngày rằm tháng bảy còn gọi là ngày Vu-Lan thắng hội.

 

Dù tế tự muôn ngàn đền thờ mà suốt đời không đình chỉ được tâm mông lung, thì chẳng bằng một giây phút chuyên nhất tâm trí lại nơi chánh pháp.

Kinh Pháp Cú

 

Hạnh phúc chân thật chỉ khi nào tâm không còn mọi mối lo âu.

 

Vu Lan dâng trọn lòng thành

Nói đến Vu-Lan là nói đến hiếu.  Nói đến hiếu, người ta liên tưởng đến hình ảnh ngài Mục-Kiền-Liên bưng bát cơm dâng mẹ, cơm hóa thành lửa. Sau đó cầu xin Phật chỉ dạy phương pháp báo hiếu, tôn-giả Mục-Kiền-Liên vâng theo lời Phật dạy thực hành cứu được mẹ là bà Thanh-Đề thoát kiếp ngạ quỷ đói khát khổ đau. Nên Vu-Lan mang ý nghĩa giải-đảo-huyền, tức là cứu tội khổ bị treo ngược.

Kinh điển của các bậc hiền triết thánh nhân chơn chánh đều khuyên dạy con người sống phải biết ân nghĩa với người mình chịu ân và nên sống chan chứa tình nhân loại.  Tất cả kinh điển, thánh hiền, minh triết đều nói lên tinh thần hiếu kính mẹ cha ông bà tiên tổ.  Thế nên cổ đức tiên hiền nói: “Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên”.  Có nghĩa là, ngàn quyển kinh muôn pho sách của thánh hiền đều khuyên dạy người trước tiên phải giữ đạo hiếu.  Tức là đối với ông bà cha mẹ khi sống phải áo cơm thuốc thang đầy đủ.  Khi chết phải phụng thờ siêu độ:

Đói lòng ăn bát cháo môn

Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung

***

Mẹ cha về cõi Phật trời

Lòng con mới được an nơi cõi trần

Tại sao hiếu đạo lại quan trọng như vậy?  Bởi vì không hiếu thì không trung, không tín, không thành, không nhân, không nghĩa.  Cha mẹ là người mang nặng đẻ đau, ẵm bồng chăm sóc nâng niu vỗ về con, đêm ngày ngược xuôi lo lắng cơm no áo ấm cho con, đem hết năng lực tâm huyết trọn đời lo cho con, mà con không nghĩ nhớ ân đức sanh thành dưỡng dục cao dày đó, thì thử hỏi còn kính thương ai?  Từ nơi cha mẹ mà có thân con.  Nhờ cha mẹ mà con khôn lớn.  Cây có cội mới trổ cành xanh ngọn.  Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.  Con ra đời, ăn học, lớn khôn thành người, lập thành gia thất, công danh sự nghiệp nhứt nhứt đều nhờ cha mẹ.

Cha mẹ là người đã cắt ruột thịt chia máu xương trao trọn tình thương cho con, mà con không có lòng kính thương tưởng nhớ thì làm sao có lòng thương dân, thương nước, thương bà con quyến thuộc họ hàng làng nước được?  Hạng người bất hiếu nầy sẵn sàng bán đứng tổ tiên dân tộc đất nước cho ngoại bang để được bổng lộc vinh thân phì da trên khổ đau của đồng loại.

Đối với cha mẹ đã không có lòng hiếu kính thì nhứt định không thể nào thật tình với bà con quyến thuộc, yêu nước thương dân.  Từ đó suy ra cho ta biết, kẻ không có đạo hiếu thì không thể nào có lòng thành tín với mọi người.  Người không giữ đạo hiếu là người thiếu mất cội nguồn quyến thuộc giống nòi dân tộc.  Người như thế, đối với gia đình chỉ là lợi dụng tình cảm, với bạn bè chỉ là tìm hậu thuẫn tránh cô đơn, với quốc gia dân tộc chỉ là tìm quyền danh lợi dưỡng hưởng thụ, khi thuận thời thì miệng độc quyền bô bô hô hào ái quốc thương dân, đồng thời mưu đồ triệt hại người khác có uy tín thế lực, để sẵn sàng bán quốc cầu vinh.  Khi thấy địa vị quyền danh lợi dưỡng tánh mạng của mình lâm nguy thì tìm đường tẩu thoát để được an toàn hưởng thụ.  Tất cả tội ác con người đều bắt nguồn từ lòng không hiếu đạo.  Bất hiếu thì nhất định đưa đến bất trung, bất tín, bất nghĩa, bất nhân, do đó, kinh điển thánh hiền dạy: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.  Nghĩa là hạnh hiếu đứng đầu trong muôn vạn hạnh lành.  Ngược lại, thiếu tinh thần hiếu đạo thì con người thiếu mất đi tình gia tộc, tình đồng bào, tình quê hương để rồi tạo nên muôn điều khổ đau cho người khác.

Do vậy, mà có những ác đảng tà giáo dựng lên chủ nghĩa giáo điều nhằm tiêu hủy tinh thần hiếu kính thờ cúng mẹ cha tiên tổ với ý đồ hủy diệt kỷ cương gia đình, tình yêu tổ quốc dân tộc, hầu tạo thành lớp người vong bản, chỉ biết nô lệ đảng, cuồng tín phục tùng thần linh thượng đế, để rồi từ đó dễ dàng thao túng củng cố thế lực quyền lợi nhằm mục đích đi chinh phục người khác, nô lệ hóa con người, tạo nên không biết bao tai họa cho nhân loại.

Lịch sử nhân loại xưa nay đã cho ta thấy rằng, chủ nghĩa giáo điều nào nhằm khuyến khích con người tố khổ mẹ cha, xa lìa tiên tổ, vất bỏ phụng thờ ông bà cha mẹ tiền nhân là nhằm có ý đồ vong nô hóa con người quên gốc quên nguồn, chỉ biết cuồng tín vâng lệnh phục tùng theo sự chỉ huy của ác đảng, thần giáo, hầu tạo tình trạng bất an loạn động cho quốc gia dân tộc để đưa đồng bào nhân loại vào vòng nô lệ vong bản vong thân.

Đạo hiếu có công năng làm cho con người sống biết nguồn, nhớ gia tộc tiên tổ, yêu quê hương dân tộc, nhiệt tình phục vụ nhân loại, thuận hợp với lẽ phải luân thường đạo lý, xây dựng gia đình quốc gia xã hội trật tự an lành, độc lập tự chủ vững mạnh.  Những người đạt đến tư cách hiền nhân quân tử, đều là khởi đi từ căn bản tôn trọng luân thường, sống tròn hiếu hạnh.  Nên hiếu bao gồm ý nghĩa tôn sư trọng đạo, bao dung hài hòa: làm sao cho đạo và đời, mình và người đều được an lạc.  Nhưng không phải chỉ cho mình được nhàn hạ thong dong kính trọng trong lúc đồng đạo, đồng bào bị lao tù khổ đau.  Người xưa nói: Một con ngựa đau cả tàu không ăn.  Thế nên hiếu bao gồm đức, nhân, nghĩa, trung, tín.

Tầm quan trọng của đạo hiếu đối với đời sống lành thiện tiến bộ của con người như vậy, nên đạo Phật đặc biệt nói đến chữ hiếu và chỉ phương pháp cách làm thế nào để báo hiếu mẹ cha.  Điều nầy chúng ta thấy Phật dạy rất rõ trong các kinh Phụ-Mẫu Báo-Trọng-Ân, kinh Vu-Lan, kinh Phạm-Võng, kinh Đại-Tập, kinh Nhẫn-Nhục, kinh Phật-Đảnh-Tôn-Thánh Đà-La-Ni, kinh Mục-Kiền-Liên, kinh Ưu-Bà-Tắc, Phát Bồ-Đề Tâm-Văn v.v… Giáo lý nhà Phật còn khuyên nhắc con người phải lo đền trả bốn ơn nặng, đó là: Ơn Phật hóa độ, ơn cha mẹ dày công sanh dưỡng, ơn sư trưởng giáo huấn, ơn những người đã hy sinh bảo vệ lãnh thổ và đồng loại chúng sanh giúp đỡ mình được sống an lành.  Nếu hiếu đạo không tròn thì những ơn kia khó mà tròn được.  Muốn hoàn thành đạo giác ngộ, trước phải hoàn thành đạo hiếu.  Hay nói cách khác, muốn hoàn thành Phật đạo, trước phải hoàn thành hiếu đạo.  Do vậy, mà thánh hiền khuyên: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu đạo phương thành tựu”.  Có nghĩa là cha mẹ được thoát vòng trần lao sanh tử, thì việc tu hành của người con mới thành tựu đạo quả.

Kho tàng kinh điển Trung-Hoa như Tứ-Thư, Ngũ-Kinh cũng bàn bạc thuyết minh về đạo hiếu.  Quan niệm người Trung-Hoa, nói chung là dân tộc Á-Đông đều có truyền thống rằng, thiếu đạo hiếu là thiếu đạo làm người, là thiếu nhân cách, là kẻ bất nhân bất nghĩa.  Tình mẹ nghĩa cha không thể nào tách rời đời sống ấm cúng hạnh phúc gia đình con cái.  Thiếu cha mẹ, con khó mà lớn khôn.  Thế nên, những thi hào văn nhân nổi danh thế giới cũng đề cập đến hiếu.  Chẳng hạn như đại văn hào Victor-Hugo đã ca ngợi tình mẹ qua hai câu thơ:

“O l’amour d’une mère, amour que nul n’oublie…

“Pain merveilleux que Dieu partage et multiplie.

 

Minh-Đăng dịch:

Tình mẫu tử thâm sâu cao cả

Đã là người không thể lãng quên

Ngọt ngào chiếc bánh thiêng liêng

Trời cho muôn loại khắp miền nẩy sanh

Thi hào Lamartine trong thi phẩm của mình đã diễn tả lòng biết ơn đối với đức dưỡng dục của mẹ hết sức cảm động:

En me faisant peu à peu tout compendre.

Elle me faisant en même temps tout aimer.

Tạm dịch:

Tháng năm ân cần mẹ dạy con

Muôn điều cần biết mẹ lo tròn

Đồng thời mẹ chỉ cho con rõ

Thương hết muôn loài thương nước non

Cha mẹ tạo cho con hình hài. Cha mẹ nuôi dưỡng cho con khôn lớn nên người.  Cha mẹ là thần thánh, là nguồn sống an lành của con.  Người con còn cha mẹ là người được sưởi ấm tình thương bao la như đất trời.  Chẳng may cha mẹ qua đời thì người con rơi vào cảnh côi cút khô cạn tình thương.  Còn cha mẹ là còn lẽ sống hương hoa, còn hy vọng tương lai, còn an tâm ăn học, còn có ngày sự nghiệp huy hoàng.  Chẳng may cha mẹ mất đi thì tương lai trẻ thơ sẽ mờ tối, lối sống tiến lên của người con như bị tắc nghẽn, rơi xuống kiếp sống phận hèn.  Cha mẹ đối với lẽ sống của con có sự tương quan thâm thiết trọng đại như vậy, nên nhà văn Marcel Proust, tác giả cuốn sách A La Recherche Du Temps Perdu, khi được hỏi: “Đâu là nỗi khổ đau tột cùng của kiếp người?” Ông không ngần ngại trả lời: “Khi con người bị tách rời khỏi tình thương của mẹ”.

Đó là những thi hào văn nhân Tây phương không được giáo dưỡng trong tình thương hiếu đạo một cách thâm sâu của đạo hiếu Đông phương mà còn cảm thấy lòng nao nao khi nói đến tình mẹ!  Văn nhân thi sĩ Á Đông vốn có truyền thống được tắm mát trong suối nguồn hiếu đạo ngàn đời thì dĩ nhiên tác phẩm thi ca ngôn từ tất phải dào dạt chan chứa tinh thần hiếu kính, đôi lúc còn kết tinh tình mẹ và tình quê hương là một, nên thường nói “Đất mẹ hiền lành”, “Quê mẹ yêu dấu”.

Tình mẹ nghĩa cha là suối nguồn tươi mát tuôn chảy vào tim con, thấm sâu vào máu xương da thịt tâm thức của người Á Đông.  Nên dù chủ nghĩa vô thần hay hữu thần có ý đồ nhồi sọ con người bằng văn từ hoa mỹ nhằm hủy diệt đạo hiếu, cắt đứt tình mẹ nghĩa cha, nhằm tách con người ra khỏi gia đình, chủng tộc, quốc gia để phục tùng theo tiếng thúc giục của chủ nghĩa giáo điều tham vọng vong nô hóa, những thứ đó đã tạo nên bao nỗi đau lòng thăng trầm cho nhân loại, thì tình cao quí của mẹ cha và hiếu đạo của người con Việt-Nam vẫn thắm thiết khó mà quên được. Nhất là đà văn minh tiến bộ của khoa học không ngừng, thế giới nhân loại ngày một gần lại, mọi việc đều đặt dưới lăng kính thực nghiệm, nhân bản thì những gì áp bức, những hình thức ngụy trang văn minh thần linh đều được soi sáng và sẽ bị đào thải.  Nên đạo hiếu kính, tình mẹ con vẫn mãi mãi keo sơn sắt son bất tận không thể tách rời và muôn đời không hủy diệt, dù hữu thần hay vô thần có mưu đồ nghiệt ngã đến đâu.

Do vậy, khi xa vắng mẹ cha, người con vẫn cảm thấy thắm thiết nỗi buồn xa xăm như thiếu thốn một chất liệu gì ngọt ngào êm đềm khó tả.  Khi lòng buồn, tâm bất an, tự nhiên miệng thốt lên tiếng kêu “Mẹ ơi!” như lời than để cho ấm lòng, nhờ đó bớt đi trống lạnh ưu sầu.

Ta nghe tâm sự người cán bộ Việt-cộng được tuyên truyền nhồi sọ từ thuở bé, và bị ép buộc tòng quân hằng chục năm sống trong rừng, khi phải vượt qua dãy núi Trường-Sơn để chờ cơ hội xâm chiếm miền Nam.  Người lính Việt-cộng trải nhiều tháng năm sống thiếu thốn, bị ép ngặt bạc đãi quá cực khổ, giầy sờn áo rách, đêm về gió núi lạnh căm căm với tiếng hùm beo, cảm thấy lòng trống lạnh bất an, nên đã thầm than nhớ mẹ, nhớ quê hương:

Giầy vẹt gót, áo sờn vai giá lạnh

Mỗi chiều Trường-Sơn núi đồi cô quạnh

Mẹ hiền ơi! Con chợt nhớ quê mình

Những bà mẹ đã hiến cho đời những đứa con tài hoa anh tuấn.  Những ông cha đã giáo dưỡng những người con trở nên tài trí vĩ nhân anh hùng.  Cha mẹ đã tạo ra và xây dựng thành những người con tài ba lỗi lạc, tô điểm cho cuộc đời thêm hương hoa, văn hóa, văn minh.  Tất cả đều bắt nguồn từ sự cần mẫn cực nhọc hy sinh của mẹ.  Vì vậy, nhân loại văn minh Âu tây tuy bị lớp mây mù thần linh thượng đế phủ dày mê hoặc đã làm cho người Tây phương lãng quên ân tình cha mẹ suốt mấy ngàn năm, nhưng rồi mấy mươi năm lại đây đã cùng nhau thức tỉnh quay về cội nguồn ân nghĩa mà đặt thành “ngày mẹ” “ngày cha” để vinh danh tưởng nhớ bậc sanh thành dưỡng dục nên mình.  Những dân tộc được may mắn sống trong giáo dưỡng của đạo học Đông phương dĩ nhiên đã bao ngàn năm được tư tưởng Phật, Khổng huân tập, nên tinh thần hiếu kính đã thành cội rễ cổ thụ truyền thống sâu vào lòng đất tâm thức mọi người Á Đông.

Ý thức hiếu kính còn dạt dào sinh động trong lòng người, thì cuộc đời còn trong mát ấm cúng hương hoa sắc thắm.  Con tim còn biết rung động tình cốt nhục, nghĩa đồng bào, thì còn có dịp tạo cho nhau nhịp cầu thông cảm.  Tinh thần hiếu kính được chú trọng nâng cao thì bậc cha mẹ mới vơi đi nỗi buồn đau cô quạnh, tình láng giềng, tình đồng bào, tình quê hương mới không còn lạnh nhạt, gió ngàn phương mang lại tình thương đồng loại, sưởi ấm tình nghĩa mẹ con vợ chồng.  Và con người còn thấy đời đẹp, đời nên thơ, khi trong tâm còn hình bóng mẹ:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm

Hiếu Trong Đạo Phật

Cha mẹ là nguồn sống của con.  Người sống trên đời ai mà không do từ cha mẹ sanh thành, ai mà không được cha mẹ nuôi nấng lớn khôn?  Cha mẹ đã trải dài năm tháng tốn hao biết bao là tâm huyết tiền của để lo cho con ăn ngon mặc đẹp mạnh khỏe nên người.  Cha mẹ đã ngày đêm nhọc nhằn cưu mang quên ăn bỏ ngủ để vỗ về săn sóc con.  Con khóc, lòng mẹ đau xót, tâm cha lo âu.  Con cười là nguồn vui của cha mẹ.  Con đau ốm là cha mẹ thấp thỏm bỏ ăn mất ngủ lo chạy tìm thầy đủ thuốc cho con.  Khi trái gió trở mùa thì cha mẹ quên chính mình mà lo cho con trước.  Trọn đời cha mẹ hy sinh cho con.  Hy sinh cả tinh thần lẫn vật chất, hy sinh cả tâm huyết lẫn thân hình.  Những gì ngon tốt nhất trên đời, yêu quý nhất trên đời, nồng hậu ngọt bùi nhất trên đời, cha mẹ đều dành để cho con:

Mẹ cho con tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh…

Thử hỏi trên đời nầy có ai hy sinh cho mình bằng cha mẹ?  Cha mẹ đã đem trọn cuộc đời trao hết cho con.  Từ lúc con còn trong thai mẹ cho đến khi tiếng khóc chào đời, từ lúc con còn là hài nhi cho đến khi khôn lớn nên người lập thành gia nghiệp, không lúc nào mẹ ngừng nghỉ chiếu cố vỗ về săn sóc con.  Tình thương của mẹ xuyên suốt liên tục trải dài như suối nguồn trong mát tuôn chảy bất tận đến cho con:

Một đời vốn liếng mẹ trao

Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Vì vậy mà tiền nhân cổ đức đã ví ân đức của cha mẹ như núi cao suối nguồn:

Công cha như núi Thái-sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Theo tinh thần luân thường đạo lý, ý nghĩa đạo đức nhân sanh, chân lý của hạnh phúc vững bền, hễ đã thọ ơn thì nên biết ơn để báo đền.  Cứ lẽ tự nhiên, hễ đã vay thì phải trả, không trả là ngấm ngầm chiếm đoạt.  Đã thọ ơn thì nên biết báo đáp ơn, không báo đáp tức là vong ơn bội nghĩa.  Mượn mà không hoàn trả, thọ ân mà không nghĩ đến việc báo đáp là mặc nhiên chà đạp đạo lý luân thường, phá hoại kỷ cương đạo đức của lẽ sống nhân sanh, hậu quả đưa đến gia đình mất tôn ty hạnh phúc, làng nước mất thanh bình tự chủ.

Các bậc thánh hiền đã nhận rõ sự trọng yếu của hiếu đạo có năng lực xây dựng con người đôn hậu, xã hội an hòa, nhân dân lợi lạc, nên đã nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.  Có nghĩa là hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành thiện.  Người sống biết hiếu đạo là biết hòa thuận với mọi người, tạo cho cuộc đời vui tươi tiến bộ.  Cho nên xưa nay các bậc tiên triết hiền thánh, khác miệng một lời đều khuyến giáo người đời: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”.  Nghĩa là ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu.  Thế nên, hạnh phúc gia đình thì cha hiền con hiếu làm gốc.  Hạnh phúc quốc gia thì vua đức tôi trung làm gốc.  Có hiếu thì mới có trung, tín, nghĩa, nhân.  Hạnh phúc xã hội nhân quần thì tín làm gốc.  Hạnh phúc thân bằng quyến thuộc thì nghĩa làm gốc.  Thế nên hiếu là nền tảng xây dựng hạnh phúc an lành cho nhân quần xã hội.  Do vậy, con người dù có thông bác tài cán đến đâu mà không biết đạo hiếu, không xem trọng đạo hiếu, không có tâm hiếu kính cha mẹ, thuận thảo anh em, hòa cùng láng giềng làng nước thì con người đó tự nhiên thành là kẻ bất hiếu bất nghĩa với gia đình quyến thuộc, là kẻ bất nhân, bất trung, bất tín với quốc gia dân tộc, và hậu quả tất nhiên nhất định đưa đến vô đạo với bà con, phi nhân vong bản với làng nước.  Lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó.

Nghĩa là kẻ bất hiếu không phụng thờ cha mẹ tổ tiên nhất định đưa đến bất nhân, bất nghĩa, bất tín, bất trung để rồi tác hại khổ đau đến đại chúng.  Bằng chứng cho ta thấy xưa nay những lý thuyết, chủ nghĩa, giáo điều, tín ngưỡng nào mà phủ nhận tinh thần hiếu đạo, xem nhẹ việc phụng thờ tổ tiên cha mẹ thì nhất định sẽ tạo ra cảnh gia đình bất hạnh, cha mẹ già nhà vắng lạnh không con cái thân gần phụng dưỡng,  xã hội bất ổn tranh chấp chèn ép thiếu tình người, quốc gia thường sanh sản ra cảnh tang thương đau lòng, người dân sống trong lo âu hồi hộp áp bức nặng nề.

Người không hiếu kính phụng thờ cha mẹ thì không cách nào thật tình thương dân thương nước.  Người xem nhẹ đạo hiếu thường là người không phụng thờ cha mẹ tổ tiên, sống ngoài kỷ cương truyền thống sinh hoạt của giống nòi dân tộc, và sẵn sàng bội phản truyền thống của ông cha để làm ma nô lệ người ngoài, vọng ngoại cầu vinh tạm bợ, mặc cho ai than thở khổ đau, riêng mình được vinh thân phì da thỏa thích tham vọng là được.  Đất nước Việt-Nam đã bao lần bị ngoại nhân xâm lăng dày xéo, triền miên chinh chiến khói lửa rách nát, dân sinh đói khổ lầm than đều do hậu quả của những kẻ vong bản vọng ngoại, học đòi những tà thuyết giáo điều phi nhân mất gốc vong nô để rồi hậu quả mang lại không biết bao là đau khổ cho dân tộc, làm xụp đổ sự an lành của đất nước phải rơi vào cảnh lạc hậu đói nghèo.  Nguồn gốc sâu xa của hậu quả tang thương đau lòng trên đây đều khởi đi từ tâm lý xem nhẹ đạo hiếu, bỏ đạo truyền thống của ông cha tổ tiên dân tộc.

Loài súc sanh cũng được sự nuôi dưỡng của mẹ và đôi lúc cũng có loài được sự hợp lực của cha.  Nhưng khi lớn lên chúng chẳng còn biết ân nghĩa, nên thường vì miếng ăn và ái dục mà chúng tranh giành cấu xé gây thương đau cho nhau.  Tuy nhiên, quạ già nhờ quạ con kiếm mồi về nuôi.  Dương già nhờ dương con ngậm cỏ cho vú bú sữa để sống.  Loài súc sanh mà còn như thế, còn loài người sao nỡ quên hiếu đạo phụng dưỡng kính thờ mẹ cha?  Bởi do lòng ích kỷ với ý đồ tham vọng thống trị, nên sản sanh ra những giáo điều, lý thuyết phủ nhận đạo hiếu.  Những thứ giáo điều lý thuyết nầy cho rằng con người do cha mẹ ái dục sanh ra; hoặc phán rằng con người do thần linh thượng đế tạo ra, nên không có đạo hiếu.  Những học thuyết giáo điều chủ trương như vậy là ý đồ đẩy nhân loại sống mất gốc quên nguồn, sống phi nhân phi nghĩa như cầm thú, để rồi mặc tình mê hoặc thống trị nô lệ hóa con người.

Con người đạo đức, con người có dòng máu truyền thống luân thường đạo lý, là con người không cuồng tín vọng ngoại, là con người sống biết ân nghĩa thành tín.  Người biết ân nghĩa thành tín tất nhiên biết hiếu đạo, thì chẳng những không bao giờ làm khổ người khác mà còn nghĩ đến cách phải làm sao lợi lạc nhân quần xã hội.  Người hiếu đạo nhân đức là người khi thấy tha nhân bất hạnh khổ đau thì lòng xót xa ra tay mở lượng cứu giúp; khi thấy người an vui thì vui mừng; khi thấy người làm việc lành thiện thì tùy hỷ công đức; khi thấy người có hành vi tâm niệm bất thiện thì khuyến hóa cải tà quy chánh, ấy là tâm hạnh của kẻ hiếu đạo theo tinh thần Phật giáo.  Đặc biệt tinh thần đạo Phật, ban ân không cầu báo đáp.  Nhưng thọ ân phải có bổn phận báo đền.  Cây kia cho người bóng mát, sông kia cho người nước ngọt, người kia cho bát nước chén cơm lúc lỡ đường mạt vận không cần cầu báo đáp, nhưng bổn phận người uống nước phải nhớ nguồn, ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây.  Người tín chủ ủng hộ sư tăng, cha mẹ tận tình cho con nguồn sống không mong báo đền, nhưng sư tăng có bổn phận tu hành thành tâm hồi hướng phước đức cho người thí chủ, con có bổn phận dâng lòng hiếu kính mẹ cha.

Người đời cũng như các đạo giáo khác có đề xướng việc báo hiếu bằng cách lo cung cấp vật chất cho cha mẹ hiện đời hoặc cầu hồn cha mẹ về cõi trời cõi tiên khi cha mẹ qua đời.  Báo hiếu của đạo Phật đặt nặng cả hai phương diện.  Ấy là khi cha mẹ còn sanh tiền và khi cha mẹ quá vãng.  Khi cha mẹ còn hiện tiền trên đời thì người con ngoài việc đem tâm thương kính cha mẹ, phụng dưỡng săn sóc cha mẹ về các thứ ăn mặc thuốc thang đỡ đần an ủi ra, còn đặc biệt cố gắng khuyên cha mẹ quy y Tam-Bảo, thọ trì giới pháp, tin nhân quả luân hồi, tu tâm sửa tánh hành thiện.  Nếu gặp phải chướng duyên, cha mẹ không chịu tu tâm hành thiện, tin Tam-Bảo, thì người con vẫn nên ẩn nhẫn thành tâm nguyện cầu Phật lực gia hộ, tiếp tục uyển chuyển khéo léo tìm cơ hội thuận duyên khuyến hóa cha mẹ cải tà quy chánh, phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi.  Bởi người không tin nhân quả luân hồi thì người đó có thể làm bất cứ tội ác gì, theo đó, nghiệp quả kéo lôi đọa đày vào chốn khổ đau trọn kiếp.  Kinh nói: “Giả sử trăm ngàn kiếp đã làm những ác nghiệp thì những nghiệp đó không mất, một khi nhân duyên đến thì phải tự lãnh thọ”.

Thế nên một khi cha mẹ qua đời, thì con cháu đem hết khả năng sẵn có của mình và những của cải cha mẹ còn để lại dồn hết năng lực để lo việc cúng dường Tam-Bảo, trai tăng, làm phước, cúng phát nguyện đoạn kỳ trai giới, tụng kinh niệm Phật v.v… tất cả công đức lành nầy đều hồi hướng cho hương linh cha mẹ.  Có được như vậy họa hoằn mới hy vọng làm tròn đạo hiếu, mới báo đáp thâm ân cha mẹ.  Nếu không làm như thế thì cha mẹ sẽ bị đọa lạc chốn khổ đau, con cháu thiếu bổn phận lớn lao, và từ đó gia đạo khó có cơ phát đạt.  Có những bậc cha mẹ bất hạnh gặp phải con cháu vô đạo không có niềm tin Phật pháp, nên chi khi cha mẹ qua đời, liền bày tiệc thết rượu đãi đằng bạn bè chè chén say sưa, điều nầy chỉ tạo thêm tội lỗi cho cả người chết lẫn kẻ sống.

Đảng phái không trọng hiếu đạo, không tin nhân quả luân hồi là đảng phái tàn ác, sẽ tự đưa đến chỗ băng hoại.  Tôn giáo không trọng hiếu đạo, không kính thờ cha mẹ, không tin nhân quả luân hồi là tôn giáo không thích hợp chân lý, không phù hợp nhân bản đạo đức, là phản khoa học, là sức cản trở sự tiến bộ của nhân loại, tạo vô vàn tang tóc cho loài người, khiến cho người nhân trí hoài nghi và tôn giáo đó khó tránh khỏi bị đào thải suy thoái.  Với giáo lý sáng chói của đạo Phật, qua lăng kính thực nghiệm của khoa học, dưới hào quang rạng rỡ của chân lý chứng đắc, nếu văn minh nhân loại được hướng dẫn trong tinh thần trí huệ từ bi hỷ xả bình đẳng của đạo Phật thì nhân loại tất sẽ được hưởng thanh bình an lạc của thiên đàng cực lạc ngay cõi trần gian nầy.  Nhưng thực tế trần gian vẫn dẫy đầy nghiệt ngã khổ đau, chính do cá nhân, cộng đồng, đảng phái, tôn giáo không tin sâu nhân quả luân hồi nghiệp báo, không tôn trọng hiếu đạo báo đáp ân nghĩa.  Do vậy mà tạo ra lắm điều phiền khổ cho nhau.

Đạo hiếu là đạo nhân bản, là đạo thánh hiền.  Thế nên hiếu với cha mẹ thì thuận với anh em và hòa với làng nước.  Người chân chính thực hành hiếu đạo có thể chịu cái khổ trước người, hưởng cái vui sau người.  Đem hiếu hòa xây dựng cuộc đời để người và mình cùng chung hưởng hạnh phúc tiến bộ thanh bình an lạc.  Nên Bồ-Tát-Giới Kinh nói: “Hiếu là giới, cũng gọi là đạo, là chuỗi anh lạc, là hương trang nghiêm vi diệu” có công năng đưa người trở về sống với đặc tánh nhân bản, và xây dựng cuộc đời an lạc hướng đến chân thiện mỹ.  Thế nên, hiếu là chất liệu phát triển tình yêu quê hương, yêu đồng bào nhân loại, yêu đạo lý làm người, yêu cuộc đời, yêu lời thơ tiếng hát nhân tình.

Mẹ ơi! Nhớ nước nhớ nguồn

Thương quê, yêu đạo, con còn làm thơ.

Dù niệm Phật ăn chay hay đến cả cạo tóc làm tăng mà tâm lăng xăng theo danh lợi hơn thua, thì chẳng những không lợi ích gì cho nhân quần xã hội mà ngay cả bản thân cũng chẳng được thăng tiến lương thiện, nói chi đến chuyện đền đáp bốn ân, cứu giúp ba đường.

Cho Trọn Lòng Con

Hằng năm đến rằm tháng bảy, không ai bảo ai, mọi người đều cảm thấy nơi lòng sống dậy nỗi nhớ niềm thương, tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ, làng nước quê hương, nhớ thương đến những ân nhân thương thân xa cách.

Cách đây gần ba ngàn năm, cũng nhân ngày rằm tháng bảy, vua Ba-Tư-Nặc đã thỉnh Phật và đại chúng vào hoàng cung để cúng dường cầu siêu độ cho tiên vương và thất thế phụ mẫu.  Còn tôn-giả A-Nan trước đó đã thọ nhận người tín chủ riêng thỉnh cúng dường, nên không cùng Phật và đại chúng dự lễ trai tăng của vua Ba-Tư-Nặc dâng cúng.

Trên đường về tinh-xá Kỳ-Viên, tôn-giả A-Nan bị trúng kế tà chú Ta-tỳ-ca-la Phạm-Thiên, mắc nạn nữ sắc Ma-Đăng-Già, may thay được Phật và Bồ-Tát Văn-Thù tức khắc cứu thoát.  Liền đó, Phật vì A-Nan chỉ bày phương pháp tu hành, khai thị chân tâm.  Qua bảy lần Phật gạn hỏi về tâm, A-Nan đã lãnh hội lời Phật, thể nhập được chân tâm của mình.  Nội dung câu chuyện Phật khai tâm cho A-Nan trên pháp hội Lăng-Nghiêm, được gói trọn trong bộ kinh Thủ-Lăng-Nghiêm.  Qua bộ kinh nầy, ta thấy tôn-giả A-Nan bàng hoàng xúc động nửa mừng nửa tủi, nhưng tôn-giả được cái may mắn trực tiếp tắm trong dòng suối tình thương bao la của Phật.  Nhờ Phật hết lòng từ bi chỉ dạy, A-Nan đã tỉnh ngộ không phải trải qua ba kiếp a tăng kỳ mà trực nhận chân tâm, thể nhập Phật tánh, chứng đắc pháp thân.  Đây cũng là tâm nguyện thầm kín khẩn thiết chung của tất cả mọi người tu học Phật, ngày đêm hằng tâm miệt mài trên đường giác ngộ được thổ lộ qua tâm tư của tôn-giả A-Nan: “Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân, nguyện kim đắc quả thành bảo vương, hoàn độ như thị hằng sa chúng”.  Người hành đạo mang đại nguyện giác ngộ lợi tha, cho dù gặp phải ma quân chướng nạn, vẫn quyết tâm dõng mãnh tinh tiến với tâm nguyện bền chắc: “Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca-ra tâm vô động chuyển”. Hư không dù có tiêu vong, tâm Bồ-đề con vẫn không thay đổi.

Ngày nay, mỗi độ Vu-Lan về, hằng vạn triệu con tim của người con Phật, những người con thảo cháu hiền trên quả địa cầu đồng điệu rung động, nhưng không còn mấy ai nhớ đến sự việc nầy để cùng cảm thông nỗi vui mừng xúc động của tôn-giả A-Nan sau khi được Phật khai thị, trực ngộ chân tâm chứng đặng pháp thân, chẳng phải trải qua ba kiếp a tăng kỳ.  Mà điểm đặc biệt kỳ diệu là người ta chỉ còn cảm động hình bóng thâm thiết cứu độ mẹ của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, người con hiếu hạnh muôn thuở, khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho muôn đời.

Mục-Kiền-Liên tôn-giả sau khi tu chứng thánh quả, đã dùng huệ nhãn quán sát thấy mẹ là bà Thanh-Đề đọa đày trong kiếp ngạ quỷ, đói khát khổ sở vô ngần.  Mục-Liên rất đỗi xót xa, tự thấy công đức thần lực của mình không đủ khả năng cứu mẹ, phải cầu đến Phật chỉ dạy phương pháp siêu độ.

Đức Phật nói với tôn-giả Mục-Kiền-Liên rằng: “Mẹ ông lúc còn sanh tiền không biết làm việc phước thiện, không tin nhân quả, không kính tin Tam-Bảo, chê bai Tăng Ni, khinh khi người nghèo khó, keo kiết bỏn xẻn, chèn ép hiếp đáp người, nói không giữ lời, nên tội nặng như núi to, mà công đức tu hành của ông chỉ như chiếc thuyền nhỏ, không đủ sức di chuyển đá núi quá to nặng đó.  Mà cần phải nhiều chiếc thuyền kết bè hợp lực mới đủ sức đưa tảng đá núi to kia qua biển khổ được.

Vậy, nhân ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ sau ba tháng an cư tròn đầy tịnh tâm chuyên ròng tu niệm, giới đức thanh tịnh trang nghiêm, được nhận lãnh thêm tuổi đạo.  Ngày ấy cũng là ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, khi thấy hàng trưởng tử Như-Lai tam nghiệp thanh tịnh, giới đức châu viên tinh chuyên tịnh hạnh.  Ông nên nhân ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Tăng thọ đạo tuế, ngày mười phương chư Phật hoan hỷ, mà đem hết tâm thành và khả năng sẵn có khẩn thiết sắm sửa trai diên vật dụng, thiết lễ trai tăng cung thỉnh chư tôn thiền đức thành tâm đem hết tâm thành dâng lên cúng dường, cầu mong quý Ngài chứng trai nạp thọ.  Mẹ ông sẽ nhờ giới đức tu hành thanh tịnh của chư Tăng, đức chúng như hải, nhất tâm chú nguyện cùng sự thành tâm khẩn thiết của ông tạo thành sức mạnh tinh thần vạn năng, hiệp cùng thần lực của chư Phật mười phương gia hộ, sẽ chuyển hóa được nghiệp căn của mẹ ông.  Như thế mẹ ông mới mong giải nghiệp thoát khổ”.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên đem hết lòng thành, thực hành lời Phật dạy, quả nhiên cảm hóa bà Thanh-Đề hồi tâm hướng thiện, liền đó thoát kiếp ngạ quỷ, được sanh về cảnh giới thiên cung.  Câu chuyện này được gói trọn trong bộ kinh Vu-Lan.  Từ đấy, ngày rằm tháng bảy còn được gọi là ngày Vu-Lan, tức là ngày giải cứu tội nhân bị đọa đày trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.  Từ đấy trở đi, ngày rằm tháng bảy trở thành ngày báo đáp thâm ân cha mẹ ông bà của những người con thảo cháu hiền.  Ngày Vu-Lan thắng hội của những người còn tìm về nguồn gốc ông cha tiên tổ.  Ngày cho những người uống nước nhớ nguồn.

Để mở đường hiếu hạnh cho hậu thế, đức Phật nhìn Mục-Kiền-Liên rồi hướng về đại chúng dạy rằng: “Đời sau, hàng đệ tử của ta hoặc là những người con thảo cháu hiền nào muốn báo đền ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ hay người thương thân, nên nhân ngày rằm tháng bảy Vu-Lan, noi gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên, phát tâm thành kính cúng dường Tam-Bảo, thiết lễ trai tăng, hành thiện bố thí hồi hướng tất cả công đức lành đã làm được cho ân nhân của mình, thì cũng sẽ được phước đức hiệu quả như Mục-Kiền-Liên siêu độ mẹ ngày hôm nay vậy.

Công đức tu hành của các bậc chân Tăng tạo thành sức nặng vạn năng cho sự cầu nguyện cứu khổ độ linh.  Do vậy, từ đấy đến nay, ngày rằm tháng bảy mỗi năm đã trở thành ngày Vu-Lan thắng hội, ngày lễ thiêng liêng bất diệt, ngày sưởi ấm lòng người con thảo cháu hiền đã thực hiện hiếu hạnh, ngày mặc nhiên thầm nhắn nhủ người đời: Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, báo đáp thâm ân.

Lễ Vu-Lan là dịp tốt để con cháu hiện còn trên dương thế sống lại trong tình thương ấm cúng ngọt ngào của mẹ cha qua lời kinh cầu nguyện, qua chiếc bông hồng cài trên áo, và thể hiện tâm thành hiếu kính bằng sự làm phước, cúng dường, cầu nguyện trong đại lễ Vu-Lan.  Do đó, lễ Vu-Lan còn gọi là lễ giải-đảo-huyền, mang ý nghĩa pháp hội giải cứu tội đọa đày của các vong linh.  Bởi mang ý nghĩa thâm sâu mầu nhiệm như vậy, nên lễ rằm tháng bảy thường được gọi là lễ Vu-Lan thắng hội, nghĩa là Pháp hội thù thắng vạn năng, giải thoát đau khổ của những ân nhân quá cố bị đọa đày.

Vào một mùa thu Vu-Lan tháng bảy, cách đây hơn bốn mươi năm về trước, tôi đã lặng lẽ trốn nhà ra đi theo con đường từ bi giác ngộ của đức Phật.  Tôi ra đi tuổi hãy còn quá trẻ thơ, không một lời từ biệt người thân ở lại.  Tôi ra đi giữa lúc đất nước đang hồi ly loạn binh đao khói lửa.  Nên cha tôi lại càng e ngại cho số phận tôi, vì tôi hãy còn quá thơ dại sẽ có thể rơi vào màn lưới dụ hoặc của Việt-Minh, thứ trá hình của cộng sản. Sự ra đi của tôi làm cho gia đình người thân ngày đêm phải lo âu đau buồn không ít.  Đặc biệt dì Tám, chị ruột của mẹ tôi, vì quá thương cháu mà đã phải lặn lội khắp nơi, từ tỉnh này đến tỉnh khác để tìm tôi trong nước mắt.  Nhưng tôi đã chọn con đường từ bi giải thoát và từ đấy được an lành trong cảnh Phật, giữa lúc bên ngoài chiến tranh bom đạn loạn ly.  Sự thoát ly gia đình của tôi đã đạt mục đích ban đầu trên đường học đạo giải thoát.

Cửa Phật mở rộng, giữa lúc bom đạn mịt mù, tôi đã được nhà chùa nhận cho xuống tóc xuất gia làm điệu.  Từ đấy, tôi đã sống với thầy bạn qua những ngày đạm bạc tương rau dưa muối vui với cảnh chùa thanh tịnh sớm kinh chiều kệ.  Cuộc sống thật là thanh đạm.  Ngày làm ruộng vườn công quả gánh nước tưới cây, đêm dưới ánh đèn dầu lung linh năm bảy huynh đệ cùng chung quây quần nghe thầy giảng kinh dạy đạo.  Trong cái cảnh trí êm đềm thanh tịnh thoát tục ấy, tôi cảm thấy an lành thanh thoát làm sao!  Cho đến hơn bốn mươi năm sau, ngày hôm nay tôi cũng không thể nào quên được và diễn tả cho hết được cái kỷ niệm êm đềm thanh thoát ấy.

Nay nhớ lại buổi ban đầu xuất gia học đạo.  Đặc biệt lúc đó hãy còn bé thơ, nhưng lòng dứt sạch vẩn vơ vương vấn thương nhớ nhà.  Nhờ vậy, nên lòng tôi cảm thấy vô cùng thanh thoát, thật là gần Phật, như đang thật sống trong cảnh Phật.  Từ đấy tôi biết tôi đã tìm ra định hướng, tiến bước trên đường thánh thiện, nhận được tình thương nơi cửa Phật từ bi.  Tôi lại càng quyết chí thẳng tiến trên đường học đạo Thích-Ca Mâu-Ni.  Ý niệm gia đình quyến thuộc không còn mãnh lực buộc ràng lòng tôi.  Nên dù những lời dụ ngọt trở về nhà của những người thương thân đã mấy lần vồ đến tưởng chừng như chiếm trọn cả lòng tôi, lung lạc được ý chí xuất gia cầu đạo của tôi, nhưng thực sự không cách nào làm lay chuyển ý chí xuất trần thượng sĩ của tôi được nữa.  Những lời đường mật tuyên truyền của Việt-Minh cũng không sao lay chuyển niềm tin Phật, tâm nguyện dâng hiến trọn đời cho đại nghĩa Phật Pháp phụng sự chúng sanh của tôi.  Vì tâm tôi không một chút gì xao xuyến trước những lời ngọt ngào quyến rũ chan chứa tình đời đó.

Trên đường hành đạo dù gặp phải những chướng ngại khó khăn, điều mà tôi đã dự biết, trước khi quyết tâm trốn nhà ra đi tìm thầy học đạo, tôi vẫn nhất quyết tinh tiến không ngừng trên đường học đạo.  Lòng đã quyết, tôi kiên tâm nhẫn nhục khắc phục vượt qua mọi trở ngại để tiếp tục tiến bước, lòng dặn lòng phải khắc phục lớp lớp chướng duyên trên đường giải thoát.  Đức Phật dạy: Người xuất gia học Phật phải như viên tướng ra trận, không thắng thì da ngựa bọc thây ở chiến trường, như voi say ra trận chỉ biết xông pha tiến tới chớ không lùi.  Người xuất gia học đạo là người đang trên đường tìm chân lý, như thuyền đi ngược dòng thác đổ, phải cố sức chống chèo mới mong đến đích.  Noi gương thái-tử Sĩ-Đạt-Ta, tôi đã dứt khoát cởi bỏ áo thế tục buộc ràng phiền lụy, mặc lên người chiếc y vàng giải thoát thênh thang, để sẵn sàng bước ra ngoài tam giới.

Suốt hơn bốn mươi năm mang hành trang tinh tấn nhẫn nhục, dùng vũ khí giới, định, huệ, có công lực vạn năng khắc phục những chướng ma.  Trên đường hành đạo, tôi đã biết bao lần phấn đấu với những nghịch cảnh chướng duyên trùng trùng, vẫn như lần đầu sơ phát tâm quyết bỏ tục cắt ái từ thân, thời thời khắc khắc lòng tự dặn lòng “dõng mãnh tinh tấn, phải hết sức thận trọng cảnh giác, xa bạn ác, gần minh sư, giữ trọn giới pháp, cẩn thận giữ gìn thân tâm như giữ gìn tròng con mắt”.  Tôi luôn luôn khắc sâu nơi lòng lời Phật dạy: “Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình.  Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất”.  Ngài còn dạy: “Nầy các con!  Các con là những chiến sĩ.  Chiến sĩ của trí huệ diệt trừ giặc tham sân si.  Chiến sĩ của từ bi vô lượng, của tình thương muôn loài.  Như thế đó, các con là chiến sĩ của đạo pháp cao siêu”.

Tôi đã nguyện trọn đời làm chiến sĩ của tình thương, dương cao gươm trí huệ quyết diệt sạch vô minh tam độc.  Nhớ lời Phật dạy: “Không hờn giận. Cẩn thận chọn bạn lành. Tránh xa người xấu ác.  Bình đẳng hành đạo giác ngộ”.  Do đó, mãi mãi suốt tháng năm, nằm lòng lời Phật dạy, trên đường hành đạo giác ngộ, tôi không bao giờ để kẹt tâm vào môn phái, tình nhà, hay bạn ác tri thức kéo lôi sa ngã, như thế để hầu đạt đến chân lý đạo cả, để hoa giải thoát tỏa khắp cõi lòng và cả trần gian, để nước từ bi tắm mát mọi cõi lòng nhân thế đang bị lửa phân biệt tham sân hận cuồng si thiêu đốt.

Nay Phật đã Niết-Bàn, các bậc thầy đã vắng bóng trên cõi trần gian, mà lời vàng Phật dạy, lời thầy thương khuyên sách tấn vẫn còn vang vọng sống mãi nơi lòng tôi.  Nhờ thế, trải hơn bốn mươi năm, tôi chưa bao giờ dám một lần ngồi không nhàn đàm thuyết suông cuồng luận tiêu phí thời gian luống qua vô ích.  Nơi tâm khảm tôi lúc nào cũng ghi khắc sâu ân Phật trọn đời hy sinh hóa độ; ân cha mẹ khổ cực dưỡng dục thành thân nầy; ân sư trưởng dầy công dẫn đường dạy dỗ; ân thiện hữu tri thức giúp đỡ trên đường tu; ân đàn na thí chủ giúp hộ cúng dường nuôi dưỡng; ân những người can trường xông pha sương gió hiểm nguy hy sinh cho đại nghĩa gìn giữ đất nước được yên lành, nhờ đó tôi được an thân hành đạo.  Tất cả những ân sâu nghĩa nặng ấy hãy còn trĩu nặng trên vai ghi sâu nơi lòng.  Tôi phải làm gì đây để đền đáp?  Chưa trọn vẹn đáp đền được thâm ân nghĩa trọng ấy thì lòng không an.  Nên tôi phải tự cảnh giác ngày đêm tinh tấn hành đạo hơn nữa.

 

Thưa cha mẹ!  Giờ đây cha mẹ nhìn con có lẽ sẽ không còn phiền trách như xưa về việc con trốn nhà đi xuất gia học đạo tu hành nữa?!  Nếu con không trốn nhà xuất gia đầu Phật, thì sẽ khó mà thực hiện ý nguyện học đạo giác ngộ giải thoát.  Vả lại, nếu con không đi tu thì khó tránh khỏi tốn phí tiền của cha mẹ khi con lập gia đình, và cũng rất khó tránh khỏi cái cảnh dâu cháu làm phiền lụy đến mẹ cha.  Nếu con theo con đường của cha mẹ đã đi, tức là con đường ân ái gia đình vợ con, thì có lẽ suốt đời không cách nào bứt bỏ nổi xiềng xích của gia đình thê tử ái ân.  Và như thế thì đời con sẽ mãi mãi đầu tắt mặt tối, tim óc rối như tơ vò, suốt kiếp lặn hụp quẩn quanh trong lò thiêu đốt của tình trường danh lợi ái ân chật hẹp ích kỷ.  Như vậy, đời con sẽ mãi mãi giam hãm trong ngục tù tăm tối của tình đời, chứ không mong gì hiến dâng trọn đời cho lý tưởng từ bi, trải rộng tình thương đem hương hoa giải thoát, mang ánh sáng giác ngộ của đức Phật đến mọi người như ngày hôm nay, mà con đã và đang làm.  Sự trốn nhà ra đi xuất gia của con có tạo buồn phiền cho cha mẹ trong thời gian ngắn thuở ấy, nhưng ngày nay con đã tìm ra lẽ sống tự tại giải thoát chân thật và trang trải tình thương bao la không biên giới cho đời.  Con nguyện học đòi thái-tử Tất-Đạt-Đa trốn nhà ra đi để sống đời vị tha cao cả.  Con noi gương theo Mục-Kiền-Liên tôn giả đem trọn đời hành đạo hồi hướng báo đáp thâm ân.  Xin cha mẹ cảm thông chứng giám!

Suốt bao năm hoằng pháp đó đây, tôi đã chứng kiến một hiện tượng tâm lý kỳ lạ, vừa nghịch lý, vừa mâu thuẫn mà được người đời yêu chuộng duy trì và tồn tại: Đó là các bậc cha mẹ thấy đời sống những bậc xuất gia tu hành hiền đức đạo hạnh thanh cao, giải thoát, nên thường nói: “ Tu thì quý lắm!  Có gì quý cho bằng tu!  Tu là cội phúc, tình là dây oan”.  Lời nói này thầm kín biểu lộ sự mến mộ về đời sống tu hành giải thoát.  Đôi lúc còn ước ao chính mình làm sao cũng được tu hành giải thoát tự tại nữa.  Thế nhưng, các bậc cha mẹ lại thật tình không muốn dọn mình, thu xếp gia đình, đem quãng đời còn lại để xuất gia hiến thân cho lý tưởng vị tha giải thoát.  Lại cũng không muốn con cái mình cắt ái từ thân, bước lên con đường xuất gia thênh thang giác ngộ của đức Phật.  Không những không khuyến khích con cháu xuất gia đi vào con đường đạo hạnh an lành giải thoát của Phật Thích-Ca, mà lại còn cố ý cản ngăn con cháu nào hảo tâm có ý xuất gia nữa là khác!  Ai cũng biết “nhứt nhơn thành đạo, cửu huyền siêu thăng”.  Và ai cũng biết người tu hành với tâm nguyện: “Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu”.  Cha mẹ được thoát ly trần ai khổ lụy, thì tu hành, hiếu đạo mới thành tựu.  Có tu mới thành đạo.  Có tu cửu huyền phụ mẫu mới được an lành siêu thăng.  Ý nghĩa rõ ràng như ánh sáng mặt trời.  Lợi ích việc tu hành thực tế như ăn cơm khi đói.

Thế mà tự mình không muốn hiến thân cho Tăng-bảo.  Lại cũng không muốn con cháu vào hàng Tăng-bảo đem đạo đức xây dựng nguồn sống an lạc cho đời, thì thử hỏi làm sao đủ người hoằng truyền đạo, làm sao tạo được cuộc đời an vui thánh thiện?  Điều này đưa đến hệ quả thiếu chân tăng hoằng truyền đạo pháp ngày hôm nay.  Chùa thiếu thầy trụ trì trông nom ngôi Tam-bảo.  Thường thì cha mẹ lúc nào cũng muốn con cái đi vào con đường gia đình vợ con ân ái, nhưng nào có biết đó là vô tình xiềng xích trói buộc con cái mãi mãi vào cảnh phiền khổ triền miên đời này đến kiếp khác.  Cứ mải lo ái ân gia đình danh lợi mà không lo tu tâm sửa tánh tu bồi phước đức thì một mai hoạn nạn xảy đến, quỷ vô thường bệnh chết cuốn lôi, chỉ còn biết cầu Phật kêu trời oán thán, đâu còn thời gian để tạo phúc đức an lành hạnh phúc!?

Trên đường hành đạo, tôi đã bao lần nghe thấy đó đây các Phật tử cũng như không Phật tử thường tỏ lòng ước ao làm sao có được nhiều thầy hành đạo, chùa nên có trụ trì để hướng dẫn tín chúng tu hành, hoằng truyền Phật pháp.  Nhưng chính tự bản thân những Phật tử lại không muốn cống hiến đời mình cho tăng bảo, lại cũng không muốn con cháu phát tâm xuất gia, thì thử hỏi tăng bảo tìm đâu ra để đáp ứng nhu cầu mong muốn?  Muốn thâm hiểu Phật pháp, nhưng lòng lại không thích nghiên cứu kinh điển, cũng chẳng ham nghe thuyết pháp giảng kinh, tầm thầy học đạo.  Muốn giàu sang phú quý, nhưng lại không thích bố thí cúng dường làm việc từ thiện.  Muốn trường thọ mạnh khỏe, nhưng lại không chịu phát tâm ăn chay, phóng sanh.  Muốn tướng hảo thanh cao, nhưng lại không giữ gìn lời nói đạo đức chân thật.  Tục ngữ có câu: “Muốn ăn phải lăn vào bếp”.  Thánh nhân dạy: “Làm lành gặp lành.  Làm ác gặp ác”.  Phật dạy: “Nhân nào quả nấy như bóng theo hình”.  Ấy vậy mà khi có ai khuyên phát tâm ăn chay hoặc trường trai hoặc kỳ trai, thì được trả lời: “Ăn chay thiếu sức khoẻ”.  Nhưng sự thật các thầy trường trai, đạm bạc từ thuở bé, mà vị nào tướng mạo cũng tươi mạnh khỏe khoắn.  Trong lúc đó nhà thương chứa đầy bệnh nhân toàn là ăn mặn.  Hoặc có người hỏi: Cháu  nó có lòng mộ đạo, sao bác không cho nó xuất gia đầu Phật để có được cuộc sống thanh tịnh thanh thoát?  Thì được nhận ngay câu trả lời không chút nghĩ ngợi:  Ồ!  Tu hành khó khổ lắm, sợ nó không làm được đâu!  Hoặc nếu có bạn lành khuyên học đạo đi chùa tụng kinh, nghe thuyết pháp thì liền trả lời: Ồ tôi bận lắm!  Nghĩa là nghiệp chướng bao vây.  Tối ngày vần xoay tạo nghiệp để rồi tiếp tục kiếp kiếp sống trong bất hạnh khổ đau!

Suy gẫm cho tận cùng chỗ thâm sâu của sự thật thì, có khổ nào bằng khổ gia đình vợ chồng con cái?  Nhìn thật kỹ thì đã mấy gia đình được thật sự hạnh phúc, vợ chồng con cái thật sự thắm thiết ấm êm?  Thế mà chịu được, sống được!  Thảo nào cổ đức đã chẳng thầm bảo: Con là nợ, vợ chồng là oan gia, cửa nhà là nghiệp báo đó sao?  Ba thứ nầy hễ một khi dính mắc vào thì bị trói buộc phiền lụy đến chết, ấy vậy mà chịu nổi.  Nghĩa là con người vẫn chịu nổi cảnh oan gia nghiệp báo trói buộc đó.  Đắm mê chuyện danh lợi thế gian để chất chồng thêm kiếp đa mang nghiệp lụy.  Luyến say chuyện thế tình vợ con ân ái, chỉ buộc ràng thêm xiềng xích oan khiên nghiệp khổ vô cùng!  Sao không nghe hiền nhân nhắc nhở: “Khi nào dứt bỏ tình danh lợi, cửa Phật từ bi sống an lành”.

Thánh nhân đã nhận chân cuộc đời vốn là mộng  huyễn, mà con người cứ triền miên say đắm bạc tiền quyền uy danh vọng mộng huyễn đó, rồi dong ruổi theo lửa dục tình ân ái, mải mê theo hư vọng hão huyền, để phải kiếp kiếp bơi lội trong biển khổ, chuốc lấy nhọc trí lao tâm suốt đời!  Bởi do con người mê muội lấy giả làm chân, nhận giặc làm con, lấy ô uế làm thanh tịnh, đắm say trong mê muội cuối cùng chỉ còn hai bàn tay dính đầy chướng nghiệp và tâm thức mang nghiệp ra đi.  Sao con người không khôn ngoan sáng suốt thu xếp hoàn cảnh, khắc phục lòng mình điều tâm sửa tánh để chọn lấy sự an lành chân thật?  Như thi nhân với cặp mắt sâu sắc nhìn đời đã thầm nhắn gởi người trần thế:

Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa

Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên

Thoát trần một gót thiên nhiên

Cái thân ngoại vật là tiên trong đời

Hôm nay nhân lễ Vu-Lan thắng hội, noi gương đức Mục-Kiền-Liên, con hướng trọn tâm thành, nguyện đem công đức tu hành của kiếp phù sinh bọt bèo trong suốt hơn bốn mươi năm, dâng lên cúng dường đại lễ Vu-Lan thắng hội, hồi hướng cho cha mẹ được sanh miền Cực-Lạc.  Nơi đó, hóa sanh từ chín phẩm hoa sen ngát hương giải thoát, cha mẹ sẽ thưởng thức tiếng hót kỳ diệu của các loài chim, tiếng suối reo, tiếng gió thoảng, tiếng phong linh, tiếng nhạc trời mà trần gian không có, hòa điệu tạo thành âm thanh tuyệt diệu khiến người nhứt tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.  Cha mẹ sẽ được nghe tiếng Pháp âm của đức Phật A-Di-Đà, chứng được vô sanh pháp nhẫn, chấm dứt vòng luân hồi, thảnh thơi thanh thoát nơi cảnh Phật.

Phần con ở cõi trần ác thế ngũ trược nầy, nguyện tiếp tục bước theo gót đức Thích-Ca từ phụ sống đời vị tha, lấy pháp giới làm nhà, lấy chúng sanh làm quyến thuộc, mang đại nguyện vào cõi Ta-bà kham nhẫn hành đạo Bồ-đề, để chúng sanh và con đồng được giác ngộ giải thoát, cho đến bao giờ thành đạo cả mới thôi.

Mẹ cha là cả trời thương

Là nguồn sống của thiên đường trần gian

Mẹ cha về cõi Niết-bàn

Lòng con toại nguyện muôn ngàn nhớ thương.

 

Cảm niệm Vu Lan

Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, đó đây những người con thảo cháu hiền, tự nhiên cảm thấy lòng bâng khuâng se thắt, man mác nỗi nhớ niềm thương.  Lòng thương nhớ cha mẹ, thân bằng quyến thuộc hiện còn trên dương thế.  Nỗi tiếc thương ông bà cha mẹ anh em đã qua đời.  Để cho nỗi lòng thương nhớ được phần nào thâm trầm êm dịu, những người con thảo cháu hiền dâng trọn nén tâm hương khấn nguyện trong chiều thu Vu-lan thắng hội.  Nguyện gởi tình thương nhớ theo làn khói trầm hương quyện tỏa, cầu mong đức Phật Thích-Ca, Phật A-Di-Đà, mười phương chư Phật, chư vị Bồ-Tát cùng những hồn thiêng chứng giám tấc dạ chí thành.

Vu-Lan nguyên tiếng Phạn là Ullambana, có nghĩa là cứu tội nhân treo ngược.  Bồn là cái thau để phẩm vật cúng dường chư Tăng.  Lấy tích ngày xưa tôn-giả Mục-Kiền-Liên đã sắm sửa phẩm vật để vào thau cúng dường trai tăng, cầu nguyện cứu độ mẹ thoát khỏi chốn ngạ quỷ.  Ngoài ra, còn gọi là Vu-Lan thắng hội, nghĩa là pháp hội thù thắng cứu độ thân nhân quá cố thoát khỏi đọa đày khổ đau trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Rằm tháng bảy là ngày lễ tự tứ của mười phương Tăng.  Ngày mà chư Tăng đã trọn đủ ba tháng an cư kiết hạ, được thêm một tuổi đạo của đời sống tu hành.  Ngày mà cách đây 2526 năm, tôn-giả Mục-Kiền-Liên, khi tu hành chứng được đạo quả, đã dùng huệ nhãn của mình quán sát tìm xem mẹ cha đang ở phương nào để thăm viếng, thì thấy mẹ là bà Thanh-Đề do vì khi còn ở dương thế lòng quá bỏn xẻn, không tin Tam-Bảo Phật Pháp Tăng, xem thường nhân quả nghiệp báo luân hồi, lại còn có tâm khinh mạn Tăng Ni do vậy mà tạo ra tội lỗi.  Nên khi chết đọa vào ngạ quỷ, bụng to như trống, cần cổ như kim, đói khát thiêu đốt bức bách khổ sở muôn trùng không sao kể xiết.  Mục-Kiền-Liên thấy mẹ tội khổ cực hình như thế, tâm dạ xót xa thống thiết, mới đem bình bát cơm đến dâng cho mẹ:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong

Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng

Đây còn tình nặng trong tha thiết

Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong

Nhưng bà Thanh-Đề tội căn nghiệp ác quá sâu nặng, nên cơm vừa để vào miệng thì hóa thành lửa.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên tuy đã chứng được thánh quả, dẫu lòng hiếu kính chí thành chí thiết cảm động đến thiên địa quỷ thần, nhưng không thể tự một mình cải ác hoàn thiện cứu được ác nghiệp đọa đày của mẹ.  Không cầm được xúc động thương tâm, tôn-giả đã nức nở trước cảnh đọa đày thống khổ của mẹ, lẹ làng vận dụng thần thông bay về bạch lên đức Phật những sự việc đau lòng chính mắt thấy, cầu xin chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ:

“Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm

Khắp tìm từ mẫu cõi xa xăm

Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng

Phụ đức sanh thành biết mấy năm

Tấc dạ báo đền ơn nghĩa nặng

Tấm lòng mong nguyện hiếu tình thâm

Vì chân Phật dạy Vu-Lan hội

Luống để cho ai những khóc thầm”

Đức Phật từ bi khai thị nhân quả nghiệp báo, thuyết giảng về nguyên nhân chiêu cảm ác nghiệp và phương pháp cứu độ.  Tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền đi khắp đó đây tìm thỉnh những bậc chân Tăng hoặc hành đạo nơi chùa viện, hoặc đang ẩn tu chốn hẻo lánh rừng núi suối đèo, đồng thời thành tâm sắm sửa thức ăn vật dụng trai nghi, đúng vào rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật hoan hỷ, tôn-giả thành kính đảnh lễ dâng phẩm vật cúng dường trai tăng.  Nhờ sự thành tâm khẩn thiết của người con hiếu hạnh, cùng với sức mạnh vạn năng của công đức tu hành, khác miệng một lời nhất tâm chú nguyện của chư Tăng, hợp cùng nhịp điệu tâm thức cảm thông với lòng ăn năn hối cải của bà Thanh-Đề, với sức thần lực cảm ứng nhiệm mầu của chư Phật gia hộ, cùng với bao nhiêu tâm đức hiệp lại tạo thành sức mạnh nhiệm mầu, nhờ vậy mà tội căn của bà Thanh-Đề mau lẹ tiêu trừ, phước đức sanh trưởng, bà được siêu thăng về cõi trời hưởng phước lạc:

Mẹ  hiền về chốn thiên cung

Toại lòng con thảo, nguyện cùng thánh tăng

Từ bi công đức vạn năng

Mấy nghìn năm vẫn chưa từng đổi thay

Chư Tăng trọn chín mươi ngày

Cát tường bảo tọa trải bày tâm con

Bao nhiêu nghiệp hải chướng san

Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên

Sau khi bà Thanh-Đề sanh về thiên giới hưởng phước báo an vui, đức Phật liền dạy chúng đệ tử: “Mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ, những người con thảo cháu hiền có thể nhân ngày nầy mà thiết lễ cúng dường, để hồi hướng công đức cho cha mẹ, tổ tiên, thân bằng quyến thuộc.  Làm việc cúng dường trai tăng như vậy, thì khắp cả người mất cũng như kẻ còn đều được hưởng lợi lạc, công đức trọn vẹn”.

Tôn-giả Mục-Kiền-Liên đã thể hiện trọn vẹn tâm đức của người con hiếu hạnh muôn thuở. Và cũng chính tôn-giả là người khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho muôn đời nhân thế nương theo.

Nhưng tại sao cầu siêu độ cho hương linh phải nhờ đến sức chú nguyện của chư Tăng?  Sức chú nguyện của chư Tăng là tha lực vạn năng nhiệm mầu.  Nhờ uy đức tu hành trì giai giới hạnh thanh tịnh của các Ngài, nhờ nhứt tâm thành thiết cầu nguyện mà cảm hóa hoán cải được tâm thần của các vong linh.  Một hạt cát, một viên sỏi dù nhỏ đến đâu, nếu để trên nước đều phải chìm xuống đáy biển.  Tảng đá dù to nặng đến đâu, nếu để trên thuyền, chẳng những không chìm đáy nước mà còn có thể dễ dàng di chuyển từ nơi này đến nơi khác, từ bờ nầy đến bến kia.  Cũng vậy, tội nhỏ mà không biết ăn năn sám hối, không có sự cứu giúp nguyện cầu của tâm đức tha lực chư Tăng và sự gia hộ của chư Bồ-Tát thì nhất định phải bị đọa. Tâm đức chú nguyện của chư Tăng cùng với thần lực gia hộ của chư Phật Bồ-Tát chính là chiếc thuyền vạn năng cứu độ.  Do đó, đã lỡ lầm tạo tội lỗi to lớn mà biết ăn năn sám hối, lại cần đến tha lực cứu giúp của chư Phật, sức chú nguyện của chư Tăng thì vẫn được siêu thoát.  Như một tử tội, nếu được những danh nhân khắp nơi đồng thời ký đơn để xin ân xá, thì tử tội kia có thể được cải án tử hình khỏi chết, hoặc tội nặng thành nhẹ hay có thể được tha bổng.

Muốn báo hiếu những bậc mà ta đã thọ ân sâu nghĩa nặng nay đã qua đời, tốt nhất là nên thỉnh các bậc chân tăng để lo cầu nguyện siêu độ.  Bởi sức cầu nguyện là tha lực tinh thần vạn năng không thể nghĩ bàn.  Cứ xem Mục-Kiền-Liên cúng dường trai tăng siêu độ mẹ thì rõ.  Người chết cũng sống trong trạng thái tinh thần đó.  Cả hai tầng độ năng lục tinh thần kẻ sống và người chết giao cảm linh thiêng mầu nhiệm tạo thành thần giao cách cảm, mà người trần mắt thịt xác phàm không thể thấy được.  Tiếc thương, báo đền ân nghĩa bằng cách cúng dường trai tăng, ăn chay cầu nguyện, làm điều phước thiện để hồi hướng công đức đến các bậc ân nhân là phương cách lợi ích thiết thực.  Còn thương mà khóc lóc kể lể thảm thiết là vô tình tạo thêm quyến luyến rối loạn tâm thần người chết.  Bày biện rượu thịt cúng quẩy đãi đằng chỉ làm tăng thêm nghiệp ác vô cùng, chỉ ràng buộc thêm tội lỗi nặng nề cho người chết chớ chẳng có ích lợi gì. Người thông minh đạo đức không ai lại dại dột làm theo tục lệ khi người thương thân qua đời mà nỡ lòng bày tiệc rượu thịt để ăn nhậu trước cảnh tử biệt đau lòng!  Việc làm nầy thật là thất đức không thương người khuất bóng chút nào!

Hiếu chủ cúng dường trai tăng, tụng kinh cầu nguyện, chính bản thân mình phải thành tâm chay tịnh và đồng thời nên đem tiền của người quá cố ra làm việc bố thí cúng dường để hồi hướng công đức cho hương linh, ấy chính là chân lý siêu độ muôn đời.  Tốt hơn nữa mời bạn bè thân quyến cùng dự lễ trai tăng để mọi người khác miệng một lời nhất tâm hộ niệm hồi hướng công đức cho hương linh.  Được như thế công đức vô cùng.  Hương linh tất sẽ được hưởng phần siêu thoát.

Đạo Phật rất xem trọng sự cầu nguyện cho người quá cố.  Những người con thảo cháu hiền, tuy không phải là đệ tử Phật, nhưng đến ngày rằm tháng bảy cũng cảm thấy lòng thương nhớ mông lung, nhớ hình bóng cha mẹ, người thân, ân nghĩa sanh thành cùng những ân tình thâm trầm kín đáo nao nao nơi lòng!  Rồi người con thảo cháu hiền tự nhiên trào dâng lòng thương nhớ cha mẹ và người thân mà thành tâm hướng vọng Phật đài, khẩn cầu ơn Phật thánh hiền gia hộ tiếp độ:

Nhờ phép Phật siêu sanh tịnh độ

Bóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần châu

Não phiền rửa sạch oán thù rũ không.

Cây có cội, nước có nguồn.  Kẻ làm con muốn trọn nghĩa hiếu đạo con hiền cháu thảo, ai mà không nhớ đến ân sanh thành dưỡng dục của mẹ cha ông bà.  Cho nên mỗi lần nhắc đến mẹ cha, dù là cha mẹ còn ở đời hay là khuất bóng, ở xa hay sống gần, người con chưa làm tròn bổn phận hiếu đạo thì lòng cảm thấy chưa an.  Cổ nhân có câu: “Thiên tải tử tâm du bảo hám.  Mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân”.  Nghĩa là, ngàn năm lòng con còn ân hận.  Mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền.

Ngày xưa, thầy Tử-Lộ thuở còn nghèo khó, ngày ngày đội gạo ra chợ bán để kiếm tiền độ nhật nuôi mẹ.  Tuy là hàn vi bận rộn vì cái sống, nhưng sách không lúc nào rời tay.  Ban ngày đội gạo ra chợ bán, tối về chăm học thâu đêm.  Không bao lâu, sau khi cha mẹ qua đời, Tử-Lộ lại càng nỗ lực gắng công đèn sách thi đỗ làm quan.  Lòng nhớ thương cha mẹ khi sanh tiền sống trong cảnh hàn vi thiếu thốn.  Nay thi đậu làm quan thì cha mẹ đã khuất bóng!  Tử-Lộ tự nghĩ bổn phận làm con đối với cha mẹ, đạo hiếu chưa tròn.  Nhớ thương tiếc nuối hai đấng sanh thành mà lòng trắc ẩn bất an rồi tự thương than:

Mộc dục tịnh nhi phong bất đình

Tử dục dưỡng nhi thân bất tại

Nghĩa là, cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.  Con muốn đền ơn cha mẹ, nhưng cha mẹ không còn nữa!

Cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm về trước, đệ tử của đức Thích-Ca là tôn-giả Mục-Kiền-Liên vâng lời Phật dạy thực hành đạo hiếu cứu mẹ một cách viên mãn.  Sau đó năm trăm năm, đệ tử của đức Khổng-Tử là thầy Tử-Lộ, tự nghĩ chưa làm tròn hiếu đạo đối với mẹ cha lúc sanh thời, ông đã ôm linh vị cha mẹ ra mộ đập mình xuống đất mà khóc than, quên đi mình đang mặc cân đai áo mũ của triều đình vua ban cử làm quan.  Lời trắc ẩn thương thân thật là thống thiết: “Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng.  Nay con muốn phụng dưỡng cha mẹ để đền ơn đáp nghĩa sanh thành dưỡng dục trong muôn một. Nhưng than ôi!  Cha mẹ không còn nữa”.

Đến như đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, bậc đại giác ngộ, trí đức viên mãn, là bậc thầy của cả trời người là đấng đạo sư của ba cõi nhân thiên mà Ngài còn ân cần thành thiết khuyên vua cha gắng tu để dứt trừ phiền não, và sau đó đã đích thân nghiêng vai khiêng quan tài vua cha ra đến tận nơi trà tỳ.  Trước khi về tinh-xá, đức Phật còn cúi đầu cầu nguyện hương linh vua cha lần cuối cùng.

Nhưng tại sao bổn phận làm con phải hiếu thảo?  Nào, chúng ta hãy thử suy nghĩ xem, không có cha mẹ ta thì không có ta.  Gá mượn tinh cha huyết mẹ mà thành thân ta. Từ khi gá thân trong bụng mẹ cho đến lúc ra chào đời trải theo thời gian mà khôn lớn ăn học nên người, mẹ cha đã bao lần rơi lệ, trăm bề khổ cực lo cho con, chất chồng muôn nỗi buồn phiền, cay đắng, mừng giận, hy vọng rồi thất vọng đều do con tạo ra!  Lắm nỗi cực nhọc của cha, muôn phần khổ nhục của mẹ, thảy đều vì con.  Khi con lớn khôn lập thành gia thất, cha mẹ cũng đã phải lo lắng tinh thần và công của, phập phồng hy vọng, sắm sửa cho con.  Tất cả tâm trí sức lực tình thương của mẹ đều dồn cho con, hy sinh vì con:

Mẹ cho con tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh

Mẹ là gió mát tinh anh

Là cây tiên dịu, là cành thùy dương

Mẹ là hoa, mẹ là hương

Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu

Bây giờ bóng mẹ còn đâu

Chỉ còn non nước một mầu xanh xanh

Cha mẹ vì muốn cho con no ấm, nên danh được phận mà quên mình.  Vì thương con mà mẹ phải có lúc cam tâm làm điều tội lỗi.  Vì con mà dám hy sinh, mà mẹ cha phải cam lòng buộc bụng hạ mình.  Không bút nào tả cho hết tình thương của cha mẹ hy sinh đối với con.  Ân cha mẹ như trời cao biển rộng.  Nghĩa cha mẹ khó khổ đắng cay như ghềnh thác nước lũ tuôn chảy bất tận!  Bổn phận con hiếu cháu hiền làm người nhân nghĩa ở đời lại có thể vì lý do nào đó mà lờ quên đi việc phụng dưỡng đền đáp ân nghĩa cha mẹ khi còn sống và phụng thờ khi song thân qua đời được ư?

Công cha như núi Thái-Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Ơn cha cao như núi Thái. Nghĩa mẹ rộng dài như nước nguồn biển cả.  Bổn phận làm con không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng cơm áo tiền bạc là đủ.  Bởi cơm tiền bạc chỉ là phần vật chất cho thể xác mà thôi.  Thân xác nầy là giả tạm tầm thường, tồn tại trong thời gian nào đó rồi cũng tan về với cát bụi.  Người làm con thảo cháu hiền, ngoài vấn đề phụng dưỡng cha mẹ bằng vật chất ra, còn phải biết khuyến khích cha mẹ quy y Tam-Bảo, tin Phật pháp, tin luân hồi, nhân quả, nghiệp báo.  Khuyên cha mẹ phát tâm hành thiện vun trồng phước đức, để tinh thần cha mẹ có nơi nương tựa, vui trong niềm tin Phật pháp, gắng siêng bồi đức khi tuổi già.  Đó mới là người con khôn ngoan hành thiện báo hiếu trọn vẹn.

Những người con chỉ biết ỷ vào tiền bạc quyền thế, hoặc say mê vật chất dục lạc ái tình danh lợi, không những không khuyến khích giúp đỡ cha mẹ tu tâm sửa tánh, làm điều phước thiện, kính tin Tam-Bảo, mà còn ngăn cản cha mẹ trong việc tu hành, phát triển niềm tin đạo đức, thì đó là những người con đại bất hiếu, là giặc cướp phần công đức của đấng sanh thành.  Kinh sách thánh hiền gọi là tặc tử, tức là những kẻ đạo tặc oan trái của mẹ cha, làm cho cha mẹ phiền muộn, tinh thần không được an vui.  Cha mẹ không được thoải mái với niềm tin, xa dần chánh đạo, dẫn dụ cha mẹ đi vào dục lạc tình đời, để rồi rơi vào con đường lầm mê tội lỗi của địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, triền miên trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi không dứt.  Tội ác của những đứa con làm trở ngại sự tu tâm dưỡng tánh hành thiện của cha mẹ không lời lẽ nào nói cho cùng.  Những đứa con như vậy nghìn đời muôn kiếp sẽ phải khổ đau trong ba đường ác!

Cha mẹ chẳng may vô phước gặp phải những đứa con vô đạo đức, không tin Tam-Bảo như thế, kinh Phật gọi là: “nhận giặc làm con”.  Nghĩa là cha mẹ vì con mà phải bôn ba tranh đua chụp giựt, chân lấm tay bùn, một nắng hai sương để nuôi cho con khôn lớn ăn học nên người.  Bây giờ phải khổ tâm, vì con đã thành người, con trở lại cản ngăn làm khó dễ, cấm đoán cha mẹ tìm thú vui trong niềm tin Phật pháp, tu tâm sửa tánh làm việc phước đức.  Nói ra sợ người chê cười con mình bất hiếu, gia đình vô phước, nên cha mẹ đành phải ôm lòng chịu đựng đau khổ.  Những đứa con làm cha mẹ buồn khổ như vậy, kinh Phật gọi những đứa con như thế là cọp beo, là giặc cướp, là ma quỷ, là oan gia nghiệp báo.  Ma đưa lối, quỷ đưa đường hướng những đứa con không tin nhân quả luân hồi nghiệp báo, không phụng thờ cúng kính cha mẹ, khinh chê phẩm vật cúng, mù quáng sùng bái thần linh, thượng đế, vong bản bội bạc ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ!  Vì nó phá rối bao công đức lành của cha mẹ muốn làm.  Những đứa con như thế chỉ biết lôi kéo cha mẹ vào con đường đọa lạc ác thú, đúng là oan gia trái chủ, không gì bất hạnh cho bằng.

Thánh hiền dạy: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu đạo phương thành tựu” – Cha mẹ được siêu thoát phàm trần, an vui nơi cảnh thánh hiền tiên Phật, lúc đó bổn phận làm con mới tròn đạo hiếu.  Đạo hiếu có tròn, người con mới hoàn thành nhân cách.  Đạo hiếu dạy người con thảo cháu hiền đối với cha mẹ ông bà tùy theo hoàn cảnh của mình mà phụng dưỡng.  Miễn sao cha mẹ được no ấm an vui, nhất là an vui về tinh thần, an vui với niềm tin đạo đức, để cho tinh thần được nhẹ nhàng thoải mái khi trăm tuổi già, như thế mới là làm tròn đạo hiếu.  Kinh dạy: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”. - Hiếu là đầu trong muôn hạnh lành.  Người không làm được hiếu đạo, là người mất hết nhân cách đạo đức.  Cho dù người đó có tài giỏi, giàu sang địa vị danh vọng đến đâu thì cũng là kẻ vong ân bội nghĩa, kẻ vô nhân đạo, nguy hiểm cho đời.  Vì sao? Bởi vì cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng lớn khôn, cho con ăn học nên người, lo giúp cho con lập thành gia thất, trải suốt bao tháng năm nuôi nấng vất vả chăm sóc dạy dỗ, mà người con không đoái hoài nghĩ tưởng, thương nhớ để giúp đỡ cha mẹ, thì hỏi còn có thể thương tưởng giúp đỡ ai?  Kinh dạy: “Thiên kinh vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên”.  Nghĩa là dù cho có đọc thông ngàn quyển kinh, vạn quyển sách, trăm mảnh bằng, giàu sang tài giỏi đến đâu, địa vị quyền uy cao đến mấy, mà chẳng biết lấy đạo hiếu ở đời, chẳng có lòng hiếu thảo mẹ cha, người con như thế là kẻ vô luân đáng vất bỏ đi.  Ngược lại, nếu có lòng hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ thì đó mới là người con đáng tin cậy, là người con quý của gia đình hạnh phúc, là người hữu ích cho xã hội nhân quần, là người mà bậc cha mẹ hãnh diện ước mong.  Người con hiếu thảo, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng nhớ tưởng cha mẹ:

Đi đâu bỏ mẹ ở nhà

Gối nghiêng ai sửa chén trà ai bưng

Đói lòng ăn bát cháo môn

Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung

***

Cầu cho cha mẹ đa sanh

Cửu huyền thất tổ tâm tình thảnh thơi.

Gương hiếu hạnh của tôn-giả Mục-Kiền-Liên, của thầy Tử-Lộ đã là hào quang hiếu hạnh rạng chiếu muôn đời.  Các Ngài cũng sanh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng các Ngài còn có được phước duyên nuôi dưỡng cha mẹ trong tình thương của nơi chôn nhau cắt rún, của quê hương mang tiếng khóc ban đầu, để còn được nhìn lại ngôi nhà của cha mẹ, mà than mà khóc, có dịp bộc lộ được hết tất cả tâm tình thương tiếc của mình dâng lên cha mẹ.

Còn kẻ viết bài nầy, tính đã mười ba mùa Vu-Lan rồi, mà giờ đây vẫn phải còn mang kiếp tha hương gởi thân nơi đất khách quê người.  Do nghiệp dân vận nước đẩy đưa trở thành kẻ tha hương nghìn trùng.  Từ xa thẳm bên kia bờ đại dương, nơi đó quê hương tôi mờ trong khói nước sương mù.  Tiếng chuông u minh của ngôi chùa xưa đã im lìm sau ngày 30-4-1975.  Trên khắp quê hương, mùa Vu-Lan nhạt nắng, vắng bóng chư Tăng vang vọng lời kinh nguyện cầu.  Đỉnh đồng lạnh ngắt trầm hương.  Mỗi độ mùa Vu-Lan thắng hội, hình ảnh chùa rộn rịp thiện nam tín nữ Phật tử thành tâm sắm sửa trai nghi cúng dường chư Tăng trong ngày Vu-Lan báo hiếu năm trước, giờ đây thay vào đó, sân chùa lạnh ngắt vắng tanh.  Đỉnh trầm không còn ai dám đốt nén hương.  Thiện tín đồng bào âm thầm khổ tâm thất vọng thở than.  Nỗi oán hận trào lên cổ họng mọi người mà không ai dám thốt thành lời.  Giờ đây thay vào đó mọi người kín đáo cùng nhau âm thầm bàn tính rời bỏ quê hương để tìm đường tự do cho lẽ sống, chứ không còn dám nói Vu-Lan đi chùa báo hiếu!

Ngày tôi đi du học, Thầy tôi đã đưa tôi ra tận cổng chùa, nắm chặt lấy tay tôi, vỗ nhẹ vào vai, khuyên nhủ tôi rằng: “Từ đây con sống một mình trên đất khách quê người, xa thầy xa bạn, xa đại chúng, con phải ráng hết sức giữ mình, như chính giữ gìn cặp mắt của con.  Non sông, đạo pháp chờ ngày con công thành danh toại trở về.”  Rồi thầy tôi nghẹn ngào không nói thêm lời nào nữa.  Những bạn đồng tu chắp tay chào tu trong dáng buồn kín đáo.  Tôi bước lên xe, chắp tay cúi đầu chào ly biệt thầy bạn lần cuối cùng trong nghẹn ngào với hai dòng nước mắt cuộn trào chảy ngược vào tim, mà không thốt lên được một lời nào khi từ biệt.

Xe lăn bánh, ngoái nhìn lại phía sau, tôi thấy thầy bạn tôi còn vẫy tay chào tiễn đưa.  Chiếc xe đưa tôi chạy về hướng phi trường Tân-Sơn-Nhất, lúc đó tâm trí tôi chỉ còn nghĩ đến một tương lai sáng đẹp, ngày trở lại quê hương, sau vài ba năm hoàn thành học nghiệp, sẽ gặp lại thầy bạn, tay bắt mặt mừng, vui ngày thành tựu, mừng ngày đoàn tụ trong tình thầy trò huynh đệ.  Tôi đi du học trong đơn giản thầm lặng.  Không thân bằng quyến thuộc bịn rịn tiễn đưa, không tín đồ Phật tử quyến luyến bận bịu.  Tôi đã chọn hình thức đơn giản như người tu tịnh độ muốn được vãng sanh vào cảnh giới tây phương.  Các thứ hình thức ồn ào phiền rộn của những tiệc tùng khoản đãi, tôi đều từ chối.  Cái hình thức giả tạo hào nhoáng nhất thời bên ngoài, tiệc tùng đưa rước, mà phần đông người đời ưa thích, đã làm cho bao người hoài công thất vọng, tôi đã cố tránh.

Mùa Vu-Lan Nhâm-Tuất 1982 nầy, tính đã mười ba mùa Vu-Lan trên đất khách quê người, mà chưa có một lần nào có dịp trở lại thăm xứ sở đất mẹ thân yêu.  Tôi có ngờ đâu ngày xuất ngoại du học 19-9-1969 lại là ngày từ biệt người thân, xa lìa xứ sở quá lâu dài như thế nầy!  Tôi vẫn là tôi, vẫn còn đây, ngày ngày trong nếp sống nâu sồng, sống trong lòng thương của đức Phật.  Còn quê hương tôi thì đã đổi chủ, họ dùng luật rừng bạo tàn áp bức khắc nghiệt quản lý làm cho đời sống người dân vốn đã cơ cực đói nghèo lại càng đói nghèo cơ cực thêm, khiến cho lòng dân ta thán sống không còn ý nghĩa gì.

Nhớ lời thầy dặn năm xưa; lời Đức-Tăng-Thống Thích-Tịnh-Khiết dạy, khi tôi vào đảnh lễ Ngài để từ biệt.  Bằng giọng nói thâm trầm từ hòa êm nhẹ, Ngài dạy: “Nay ông đi du học.  Ráng cố gắng.  Phật pháp sau nầy trên vai Đức-Niệm đó.  Ngày ông về sẽ không còn tôi nữa!”  Ngài chỉ nói vỏn vẹn bấy nhiêu, rồi im lặng!  Tôi quỳ đợi Ngài dạy tiếp, nhưng không được nghe thêm một lời nào.  Ngài ngồi trong dáng vẻ trầm tư như một thiền sư nhập định.  Tôi nhè nhẹ đảnh lễ rồi lặng lẽ từ tạ, và người thị giả của Ngài nhè nhẹ đưa tôi ra cửa liêu, khe khẽ nói: “Chúc thầy đi mạnh giỏi, thành công sớm trở về phụng sự đạo pháp”.  Các bậc thầy tôi, Hòa-Thượng Thích-Thiện-Hòa dạy: “Nay thầy (chỉ tôi) có dịp đi du học, dù sống ở đâu, hoàn cảnh nào, thầy nên nhớ tưởng niệm Phật.  Trước khi nằm xuống ngủ, nhớ tụng biến Đại-Bi và Bát-Nhã Tâm-Kinh”.  Hòa-Thượng Thiện-Hoa vỗ nhẹ vào vai tôi như vỗ về, an ủi, khích lệ.  Người nở nụ cười Di-Lặc hỷ xả căn dặn: “Thầy Đức-Niệm!  Tôi hy vọng thầy khi ra đi như lúc về, chiếc áo tràng vẫn còn mặc trên vai.  Con thuyền Đạo Pháp ngày mai thầy có trách nhiệm lèo lái đó”.  Các bạn đồng tu chúc tôi sớm gặt hái thành quả tốt đẹp hẹn ngày tái ngộ.

Nhưng mười ba mùa Vu-Lan trôi qua, đã bao lần hy vọng theo nhịp tim bóp thắt, với những tin tức đau buồn của một quê hương hết triền miên trong bom đạn lại tiếp chìm đắm trong áp bức đói nghèo, lòng vẫn hy vọng theo thời gian bốn mùa luân lưu, mà chưa một lần hội ngộ thầy xưa bạn cũ.  Giờ đây trên đường chân lý đã vắng bóng các bậc thầy tôi!  Các Ngài đã ra người thiên cổ, đã nhập vào thế giới bản thể thường nhiên Niết-Bàn.  Các bạn tôi, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước đổi chủ, hằng ngày từng giờ họ phải đứng ngồi trên lửa đỏ vô thần đốt thiêu tinh thần cân não.  Đời sống nâu sồng khó giữ được bình an.  Rồi với thời gian và hoàn cảnh bức bách, mỗi người mỗi ngã, làm tan rã đời sống tu hành.  Đàn chim Việt cũng tản mát ly hương ra đi tìm đất lành tự do.  Trạng huống điêu tàn như lá vàng rơi rụng trước gió chiều thu.  Có ai biết cho tôi ngày nay trên con đường hành đạo vắng thầy thiếu bạn, vắng cả thanh khí ấm cúng của quê hương.

Ngày nay quê hương được tiếng là đất nước thống nhất hết chiến tranh mà không được thanh bình, khắp non sông hiển lộ nguyên hình một quê hương nghèo đói, băng hoại đổ nát, vườn không nhà trống, dưới tập đoàn thống trị luật rừng bất công gian ác lạc hậu, quen thói rừng rú nói láo dối gạt tuyên truyền.  Chốn thiền đường, chùa viện vắng bóng chư Tăng!  Chùa biến thành công sở, kho chứa, xưởng đẻ, nhà hát, phát xuất từ sự lãnh đạo đỉnh cao trí tuệ rừng rú!  Hàng tín chúng phải khó khăn lách qua những cặp mắt cú vọ của công an bộ đội, đạp lên gai góc mới lẻn được đi vào bên trong chùa để âm thầm lễ bái cầu nguyện, với thân hình gầy ốm bịnh hoạn run sợ, hầu mong tìm lại kỷ niệm an ủi tinh thần nơi niềm tin.  Trên điện Phật nhang đèn lạnh tanh, thỉnh thoảng các chú thằn lằn, rắn mối cắc kè, từ trong những kẽ hiên ngói đầu cột lén nhẹ bò ra với lớp da sần sùi bọc lấy bộ xương cử động, trương đôi tròng mắt mờ đục mất thần sắc vì thiếu ăn khiếp sợ, hình như cố tìm xem thử có phải người quen, thầy xưa, đạo hữu cũ trở về chăng!  Trong dáng rụt rè, có lẽ các chú nầy cũng e sợ bị bắt làm thịt, bị cải tạo, đưa đi kinh tế mới, hoặc bị áp bức thi hành nghĩa vụ ở biên giới Việt, Trung, Miên, Lào.

Quê hương não nề thế đó.  Còn ở đất khách quê người nầy có gì lạ không nhỉ?  Kinh Phật dạy:  Chánh báo thế nào thì y báo thế đó.  Hình cong thì bóng quẹo, hình thẳng thì bóng ngay.  Kiếp tha hương sống nương nhờ đất khách quê người, nên chùa viện, nơi tôn thờ tín ngưỡng niềm tin cũng theo đó mà tạm bợ tùy duyên với đủ hình thái “cải gia vi tự”.  Nhà thì hằng tháng phải lo chạy nợ, trả suốt mấy mươi năm.  Nơi xứ Bắc-cu-lư-châu nầy, ngày ngày mọi người đều phải ra sức lao lực lao tim, lao óc, để rồi bị đốt cháy tiêu mòn trong dẫy đầy hưởng thụ vật chất, nhưng thiếu vắng tình người, khô khan tình thương.  Một xứ không có công dân giáo dục, thiếu quan niệm tinh thần đạo đức, không xây dựng đời sống con người trên luân lý.  Tất cả sinh hoạt đều bị ràng buộc chặt chẽ bởi luật pháp, bằng sức mạnh đồng tiền và cá nhân ích kỷ.  Tất cả cuộc sống đều được bao bọc và thẩm thấu trong ý niệm lợi kỷ cá nhân và hưởng thụ.

Ở quê hương Việt-Nam, ngôi chùa được xây dựng lên là một niềm hân hoan, một nguồn hạnh phúc, bao nỗi vui mừng đem đến cho người dân nơi đó.  Nhưng ở đây tạo lên một ngôi chùa là cả một vấn đề khó khăn, phải nhận lấy đủ thứ rắc rối về luật pháp, khó khăn về tiền bạc và nhân sự.  Ở xứ nầy, tạo chùa là bao nỗi e ngại phập phồng lo sợ sự kiện tụng, tố cáo, bực tức, thù hận của những người dân bản xứ lân cận.  Nên nhiều khi chùa không dám công khai hoạt động.  Mạng sống của ngôi chùa thật quá mỏng manh như sự mong manh của đời sống người tha hương tỵ nạn.  Tiếng chuông chùa vang vọng ngân nga hôm sớm đối với người dân nước Việt là sự nhắc nhở an ủi vỗ về để sống lại với nội tâm yên tĩnh.  Tiếng chuông chùa đối với người trần thế là báo hiếu một ngày đã tàn một đời sắp xế, như thầm cảnh tỉnh người người nên hồi đầu về nẻo thiện.  Nhưng tiếng chuông chùa đối với người dân xứ nầy, xứ dẫy đầy vật chất, họ cảm nghe như tiếng búa đập vào đầu, như kim đâm vào óc.  Nghe tiếng chuông chùa họ thấy nhức nhối, bực bội oán hờn.  Lời kinh cầu nguyện trầm hùng hòa lẫn trong khói trầm hương quyện tỏa làm cho lòng người thanh thoát nhẹ nhàng.  Nhưng đối với người dân bản xứ, họ cho là ồn náo.  Chỉ có nhạc kích động, nhạc nhảy là thấm vào tim óc họ, thích hợp với họ.  Đem cây Bồ-Đề trồng trên đất thánh giá nào phải dễ gì!?  Ở đây tự do trong luật pháp.  Mọi sinh hoạt, mọi tâm niệm trong đời sống con người đều có máy điện tử ghi, không phải tự  ý tự do làm gì cũng được.

Nhớ lại ngày xưa, khi còn học kinh, các thầy tôi giảng dạy về xứ Bắc-cu-lư-châu là xứ của loài chúng sanh A-tu-la, thuộc tứ ác thú (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la) một trong mười bốn cõi của trời Dục-giới.  Chúng sanh trong xứ A-tu-la nầy ngày ngày chỉ biết đấu tranh vì tham ngũ dục,  không chú trọng luân thường đạo lý.  Họ nhiều sân hận si mê thiếu tình thương.  Phải chăng xứ tôi đang tạm sống kiếp khách trần tha hương đây cũng là xứ A-tu-la?

Đã hơn mười ba năm trôi qua!  Mười ba năm với bao kỷ niệm thăng trầm đau thương trên đường hành đạo trong cõi đời ngũ trược.  Cha mẹ tôi đã sớm qua đời, khi tôi còn thơ dại ở cái tuổi làm sa di hầu thầy học đạo.  Ngày nay song thân đã khuất bóng.  Bạn đồng hành cũng thưa thớt xa vắng dần sau ngày vận nước tang thương 30-4-1975.  Dưới ánh trăng rằm tháng bảy Vu-Lan, trong làn hương quyện tỏa, một mình tĩnh tâm ngồi dưới tàng cây cổ thụ trong vườn thiền Phật-Học-Viện, trước tượng Quán-Thế-Âm-Bồ-Tát lộ thiên, tôi thành tâm cầu nguyện cho cha mẹ, đấng đã sanh thành dưỡng dục tôi có được cái thân nầy, được siêu sanh lạc quốc.  Nhờ cha mẹ cho tôi cái thân mà ngày nay tôi dùng cái thân nầy hành đạo.  Tôi tận lực vận dụng hết khả năng của nó vào công cuộc hoằng pháp, duy trì và phát triển văn hóa đạo đức.  Tôi nguyện đời đời giữ vững niềm tin chánh pháp.  Các bậc thầy dạy tôi có khối óc cao thượng, kiến thức đạo đức; các anh linh tử sĩ đã hy sinh bỏ mình cho đại nghĩa; các thiện tín đàn na thí chủ; các thiện tri thức bằng hữu, tất cả kẻ còn người mất, tôi đều hồi hướng công đức nguyện cầu để các vị được trọn hưởng an lành trong cảnh tĩnh giải thoát.

Giờ đây, nơi đất khách quê người, tôi thành tâm xin nguyện hồn thiêng đất nước chứng tri tấc dạ chí thành.  Kính lạy đức Mục-Kiền-Liên tôn-giả, người con hiếu hạnh muôn thuở, mở lòng từ bi chứng minh lòng thành của con, một người thiếu duyên bạc phước sanh trong thời mạt pháp, sanh ra đời không nhằm thời, chỉ còn biết nguyện theo gót chân Phật, học theo gương hiếu hạnh của tôn giả là yêu đạo, thương đời, tận dụng hết khả năng và hoàn cảnh để tu hành, và hoằng dương chánh pháp với tâm nguyện thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh, hầu mong báo đáp ân sâu nghĩa nặng trong bốn ân sâu dày.

Tôi chắp tay dâng trọn tâm thành hướng vọng quê hương cầu mong chư Phật gia hộ, hồn thiêng sông núi Việt-Nam phò trì cho xứ sở sớm phục hồi sinh khí thanh bình, để cho đồng bào tôi có dịp sống lại những mùa Vu-Lan linh thiêng huyền diệu êm đềm tự do an lạc của những năm xưa cũ.  Ân cha mẹ chưa trả thì nợ nước non chưa tròn.  Ân chưa trả, nợ chưa tròn, thì còn lý do gì để gọi là ái quốc thương dâ  n?

Ân cha nghĩa mẹ chưa tròn

Làm sao nói chuyện nước non ân tình

Mẹ cha người tạo ra mình

Lại đi cuồng vọng thần linh mơ hồ.

 

 

Vu Lan thắng hội

Mỗi năm đến rằm tháng bảy không ai bảo ai, thiên hạ đều biết đó là mùa Vu-Lan báo hiếu.  Dù cho người đang sống ở chân trời góc biển, tha hương lưu lạc phương nào, hễ mỗi khi tiết trời thu về, là biết sắp đến rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu, tự nhiên cảm thấy lòng nao nao bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, quê nhà, làng nước và những người thương thân.

Người sống trên đời ai mà chẳng có mẹ cha?  Không có mẹ cha thì làm sao có thân ta?  Nếu không có mẹ mang nặng đẻ đau tảo tần xuôi ngược nuôi nấng ẵm bồng thì làm sao ta sống?  Mẹ cha không săn sóc nâng niu chiều chuộng nuôi cơm đút sữa thì làm sao con lớn khôn?  Mẹ cha đã không quản ngại hy sinh những thứ ngon ngọt của đời mình để cho con được hưởng trọn vẹn tình thương, được ấm no hạnh phúc.  Con được ấm no mạnh khỏe vui chơi là cha mẹ thấy đời hạnh phúc, thêm nguồn hy vọng.  Cha mẹ đã cho con bao kỷ niệm êm đềm, ngọt bùi tươi mát.  Cha mẹ đã lắm lần tan nát ruột gan khi con trái gió trở trời, biếng ăn mất ngủ khóc la dẫy dụa hoặc con không vâng lời cha mẹ biếng nhác học hành, ham mê theo bạn bè lêu lổng chơi bời hút sách.  Lòng cha mẹ lúc nào cũng nghĩ đến con, thương con, tha thứ cho con, lo tìm hết cách để xây dựng tương lai cho con. Cha mẹ lúc nào cũng đặt hết hy vọng nơi con một ngày kia khôn lớn thành danh sự nghiệp ở đời.  Vì thương lo cho con mà nhiều lúc cha mẹ quên chính bản thân mình.  Thế nên, những ai là người con hiền thảo thì lúc nào cũng nên để tâm thương nhớ mẹ cha, nhất là vào mùa Vu-Lan.

Mùa Vu-Lan báo hiếu mà không được gần cha mẹ thì lòng con thảo cháu hiền thương nhớ vô cùng, cảm thấy thiếu thốn bất an.  Vô phước cha mẹ qua đời, mùa Vu-Lan về khiến cho lòng con càng thêm ngậm ngùi nuối tiếc nhớ thương, hướng vọng đến đất mẹ quê hương để dòng nước mắt âm thầm tuôn chảy cho vơi đi nỗi nhớ niềm thương:

Mẹ cha ở lại quê nhà

Tai trời ách nước con ra xứ người

Tháng năm đành đoạn đầy vơi

Vu-Lan thắng hội bùi ngùi nhớ thương

Chư Tăng tự tứ mười phương

Thành tâm con nguyện cúng dường mẹ cha

Bình an trong cõi Ta-bà

Lâm chung nhờ Phật thoát ra luân hồi

Thân nầy nguyện xẻ làm đôi

Nửa phần cha mẹ, nửa ngôi Phật đài.

Người con hiếu thảo thương cha mẹ bao nhiêu thì thương quê hương, thương đạo đức truyền thống bấy nhiêu.  Kinh nói: “Hiếu là pháp chí đạo, hiếu là đầu trong muôn hạnh lành”.  Nên thương cha mẹ như thương đạo.  Nếu chẳng may cha mẹ qua đời, Vu-Lan về, lòng càng cảm thấy ngậm ngùi nuối tiếc hướng vọng đất mẹ quê hương để dòng nước mắt âm thầm chảy cho vơi đi thương nhớ.  Một nhà thơ đã nói lên lòng kính yêu cha mẹ trinh nguyên thuần khiết như lòng yêu quý đạo:

Tôi yêu mẹ già như yêu đạo

Lòng mãi thương hoài suốt tháng năm

Giọt lệ âm thầm rơi kín đáo

Trong như là những ánh trăng rằm

Dù mẹ còn ở đời hay đã khuất bóng, tình thương của mẹ đối với con lúc nào cũng trong sáng như ánh trăng rằm, tươi thắm như hoa hồng, trinh nguyên thanh khiết thơm ngọt như nhụy sen.  Tình mẹ thương con vượt ngoài thời gian và tràn khắp không gian nơi chốn.  Cho dù con có khôn lớn, nhưng đối với mẹ thì lúc nào cũng vẫn thấy con mình còn bé thơ, lúc nào cũng trải tình thương che chở giúp đỡ cho con, như bóng mát cổ thụ, như ánh trăng rằm đêm thu.  Tình mẹ lúc nào cũng che mát bao trùm ngọt dịu và bất diệt.  Bởi thế, nên khi con gặp tai biến hay sống trong hoàn cảnh bất hạnh cô liêu hoặc những chiều hoàng hôn phủ xuống, lòng con cảm thấy bồi hồi nhớ mẹ nhớ quê hương, bất giác kêu mẹ, thì ngay đó hình ảnh mẹ và tình thương của mẹ ảnh hiện nơi lòng con, con cảm thấy tinh thần có nơi nương tựa, lòng cảm nghe an ổn như được nguồn an ủi êm đềm, vơi đi cô liêu trống lạnh:

Giày vẹt gót áo sờn vai thắm lạnh

Mỗi chiều Trường-Sơn núi đồi cô quạnh

Mẹ hiền ơi! Con chợt nhớ quê mình

Con có lớn khôn lập thành gia thất xuất giá tùng phu, hoặc thi hành nghĩa vụ của người trai thời loạn ở chốn rừng sâu núi thẳm hay nơi biên thùy để bảo vệ biên cương, mà lòng thương nhớ cha mẹ ruột thắt từng đoạn, gió núi sương lạnh khi hoàng hôn phủ xuống thì:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Nhớ về quê mẹ ruột đau chín chiều

Hoặc:

Mẹ hỡi mẹ! Chiều nay con buồn lạ

Hình bóng cha và mẹ đã xa rồi

Xa cha mẹ con mất cả bầu trời

Lời an ủi bữa cơm chiều đoàn tụ

Mẹ khuyên nhủ. Ôi! Vô cùng ngọt dịu

Cha dạy răn, cha hiểu được lòng con

Mà giờ đây còn rừng thẳm núi non

Vu-Lan đến, lòng con thương nhớ lạ!

Người con còn cha mẹ, sống gần cha mẹ mà lòng không cảm thấy êm đềm nhẹ vui an ủi, như thế là con không tiếp nhận được suối nguồn tình thương của cha mẹ.  Như thế là người con không có ý thức, quả tim không rung động, bẽ bàng hiếu đạo, thiếu bản chất người hiền.  Kinh Đại-Tập nói: “Người sanh ra đời không gặp Phật mà biết hiếu kính phụng dưỡng cha mẹ tức là phụng sự Phật. Phật nói người có tâm hiếu là có tâm Phật. Người có hạnh hiếu là có hạnh Phật”. Ngược lại thì không khác với cây, đá, súc sanh, ác quỷ, trùng dòi, oan trái.

Bởi cha mẹ tạo cho con thân nầy, đem hết tâm sức tận lực săn sóc nuôi nấng con.  Kinh thi nói: “Vô phụ hà hổ, vô mẫu hà thị”.  Nghĩa là, không cha thì con cậy ai mà được an ổn, không mẹ thì con nhờ ai mà sống để được lớn khôn.  Hỡi những người con!  Xin để một vài phút cho lòng lắng đọng tâm tư, tự suy nghĩ: Khi tiếng khóc chào đời, lúc còn bé thơ, chúng ta nhờ ai mà được ẵm bồng vỗ về êm ấm, để sống còn đến ngày nay?  Khi lớn khôn nhờ ai mà ta được no cơm ấm áo yên tâm học hành?  Rõ ràng có phải hoàn toàn là công ơn cha mẹ không?  Vậy mà nỡ nào bất nhẫn thờ ơ bẽ bàng với cha mẹ?  Lại vọng cầu không tưởng sùng bái thần linh thượng đế đâu đâu không phụng thờ cha mẹ? Lý rõ như ban ngày, sự thật hiển bày trước mắt.  Thế nên, người con thảo cháu hiền phải sáng suốt ý thức, phải tỉnh giác làm tròn bổn phận làm con.  “Người trung hiếu đứng trong trời đất phải có danh gì với núi sông”; phải nằm lòng câu: “Ngàn năm lòng con còn ôm hận, mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền”; phải ghi nhớ “Công cha như núi Thái-Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”; lòng phải biết cảm xúc bâng khuâng “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Nhớ cha mẹ suông thôi nào có đủ!?  Thương cha mẹ bằng lời nói thở than hay khóc kể nào có thực!  Hiếu kính cha mẹ bằng hình thức thiểu não khóc than, để cho đời thầm khen giả tạo nào có trọn đạo hiếu?  Mà nhớ thương cha mẹ phải bằng thực tế tâm tình và nghĩa cử chân thành mới thực sự hiếu kính nhớ thương.  Nghĩa là khi cha mẹ còn sống nên chăm sóc cha mẹ ăn uống thuốc thang, sớm hôm thăm viếng, khuyên cha mẹ phát tâm quy y Tam-Bảo, làm việc phước thiện, tin nhân quả luân hồi nghiệp báo.Một khi cha mẹ qua đời, tùy theo khả năng mình mà đem hết sức hết lòng tụng kinh niệm Phật ăn chay, cố gắng làm lành bồi đức cúng dường Tam-Bảo, trai tăng, ấn tống kinh điển, nguyện đem tất cả công đức lành làm được hồi hướng cầu siêu độ cho cha mẹ.  Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường, mới thực là noi theo gương hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên tôn giả.  Người con phải biết lo đền trả ơn sanh thành dưỡng dục mẹ cha như vậy họa hoằng mới trả được phần nào ân đức sanh thành, bằng không, người con sẽ mang lấy quả báo khổ đau trong vô lượng kiếp về sau.  Nhưng điều báo hiếu có ý nghĩa nhất là người con phải biết tu tâm sửa tánh làm lành, vun bồi phước đức bố thí, cúng dường:

Chữ hiếu đền trả làm sao

Cho tròn bổn phận công lao sanh thành

Làm con phải biết tu hành

Nhất nhơn thành Phật siêu sanh cửu huyền.

Cha mẹ cực khổ tu bổ cho con cái thân thể hình hài, nuôi con khôn lớn mà con vì danh lợi ái tình bè bạn dục lạc sanh tâm vong ân bội nghĩa bỏ bê cha mẹ già yếu hẩm hiu hoặc ngăn cản không cho cha mẹ tu tâm dưỡng tánh hành thiện tạo phước, thì đó là oan gia nghiệp chướng, quỷ sa tăng của cha mẹ chứ không phải là con.  Sư trưởng nhọc công tận tụy dạy dỗ cho ta kiến thức, vun bồi cho ta tinh thần đạo đức nên danh nên phận.  Ơn cha mẹ, ơn sư trưởng là hai trong bốn trọng ơn của người con hiếu thảo, của người Phật tử chơn chánh có tâm thành hướng thiện.  Ơn nặng chưa đền, nghĩa sâu chưa trả thì ba đường ác đạo thật khó thoát qua.  Ân cha mẹ, ân sư trưởng chưa tròn thì luân lý chưa cho phép lương tâm đạo nghĩa hoàn thành nhân cách.  Thế thì làm sao có được phước đức để cầu được đạo quả giải thoát!  Xưa nay những người hoàn thành nhân cách, thành bậc thánh hiền, trước tiên hoàn thành hiếu đạo.

Rằm tháng bảy là ngày mười phương chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật hoan hỷ, vì thấy hàng đệ tử xuất gia đã tròn đầy ba tháng an cư chuyên tâm tinh tấn tu hành giới đức thanh tịnh, ngày trưởng tử Như-Lai tăng trưởng hạ lạp thọ tuế, cũng còn là ngày kỷ niệm Mục-Kiền-Liên tôn giả cứu mẹ là bà Thanh-Đề thoát vòng ngạ quỷ.  Nên rằm tháng bảy Vu-Lan mang ý nghĩa trọng đại, là ngày giải cứu tội khổ cực hình của thân nhân và vạn loại sanh linh.  Do đó có câu: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Trên đời bất cứ vật gì thân yêu quý giá đến đâu, nếu có mất đi còn có cơ hội tìm lại, chứ cha mẹ một khi đã qua đời rồi thì vĩnh viễn không có cơ duyên hội ngộ.

Hôm nay nhân dịp Vu-Lan mỗi người con thảo cháu hiền trầm tư thử tự hỏi lòng mình đã có nghĩa cử nào hoặc lá thư, hoặc gói quà, hoặc cành hoa hoặc lời thương kính dâng tặng cha mẹ chưa?  Nếu không may cha mẹ đã qua đời thì người con đã thành tâm thương nhớ cha mẹ chưa?  Nếu thật tâm thương nhớ cha mẹ thì nên dâng hương cúng dường Tam-Bảo, hoặc làm phước để tỏ lòng báo hiếu mẹ cha, hoặc thiết lễ cúng dường trai tăng, hoặc tụng kinh niệm Phật ăn chay để hồi hướng công đức đến cha mẹ.  Như thế mới thật sự là người con hiếu.  Bằng không có nghĩa cử nào như thế thì thật là người con quá đỗi vô tình vô tâm, tránh sao cha mẹ khỏi âm thầm buồn tủi thân phận vô phước vì đứa con quên gốc quên nguồn!

Ân cha mẹ báo đền chưa?

Sao theo ác đảng, tin bừa thần linh

Làm người phải biết ân tình

Mẹ cha là đấng tạo mình lớn khôn

o          Điều gì mình không ưa thích thì đừng làm cho người

o          Ngọt ngào hơn gắt gỏng

o          Lời ngọt lọt tận xương

o          Lời ngọt dịu dễ xiêu lòng người

o          Lời ngay thẳng thường trái tai, nhưng không hại

 

Vu Lan nhớ đấng sanh thành

Mỗi năm đến rằm tháng bảy, dù những ai đó có đang sống ở nơi xa xăm chân trời gốc biển nào đi nữa, không ai bảo ai, nhưng mọi người con thảo cháu hiền đều cùng chung dòng tâm tưởng cảm thấy lòng mình nao nao se thắt trào dâng nỗi niềm bùi ngùi thương nhớ mẹ cha, nhớ nơi chôn nhau cắt rún, nhớ làng nước, nhớ nơi tiếng khóc chào đời.  Không ai bảo ai, nhưng mọi cõi lòng con thảo cháu hiền đều tự biết mùa thu về, rằm tháng bảy, ngày Vu-Lan báo hiếu đến.

Ngày xưa, khi đức Phật Thích-Ca còn tại thế, cũng trong dịp Vu-Lan tháng bảy này, người đệ tử  của đức Như-Lai là tôn-giả Mục-Kiền-Liên nhờ Ngài chỉ dạy phương pháp cứu độ mẹ, y theo lời dạy tôn giả đã thiết lễ trai tăng cúng dường, nhờ công đức đó mà mẹ là bà Thanh-Đề được thoát khỏi cảnh đói khổ của loài ngạ quỷ trong chốn địa ngục tối tăm, sanh lên cõi trời hưởng phước báu.  Việc làm báo hiếu siêu độ mẹ của Mục-Kiền-Liên tôn-giả đã khai mở một kỷ nguyên hiếu hạnh cho chúng sanh nhân loại từ ngàn xưa đến nay và mãi mãi ngàn sau.

Cha mẹ đã mang nặng đẻ đau, chịu không biết bao điều cực khổ để nuôi dưỡng cho con khôn lớn thành người.  Ngày nay chúng ta đầy đủ năng lực sống ở đời bon chen với xã hội, no cơm ấm áo, tạo lập sự  nghiệp đều nhờ ân đức của cha mẹ.  Nếu làm con mà không biết bổn phận lo báo đền ơn dưỡng dục cù lao của cha mẹ, thì chẳng khác nào như đất đá cỏ cây, như muỗi ruồi, như dòi trùng trong đống phân.  Đối với hạng người bất hiếu nầy, cổ nhân có thơ rằng:

Những người bất hiếu tử

Nhung nhúc sống bằng thừa

Không nghĩ ơn cha mẹ

Khác nào trùng, cây khô…

Cây khô còn có công dụng hữu ích cho đời.  Chứ kẻ bất hiếu chẳng những vô dụng mà còn tác hại cho đời nữa là khác.

Xưa nay biết bao người do lòng hiếu thảo mà tạo nên sự nghiệp danh thơm tiếng tốt ở đời.  Trái lại, những người bất hiếu, vong ơn bội nghĩa, chẳng nghĩ đến ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, thì đó là những kẻ đem tai họa lớn lao cho gia đình làng nước đồng bào nhân loại.  Bởi vì cha mẹ cho con cái thân nầy, trọn đời đem hết tất cả vốn liếng năng lực tâm huyết của cha mẹ đều trọn trao hết cho con.  Từng giờ từng khắc trải suốt tháng năm, cha mẹ tâm tâm niệm niệm lo cho con khôn lớn nên người.  Ơn cha mẹ như trời cao bể cả dường ấy.  Thế mà những người con bất hiếu không nghĩ tưởng thương kính báo đền ân đức cù lao lấy lượng nào đong của song thân thì còn biết thương kính ai nữa?

Kẻ bất hiếu thì sẽ bất trung, bất tín, bất nhơn, bất nghĩa, bất liêm, bất sĩ.  Kẻ vong ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha thì kẻ đó sẽ có thể bội phản với bất cứ ai, sẽ gây điều bất hạnh cho gia đình, quốc gia, xã hội.  Kẻ bất hiếu bội bạc với cha mẹ, đấng trọn đời nuôi dưỡng nâng niu chiều chuộng ẵm bồng chăm sóc cho mình khôn lớn, thì cũng sẽ bội bạc không chung thủy với gia đình vợ con, và rồi cũng sẽ phản thầy, phản bạn, phản nước, phản dân.  Nếu ở trong đoàn thể nào, kẻ đó cũng tìm cách chống đối phân ly, chia rẽ mưu đồ tạo thanh thế để chiếm đoạt địa vị.  Nếu có cơ hội lãnh đạo quốc gia, thì những kẻ nầy cũng sẽ mãi quốc cầu vinh, lập bè kết đảng hãm hại đồng liêu, làm cho nhân dân điêu đứng khốn khổ đọa đày.

Thậm chí kẻ bất hiếu cũng có thể giết hại cha mẹ để mưu đoạt danh vọng quyền thế.  Tất cả tai họa của nhân quần xã hội xưa nay phần nhiều đều bắt nguồn từ sự bất hiếu.  Bởi đã bất hiếu thì sẽ dẫn đến bất nhơn, bất nghĩa, bất trung, bất tín.  Kẻ mà không có lòng hiếu thảo với mẹ cha là kẻ không có lương tâm, nhân tình đã khô cạn trong tim óc, họ có thể làm bất cứ tội ác gì để thỏa mãn lòng tham độc ích kỷ.  Kinh Nhẫn Nhục nói: “Thiện chi cực mạc đại ư hiếu, ác chi cực bất hiếu giả”.  Nghĩa là việc thiện lớn nhất không gì bằng hiếu kính.  Việc ác lớn nhất không gì bằng bất hiếu.  Trái với bất hiếu là tình thương đồng bào nhơn loại, ái quốc tận trung, tu hành thành đạo chứng quả đều bắt nguồn từ lòng hiếu kính.  Lòng hiếu kính quan trọng như vậy.  Thế nên, hiếu kính cha mẹ tức là phụng thờ chư Phật.  Kinh Đại-Tập nói: “Thế nhược vô Phật thiện sư  phụ mẫu. Sự phụ mẫu tức thị sự Phật”.  Nghĩa là nếu sanh ra đời không gặp Phật để phụng thờ, mà biết kính thờ phụng dưỡng cha mẹ tức là phụng thờ Phật.

Người sống trên đời đều từ cha mẹ mà ra, nhờ cha mẹ mà được no cơm ấm áo lớn khôn thành người.  Nếu không có cha mẹ thì không có ta.  Nếu sanh ra đời mà không được cha mẹ nuôi dưỡng thì ta không khôn lớn thành người.  Vậy thì đủ rõ nhờ đâu mà ta có được thân nầy để ngày nay nên danh nên phận?  Bởi thế cho nên có thơ rằng:

Người tai mắt ở trong trời đất

Ai là không cha mẹ sanh thành

Gương treo đất nghĩa trời sanh

Ở sao cho xứng chút tình làm con.

Thế mà có những đứa con khi khôn lớn được cha mẹ nuôi nấng khích lệ dạy dỗ học hành đỗ đạt nên danh nên phận rồi lại bội quên ơn cha mẹ!  Thậm chí họ còn nhẫn tâm chê mắng cha mẹ là lạc hậu, quê mùa, dốt nát, không văn minh… Lắm lúc họ còn lấy làm hổ thẹn không dám nhìn hình vóc mộc mạc của cha mẹ họ trước bạn bè.  Họ trọng vợ, kính bạn, thương con hơn là cha mẹ.  Kẻ mất gốc vong ơn như vậy, chắc thầy Tử-Lộ, tôn-giả Mục-Kiền-Liên, đức Phật Thích-Ca đã âm thầm xót xa rơi lệ cho những kẻ bất hiếu nghĩa đó, để rồi sẽ phải nhận lấy quả khổ kiếp sau.  Đạo hiếu một khi bị xem thường phủ nhận thì phải biết người đó đã mất gốc vong bản đi rồi.  Mọi người không trọng đạo hiếu thì nhân loại sẽ nghe tiếng than thở khóc thầm của những bậc cha mẹ khắp trần gian.  Gia đình nhân loại sẽ theo đó mà tan hoang giềng mối.  Xã hội quốc gia cũng sẽ theo đó mà thêm nhiều rắc rối bất an.  Tộc ác chúng sanh càng thêm chất chồng.

Bởi cha mẹ sanh con ra, nuôi con lớn, chạy ngược chạy xuôi tìm tiền bạc cơm áo để cho con được an tâm ăn học, chỉ mong sao đứa con của mình nên người hiền lương, đừng làm những điều thương luân bại lý, như thế là cha mẹ được thỏa dạ vui mừng. Trái lại, đứa con quên ơn mang nặng đẻ đau, chẳng nghĩ đến sự lao khổ của cha mẹ sanh thành dưỡng dục, thì những người con đó sẽ dễ dàng đưa đến sự bội phản thầy bạn, chỉ biết tranh danh đoạt lợi, làm tổn thương danh dự đoàn thể, quốc gia xã hội, đó là những đứa con làm tổn thương đến gia phong dòng tộc.  Họ quên hết tất cả chỉ biết thỏa mãn tham vọng.  Ấy là những đứa con đại bất hiếu.  Kinh Thi nói: “Vô phụ hà hổ, vô mẫu hà thị”.  Nghĩa là, không cha cậy ai khôn lớn, không mẹ nhờ ai no cơm ấm áo nên người.  Ngày nay khôn lớn có chút học hành kiến thức ở đời, đua đòi danh vọng, chụp bắt hão huyền văn minh, mà lại quên đi nguồn gốc ân nghĩa sanh thành!

Hành vi bất hiếu không chỉ hạn cuộc ở việc không phụng dưỡng cha mẹ, mà nó còn bao gồm cả những hành động và tâm niệm của những đứa con không vâng lời cha mẹ khuyên những điều hay lẽ phải, không giúp đỡ cha mẹ những việc lành thiện, tất cả những điều nầy cũng thuộc về loại bất hiếu.  Chẳng hạn như cha mẹ muốn giúp đỡ người nghèo khó, muốn đi chùa lễ Phật tụng kinh nghe thuyết pháp để tu tâm dưỡng tánh, để gặp bạn lành đàm đạo cho tinh thần được thoải mái an vui khi tuổi đã xế bóng; hoặc cha mẹ muốn ăn chay, phát tâm cúng dường Tam-Bảo để tạo phước đức, muốn in kinh ấn tống, muốn giúp đỡ những bậc chân tu hộ trì Tam-Bảo v.v… những đứa con miệng nói thương mẹ cha mà hành vi chẳng những không khuyến khích giúp đỡ cha mẹ thực hiện tâm nguyện lành thiện đó, trái lại còn rắp tâm ngăn cản việc làm phước thiện của cha mẹ, đó là những đứa con đại bất hiếu, muốn tiêu diệt hạt giống lành của cha mẹ, phá hủy đạo đức gia phong.

Vì sao?  Bởi vì khi con cái còn bé thơ, cha mẹ đã phải dùng hết thời gian xuôi ngược đầu tắt mặt tối suốt tháng năm lo cho có tiền bạc cơm áo để nuôi con ăn học nên người khôn lớn.  Vì vậy cha mẹ không còn có thời giờ để làm việc phước thiện.  Lắm lúc vì lo cho con no cơm ấm áo để con yên tâm ăn học mà cha mẹ phải hạ mình chịu nhục luồn cúi van xin người ta.  Lại cũng vì lo cho con đầy đủ khỏi phải hổ thẹn với bạn bè mà cha mẹ đã phải buôn gánh bán bưng, thậm chí có lúc vì con no ấm mà phải đau lòng  dối gạt lừa đoạt tiền bạc của kẻ khác để có tiền nuôi con.  Cha mẹ chấp nhận chịu nhục.  Lắm lúc cha mẹ phải cam lòng làm những điều trái với đạo lý, chỉ vì con!  Nay con khôn lớn thành người, cha mẹ lại đã già yếu, nhưng bao nhiêu tội lỗi khổ nhục cha mẹ đã vì con mà lỡ tạo nên, giờ đây hãy còn chất chồng trên đôi vai gầy còm với mái tóc bạc phơ, trong cõi lòng bất an của cha mẹ!  Tuy tuổi đã xế chiều, sức lực mòn mỏi, nhưng cha mẹ thấy con nên người thì đã thỏa dạ vui mừng.  Còn những tội lỗi mà cha mẹ đã phải cam tâm làm trước kia chỉ vì thương con, thì hãy còn đè nặng nơi lòng.  Có những đêm cha mẹ trằn trọc suy tư  về những điều lầm lỗi đó mà con nào có biết!  Cha mẹ muốn đem quãng đời già nua còn lại để làm chút phước đức, hầu chuộc những lỗi lầm xưa, để cho thân tâm được an ổn, để cho linh hồn được thảnh thơi khi nhắm mắt trút hơi thở rời bỏ cõi đời, và cũng mong để lại cho con cháu được nhờ chút phước đức tu bồi muộn màng nầy mà hưởng phước, thì con cháu lại vô tình chống đối hủy báng, cản ngăn!  Cha mẹ cúng chùa, làm phước thì con cháu cản ngăn không cho đi chùa lễ Phật nghe pháp, viện lý do nầy nọ, còn cho đó là mê tín; ngăn cản không cho cha mẹ ăn chay, viện lẽ ăn như vậy là kém sức khỏe; ngăn cản không cho cha mẹ làm việc bố thí giúp đỡ người nghèo khó, cúng dường Tam-Bảo, cho rằng đó là làm việc lãng phí đâu đâu.  Những đứa con như vậy đã làm cho cha mẹ âm thầm xót xa u sầu ở cái tuổi xế chiều phải ngậm đắng nuốt cay buồn khổ, không dám thố lộ cùng ai, sợ người chê cười nhà có con bất hiếu.  Chẳng còn cách nào hơn, cha mẹ đành phải âm thầm dấu lén con, làm việc phước thiện tu tâm dưỡng tánh.  Than ôi!  Thảm trạng nầy phơi bày nhan nhản hằng ngày, gây nên ngút ngàn nỗi thương tâm những bậc sanh thành, làm đau lòng không biết bao bậc cha mẹ đã trót hy sinh suốt trọn quãng đời xuân trẻ cho con:

Mẹ cho con tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh…

Ngoài những đứa con học Tây, học Mỹ có bằng cấp kỹ sư, bác sĩ, bác vật v.v… bằng cấp to bự chất đầy nhà mà bội bạc cha mẹ ra, lại còn có những kẻ vì cuồng tín lý thuyết chủ nghĩa ác đảng hoặc thần linh thượng đế, vì tham danh đắm lợi đam mê tình dục mà tạo nên bao đổ vỡ tình gia đình, tình huynh đệ, làm tan rã tình đoàn thể, gây tổn thương đến niềm tin tôn giáo truyền thống ngàn đời của tổ tiên dân tộc.  Lại có những đứa con vì tham vọng đuổi bắt danh lợi ái tình mà đành nhẫn tâm bỏ đạo truyền thống ông cha mình để theo đạo khác, làm cho cha mẹ tủi nhục, uất hận đau lòng, nước mắt âm thầm tuôn chảy, nghẹn ngào không thốt nên lời!  Những hiện trạng đau lòng nầy phần lớn đều bắt nguồn từ sự bất hiếu, vong ơn bội nghĩa cha mẹ mà ra.

Những hạng người nầy dù có gian xảo khéo léo đến đâu với ý đồ chụp giựt danh tình lợi dưỡng, cho dù trước mặt mọi người giả vờ tỏ ra kính cha hiếu mẹ, thương thầy quý bạn, giả trang biểu diễn gì đi nữa, thì cũng không giấu được nổi lòng dạ man trá, vải thưa che sao được mắt thánh?  Bởi cha mẹ nào có muốn thấy đứa con của mình không giống ai như vậy đâu? Bởi không ai biết con bằng cha mẹ biết con?!

Vậy phải làm thế nào để thể hiện lòng hiếu kính của người con hiền thảo?  Theo quan niệm thông thường, ngoài việc vâng lời cha mẹ thì phải ý thức bổn phận khi trẻ lo học hành tránh bạn ác, lớn lên lo lập nghiệp với tâm thiện lành sớm hôm an ủi săn sóc cha mẹ ra, còn phải chính mình săn sóc an ủi khi cha mẹ bịnh hoạn ốm đau.  Ngoài ra, đối với bà con bạn bè làng nước phải biết kính nhường hòa thuận, ăn ở biết điều lành lẽ phải, để được tiếng khen, để cha mẹ vui lòng trong những ngày xế bóng yếu già.  Không thể một mặt săn sóc cha mẹ bằng vật chất, lợi dụng săn sóc bắt ép cha mẹ bỏ ăn chay, mặt khác lại ngăn cản cha mẹ về tinh thần, tức là cản ngăn cha mẹ đi chùa, cúng dường, bố thí, làm thiện, trái ngược tín ngưỡng thiện tâm của cha mẹ; hoặc trong nhà tỏ ra hiếu thuận cha mẹ, mà ngoài xã hội lại tranh danh đoạt lợi, hãm hại người hiền, đoạt của giựt tiền gian lận, chống đối niềm tin của cha mẹ.  Như thế là những đứa con hiếu thảo gian dối, bất thành, bất tín, bất nghĩa, bất trung.

Báo hiếu theo quan niệm Phật giáo lại càng trọn vẹn hơn.  Ngoài sự báo hiếu vật chất thuốc thang cơm no áo ấm săn sóc quạt nồng đắp lạnh thông thường của thế gian ra, người con hiếu thảo của nhà Phật còn báo hiếu cha mẹ về tinh thần.  Nghĩa là khéo khuyên cha mẹ phát tâm làm việc lành thiện, tu tâm dưỡng tánh, quy y Tam-Bảo, học đạo từ bi giác ngộ để tinh thần an định thảnh thơi khi còn sống và được an vui giải thoát khi từ bỏ cõi đời nầy.  Nếu cha mẹ đam mê cờ bạc, đắm chìm mê tín dị đoan, sanh tật nói gàn làm bướng cố chấp, không tin nhân quả luân hồi, hủy báng Phật pháp, khinh thường đạo đức thánh hiền thì bổn phận làm con phải hết sức ẩn nhẫn để tìm cách khẩn khoản khuyên can cha mẹ cải tà quy chánh, tu tâm dưỡng tánh, phát tâm làm lành.  Nếu thấy mình khuyên không có hiệu quả, nên khéo léo kín đáo nhờ người có uy tín khuyên hộ, để cha mẹ hồi tâm hướng thiện, kết duyên lành với đạo đức, hầu tránh lưới nhân quả nghiệp báo luân hồi, khi cha mẹ tuổi xế chiều khuất bóng.

Đức Phật Thích-Ca, tôn-giả Mục-Kiền-Liên và hàng hàng lớp lớp đệ tử Phật đời nầy nối gót đời khác đều hoàn thành đạo hiếu mới chứng thành đạo quả Niết-Bàn. Nên kinh nói: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu đạo phương thành tựu”.  Nghĩa là cha mẹ thoát khỏi phiền não sanh tử luân hồi thì sự tu hành mới đạt thành đạo quả.

Để hoàn thành hiếu hạnh một cách tròn đầy ý nghĩa, người con hiếu thảo phải bao dung ẩn nhẫn tận tụy phụng hiến cha mẹ cả vật chất lẫn tinh thần.  Mà nhất là phần tinh thần lại cần được lưu tâm hơn.  Bởi không có nỗi khổ nào ray rứt bằng nỗi khổ tinh thần.  Nếu khuyên được cha mẹ chánh tín tu tâm dưỡng tánh làm điều phước thiện thì đã đi trọn hiếu đạo. Gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên tôn-giả còn đó.  Gương hiếu hạnh của ngài Mục-Kiền-Liên là ngọn đèn soi tỏ trong đêm đen của cuộc đời đầy dẫy bão tố ác tâm tham vọng vong ân bội nghĩa.  Những ai muốn hoàn thành bổn phận thiêng liêng của người con hiếu thảo cháu hiền phải hướng lên ngọn đèn chân lý hiếu đạo kia.  Lòng thành chánh tâm hướng lên ngọn đèn hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên dâng trọn khả năng và chánh tín là hoàn thành hiếu hạnh của người con hiền cháu thảo, là noi gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên tôn giả, là làm sống lại mạch nguồn hiếu đạo trong tâm thức mọi người đang sống khắp chân trời góc biển, là Vu-Lan báo hiếu ngời sáng mãi ở thế gian nầy, và cũng là dịp làm cho tiếng thương than của những bậc cha mẹ già đổi thành nụ cười mãn nguyện.  Như thế trần gian nầy sẽ tràn đầy hạnh phúc an lạc.

Hôm nay nhân mùa Vu-Lan báo hiếu, mùa xá tội vong nhân, nơi đây, tôi thành tâm cùng với những người con hiếu cháu hiền khắp mười phương thành kính khẩn nguyền:

Vu-Lan hiếu hạnh ngàn xưa

Tấm lòng con thảo như chưa toại nguyền

Con nay theo gót Mục-Liên

Vu-Lan thắng hội trai diên cúng dường

Khẩn nguyền chư Phật mười phương

Dám xin cha mẹ về nương bóng từ

Hội lành thể hiện chân như

Hoa sen cực lạc cùng chư Thánh Hiền

•           Một hành vi đạo đức chưa đủ thể hiện con người đạo đức

•           Một lời nói hay đẹp chưa đủ chứng minh tấm lòng đẹp

•           Y phục sang trọng không làm lòng người trong sạch cao thượng

Vu Lan Báo Hiếu

Mỗi năm đến rằm tháng bảy, mọi người con thảo cháu hiền không ai bảo ai, tự nhiên cảm thấy lòng mình lâng lâng nỗi niềm bâng khuâng tưởng nhớ đến ông bà cha mẹ.  Đặc biệt là những vùng khí hậu bốn mùa rõ rệt, khi lá thu vàng lác đác nhẹ rơi, lại càng khơi dậy lòng người cái cảnh sanh ly tử biệt, nỗi nhớ niềm thương.  Lòng người con thảo cháu hiền lại càng nao nao da diết hơn bao giờ hết.  Nhất là hình ảnh chư tăng cầu nguyện, khói hương quyện tỏa, khung cảnh trang nghiêm của mùa Vu-Lan báo hiếu lại sống dậy nơi lòng:

Mỗi độ thu sang rằm tháng bảy

Hồn con nương tựa bóng từ bi

Trầm hương quyện tỏa kinh cầu nguyện

Cửu huyền phụ mẫu đắc thoát ly

Vu-Lan phiên âm từ tiếng Phạn là Ullambana, người Trung-Hoa dịch là giải-đảo-huyền, có nghĩa là giải cứu tội khổ treo ngược.  Ý nói tội nhân đọa trong ba đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh bị nghiệp lực hành hạ khổ đau như người bị treo ngược được giải cứu.

Vu-Lan nói cho đủ là Vu-Lan-Bồn.  Bồn là dụng cụ đựng đồ như cái thau.  Ngày xưa chưa có thau bằng nhôm, người ta dùng bồn bằng sành để đựng các phẩm vật.  Vu-Lan-Bồn là cái bồn để đựng phẩm vật dâng cúng dường chư Tăng trong lễ trai tăng để cầu nguyện cho cha mẹ ông bà thân thuộc quá cố nhờ công đức đó mà được giải thoát khổ đau trong ba đường ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, hoặc cầu phước cho cha mẹ hiện tiền được tăng trưởng phước thọ.

Lễ Vu-Lan-Bồn được dẫn từ tích truyện ngài Mục-Kiền-Liên tôn-giả cứu độ mẹ là bà Thanh-Đề.  Chuyện nầy được Phật thuyết giảng trong kinh Vu-Lan-Bồn.  Kinh dạy rằng: Tôn-giả Mục-Kiền-Liên sau khi tu hành chứng quả A-la-hán, dùng thiên nhãn quán xem cha mẹ hiện ở phương nào để đến thăm.  Không ngờ thấy mẹ đang đọa trong loài ngạ quỷ đói khát thiêu đốt khổ sở, Mục-Kiền-Liên xúc động rơi lệ:

Đôi mắt long lanh lệ ướt đầm

Khóc tìm từ mẫu cõi xa xăm

Lỗi niềm nuôi dưỡng bao năm tháng

Phụ đức sanh thành biết mấy năm

Tấc dạ báo đền ân nghĩa nặng

Tấm lòng mong nguyện thiếu tình thâm

Vì chăng Phật dạy Vu-Lan hội

Luống để cho ai những khóc thầm

Thấy mẹ đói khát như vậy, Mục-Kiền-Liên liền vận dụng thần thông bưng cơm đến dâng mẹ.  Bà Thanh-Đề đói khát lâu ngày, vừa thấy bát cơm của người con hiếu Mục-Kiền-Liên, lòng tham bỏn xẻn chổi dậy sợ các quỷ khác đến giành giựt xin ăn, nên cơm vừa để vào miệng thì nghiệp lực tham sân bỏn xẻn hóa cơm thành lửa phừng cháy cả mặt miệng bà.  Tình trạng đau lòng nầy khiến thi nhân xúc cảm thơ rằng:

Đây bát cơm đầy nặng ước mong

Mẹ ơi! Đây ngọc với đây lòng

Đây còn tình nặng trong tha thiết

Ân nghĩa sanh thành chưa trả xong.

Chứng kiến cảnh đau lòng không thể tả, quá xúc động, tôn-giả Mục-Kiền-Liên bật khóc thảm thiết, liền vội vã trở về tinh-xá Kỳ-Hoàn bái kiến Phật, đem hết tự sự khổ tâm vừa rồi khẩn bạch lên đức Như-Lai cầu mong Ngài chỉ dạy phương pháp cứu mẹ.

Đức Phật động lòng giảng nói: “Mẹ ông khi còn sống ở đời vì quá tham lam bỏn xẻn, lại không tin sâu Tam-Bảo, khinh thường luật nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, chẳng biết cúng dường bố thí làm phước, xem nhẹ Tăng Ni, khinh khi hủy báng người tu hành, chê bai biếm nhẽ người làm việc lành thiện, hay dèm pha chế nhạo người nhiệt tâm hộ đạo phò trì Tam-Bảo, cười chê người tụng kinh niệm Phật đi chùa công quả nghe thuyết pháp.  Mẹ ông ngày ngày chỉ biết lo gom góp tiền của, cúng bái tà thần ngoại đạo cầu mong sao cho được giàu có nhiều thêm.  Do vậy mà tội lỗi chất chồng như tảng đá núi.  Tuy ông gắng công tu hành ngày nay chứng được đạo quả A-la-hán đầy đủ sáu phép thần thông, nhưng thần lực công đức của một mình ông như một chiếc bè không thể nào chở nổi tảng đá núi tội ác lớn kia, mà phải cần nhiều bè kết lại mới vận tải nổi.  Vậy nhân ngày rằm tháng bảy là ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương hoan hỷ hàng xuất gia trưởng tử Như-Lai đã tròn đầy ba tháng an cư kiết hạ, tinh tấn chuyên tu thân tâm thanh tịnh, công đức cao dày, thêm được tuổi đạo.  Ông nên nhân dịp rằm tháng bảy đó mà đem tất cả của cải mẹ ông đã gom góp để lo sắm sửa trai nghi, rồi thân hành đi khắp nơi tìm thỉnh những bậc chân Tăng giới đức về để dâng cúng dường trai tăng, nhờ đức thanh tịnh với sức nhất tâm chú nguyện của các vị chân tăng ấy thì sẽ chuyển hóa được tâm nghiệp của mẹ ông.  Làm như thế mới mong được toại nguyện báo hiếu cứu mẹ.”

Nghe Phật dạy xong, mừng quá, tôn-giả Mục-Kiền-Liên liền đem hết tâm thành thực hiện như lời Phật dạy, ngay đó, bà Thanh-Đề được thoát kiếp ngạ quỷ, sanh về cõi trời hưởng phước với chồng.  Chồng bà lúc sanh tiền thường làm việc phước thiện, giúp đỡ chư tăng, cúng dường Tam-Bảo, sống đời lành thiện, nên sớm đã sanh về thiên giới. Thi nhân có lời cảm động thơ rằng:

Mẹ hiền về chốn thiên cung

Toại lòng con thảo nguyện cùng thánh tăng

Từ bi công đức vạn năng

Mấy ngàn năm vẫn chưa từng đổi thay

Chư tăng trọn chín mươi ngày

Cát tường bảo tọa giãi bày tâm can

Bao nhiêu nghiệp hải chướng san

Đây ngày tự tứ sạch ngàn ác duyên.

Trong Phật pháp thường gọi rằm tháng bảy là ngày Vu-Lan thắng hội.  Thắng hội có nghĩa là pháp hội thù thắng.  Hội là sự tập họp của chư Phật, Bồ-Tát, chư Tăng, tứ chúng đệ tử của Phật.  Tập họp như chánh pháp, thực hành như chánh pháp.  Thù thắng có nghĩa là tốt đẹp nhứt, phước đức to lớn nhứt, năng lực nhiệm mầu vi diệu tuyệt vời nhứt không có gì trên đời sánh kịp.  Vậy Vu-Lan thắng hội là pháp hội công đức đặc biệt thù thắng có năng lực thần diệu giải cứu tội nhơn được siêu thoát.  Ý nghĩa nầy được thấy từ trong kinh Vu-Lan-Bồn, kinh Báo-Phụ-Mẫu Trọng-Ân và được kết tinh thành dân gian ca dao: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Tại sao con phải có bổn phận hiếu kính cha mẹ?  Phật nói rõ trong kinh Báo-Phụ-Mẫu Trọng-Ân.  Điều nầy khắp thiên hạ đều biết:  Không có cha mẹ thì không có thân thể hình hài của ta.  Cha mẹ ta đã cho ta cái thân thể này:

Có ông bà mới có ta

Ông bà là gốc, mẹ cha là cành

Thân ta như thể lá xanh

Nhờ gốc vun bón, nhờ cành chở che…

Mẹ đã mang nặng đẻ đau, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con chơi.  Cha đã phải ngày ngày vất vả ngược xuôi để kiếm tiền nuôi con.  Từ khi mang con trong thai cho đến ngày tiếng khóc chào đời, lúc nào cha mẹ cũng hồi hộp lo âu không biết con mình có được vuông tròn nguyên vẹn không!  Con vừa ra khỏi lòng mẹ, nghe tiếng khóc đầu tiên của con thì mẹ mới thật mừng hết lớn, quên đi nỗi đau đớn như dao cắt xé thịt banh da.  Lúc đó cha mới mỉm cười nhìn thấy mặt con như trút được gánh nặng lo âu.  Từ khi con cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày khôn lớn, cha mẹ dồn hết tâm lực lo cho con mà quên ăn bỏ ngủ, không đủ thời giờ để tắm gội điểm trang.  Tiếng khóc của con là nỗi lo âu buồn đau của cha mẹ.  Tiếng cười của con là niềm vui gia đình.  Những khi trái gió trở mùa, những lúc mọc răng khát sữa, con nổi chướng dẫy dụa, dặm đạp, khóc la, thì mẹ vẫn một lòng dịu ngọt ru con:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn

Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào.

Tình mẹ đối với con bao la như trời cao bể rộng, như sóng nước rạt rào, như trăng sao đêm tối, như gió thoảng nắng hạ, như tiếng hát lời ca:

Mẹ là cả một trời thương

Mẹ là cả một thiên đường trần gian

Tiếng ru mẹ ấm vô vàn

Nuôi con trong tiếng tơ đàn văn chương

Dài đăng đẳng suốt tháng năm, cha mẹ lo chăm sóc cho con từ ăn, mặc, ngủ, chơi.  Tất cả những gì ngon nhất, vui nhất, tốt đẹp nhất đều dành để cho con.  Đến đỗi vì muốn cho con được nên danh nên phận, mà có lúc cha mẹ phải hy sinh danh dự, giá thể của mình, để hạ mình luồn cúi nài nỉ xin nhờ người ta:

Mẹ cho con tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh

Mẹ là gió mát tinh anh

Là cây tiên dịu, là cành thùy dương

Mẹ là hoa, mẹ là hương

Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu…

Từ khi có con, mẹ cha vì lo tương lai cho con mà phải hy sinh thú vui ngon đẹp trên đời để chăm sóc con.  Gặp lúc gia cảnh khó khăn, cha mẹ phải ngày đêm ngược xuôi chạy lo tìm kế sanh nhai, để cho con mình no ấm.  Hoặc chẳng may gia đình lâm vào túng quẫn, thì cha phải lam lũ vất vả tay chân, mẹ phải buôn gánh bán bưng, một nắng hai sương, chân lấm tay bùn để nuôi con yên tâm ăn học cho bằng chúng bạn, không để con đói rách tủi phận:

Ôi! Chiếc lưng của mẹ

Đã còm bởi thương đau

Ôi! Cuộc đời của mẹ

Trăm năm nối chuyện sầu

Vì con mà mẹ phải lưng còm, tóc bạc da nhăn ốm gầy.  Khi con lớn khôn, cha mẹ lại lo lập thành gia thất, rồi tiếp tay săn sóc nuôi bồng cháu chắt.  Dù con nay đã lớn, đã có vợ chồng con cháu, gia nghiệp, danh vọng ở đời, nhưng lòng mẹ bao giờ cũng thương tưởng, cũng để tâm chăm lo nghĩ nhớ con như thuở còn thơ ấu.  Cho dù con không thương thích mẹ, hay chống báng không vâng lời mẹ dạy cha khuyên, hoặc nay có danh vị giàu sang quyền quý mà khinh chê mẹ quê mùa lỗi thời lạc hậu xấu xí mà xa lánh mẹ, thì mẹ chỉ còn biết âm thầm buồn tủi, nhưng vẫn một lòng canh cánh thương con, tâm tư của mẹ không lúc nào rời con, cho đến hơi thở cuối cùng, để rồi mang tình thương trong trắng đó về bên kia thế giới:

Nuôi con trong lúc dỗi hờn

Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào

Một đời vốn liếng mẹ trao

Mẹ cho tất cả mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi

Cha mẹ thương con, nuôi con và hy sinh trọn đời cho con.  Lắm lúc vì con mà cha mẹ quên mình.  Từ khi con còn nằm trong thai mẹ, sanh ra nuôi nấng lớn khôn học hành, cho đến ngày dựng vợ gả chồng lập thành gia thất, và có sự nghiệp danh phận trong xã hội, lúc nào cũng được tình thương và bàn tay dịu hiền nâng niu chăm sóc giúp đỡ của mẹ.  Ân đức sanh thành nuôi dưỡng của cha mẹ như trời cao biển rộng, không bút mực nào viết cho hết, không lời nào diễn tả cho cùng:

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công ơn cha mẹ như trời biển, bổn phận làm con phải như thế nào để đền đáp đây?  Chúng ta đều biết không có cha mẹ thì không có thân ta.  Nếu không có tình thương nuôi dưỡng của cha mẹ, thì ta không thể sống còn và khôn lớn đến ngày nay.  Bao nhiêu ngọt bùi cha mẹ đều nhường cho con.  Tất cả tình thương ngọt bùi mẹ đều trao trọn cho con.  Bao nhiêu đắng cay cha mẹ đều nhận lấy, miễn sao con mình mạnh khỏe vui vẻ ăn học là cha mẹ mừng.  Thế nên con còn cha mẹ là trọn hưởng bầu trời ấm cúng thương yêu vỗ về sung sướng:

Sung sướng nhỉ những người còn mẹ

Còn mẹ là còn cả đất trời

Đau đớn nhỉ những người mất mẹ

Mất mẹ là mất hết em ơi!

Vậy trước nhất con phải hết lòng giúp đỡ chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ cơm áo thuốc thang và nhu cầu vật dụng đừng để cha mẹ thiếu thốn. Thường nên sớm hôm thăm viếng an ủi khi cha mẹ tuổi già sức yếu bịnh hoạn, đừng hờ hững, quên mà tội nghiệp hai đấng sanh thành.  Điều đặc biệt là nên khuyên cha mẹ phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả luân hồi, nghiệp báo, làm việc phước thiện để tu bồi phước đức, tâm thức cha mẹ nhờ đó mà được an lành.  Thân nầy quan trọng, nhưng rồi một ngày kia cũng phải chôn vào lòng đất lạnh hoặc thiêu thành tro bụi.  Thân tứ đại giả hợp trước sau gì rồi cũng trả về cát bụi.  Phần tinh thần tâm linh mới thật sự là quan trọng hiện đời và cho đời tương lai kiếp sau.

Người sống ở đời mà không có niềm tin thì tinh thần không nơi nương tựa, tâm thức trở nên trống rỗng bơ vơ, như thuyền lênh đênh trên biển cả không bến bờ để đậu, không cảng khấu để về cập bến.  Như thế thì tâm linh lạc lõng long đong mãi mãi chìm sâu trong đêm dài tăm tối.  Cho nên, người con thật sự hiếu thảo đạo đức sống có ý thức, thì ngoài việc phụng dưỡng vật chất cho cha mẹ ra, còn phải báo đền ân cha mẹ bằng tinh thần, mà phần nầy thật rất quan trọng và cần thiết cho đời sống hiện tại và tương lai, ấy là khéo khuyên cha mẹ tin Phật pháp, làm việc phước thiện, tu tâm dưỡng tánh.

Khi bà Kiều-Đàm di mẫu của Phật là Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề ba lần xin được xuất gia, nhưng đức Phật đều từ chối.  Bà thất vọng than khóc cho thân phận mình thiếu phước bạc duyên không được Phật nhận cho xuất gia!  Tôn-giả A-Nan thấy vậy động lòng vào bạch Phật.  Đức Phật nói: “Đạo pháp của ta nếu trao cho nữ giới hoằng truyền thời gian không quá 500 năm sẽ suy tàn”.  A-Nan nghe thế mới thiết tha kể lể với Phật: “Bạch đức Thế-Tôn!  Khi Ngài vừa sanh ra bảy ngày, thì Hoàng-hậu nhờ phước báu sanh lên cõi trời, di mẫu là người lo săn sóc nuôi Ngài lớn khôn.  Nay Ngài tu thành Phật, tưởng cũng nên nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng đó mà phương tiện cho di mẫu Kiều-Đàm xuất gia tu hành”.  Đức Phật đáp: “Ta đã khuyên giảng cho di mẫu hiểu biết Phật pháp, phát tâm quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả, luân hồi, tội phước, nghiệp báo, đó là cách báo đền ân đức nuôi dưỡng bền chắc cao cả nhất.  Di mẫu đâu thiếu vật chất, còn tinh thần thì ta đã trao cho đầy đủ rồi!  Ta rất kính quý di mẫu, nhưng đạo pháp trao cho nữ nhơn lãnh đạo thì sau 500 năm sẽ suy tàn, trừ phi chịu nghiêm chỉnh thọ trì giới luật và thực hành pháp Bát-Kính-Giới”.  Di mẫu Kiều-Đàm thành tâm phát nguyện hoan hỷ nhận lãnh nghiêm chỉnh thọ trì tất cả giới pháp mà đức Phật nêu ra, nên được Phật chấp thuận cho xuất gia và trở thành Tỳ-kheo-ni đầu tiên của phái nữ.

Như thế đủ thấy báo đền ân nghĩa sanh thành dưỡng dục về phần tinh thần quan trọng biết là dường nào.  Đạo Phật đặc biệt chú trọng về hiếu kính cả vật chất như cơm áo thuốc thang quạt nồng đắp lạnh và báo hiếu về phần tinh thần là khéo khuyên cha mẹ tu tâm dưỡng tánh hành thiện tin Phật pháp.  Nếu chỉ báo hiếu bằng vật chất không thôi thì vẫn còn là phiến diện chưa đủ, không khéo lại chỉ tạo thêm tội lỗi mà thôi.  Như sách Trung-Hoa Ngoại-Truyện có câu chuyện báo hiếu thương tâm như sau: “Vào thời nhà Lương có cậu Lý-Phước-Tài nhà nghèo, ngày ngày phải chăn trâu mướn cho ông phú hộ Đỗ-Trường-Thạnh.  Cậu Tài tánh tình hiền hậu nhanh nhẹn vui vẻ lại thông minh.  Cô gái út của ông phú hộ được cưng chìu nên ít thích chịu học hành, ngày ngày thường lén ông bà phú hộ để đến chuyện trò chơi giỡn với cậu Tài.  Nhờ vậy, cậu Tài mượn được sách của cô Út và sách cũ của các người anh cô đã học thi đỗ đạt làm quan.  Với trí thông minh, với tinh thần hiếu học, ngày chăn trâu ngoài đồng tay không rời sách, tối lùa trâu về chuồng ăn cơm nguội canh thừa của chủ để lót dạ, lòng tự xót xa cho thân phận nghèo mình, với ước mong ngày kia có tiền nuôi dưỡng cha mẹ được sung sướng đầy đủ như ông bà phú hộ.  Ý nghĩ đó nung nấu trong lòng cậu bé nghèo Lý-Phước-Tài, nên ngày đêm cậu âm thầm ra sức gắng công tự học sách.  Chẳng bao lâu cậu làu thông sách sử thi đỗ trạng nguyên, được triều đình trọng dụng làm quan tể tướng.  Cậu bé Lý-Phước-Tài trước đây ở mướn chăn trâu, bây giờ đường đường là một tể tướng.  Quan tể tướng hết lòng hiếu kính mẹ cha, cung dưỡng tất cả những món ngon vật lạ, cao lương mỹ vị không thiếu thức gì.  Giờ đây cha mẹ quan tể tướng ra vào có kẻ hầu người hạ.  Thói thường “nhàn cư bất thiện, dục lạc biến tâm”.  Chẳng bao lâu, cha mẹ quan tể tướng đắm say hút sách, rượu chè say sưa, cờ bạc đêm ngày, lại còn ỷ quyền thế con mình nên đâm ra hống hách sinh ra lắm chuyện.  Tiếng dị nghị đến tai, nhưng quan tể tướng vẫn lờ đi, vì nghĩ rằng cha mẹ đã trải qua hơn nửa đời người thiếu thốn cực khổ bây giờ được hưởng vui thú thì cũng chẳng có sao và mình cũng đã báo hiếu.  Chẳng bao lâu hai ông bà cụ qua đời.  Quan tể tướng nhớ thương tiếc nuối cha mẹ, hạ lệnh giết heo, bò, dê, gà lo ma chay, rượu thịt linh đình, cúng tế đãi đằng đồng liêu, lòng tự mãn là mình đã báo hiếu mẹ cha thật là trọng thể đầy đủ lễ nghi.  Quan tể tướng được tiếng khen là đứa con chí hiếu và triều đình ban khen “hiếu tử khả phong”.

Một ngày nọ, Tế-Điên Hòa-Thượng được vua Lương-Võ-Đế mời vào cung thuyết pháp.  Ngồi trên pháp tòa, hướng về nhà vua, Hòa-Thượng nói: “Trong triều của Hoàng-Thượng có một kẻ bất hiếu nhất thiên hạ!  Nghe nói thế tất cả đều giựt mình kinh ngạc.  Nhà vua bạch hỏi, thì Tế-Điên Hòa-Thượng chỉ thẳng vào quan tể tướng Lý-Phước-Tài nói: “Chính người nầy đã giam cha nơi địa ngục, đày mẹ trong loài súc sanh!”  Nghe thế, mọi người vô cùng quái lạ, vì quan tể tướng xưa nay được tiếng khen là người con chí hiếu đáng làm gương mẫu đồng liêu và thiên hạ, chẳng kém gì Tử-Lộ, đồ đệ của Khổng-Tử ngày xưa.  Lúc bấy giờ quan tể tướng thất sắc mất hồn sụp lạy xin Hòa-Thượng thương tình giải rõ.  Sau khi tể tướng nghe Hòa-Thương giải rõ nguồn cơn, liền cầu Tế-Điên Hòa-Thượng chỉ dạy phương cách cứu độ cha mẹ.  Hòa-Thượng nói ngắn một lời: “Y theo cách làm của tôn-giả Mục-Kiền-Liên!”

Ngay ngày hôm sau quan tể tướng sai các quan thuộc hạ đi tìm thỉnh các bậc cao tăng bốn phương về dinh để thiết đàn chay cúng dường trai tăng siêu độ.  Nhưng hai tháng trôi qua chẳng thấy bóng cao tăng nào đến dinh tể tướng.  Lấy làm lạ, nên quan tể tướng lại đến cầu hỏi Tế-Điên Hòa-Thượng thì được chỉ giáo: “Ông đích thân cầu thỉnh chưa chắc các Ngài có hứa khả đến không, huống hồ là nhờ thuộc hạ!  Các bậc cao tăng chân đức lánh xa quyền thế.  Học rộng hiểu nhiều, quan to chức lớn như ông mà không biết người chân tu thường hay xa lánh chốn hồng trần phồn hoa đô hội quan quyền hay sao?”

Như tỉnh ngộ, sau đó quan tể tướng đích thân đi thỉnh cầu chư tôn đức cao Tăng, và hoàn thành lễ trai tăng siêu độ.  “Tế-Điên Hòa-Thượng đẹp dạ cười khen: “Hiếu tử lưu phương!  Giờ đây cha mẹ ông đã được siêu thoát cảnh khổ, sẽ đầu sanh làm người trong hoàn cảnh tốt”.

Qua câu chuyện trên đủ biết, kính thương báo hiếu cha mẹ mà chỉ lo phần vật chất không thôi, thì quả thật chưa đủ ý nghĩa báo đền công ơn sanh thành dưỡng dục, chưa thật sự hết lòng thương cha mẹ.  Điều quan trọng là phải hết lòng khuyến hóa cha mẹ biết tu tâm dưỡng tánh, hỷ xả làm lành, bố thí cúng dường, quy y Tam-Bảo, tin sâu nhân quả nghiệp báo luân hồi, đó mới thật là vẹn toàn báo hiếu.

Cha mẹ lỡ làm những điều không lành thiện, tin theo những việc bất chánh, cúng bái tà đạo thần linh, mê tín dị đoan, kết thân bạn ác, đam mê cờ bạc nhậu nhẹt rượu chè, thì bổn phận làm con phải khuyên can, khéo tìm lời ngọt dịu khuyến hóa để đưa cha mẹ hồi tâm hướng thiện chánh tín Phật Pháp, đó mới thật là báo hiếu, mới đích thực cứu độ tinh thần cha mẹ.  Không phải cứ kính chiều theo ý muốn cha mẹ làm những điều bất chánh tổn đức là báo hiếu.  Còn khuyến hóa cha mẹ tu theo chánh đạo tu bồi phước đức, việc nầy có thể làm buồn lòng ông bà cha mẹ không vui, nhưng không phải là bất hiếu.  Cha mẹ cũng còn là phàm phu, tham sân si phủ dày tâm thức, lắm lúc cũng mê muội lầm lỗi.  Thế nên người con hiếu thảo khôn ngoan, theo tinh thần đạo Phật, phải sáng suốt trong việc báo hiếu.

Khi cha mẹ còn hiện tiền thì sớm hôm chăm sóc cung cấp đầy đủ vật chất, khuyên cha mẹ ăn ở hiền lành phát tâm tin Phật Pháp.  Khi cha mẹ qua đời, phải thành tâm dốc hết khả năng lo việc trai tang cầu siêu độ.  Cha mẹ ông bà có siêu thoát thì gia phong con cháu mới có cơ phát đạt.  Cha mẹ qua đời mà cứ khóc than cho thật thảm thiết, mà tiền bạc thì không dám bỏ ra để lo cúng dường trai tăng, bố thí, làm phước thì người chết khó mà được lợi lạc siêu thoát và sự khóc than chẳng giúp ích gì cho cả người chết và kẻ còn sống.  Đã chẳng những không làm phước, mà lại bày biện tiệc tùng rượu thịt đãi đằng rình rang, thì chỉ buộc ràng thêm tội lỗi cho cả đôi bên kẻ chết lẫn người sống mà thôi.  Nếu thật sự thương người chết, thành tâm cứu độ người chết, điều tốt nhất là thỉnh chân Tăng và mời bạn bè thân quyến đến chùa cầu siêu hộ niệm hồi hướng công đức cho hương linh, và nếu cần thì nên đãi chay lạt cho bạn bè, thiết lễ cúng dường trai tăng, như thế hương linh mới được phước đức siêu thăng giải thoát.  Với tâm thành siêu độ như vậy, họa hoằn mới đền trả ân đức sanh thành, mới đáp lại phần nào tình thương mẹ cha:

Mẹ cha là cả trời thương

Là nguồn sống của thiên đường trần gian

Mẹ cha về cõi Niết-Bàn

Lòng con toại nguyện, muôn vàn nhớ thương

Dù còn trẻ hay đã lớn khôn, dù đang trong cảnh hàn vi hay đã có quyền uy danh vọng, dù sống gần hay sống tha hương viễn xứ, sống ở bất cứ trường hợp hoàn cảnh nào, người con cũng không thể quên và không được phép quên ân nghĩa sanh thành dưỡng dục báo hiếu mẹ cha.  Ta hãy nghe người xa quê hương hướng về quê mẹ:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều

***

Mẹ ơi! Thương nhớ là thương nhớ

Nhớ mẹ, nhớ làng nước quê hương

Tình thương cha mẹ rộng lớn bao la như trăng sáng, dịu hiền, êm đềm, bùi ngọt như nải chuối buồng cau, xót xa vui buồn với bao kỷ niệm thấm sâu nơi lòng.  Tình thương đó đã hòa đồng với tình thương quê hương.  Người con khi nghĩ nhớ mẹ cha thì lòng như mở rộng, rạt rào sức sống khắp trong mạch máu buồng tim.  Nhớ mẹ thương mẹ lòng cảm thấy êm đềm:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhân gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời  không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm

Đến như người lính chiến cộng sản bị tuyên truyền lường gạt, chịu bao nỗi đắng cay đoạn trường, thiếu tình thương, bị đối xử nghiệt ngã, sống trong rừng núi, cảm thấy bùi ngùi tủi thân bị đọa đày, đã thổn thức thốt lên tiếng than đang khao khát tình thương mẹ hiền:

Giày vẹt gót, áo sờn vai giá lạnh

Mỗi chiều Trường-Sơn núi đồi cô quạnh

Mẹ hiền ơi!  Con chợt nhớ quê mình

Cho dù sống trên nhung lụa giàu sang mà khô cạn lòng hiếu kính, quên đi lòng nhớ mẹ thương cha, thì có lúc nào đó sẽ cảm thấy bơ vơ không nơi nương tựa.  Người con dù lớn đến đâu, nếu thiếu vắng tình thương của cha mẹ thì chẳng khác nào sống trong sa mạc, thiếu chất liệu gắn bó mát dịu ấm lòng:

Mẹ ơi! Tro bụi về tro bụi

Lầu ngọc bằng đâu một góc vườn

Ai mải mê tìm son phấn giả

Con xin đạm bạc một cành đơn

Màn trời hiếu tử nghe sao ấm

Nệm quí công hầu biết có hơn

Những ai đã mải mê theo đuổi công danh sự nghiệp hoặc đắm chìm trong dục vọng mà quên đi bổn phận hiếu kính báo đền ơn nghĩa mẹ cha, để song thân tuổi già phải chiếc bóng lụm cụm không người đỡ đần săn sóc, thì hãy nghe tiếng gọi tình người:

Đi đâu bỏ mẹ ở nhà

Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng

Đói lòng ăn bát cháo môn

Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung

Người con đến tuổi trưởng thành, ngày mai nầy phải ra đi thi hành nhiệm vụ quốc gia dân tộc, hay lập gia thất theo chồng xa quê, thì đêm nay dắt tay em ra hiên nhà dưới bóng trăng tà mà thủ thỉ thở than gửi gắm bổn phận mình lại cho em để nhờ em thay mình sớm hôm đỡ đần chăm sóc mẹ cha:

Em ơi! Em ở lại nhà

Vườn dâu em hái, mẹ già em thương

Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi muôn dặm trăm đường xót xa

Nếu cha mẹ đã ra người thiên cổ, thì ông bà tiên tổ chúng ta đã có dạy: “Sống có nhà, thác có mồ.”  Nấm mồ là chỗ cuối cùng của kiếp sống, là nơi kỷ niệm nghìn thu của đời người.  Vì vậy con thảo cháu hiền đối với cha mẹ lúc sanh tiền nên lo phụng dưỡng báo hiếu, khi qua đời nên cúng trai tăng siêu độ, xây lăng mộ để phụng thờ:

Công cha ba năm tình thâm cốt nhục

Nghĩa mẹ chín tháng dưỡng dục cưu mang

Biết lấy chi đền nghĩa thâm ân

Chừ đôi lứa mình lên non gánh đá xây lăng phụng thờ.

Đạo hiếu rất là trung hậu trọng đãi như vậy, nên kinh sách thánh hiền nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên.”  Nghĩa là, hiếu đạo đứng đầu trong muôn hạnh.  Dù thông bác kinh sách cổ kim, danh vị tột đỉnh mà thiếu lòng hiếu kính thì đó là tinh quái đội lớp hình người.  Kinh điển thánh hiền cổ kim đều khuyên lấy hiếu nghĩa làm đầu: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên.”  Có nghĩa là, ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu.  Bởi vì:

Người tai mắt ở trong trời đất

Ai mà không cha mẹ sanh thành

Gương treo đất nghĩa trời xanh

Ở sao cho xứng phận mình làm con

Ta có mặt ở đời, ta khôn lớn nên người đều nhờ cha mẹ nuôi dưỡng bao bọc, nên kinh thi nói: “Vô phụ hà hổ, vô mẫu hà thị.”  Nghĩa là, không cha thì cậy ai mà nên người, không mẹ thì nhờ ai mà nuôi nấng để được sống còn đến ngày nay.  Ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ như trời biển, nếu người con chưa trọn báo đền, thì nghìn năm vẫn còn ân hận nơi lòng.  Hãy nghe con thảo cháu hiền bùi ngùi than thở: “Thiên tải tử tâm du bảo hám, mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân”.  Nghìn năm lòng con còn ôm hận, mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền.

Nhà Phật đặt nặng hiếu đạo.  Nên kinh Phạm-Võng Bồ-Tát-Giới nói: “Hiếu là giới, cũng là pháp chí đạo”.  Do vậy mà đức Phật nói trong kinh Nhẫn-Nhục: “Thiện chi cực mạc đại ư hiếu.  Ác chi cực bất hiếu giả”.  Nghĩa là, không có việc lành thiện nào to lớn bằng hiếu.  Không việc ác nào nặng bằng bất hiếu.  Trong kinh Đại-Tập đức Phật còn xác quyết: “Thế nhược vô Phật, thiện sự phụ mẫu; Sự phụ mẫu, tức thị sự Phật”.  Có nghĩa là, sanh ra đời nếu không gặp Phật mà khéo phụng dưỡng cha mẹ là tốt lắm.  Khéo phụng dưỡng cha mẹ là như phụng thờ Phật rồi đó.

Có những người quên công ơn cha mẹ.  Có những ác đảng dạy người phản bội ân nghĩa, làm khổ cha mẹ.  Có những tôn giáo thờ tà thần ác quỷ thần linh thượng đế mê hoặc lòng người, khuyên dạy con người là do thần linh thượng đế tạo ra, cha mẹ cũng là người, nên chỉ kính thờ thần linh thượng đế là đủ. Thật là bất nhân bất nghĩa.  Chúng ta thử nghĩ lại xem, có phải rõ ràng cha mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng cực nhọc, sớm ẵm, tối bồng, nuôi lớn khổ nhọc lo cho ăn học, lập thành gia thất, công lao cha mẹ không biết dường nào kể xiết!  Vậy mà chẳng biết lo báo đền, lại nghe theo lời mê hoặc tà ngụy mà phụ bạc chẳng phụng thờ cha mẹ mà lại phụng thờ thần linh, sùng bái ác đảng, cúng vái quái thần viễn vông không tưởng!

Người chánh kiến đạo đức, dù thế lực áp bức, hoàn cảnh bất an, giàu sang phú quý, danh vọng dụ hoặc, vẫn một lòng chung thủy:

Vai mang đức Phật Di-Đà

Hiếu trung ta giữ, gian tà mặc ai.

Cha mẹ là bậc ân đức thực tế đã khổ cực vì ta, trực tiếp nuôi dưỡng ta, ta đã chịu ơn, mà không thương tưởng, thì thử hỏi ta còn thương tưởng ai được?  Khi sa cơ lỡ vận được người cho bát nước, giúp ít tiền, ta còn biết cúi đầu cảm ơn.  Đằng nầy cha mẹ trọn đời hy sinh cho mình biết bao là công của thì ta lại bảo là thần linh thượng đế nắn tạo, ác đảng bao dưỡng, thử hỏi người có chút lương tâm kiến thức nghe được chăng?  Người không hiếu kính phụng thờ cha mẹ ông bà thì đối với quốc gia dân tộc đồng loại nhất định họ không có lòng thương.  Họ chỉ nương dựa thế lực đồng bào để tạo thanh thế cá nhân, ra sức làm tay sai cho ngoại bang để được giàu sang danh vọng, chứ chẳng có lòng yêu nước thương dân gì!

Chẳng may gia đình xã hội quốc gia mà có hạng người như thế là tai họa cho giòng giống dân tộc đất nước.  Bởi đấy là mầm mống của sự bất ổn hỗn loạn.  Thế nên cổ đức từng dạy: Có hiếu mới có nghĩa, có trung, có tín.  Bất hiếu thì bất nghĩa, bất trung, bất tín bất thành.

Hôm nay gặp lễ Vu-Lan thắng hội, người con thảo cháu hiền, nguyện noi gương đức Mục-Kiền-Liên tôn-giả, thanh tịnh thân tâm, phát huy năng lực, đem hết sức mình để tạo phước đức hồi hướng cho phụ mẫu cửu huyền được siêu thoát:

Hôm nay gặp lễ giải đảo huyền

Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên

Chư tăng tự tứ con cầu nguyện

Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền

 

Chiều thu ngưỡng nguyện

Mùa thu lại về.  Thu về với người tha hương.  Thu về trong tiếng kêu thương nghẹn ngào của người con nước Việt đang hồi vận nước nghiệp dân bất hạnh viễn xứ.  Thu về mặt nước hồ trong, lá vàng lác đác nhẹ rơi.  Người con hiếu thảo chạnh lòng nhớ nghĩ đến mẹ cha.  Tính đến nay, tôi đã trải hơn mười một mùa thu tha hương lá đổ.  Mười một mùa thu Vu-Lan báo hiếu trôi qua, mà tôi vẫn còn mang nặng kiếp ly hương sống nương nhờ trên đất khách, một mình thành tâm âm thầm hướng vọng quê hương khấn nguyện phụ mẫu cửu huyền siêu thăng, ân nhân quá cố, anh hồn tử sĩ vô y nhờ ân thần lực Phật pháp hộ trì được về chân cảnh.

Hơn mười một mùa thu lặng lẽ trôi qua, và sẽ còn tiếp tục trôi qua mãi, mà mười đầu ngón tay của tôi không còn đủ để tính đếm nữa.  Thời gian trôi qua theo từng nhịp tim bóp thắt, tôi cảm nghe trong tôi âm thầm kéo mất đi dần sinh lực trẻ trung cũng như trong mọi người và hiện vật có hiện trạng chuyển dần đến chỗ suy tàn theo thời gian.  Nhớ lại cái ngày tôi xách chiếc va li cũ sờn nhỏ bé ra đi du học xứ người, đầu tóc hãy còn xanh đen, mắt chưa đeo kính, nét trán căng láng chưa nhăn, răng còn trắng cứng, lúc đó, các bậc thầy tôi, Hòa-Thượng Trí-Hữu, Trí-Thủ, Thiện-Hòa, Thiện-Hoa đang còn ở thời tráng kiện, người đã đưa tôi ra tận cổng chùa, vỗ nhẹ vào vai tôi, căn dặn: “Ra đi như lúc về, chiếc áo tràng nhớ mặc mãi trên thân.  Đó là cách đền trả bốn ân.  Đạo pháp sau này trên vai Đức-Niệm đấy.  Con hãy cố gắng giữ vững đạo tâm và chí nguyện cái thuở sơ tâm xuất gia cũng như ngày hôm nay”.  Tôi cúi đầu khẽ đáp: “Dạ bạch thầy!  Con nguyện ghi nhớ mãi nơi lòng”.  Trong lúc đó, nước mắt tự nhiên tuôn trào, vì chưa lần nào xa đại chúng lòng bâng khuâng nghĩ ngợi không biết những ngày sắp tới ra sao!  Vì đây là lần đầu tiên xa cách Thầy bạn và mái chùa thân yêu mà đã suốt gần mười bảy năm tôi sống trong đó.

Trước cổng chùa, sắp bước lên xe từ biệt để lên đường du học, các thầy tôi đã nắm lấy tay tôi xiết mạnh, từ đôi mắt của các Ngài phát ra tia sáng từ hòa trìu mến lạ lùng.  Tôi chắp tay cúi đầu chào các thầy tôi lần chót với giọng nói nghẹn ngào: “Xin quý thầy ở lại, để con tự đi một mình”, rồi bước lên xe.  Xe rồ máy ngập ngừng lăn bánh hướng về phi trường Tân-Sơn-Nhất.  Tôi ngoái đầu nhìn lại phía sau, vẫn còn thấy các thầy tôi vẫy tay tiễn biệt người đệ tử suốt gần hai mươi năm canh cánh bên mình.  Mái chùa Ấn-Quang thân yêu đã che chở tôi từng bao năm tháng, nơi đó ghi đậm biết bao là kỷ niệm từ cái thuở thơ ấu hành điệu đến giờ.  Xe đưa tôi từ từ khuất dần sau hàng cây song song hai bên vệ đường, chen lẫn với nhà cửa phố phường lâu đài cao thấp.

Tôi còn nhớ rõ buổi sáng hôm ấy, buổi sáng mùa thu, sân chùa thanh tịnh, trước giờ ra đi, tôi đã vào lạy từ biệt Đức-Tăng-Thống Thích-Tịnh-Khiết.  Sau ba lạy, tôi im lặng quỳ đợi Ngài dạy bảo.  Ngài ngồi trầm ngâm một hồi lâu, với giọng nhẹ hiền: “Đạo pháp sau này do ông gánh vác mở mang.  Ngày ông về chắc không còn gặp tôi nữa.  Ông nên cố gắng đem hết tâm chí mình dâng trọn cho đạo pháp như cho chính mạng sống ông”.  Tôi cảm động nghẹn ngào nước mắt tuôn trào trầm lặng.  Cái không khí trầm lặng kẻ ở người đi sanh ly thật là buồn, khó mà diễn tả!

Hơn mười một mùa thu đã qua, mà hình ảnh Ngài vẫn sống mãi trong lòng tôi.  Lời dạy của Ngài, lời căn dặn nhắn nhủ của các bậc Thầy tôi, tất cả vẫn còn rạt rào sống dậy nơi tâm khảm.  Tôi còn nhớ những hoàng hôn xuống, những đêm về, tôi quỳ hầu bên cạnh Đức-Tăng-Thống với chiếc quạt tay, tôi quạt hầu, được nghe Ngài kể những giai đọan thăng trầm của đạo pháp, sự thịnh suy của các đời vua chúa thời Lê, Nguyễn, cùng với sự học đạo hộ pháp của các vua chúa, hoàng hậu, và những thay ngôi đổi thứ của cung miếu triều vua.  Có những lúc tôi đi học về trễ, Ngài bảo người thị giả nhớ để dành lại cho tôi những thức ăn xứ Huế của Ngài dùng còn.  Những lúc tôi đi học về trễ, hoặc khi đi giảng dạy nơi xa đôi ba ngày, Ngài thầm ý đợi trông nhắc nhở: “Đức-Niệm đi mô chừ chưa về!” Bao nhiêu tích cũ truyện xưa về cung miếu triều vua, thay ngôi đổi thứ; bao nhiêu cao tăng cư sĩ có công trong việc chấn hưng Phật giáo của thời cận đại mà nay tôi được biết, phần nhiều được nghe Thầy kể lại năm xưa.  Lời Ngài mãi vang vọng trong tâm trí tôi.  Làm sao tôi quên được tình thương ấm cúng ngọt ngào đó!  Tôi quên sao được ân pháp nhũ giáo dưỡng của các bậc ân sư tôn trưởng!  Tôi được an thân lập mạng trưởng thành trong ánh sáng đạo từ bi và ngày nay ra hành trì Phật sự đều nhờ ân đức các Ngài.  Tôi mang ân giáo dưỡng sâu nặng và ngày nay tôi đem hết năng lực, nung nấu ý chí hiến trọn đời cho đạo pháp, đi trọn con đường giác ngộ lợi tha.

Ra đi du học những tưởng mang theo hoài bão, sau vài ba năm học nghiệp thành tựu trở lại quê hương phục vụ đạo pháp xứ sở.  Nào ngờ buổi mai mùa thu năm ấy, từ biệt ngôi chùa thân yêu, bái biệt các bậc ân sư và trao lời hứa hẹn với các bạn đồng đạo, mà cho đến hôm nay, ngày về vẫn còn xa xăm vô định.  Thật không ngờ!

Ngày nay Đức-Tăng-Thống, các bậc Thầy tôi hầu hết đã ra người thiên cổ!  Bạn cùng chung lý tưởng, cùng đi con đường giác ngộ giải thoát với tôi năm xưa, sau ngày 30-4-1975 đã vắng bóng dần trên đường chân lý giải thoát.  Giờ đây, nơi quê hương đất mẹ Việt-Nam không còn thấy bóng hình đoàn tăng sinh, nguồn sống của đạo pháp, từ các Phật-Học-Viện.  Nếu có, chỉ còn thưa thớt như chim lạc đàn trong buổi hoàng hôn bão tố, phải chịu cái khổ khủng bố kềm kẹp của loài quỷ đỏ vô thần từ rừng rú tràn về.  Quê hương tôi còn đó.  Biển rộng sông dài còn đó.  Dãy núi Trường-Sơn, nơi nương tựa của khí thiêng sông núi Việt-Nam chứng kiến bao cuộc thăng trầm của dân tộc vẫn còn đó.  Nhưng tiếng chuông chùa hôm sớm ngân vang mang lại lời an ủi dân lành; tiếng ngân nga hòa điệu với lời cầu kinh trầm hùng trong mùa Vu-Lan báo hiếu, nguyện cầu cho hồn thiêng đất nước thanh bình, cho những anh linh hy sinh vì đại nghĩa thì nay bặt lạnh khói trầm hương.  Âm khí lạnh lùng thê lương đang phủ trùm khắp quê hương đất nước tôi.  Khói trầm hương giờ đây không còn đủ sưởi ấm chốn thiền môn, nơi che chở linh hồn dân tộc ngàn đời.

Cây có cội, nước có nguồn.  Làm con phải biết hiếu thảo mẹ cha, ông bà, thầy tổ.  Ta có thân nầy và khôn lớn nên người, muôn phần đều nhờ ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Chín tháng nằm trong thai mẹ cưu mang.  Ba năm bú sữa săn sóc, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.  Có lúc con ấm mình cắn đắn lăn khóc, mẹ cha hồi hộp lo âu trằn trọc suốt đêm, quên ăn mất ngủ, canh cánh bên con chăm sóc, đến nỗi không thì giờ tắm gội uống ăn!  Con mạnh khỏe, cha mẹ mừng vui.  Cha mẹ mừng vui lo buồn theo tiếng cười tiếng khóc khi đau lúc mạnh của con.  Mỗi tiếng khóc của con làm cho cha mẹ mỏi mòn nhăn mặt, tim thắt ruột đau.  Cha mẹ vất vả chạy ăn chạy mặc, âm thầm đè nén che dấu những nỗi lo buồn túng thiếu, trong tâm ruột thắt lòng đau, ngoài mặt lúc nào cha mẹ cũng tỏ ra tươi cười như vô sự, để cho con được an lòng vui dạ lớn khôn.  Suốt bao tháng năm săn sóc cho thân vóc của con được sạch sẽ mạnh khỏe, những mong cho con mình khôn lớn để sắm sửa ăn mặc học hành.  Kịp đến lúc tuổi trưởng thành, cha mẹ lại phải lo phần gia thất dựng vợ gả chồng.  Từ thuở con vừa lọt lòng cho đến khi con thành gia thất, vì thương con, lo cho con mà cha mẹ đã trải bao lần hồi hộp lo âu, quên ăn mất ngủ, nếm đủ đắng cay.

Nay gặp ngày Vu-Lan thắng hội, mùa báo hiếu của những người con thảo cháu hiền, tôi thành tâm mong những người con còn đang dong ruổi bon chen trên vạn nẻo đường trần thế, nên để chút suy tư hồi tâm hướng về cha mẹ quê hương:

Hôm nay gặp lễ giải đảo huyền

Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên

Chư Tăng tự tứ con cầu nguyện

Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền

Xin có lời nhắn gửi đến những người con hiếu,  đừng để cha mẹ than thân tủi phận trong cảnh bị bỏ quên, cô đơn thiếu thốn, vì những kẻ làm con toan tính so đo ích kỷ chỉ biết nghĩ đến mình.  Nếu không có tình thương cha mẹ thì con không thể sống còn lớn khôn.  Con không cha mẹ như cá không có nước.  Con sống trong tình thương cha mẹ, như cá thong dong trong biển hồ nước mát:

Mẹ thương con biển hồ lai láng

Con thương mẹ tính tháng tính ngày

Cha mẹ chỉ mong cho con được mạnh khỏe hạnh phúc trọn đời, chỉ mong được nghe con nói lời hiếu thảo.  Cha mẹ hy sinh cho con, chỉ mong được thấy con ăn ở nhân đức, tạo tiếng khen tốt cho gia phong dòng tộc là cha mẹ mãn nguyện rồi.  Nên khi người con khôn lớn, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng phải có bổn phận nghĩ đến đấng sanh thành dưỡng dục, để mong báo đền ân sâu nghĩa nặng:

Công cha ba năm tình thâm cốt nhục

Nghĩa mẹ chín tháng dưỡng dục cưu mang

Biết lấy chi đền đáp thâm ân

Chừ hai đứa mình lên non gánh đá xuống xây lăng phụng thờ.

Lòng của cha mẹ thương con mênh mông như trời biển, tình của mẹ đối với con mát ngọt dịu hiền như nước suối thần tiên không bút mực nào tả cho cùng xiết:

Lòng mẹ bao la như biển Thái-Bình rạt rào

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào...

Cổ đức xưa đã diễn tả nỗi lòng người con đối với công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ: “Ôi cha ta sanh ta.  Mẹ ta nuôi ta.  Hỡi ôi cha mẹ sanh ta rất là cực nhọc.  Phận làm con muốn báo đền ơn sâu cha mẹ, biết làm sao báo đáp cho trọn bây giờ!”  Thầy Tử-Lộ ngày ngày đội gạo mướn để kiếm tiền nuôi mẹ.  Nhưng tay không lúc nào rời sách, chí không ngừng dùi mài kinh sử.  Kịp đến khi thầy ứng cử khoa kỳ thì quả nhiên công thành danh toại đỗ đạt ra làm quan.  Lúc bấy giờ Tử-Lộ muốn báo đền ơn cha mẹ về vật chất ăn mặc sung mãn sang trọng hơn, thì cha mẹ đã qua đời không còn nữa.  Nên ông xót thương thường than:

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng

Con muốn báo đền ơn cha mẹ, nhưng cha mẹ không còn nữa!

Người không có tâm hiếu kính mẹ cha, đương nhiên trở thành là kẻ phản nghịch, vong ân bội bạc.  Hạng người ấy, nếu có gia đình thì khó được hạnh phúc.  Còn ở xã hội thì khó được người nể vì.  Chẳng may lập bè kết đảng thì chỉ là tổ phá sản quốc gia, làm khốn đốn dân tình, loạn luân xã hội mà thôi.  Vì sao?  Bởi vì cha mẹ là bậc ân nhân gần nhứt, nuôi ta khôn lớn nên người, ân kia cao dầy sánh bằng trời biển mà người con không biết nghĩ tưởng kính thương phụng thờ, thì thử hỏi trên đời nầy còn biết kính thương ai nữa?  Trong nhà không hiếu thuận mẹ cha thì ra ngoài xã hội đừng hòng nương tay bất cứ việc gì.  Đối với cha mẹ mà còn đem đi tố khổ hành hạ thì nhất định dân tộc phải bị chôn xuống hố, xã hội loạn luân và quốc gia lệ thuộc ngoại bang đó là điều chắc chắn rõ ràng.  Kinh Phật dạy: “Hiếu là đầu muôn hạnh lành”.  Hiếu đã là đầu muôn hạnh lành, tức là có hiếu thì có nghĩa, có trung, có tín.  Nếu hiếu kính mà không làm được, thì cho dù nói hay đến đâu, tài giỏi đến mấy đi nữa, đó cũng chỉ là bỏ gốc lấy ngọn, bỏ hình ôm bóng, dong ruổi chụp bắt bóng đêm làm gia sản hạnh phúc cho mình.  Những kẻ khóc mướn, chửi thuê, bồi bút, cúi luồn nô lệ để được lợi dưỡng chức quyền, múa may quay cuồng với cuộc đời mà quên đi tình quê hương, ân cha mẹ, chẳng khác nào tiếng con mọt ăn cột gỗ, chỉ gây thêm đổ vỡ cho ngôi nhà luân lý, tác hại thiện chí của nhân loại mà thôi.  Nên sách thánh hiền có câu: “Làu thông kinh sách ngàn muôn quyển.  Hiếu hạnh làm đầu mới nên người”.

Nhưng báo hiếu bằng cách nào đây cho tròn hiếu nghĩa?  Nghĩ cho cùng không ngoài thực hành hai phương pháp báo hiếu bằng tinh thần và vật chất.

Về phương diện vật chất, người con có bổn phận cung cấp phụng dưỡng cha mẹ cơm no áo ấm thức ăn, giường nệm, hầu hạ thuốc thang khi cha mẹ đau ốm.

Về phương diện tinh thần, người con nên khuyên giải an ủi để cha mẹ được an vui ở cái tuổi xế chiều.  Nhất là nên khuyên cha mẹ quy y Tam-Bảo Phật, Pháp, Tăng, tin sâu nhân quả, luân hồi, ăn chay, niệm Phật, gắng tu dưỡng thân tâm để mong giải thoát khỏi cảnh giới khổ đau tối tăm trong nẻo luân hồi.  Phải tìm cách khuyên cha mẹ biết rõ lý vô thường để tập hạnh buông xả thì tâm hồn mới thong thả, cửa giải thoát mới có cơ mở rộng.  Báo hiếu như thế mới là vẹn toàn, cha mẹ được an vui giác ngộ giải thoát.  Cổ đức nói: “Phụ mẫu đắc ly trần, tu đạo phương thành tựu!”  Nghĩa là, cha mẹ được thoát vòng lao lý phàm trần, con tu hành mới đắc quả.

Hỡi những người con đã lỡ lầm quên ơn cha mẹ, nên sớm hồi tâm trong dịp Vu-Lan tháng bảy mùa báo hiếu nầy.  Nếu không thì sẽ nghìn năm ân  hận.  Ta không hiếu kính cha mẹ ta, thì sẽ mắc phải quả báo là con cháu ta cũng lại đối xử với ta hơn thế ấy.  Ta không thương cha mẹ ta, thì ai là người thương cha mẹ ta?  Ta không có lòng đoái tưởng hiếu kính cha mẹ, ân sư thì ai đoái tưởng hiếu kính ta?  Đến khi khát nước đào giếng sao kịp.  Hỡi những người con?

Xưa nay những bậc hiền nhân quân tử trong đời chưa có ai không hiếu kính cha mẹ mà thành danh thơm vạn kỷ.  Ta thấy ngài Mục-Kiền-Liên cứu mẹ là bà Thanh-Đề, thầy Tử-Lộ đội gạo nuôi mẹ, thầy Mạnh-Tử đã nhờ mẹ mà nên người.  Khổng-Phu-Tử đã nói: Ta nói được lời gì có ích cho đời, đều từ nơi cha mẹ ta mà có được.  Lục-tổ Huệ-Năng bán củi nuôi mẹ.  Đức Thích-Ca trước khi vào Niết-Bàn cũng đã đích thân lên cõi trời Đao-Lợi thăm và thuyết pháp cho mẹ nghe.  Ngài cũng đã thuyết pháp cho vua cha và nghiêng mình kề vai khiêng quan tài phụ vương Tịnh-Phạn khi trà-tỳ.  Đối với ơn cha mẹ, nghĩa thầy trò, hồn sông núi anh linh nghĩa sĩ, tình quyến thuộc quê hương, tôi đã trót nguyện mang sứ mạng tình thương của Như-Lai Phật Tổ lo hoằng pháp lợi sanh, nên đành thiếu bổn phận với tất cả những bậc ân sâu nghĩa nặng mà tôi chưa trọn báo đền.  Xin dâng trọn công đức đời tu của cả đời tôi hồi hướng đến tất cả.

Hơn mười một mùa báo hiếu lặng lẽ trôi qua.  Giờ đây tôi vẫn còn là kẻ tha hương đất khách, nhớ lời thầy dạy năm xưa, nguyện đem hết sức chống chèo con thuyền Bát-Nhã, nêu cao ngọn đuốc trí tuệ  rạng tỏa mười phương.  Lắm lúc cảm thấy cô đơn vắng thầy, thiếu bạn lý tưởng trên đường tu hành hoằng pháp trong những cơn giông tố ba đào dập dồn nội chướng ngoại ma, chạnh lòng nhớ đến ân nhân quá cố:

Bơ vơ cảnh khổ con đành ở

Chẳng biết làm sao đáp thâm ân.

• Giàu sang danh vọng không làm tăng giá trị đạo đức an lạc.  Ôm giữ tiền bạc của cải mà không biết phát tâm làm việc lành thiện bố thí thì khó tránh khỏi điều phiền lụy tai ương.

 

Ân đức đấng sanh thành

Hôm nay chúng ta đang ở trong mùa Vu-Lan, mùa lá vàng rụng về cội, mùa khói hương mù sương nghi ngút quyện lấy lời nguyện cầu mang đến thế giới tâm linh, thế giới vô hình u hoài mầu nhiệm của các bậc ân đức sanh thành quá cố.  Mỗi lần Vu-Lan đến khiến cho lòng người con thảo cháu hiền sống dậy nỗi nhớ niềm thương, mong được gần gũi với cha mẹ cùng những người thương thân ân đức của mình.  Vu-Lan có nghĩa là giải-đảo-huyền, tức là giải cứu tội nhân bị khốn khổ được giải thoát an vui.

Cây có cội, nước có nguồn, làm con nên nhớ ân đức sanh thành dưỡng dục của mẹ cha ông bà tổ tiên.  Người bộ hành trên lộ trình mệt mỏi ngồi nghỉ dưới gốc cây, còn có cảm tình thích mến tàng cây bóng mát.  Người lỡ đường khát nước đói cơm được người cho cơm giúp nước, còn biết nói lời cảm ơn.  Kẻ gặp lúc túng thiếu khốn cùng trong cơn nguy biến sa cơ thất thế được người giúp đỡ giải cứu, còn biết cúi đầu tỏ lòng tri ân.  Khi lạc đường, hay lúc thất thời lỡ vận hoặc bệnh nặng được người chỉ dẫn giúp đỡ, còn biết nhớ ơn trả nghĩa, huống chi là cha mẹ, đấng đã tạo ra mình, đã suốt đời khổ công nhọc trí cho việc sanh thành dưỡng dục con từ thuở còn nằm trong thai, những ngày còn là hài nhi ngo ngoe trong nôi, đêm ngày bồng bế trên tay nhai cơm đút sữa, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, cho đến ngày con khôn lớn lập thành gia thất nên danh nên phận!?  Người con đã tiếp nhận ân đức nuôi dưỡng chăm sóc nâng niu vỗ về của cha mẹ từng giây từng phút suốt quãng thời gian mang nặng đẻ đau cho đến ngày con bước vào đời chung cùng xã hội có danh vọng sự nghiệp.  Ân đức cù lao ấy bút mực nào chép ghi cho hết, lời lẽ nào diễn tả cho cùng, lấy lượng nào đong:

Lên non mới biết non cao

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ

Nếu không có cha mẹ thì đâu có ta.  Nếu khi tiếng khóc chào đời của ta mà không có cha mẹ thương yêu săn sóc bao bọc nâng niu bú mớm thì ta không thể còn sống.  Nếu con thiếu đi tình thương sữa ngọt, không được nâng niu bế bồng thì khó mà sống còn khôn lớn.  Không có cha mẹ thì con khó mà hưởng được hoàn cảnh ngọt dịu nuông chiều, no cơm ấm áo.  Không có cha mẹ, con sẽ khô cằn, cảm thấy thiếu vắng chất liệu dịu ngọt êm ấm.  Không có tình thương của cha mẹ thì con khó được lớn khôn, sẽ không chốn nơi nương tựa ấm lòng.  Mất cha mẹ là mất hết tất cả hoa tình thương yêu quý của cuộc đời, mất hết cả bầu trời tình thương mát dịu:

Em thấy em mất mẹ

Là mất cả bầu trời

Cha mẹ là đất trời tình thương.  Cha mẹ là trăng sao soi sáng đêm trường mát dịu.  Cha mẹ là ánh mặt trời sưởi ấm lòng con, là nguồn sống của con.  Cha mẹ là suối nguồn sữa ngọt, là xôi nếp mật, là chuối hương thơm, là liễu rủ hồ trăng, là cành dương chi của mẹ hiền Quán-Âm cứu khổ, là nước cam lồ tưới mát lòng con, là nơi nương tựa vững chắc cuộc đời, là nguồn an ủi vô biên, là nguồn hy vọng tươi đẹp của đời con, là tiếng đàn muôn điệu của con trong mọi hoàn cảnh vui buồn.

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm.

Khi con còn nhỏ, cha mẹ nâng niu chiều chuộng an ủi vỗ về ngày đêm không rời con. Kịp đến khi con vừa khôn lớn thì cũng đồng trong thời gian ấy, cha mẹ phải tảo tần một nắng hai sương để lo cho con ăn học thành người.  Con vừa trưởng thành thì cha mẹ nghĩ đến công danh sự nghiệp, lập thành gia thất cho con.

Vì lập thành gia thất, vì công danh sự nghiệp, vì danh phận cho con mà lắm lúc cha mẹ phải thao thức quên ăn mất ngủ, nhịn ăn nhịn mặc cần kiệm dành dụm để lo hạnh phúc cho con.  Vì an thân lập mạng tương lai cho con mà mẹ phải ngược xuôi thậm chí phải cúi lòn giao tiếp để cho con mình được tiến thân nở mặt nở mày.  Thương con, mẹ lo xa, hy sinh tất cả, kể cả danh dự và mạng sống của mình đôi lúc cũng chẳng màng.

Mẹ hy sinh tất cả

Hết quãng đời tuổi xanh

Cả thương yêu dịu ngọt

Rộng hơn biển trời thanh…

Chính vì cha mẹ quá thương con, lo lắng bảo toàn cho con hơn là chính con lo lắng cho tự bản thân con.  Vì mẹ quá lo cho con mà đôi lúc làm cho con bực bội hiểu lầm tình thương của mẹ.  Chính vì mẹ quá thương con, lo lắng săn sóc cho con, nên nhiều khi người con cảm thấy như bị ràng buộc gò bó.  Nhưng con nào có biết nỗi niềm thương mến của mẹ đối với con bao la như không gian vô tận, vũ trụ vô cùng trùm khắp tất cả, như thanh khí trong lành nuôi sống vạn loài, như đại địa chắc dày che chở muôn vật.

Mẹ là cả một trời thương

Mẹ là nguồn sống thiên đường trần gian.

Chính cha mẹ cho con thân nầy.  Đích thực cha mẹ dưỡng dục con khôn lớn thành người, chứ không phải trời thần thượng đế nào hết.  Suốt trọn đời của cha mẹ đã trải tình thương bao la ân đức sâu dầy cho con như thế, nên bổn phận làm con không thể quên được.  Nếu phận làm con không thương nghĩ báo đền ân đức sanh thành dưỡng dục như trời cao biển cả đó, thì cũng chớ nên nhẫn tâm có những hành vi ngôn ngữ thất đức như nói: “Thượng đế sanh tôi; không ăn đồ cúng cha mẹ; tôi cũng như cha mẹ đều do thượng đế tạo thành”, những điều nầy chẳng những làm cho cha mẹ đau buồn tủi phận, mà còn trái với luân thường đạo lý con người có niềm tin truyền thống Đông phương.

Nếu vì đắm mê ái tình, hay vì truy cầu công danh sự nghiệp, hoặc vì nghe theo ác đảng, hay mê tín tà thần ngoại đạo mà con bỏ quên cha mẹ ở một phương trời góc biển nào đó, hoặc chẳng phụng thờ cha mẹ, bỏ bê đấng sanh thành, thì hôm nay, ngày Vu-Lan báo hiếu là dịp tốt nhất, nên hồi tâm đem hết lòng thành, bày tỏ nghĩa cử hiếu kính hướng về cha mẹ.  Cha mẹ hy sinh trọn đời trải hết tâm can không màng khổ nhục chỉ vì con, vì muốn lo cho con no cơm ấm áo an lành, vì tương lai hạnh phúc của con, ân đức ấy cao sâu vô tận, mà phận làm con không thương tưởng đến thì con biết thương tưởng ai?  Người thân thương ân tình tạo ra đời mình, trọn đời hy sinh đem ân đức cho mình, ruột thịt của mình mà mình chẳng đoái hoài kính thương, đó không phải vong ơn bội nghĩa thì là gì?  Và còn biết ơn nghĩa với ai?  Những kẻ bội bạc vô tình đối với cha mẹ như vậy thì đối với gia đình vợ con chỉ là vấn đề lợi dụng tình cảm, đối với bạn bè chỉ là manh tâm đầu cơ thanh thế lợi dưỡng, đối với quốc gia xã hội chỉ là môi trường rúc rỉa tham ô để được vinh thân phì da mà thôi!  Bởi vì hễ đã bất hiếu thì bất nhân bất nghĩa, đưa đến tâm niệm hành vi làm khổ cha mẹ, giết bạn hại thầy.  Những kẻ vong ơn cha mẹ, bội nghĩa sư trưởng, lương lẹo bằng hữu để được quyền uy danh vọng lợi dưỡng thì những kẻ đó nhất định phải là những kẻ vong bản, phản dân tộc, hại quốc gia, đạp lên mạng sống của tha nhân để vinh thân, vui trên cái khổ của người khác để được quyền lực, giàu trên cái nghèo của đồng loại, và mạnh bước đến bờ hố thẳm tội lỗi, không ngại dùng độc tài sắt máu làm khổ dân hại nước, đưa đồng loại và tổ quốc đến chỗ khốn cùng băng hoại lầm than.  Tất cả những hậu quả của bất lương ác độc, bất nghĩa bất trung bất tín đều bắt nguồn từ bất hiếu mà ra.  Hiếu đạo trọng đại như vậy, nên cổ đức nói: “Hiếu vi vạn hạnh vi tiên”.  Nghĩa là, hiếu đứng đầu trong muôn hạnh lành.  Người không có tâm hiếu kính thì không phải là con người.  Bởi con người thì có nhân tính, trí óc có hiểu biết , có trái tim rung cảm, có tình thương, có luân thường đạo lý, biết tri ân trọng nhân nghĩa.

Thế nên, muốn lập thân, thành công, muốn được đời trọng vọng, muốn sống đời đạo đức thăng hoa tiến bộ, thì trước nhất phải lập tâm hiếu kính với cha mẹ trong gia đình, rồi sau mới ra ngoài đối xử láng giềng quyến thuộc, giữ lấy trách nhiệm xã hội làng nước.  Hiếu là đạo tu thân.  Người muốn thành nhân, đạt hiền, chí thánh đều lấy hiếu làm gốc.  Nên cổ đức nói: “Thiên kinh vạn quyển, hiếu nghĩa vi tiên”.  Có nghĩa là ngàn quyển kinh, muôn quyển sách, công danh sự nghiệp, tiếng thơm muôn đời, đều lấy hiếu đạo làm đầu.

Nếu chẳng may cha mẹ đắm say cờ bạc rượu chè, mê tín đồng bóng, lầm vào tà giáo, ngoại đạo, ác đảng, bạn bất lương, hoặc chưa biết tu tâm dưỡng tánh, hoặc ngăn cản làm chướng ngại sự tu tập hành thiện của con cái, thì bổn phận làm con chớ nên vì thế mà nản lòng thối chí, trái lại, phải hết sức khôn khéo uyển chuyển dùng lời lẽ dịu ngọt, phương tiện quyền xảo để hướng thiện mẹ cha khởi lòng tin nhân quả luân hồi, phát tâm quy y Tam-Bảo, làm việc phước thiện, ấy là một cách báo đền ân nghĩa sanh thành dưỡng dục cao quý nhất.  Làm được như vậy thì việc báo hiếu cả sự lẫn lý mới là vẹn toàn.

Cha mẹ còn nơi dương thế thì con nên gần gũi sớm hôm thăm viếng chăm sóc áo cơm, dưng nước thuốc thang.  Cha mẹ qua đời, con nên noi gương hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên tôn-giả, tùy theo khả năng mình mà cố gắng làm việc phước đức, cúng dường Tam-Bảo, trai tăng siêu độ để hồi hướng cho cha mẹ được siêu thoát luân hồi, sanh về cảnh giới an vui.

Nhờ phép Phật siêu sanh tịnh độ

Bóng hào quang cứu khổ độ u

Rắp hòa tứ hải quần chu

Não phiền rửa sạch, oán thù rũ không.

• Nhân quả như bóng theo hình, như vang theo tiếng.

• Quả báo như bánh xe lăn theo chân bò kéo xe.

• Trời cao lồng lộng, nhưng mẩy lông không lọt.

 

Vu Lan phát nguyện

Đã mấy độ Vu-Lan rồi, mà người đây vẫn còn ngồi trên đất khách.  Hồi tưởng lại lần bấm đốt tay, chưa chi đã hơn mười lăm năm xa cách quê hương.  Biết bao nỗi nhớ niềm thương chĩu nặng cõi lòng.

Nhớ thương thầy xưa chùa cũ, bạn đạo hiền hòa.  Nhớ thương mái chùa uốn cong tịch mịch chan chứa tình thương.  Nhớ thương thương nhớ chuông chùa hôm sớm nhẹ ngân hòa điệu với nếp sống người dân hiền lành.  Nhớ làng mạc nhà tranh vách lá, cây đa đầu làng, dòng sông nhỏ uốn khúc dọc theo con đường đá sỏi từ làng ra tỉnh.  Nhớ vườn cây trái bên cạnh cánh đồng bát ngát lúa mạ xanh tươi.  Nhớ tiếng cười hồn nhiên của những thôn nữ cùng hòa vui với các chú mục đồng.  Nhớ những đám rừng cây khô vàng, ruộng đồng đường xá loang lổ hầm hố bởi bom đạn chiến tranh tàn phá gây nên.  Nhớ những nấm mồ chiến sĩ vô danh.  Nhớ đến mộ phần của cha mẹ bị nứt bể bởi tiếng nổ của đại bác kinh  hoàng.  Nhớ ơi là nhớ, thương ơi là thương!  Nhớ thương cha mẹ biết dường nào!  Giờ đây hai đấng sanh thành dưỡng dục ở đâu?  Sao đã mấy mươi năm hành đạo mà người con này vẫn không sao thấu rõ mẹ cha hiện giờ sanh ở thế giới nào?  Nhớ thương thầy bạn, các người vắng bóng dần trên cõi trần gian như lá vàng trước gió cuối thu.

Mẹ ơi!  Giờ đây mẹ cha đang ở nơi nào?  Ngày con còn bé nhỏ mới lên bốn tuổi, chưa đến cái tuổi chạy chơi, chưa đến cái tuổi vào đời, chưa có đủ trí khôn để tự lực cánh sinh, thì mẹ đã vội lìa bỏ con ở lại cõi trần thế để về bên kia thế giới.  Trước khi mẹ nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, mẹ còn gắng sức thu lấy năng lực dạy chị Hai con lần chót: “Thôi đi con, đừng khóc nữa!  Mẹ biết mẹ không thể nào còn sống với các con.  Con có thương mẹ thì thay mẹ dạy dỗ các em.  Con muốn báo đền ơn mẹ, thì con nên giúp cha con lo việc nhà và khuyên em con phát tâm xuất gia đầu Phật tu hành theo gương đức Mục-Kiền-Liên!”  Đây là mấy lời cuối cùng của mẹ nói với chị Hai trước khi vĩnh biệt cõi đời!  Lời trăn trối này của mẹ tôi cách đây đúng bốn mươi năm vẫn còn thâm trầm khắc sâu trong tâm khảm tôi, hiện rõ trong đầu óc tôi.  Nhất là mỗi độ Vu-Lan rằm tháng bảy, khi tụng kinh Vu-Lan và kinh Báo-Trọng-Ân Phụ-Mẫu thì lời nói cuối cùng của mẹ, hình bóng mẹ hiền, hình ảnh hiếu hạnh của ngài Mục-Kiền-Liên, dung nghi hiền hòa của thầy bổn sư lại sống dậy, chiếm trọn cả tâm hồn tôi.

Thầy tôi là nhà tu hiền hòa chơn chất.  Cha tôi là người cương trực ưa thích việc từ thiện giúp đời.  Mẹ tôi là người tánh tình dễ dãi vui cười hỷ xả bao dung.  Thân tôi tuy ở đây, ở dưới mái Phật-Học-Viện Quốc-Tế đơn sơ hiền hòa thanh tịnh trên đất khách quê người, mà lòng vẫn bâng khuâng hoài tưởng đấng sanh thành, những bậc ân nhân.  Để đỡ bớt nhớ thương, tôi đã học theo tâm hạnh Phật pháp lòng vô thượng, mang đại nguyện hoằng dương chánh pháp lợi sanh, hầu mong bòn mót được chút phước lành, nguyện hồi hướng về cha mẹ và sư trưởng cùng pháp giới chúng sanh, để gọi là đền ơn sanh dưỡng giáo huấn giúp đỡ trong muôn một.  Tôi luôn luôn nghĩ rằng các ngài vẫn còn hoạt hiện trong lẽ chết như sống, hiển linh bên cạnh mình.

Vì vậy, trên con đường hành đạo hoằng pháp, có những lúc gặp phải chướng ngại hiểm nguy, tôi thành tâm quỳ trước Phật đài khấn nguyện đức Từ-Phụ Thích-Ca từ bi gia hộ; tôi cầu thỉnh Long-thần Hộ-pháp Bát-bộ Thiên-long hộ trì; tôi một lòng thiết tha mời gọi cha mẹ về để giúp đỡ tôi.  Nhờ vậy, tiền hung hậu kiết, chướng nạn nào cũng qua, tâm nguyện nào rồi cũng thành tựu.  Tôi tuyệt đối tin vào thần lực của Phật và Bồ-Tát.  Tôi hoàn toàn tin vào sức hộ trì của Long-thần Hộ-pháp và cha mẹ tôi.  Tôi tin vào ánh sáng chân lý có thừa năng lực quét sạch bóng tối vô minh của tâm thức.  Tôi tin vào lương tri tâm lực và khả năng của chính tôi.  Tất cả tin tưởng đó cho tôi nhẫn lực để thực hiện tâm nguyện của mình trên đường hành đạo.

Tôi biết rõ tâm nguyện của các Ngài lúc nào cũng thương những ai có lòng phụng sự đạo đức và đạo lý giác ngộ cứu độ quần sanh.  Người mang tâm nguyện phụng sự chân lý đạo đức giác ngộ là người xông pha vào trận mạc của ma quân.  Thế nên, khi Phật còn ở đời, Ngài đã bao lần khuyên dạy đệ tử: “Nhẫn nhục là chiếc áo giáp tốt nhất để cho người tu hành khắc phục chướng duyên, thăng tiến trên đường giác ngộ giải thoát”.  Tôn-giả Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên, Phú-Lâu-Na là những chiến sĩ của trí huệ từ bi tuyệt vời, gương sáng muôn đời cho những ai nguyện cống hiến đời mình cho sự nghiệp hoằng pháp.  Người mang đại nguyện hoằng pháp lợi sanh đối với vấn đề gian nan nguy hiểm chướng ngại khó khăn thì không thành vấn đề.  Sứ mạng hoằng pháp lợi sanh là sứ mạng thiêng liêng, cho dù có tan xương nát thịt tưởng cũng chưa đền được bốn ân nặng.  Thế nên, trưởng tử Như-Lai phải lấy Mục-Kiền-Liên, Phú-Lâu-Na làm gương soi sáng cho đời mình để thăng tiến trên đường hoằng pháp.

Một hôm tôn-giả Phú-Lâu-Na xin Phật tự nguyện đến xứ Du-Na là xứ man rợ nguy hiểm để hoằng pháp.  Phật hỏi Phú-Lâu-Na rằng: “Nếu đến đó hoằng pháp mà bị người nhục mạ, mắng nhiếc thì con đối trị với họ bằng cách nào?”

Phú-Lâu-Na thưa: “Bạch Đức Thế-Tôn, đệ tử nghĩ rằng họ đối với con như thế thì còn quá tốt.  Vì họ chỉ chửi rủa chứ không dùng gậy cây đánh đuổi.”

Phật lại hỏi: “Nếu họ dùng gậy cây đánh đuổi hoặc dùng gạch ngói đá sỏi ném vào người con thì con nghĩ sao?”“Bạch Đức Thế-Tôn, họ vẫn còn là người tốt, vì họ chưa nhẫn tâm gây thương tích cho đệ tử”.

-Nếu họ gây thương tích cho con thì con nghĩ sao?

-Vẫn còn là người tốt, vì họ chưa giết hại đệ tử.

-Nếu họ giết con?

-Vẫn còn là người tốt, vì họ chấm dứt cái thân tứ đại giả huyễn này để cho con sớm được đạo quả Niết-Bàn, đó là một cơ hội hiếm có để cho con sớm được đền đáp tứ trọng ân.

Trước đại chúng, đức Phật khen: “Phú-Lâu-Na quả xứng đáng và chân chánh là đệ tử của ta trong hạnh hỷ xả vong thân cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh”.

Các Ngài đích thực đã trở thành những chiến sĩ của đạo pháp cao siêu, chiến sĩ của từ bi vô lượng, chiến sĩ của tình thương và giác ngộ muôn loài.  Các ngài trọn đời đã hy sinh cho chân lý giác ngộ.  Mục-Kiền-Liên tôn-giả đã xả thân trên đường hoằng pháp khi đức Phật còn tại thế.  Phụng sự đạo pháp chỉ thuần chơn phụng sự đạo pháp là chánh niệm phụng sự đạo pháp.  Phụng sự đạo pháp đừng cầu mong dễ dãi thuận duyên.  Dễ dãi thuận duyên sẽ là nguyên nhân sâu kín và gốc rễ của ngã mạn ích kỷ và tham sân.  Mang tâm niệm lợi danh ích kỷ phụng sự đạo pháp, thì đạo pháp bị danh lợi hóa sẽ trở nên hẹp hòi nhân ngã đua tranh phân tán tan hoại.  Nghĩ đến cá nhân hơn đạo pháp thì chân lý đạo pháp sẽ thành tham vọng cá nhân, đưa cá nhân vào rừng tội lỗi, đưa đạo pháp vào hố thẳm phân ly suy đồi.  Các bậc cổ đức đã chẳng dạy: “Tà nhân thuyết chánh pháp, chánh pháp biến vi tà”.  Nghĩa là, kẻ tà nói chánh pháp, chánh pháp biến thành tà pháp đó sao?

Thế nên, trên đường tu tập, hành đạo hoằng pháp phải cẩn trọng nhận định chánh tà, phải cẩn trọng trong việc thân gần thầy bạn.  Nếu hành giả tu Phật chỉ muốn cầu an hưởng nhàn, ham vui tạp sống, ngồi tán gẫu để ngày tháng trôi qua, thì vô tình bội bạc tâm chí cầu đạo, đi xa dần đạo giác ngộ, chỉ lại rơi sâu vào trong biển thức thị phi, si mê lầm lạc!  Như thế thật là oan uổng một đời, không lợi ích gì cho chính bản thân, mà đối với đạo pháp chỉ tạo thêm tổn thương, đối với đời vô hình chung trở thành loài ma quân phá hại nhân tâm, phá hại niềm tin Phật pháp.

Kẻ viết nầy đã sớm xuất gia theo thầy học đạo từ thuở tuổi mới mười ba xả thân làm điệu, đầu còn để chỏm.  May mắn có chút duyên lành “sanh phùng trung quốc, trưởng ngộ minh sư”, phụng sự nhiều bậc cao tăng thiền đức, sớm tiếp nhận trí đức từ các ngài.  Giờ đây các ngài nguyện mãn, xả báo thân để nhập đại thể pháp thân, đã lần lượt về cảnh Phật.  Bạn đồng tu ở cái thuở sơ tâm học đạo có đến gần trăm, với thời gian trên đường hành đạo cũng rơi rớt dần theo năm tháng.  Nay ngồi gẫm tính lại bạn lữ đạo tình đếm không hết đầu ngón tay.  Thế mới hay tổ xưa khuyến giáo: “Xuất gia nan tịch liêu đạm bạc, gian tân khổ huất đẳng sự”.  Nghĩa là, người xuất gia khó lắm, ngày ngày phải sống trong cảnh cô liêu đạm bạc, phấn đấu với bao nỗi khó khăn nhọc nhằn.

Bạn cùng trường cùng lớp cả thảy năm mươi hai, đã mai một theo thời gian, giờ đây quanh đi nhìn lại chẳng còn ai!  Đường đời như dòng thác đổ, lắm nỗi thịnh suy thăng trầm tan hợp!  Thảo nào cổ nhân đã nhắn nhủ: “Cuồn cuộn trường giang đăng lưu thủy, thảo hoa đào tận anh hùng, thịnh suy thành bại chuyển đầu không, thanh sơn y cựu tại, cơ độ tịch dương hồng” – Giòng đời trôi mãi như nước sông cuồn cuộn chảy, như thác đổ đá ghềnh cuốn trôi nhận chìm bao kẻ anh hùng tuấn tú đắm mê dục vọng.  Núi vẫn xanh, bao lần bóng chiều hoàng hôn phủ, thành bại thịnh suy, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Thế nào là khéo tu?  - Khéo tu là biết chọn thầy lựa bạn; biết hạn chế tham muốn, biết quý chuộng người thật học chân tu hiền đức ; biết dứt khoát từ bỏ tâm tánh bè phái địa phương a dua ích kỷ; biết xả kỷ lợi tha; biết hy sinh quyền lợi cá nhân để phụng sự cho lý tưởng đai nghĩa cao cả; biết giữ tâm niệm phân biệt chánh tà, phát nguyện tu trì bất xả.  Như thế là khéo tu.  Thế nào là vụng tu?  Vụng tu là lầm tin theo tà sư bạn ác, kết bè phe phái, tham mê danh lợi, thích tụ năm dụm bảy phê bình chỉ trích người xả thân phụng sự chánh pháp hành đạo thành quả hơn mình.  Cố chấp tư kiến, mù quáng lẽ phải, không nhận chánh lý, tâm nghĩ danh lợi ý đồ chức quyền trên trước.  Như thế, thân tuy hành đạo mà tâm chưa vào đạo.  Vậy là vụng tu.

Kính lạy đức Thế-Tôn!  Ngài là bậc từ bi hỷ xả vẹn toàn.  Ngài đã xả bỏ tất cả vinh hoa phú quý tột đỉnh của bậc đế vương, để mang tình thương trải rộng cho muôn loài.  Thế mà suốt cuộc đời hoằng pháp của Ngài có được mấy lúc không bị phá hoại đâu?  Huống nữa là kẻ phàm phu như con đã chọn lấy con đường của Ngài mà đi, thì phải chấp nhận chông gai nguy khó.  Nhưng con vững tin rằng chân lý thắng tà ngụy, ánh sáng mặt trời phá tan mây mù, bầu trời quang đãng sẽ sáng lạng huy hoàng!  Bão tố hung hăng chẳng mấy lúc.  Trời lại trong sáng huy hoàng với nhật nguyệt trăng sao.

Kính bạch Mục-Kiền-Liên tôn-giả, trong công cuộc hoằng pháp lợi sanh, phát huy ánh đạo từ bi giác ngô, Ngài đã góp sức đắc lực, là cánh tay trái của đức Thế-Tôn, và Ngài đã bỏ mạng trên đường hoằng dương chánh pháp độ sanh bởi thế lực vô minh tà giáo cường khấu bức ngặt.  Tuy thân tứ đại của Ngài chấm dứt, nhưng gương hy sinh vì đại nghĩa của Ngài ngời sáng mãi mãi muôn đời.  Con quyết theo gương hy sinh cao cả của Ngài, nguyện dâng trọn đời cho công cuộc xiển dương chánh pháp.

Kính thưa cha mẹ!  Cha mẹ đã khổ cực vì con, để cho con được khôn lớn.  Cha mẹ đã cho con cái thân nầy để ngày nay con dùng nó phụng sự đạo pháp và chúng sanh.  Ân cha mẹ như trời cao bể cả, con nguyện gắng tu, chăm học, đem hết năng lực của mình để phụng sự đạo cả, những mong đền trả phần nào ân đức cù lao.  Nhờ ơn đức Phật, ơn sư trưởng đã cho con biết được đường tu, đủ trí phân định chánh tà, không bị mê lầm sa ngã vào thầy tà bạn ác, ngoại đạo ma quân.  Ơn đàn na thí chủ đã giúp đỡ vật dụng hằng ngày để nuôi sống thân nầy, nhờ đó con yên tâm chuyên lo tinh tấn phát triển minh tâm kiến tánh giữ vững pháp thân huệ mạng.  Ơn các bậc minh quân tử sĩ đã hy sinh giữ gìn lãnh thổ quốc gia.  Ơn các Thánh-tử-đạo đã vị pháp thiêu thân, xả bỏ mạng sống quý báu để bảo tồn đạo pháp.  Chính nhờ sự hy sinh cao cả của các vị mà thủy thổ, chỗ ở tu hành được bình yên, đạo pháp được vĩnh tồn hưng thạnh.

Kính lạy đức Thế-Tôn Từ-Phụ!  Kính lạy Mục-Kiền-Liên tôn-giả người con hiếu hạnh muôn thuở!  Kính lạy tôn-giả Phú-Lâu-Na! Kính thưa cha mẹ!  Bao nhiêu người đã chết để cho con được sống.  Bao nhiêu người đã nằm xuống để cho con được đứng dậy đi.  Bao nhiêu người đã khổ cực quỵ ngã để cho con được yên thân tu hành.  Bên kia Thái-bình-dương quê hương đang chìm đắm trong rách nát đói nghèo sau hơn ba mươi năm chiến tranh chết chóc!  Đồng bào quyến thuộc đang ngày đêm khổ cực!  Thầy bạn đang bị bức bách tù đày!  Quê hương dân tộc đạo pháp đang dẫy dụa dưới ách thống trị của cường quyền tặc khấu vô thần!  Kính lạy đức Thế-Tôn!  Kính thưa cha mẹ!  Con không thể nào dễ dãi với chính con để sống qua ngày đoạn tháng, bàn chuyện phù phiếm thị phi.  Con luôn luôn tự cảnh giác sống trong tỉnh thức trong chánh niệm quyết không để bị lôi cuốn đi theo con đường bè phái quyền danh lợi dưỡng hại đạo phá sản niềm tin chánh pháp.  Vì vậy, dù trên đường hành đạo, trong sự nghiệp đào tạo tăng tài, trên vai nặng gánh trách nhiệm hoằng pháp lợi sanh có gian nan nguy hiểm dồn dập trăm ngàn lần, con nguyện vẫn một lòng sắt son kiên tâm quyết theo con đường đức Phật, noi gương hiếu hạnh và tinh thần vô úy, Bi, Trí, Dũng của Ngài Mục-Kiền-Liên, tôn-giả Phú-Lâu-Na hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh.  Hình ảnh Bồ-Tát Thích-Quảng-Đức ngồi trong lửa hồng hy sinh đời mình cho đạo pháp.  Hình ảnh những vị Thánh-tử-đạo, trong đó có những người là bạn con, đã hy sinh cho lý tưởng đạo pháp.  Những hình ảnh oai  hùng rực sáng muôn đời đó cứ hiện rõ trong tim óc con, thúc dục nơi lòng con như nhắn nhủ: “Uống nước nhớ nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây; làm con phải hiếu, phụng sự chánh pháp chớ không phụng sự cá nhân; hiến dâng đời mình cho lý tưởng giác ngộ giải thoát, cho đại nghĩa hoằng pháp lợi sanh”.

Do đó, con nguyện phụng sự đạo pháp và chúng sanh bằng cách đào tạo tăng ni trở thành những người chân tu thật học, sống cho lý tưởng giác ngộ lợi tha.  Cụ thể hóa cho tâm nguyện hoằng pháp nầy, con nguyện in những kinh sách Phật giáo giá trị để trang trải cho mọi người trong khắp bốn phương cầu học đạo tiến tu.  Con nguyện đem hết khả năng trọn đời mình cho sự nghiệp  hoằng pháp.  Nơi nào chúng sanh cần thì đến giảng đạo, hướng dẫn tu hành.  Chúng sanh hết cần thì đi.  Đến đi tùy nhân duyên, nhẹ nhàng thanh thoát như gió thoảng cành trúc, nhạn qua mặt hồ.  Không mảy may tham đắm, chấp trước vướng bận ân tình thân sơ.  Tất cả đều xả ly, gạt bỏ thị phi ngoài tai, chỉ còn lại niềm tin và tâm nguyện.  Nguyện dâng trọn niềm tin và tâm nguyện cho lý tưởng lợi tha giác ngộ giải thoát.  Dâng trọn tâm tư lên đức Phật.

Hôm nay nhân mùa Vu-Lan, trong làn khói trầm hương quyện tỏa, trong khung cảnh thiêng liêng nguyện cầu, con xin cúi đầu chí thành chí kính đảnh lễ Tam-Bảo, phát nguyện trọn đời theo gương hiếu hạnh và gương hy sinh vì đạo pháp và chúng sanh của Phú-Lâu-Na, của Mục-Kiền-Liên tôn-giả.  Con nguyện đem đời con làm đất che chở tất cả muôn loài.  Con nguyện đem con làm nước rửa sạch tất cả ô uế của trần gian.  Con nguyện con là cây chổi quét phủi tất cả bụi trần phiền não của chúng sanh.  Con nguyện con là ngọn đuốc đốt rụi gai gốc, phá trừ vô minh, soi sáng đường đi cho mọi người.  Con nguyện con là dòng suối mát cho thế nhân tắm mát giải thoát.  Nguyện lấy tâm Phật làm tâm mình; lấy hạnh Phật làm hạnh mình; lấy nguyện Phật làm nguyện mình.

Nguyện đức Phật, Bồ-Tát, anh linh tu sĩ, hồn thiêng đất nước, liệt thánh tử đạo và cha mẹ hiển linh phò hộ cho đất nước sớm thanh bình, dân tộc sớm thoát khỏi màn lưới thế lực ác nghiệt đói khổ nô lệ của hữu thần vô thần vô minh dục vọng phi nhân áp bức, để có được đời sống an lành thịnh vượng, và hộ độ cho con chân cứng đá mềm, đủ nghị lực tâm chí sắt son, ngõ hầu khắc phục khó khăn, thuận duyên thực hiện trọn vẹn hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh, để báo đền ân sâu nghĩa nặng tứ trọng ân trong muôn một.  Tất cả tâm tư thành kín dâng trọn lên mùa Vu-Lan phát nguyện.

 

Vu Lan với người con hiếu

Mỗi độ thu sang, trời thu hiu hắt, gió thu dịu dàng, lá vàng lặng lẽ nhẹ rơi, khơi dậy lòng người nỗi nhớ niềm thương đến những bậc sanh thành dưỡng dục.  Tiết trời thu khiến cho lòng người bâng khuâng u hoài cảm nhớ đến Vu-Lan rằm tháng bảy.

Nói đến Vu-Lan rằm tháng bảy là nói đến báo hiếu, nói đến nghĩa cử của người con thảo cháu hiền đối với mẹ cha.

Cây có cội, nước có nguồn.  Người sống trên đời ai mà chẳng có mẹ cha?  Nếu không có mẹ cha làm sao có ta?  Cha mẹ không ra công nhọc sức nuôi nấng thì làm sao được khôn lớn thành người?  Mẹ đã mang nặng đẻ đau, bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.  Mẹ nuôi con rất là cực nhọc.  Khi con ra đời lòng mẹ đau như dao cắt.  Cha thấy mẹ sanh con đau đớn mà thương tâm ruột thắt nhăn mặt, chắp tay hướng vọng trời xanh, thành tâm miệng lâm râm cầu trời khấn Phật cho mẹ tròn con vuông.  Vừa thấy mặt con, mẹ cha vui mừng khôn xiết, quên hết bao nỗi đau đớn lo âu:

Hỡi con tiếng khóc ban đầu

Mẹ đau cha khóc con nào biết cho

Tháng ngày cha mẹ âu lo

Ngược xuôi sớm nắng chiều mưa chẳng nề.

Nhưng cũng từ ngày tiếng khóc chào đời của con, thì cũng bắt đầu từ ngày đó, mẹ lẫn cha phải nhịn ăn bớt ngủ, ngày ngày ngược xuôi lam lũ để cho con no cơm ấm áo nên người.

Khi con còn bé thơ khờ dại thì bên ướt mẹ nằm bên ráo con chơi.  Khi con trái gió trở trời, khi con mọc răng ấm mình la thét, cha lẫn mẹ phải thay nhau thức suốt đêm trông chừng, nâng niu vỗ về thang thuốc cho con.  Tiếng khóc của con là tiếng khóc của mẹ.  Mỗi tiếng khóc của con làm cho mẹ ruột thắt từng cơn.  Tiếng khóc của con gây thành nỗi xúc động cho cha. Cha thương con chạy thầy chạy thuốc.  Tiếng cười của con là tiếng cười của mẹ.  Tiếng cười của con là phần thưởng, là thang thuốc bổ dưỡng cho mẹ.  Tiếng cười của con là nỗi vui mừng an ủi cho cha, khiến cho cha quên đi muôn điều cực nhọc.  Mẹ săn sóc lo âu.  Cha đầu tắt mặt tối ngược xuôi đều vì con để cho con ấm no đầy đủ.

Ngay từ ngày con nằm trong nôi cho đến ngày con cắp sách đến trường, mẹ chắt chiu nâng niu bồng bế, cặp sách, choàng khăn.  Mãi đến ngày con khôn lớn thành nhân đẹp khỏe, lập thành gia thất, không có giờ phút nào mà cha mẹ không lo nghĩ đến con.  Trong mỗi tế bào, trong từng xương thịt huyết quản của con đều mang và ngấm sâu máu huyết xương thịt của cha mẹ.  Trong tâm tư của cha mẹ ẩn tàng hình bóng của con.  Cha mẹ hy vọng con ngày một mau chóng khôn lớn.  Cha mẹ buồn vui theo sự buồn vui khôn dại của con và sống cho con.  Lúc nào cũng muốn cho con no cơm ấm áo, nên vai nên vóc, nên danh nên phận.  Vì con mà cha mẹ phải bôn ba ngược xuôi, một nắng hai sương để con được no cơm ấm áo học hành.  Có lúc mẹ còn phải hy sinh đem thân ở đợ, phải hạ mình quì gối van xin, phải luồn cúi ngõ sau cầu khẩn người ta, tất cả đều vì con, trọn cả cuộc đời cho con:

Một đời vốn liếng mẹ trao

Mẹ cho tất cả, mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Xưa nay sách sử thánh hiền cũng như truyện tích thế nhân không ngớt ca ngợi công ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha.  Tình cha mẹ đối với con như suối nguồn tuôn chảy bất tuyệt, như non cao xanh mát suốt năm:

Công cha như núi Thái-Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

Công ơn cha mẹ như trời như biển, không bút mực nào diễn tả cho hết, không lời lẽ nào luận nói cho cùng.  Ân đức cha mẹ hy sinh cho con thì bất khả tư nghì, không lời nào diễn đạt cho trọn:

Mẹ là biển, mẹ là trời

Hy sinh tất cả một đời vì con

Sông dù cạn, đá dù mòn

Tấm lòng của mẹ vẫn còn mênh mông.

Cái tình bao la.  Cái nghĩa rộng lớn. Cái đức cao sâu của cha mẹ không thể đo lường.  Thế nên kinh Thi nói: “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân hiều thiên dõng kiệt”.  Nghĩa là, Ôi! Cha sanh ta, mẹ nuôi ta, hỡi ôi cha mẹ sanh ta rất là cực nhọc.  Vậy bổn phận làm con phải biết báo đền ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của mẹ cha.  Tình của mẹ cha đối với con như biển hồ lai láng, thăm thẳm vời vợi không biên giới, đi chẳng tới, lo chẳng cùng:

Mẹ thương con biển hồ lai láng

Con thương cha mẹ tính tháng tính ngày.

Cho dù ngày nay con khôn lớn lập gia đình, có sự nghiệp, sanh con đẻ cái, nhưng cha mẹ vẫn thương con như thuở còn măng sữa trong nôi.  Cho dù có những người con nhờ công ơn cực khổ buôn gánh bán bưng của mẹ, làm lụng vất vả của cha, nuôi nấng cho ăn học khôn lớn nên người, có danh vọng giàu sang, được vợ đẹp con ngoan, chức phận quyền danh phú quý, bạn bè tấp nập, rồi thấy cha mẹ chất phác quê mùa, lại sanh tâm khinh chê, quay mặt giả vờ lờ quên.  Dù biết vậy, nhưng cha mẹ vẫn trọn lòng thầm thương con, thản nhiên, âm thầm chấp nhận cảnh phũ phàng, miễn sao con mình bình an hạnh phúc là mừng.  Đến như lòng cha mẹ có đau xót nuốt đắng ngậm cay, vẫn không dám thố lộ cho ai hay biết về con mình vong ơn bội bạc.  Chẳng những không dám hé môi than thở mà đối với mọi người, cha mẹ lúc nào cũng tỏ ra khen ngợi con mình là hiền ngoan, hiếu thảo, mà sự thật đau lòng, trào dâng nước mắt chảy ngược về tim!  Tình thương của cha mẹ bao dung tất cả!  Có khác nào quả đất chuyên chở muôn vật không phân biệt tốt xấu sạch nhơ!

Lúc còn nhỏ chưa đủ trí khôn, con thường làm việc trái quấy biếng học, ham chơi, cha mẹ buồn lòng rầy la dạy dỗ thì con hờn ghét, giận lẫy làm nư giậm chân, dẫy dụa, la khóc.  Thậm chí có lúc con còn đánh quào, cấu xé mẹ, nhưng mẹ vẫn nhìn con với đôi mắt dịu hiền bằng bàn bay êm nhẹ vuốt ve an ủi vỗ về con!  Mẹ bao giờ cũng rộng lượng tha thứ, ôm chặt con vào lòng sưởi ấm trong tình thương ngọt ngào bao la:

Nâng niu con lúc giỗi hờn

Dịu dàng mắt mẹ khuyên lơn ngọt ngào

Một đời vốn liếng mẹ trao

Mẹ cho tất cả, mẹ nào giữ riêng

Mẹ hiền như một bà tiên

Mẹ theo con suốt hành trình con đi.

Cho dù ngày nào đó, vì công danh sự nghiệp hoặc vì kế sanh nhai, hay vì lý tưởng tự do tỵ nạn mà con phải bỏ quê cha đất tổ ra đi xa lìa cha mẹ tha phương xứ người, rồi dần dần dòng đời lôi cuốn trong cảnh vợ ấm chăn êm, danh lợi ái tình đắm chìm, con có quên đi cha mẹ già yếu đang âm thầm sống những ngày hẩm hiu ở tuổi xế chiều của quãng đời còn lại, thì cha mẹ vẫn ấp ủ nơi lòng nỗi thương nhớ con, đành an phận sống trong cảnh tình bội bạc cô đơn.  Rồi những chiều hoàng hôn phủ xuống, nhớ lúc tiễn biệt con ra ngõ, giờ đây, mẹ một mình một bóng tựa cửa ngóng trông tin tức con về.  Cha ngồi nhìn mây chiều lãng đãng hợp tan, bức tranh phù vân tương cẩu, thả hồn tưởng như bóng hình con, chén trà đã lạnh từ lúc nào quên uống!  Có những chiều mẹ lẫn cha dìu nhau ra sau hiên nhà cả hai tấm thân già yếu ngồi im lặng nhớ thương con, cả hai không nói nên lời, mắt rưng rưng, lệ hướng vọng ở phương trời viễn xứ mênh mông, trông đợi tin tức con, nhớ mong được nhìn lại hình bóng đứa con thân yêu của mình!  Cha mẹ mong con mỏi mòn đôi mắt!  Cha mẹ đè nén tiếng bật khóc sâu vào lòng với đôi dòng lệ âm thầm, nhớ lại ngày tiễn biệt con ra ngõ:

Thuở ấy cầm tay mẹ dặn dò

Phố phường không phải dễ chi mô

Và đôi mắt mẹ rưng rưng lệ

Đôi mắt bây giờ đã héo khô

Mẹ còn trên cõi đời hay mẹ nay đã thành người thiên cổ, thì mẹ vẫn mang theo nơi lòng nỗi u hoài thương nhớ đến con.  Cho dù mẹ có vĩnh biệt cõi đời, nhưng lòng thương của mẹ vẫn như thuở nào cái đặc tánh trinh nguyên tợ đóa hoa hồng trắng thơm ngát.  Ai còn mẹ cha là còn cả đất trời tình thương, còn diễm phúc trọn hưởng nguồn an vui sung sướng bất tận:

Sung sướng nhỉ! Những người còn mẹ

Còn mẹ là còn cả đất trời

Rủi thay cha mẹ qua đời, người con cảm thấy lạc loài bơ vơ, thiếu hẳn sự ấm cúng của tình thương cha mẹ.  Tình thương cha mẹ là thứ tình thương ngọt bùi  bao la cao cả.  Mất tình thương cha mẹ thì không tìm đâu ra sự bù đắp.  Người sống ở đời mất tình thương cha mẹ như thuyền nan ở giữa biển khơi thiếu địa bàn, mất định hướng, không tìm được nơi bến đỗ.  Mất tình thương cha mẹ là mất hết suối nguồn an ủi dịu ngọt, như đất khô cằn, như cây trụi lá, như chim không cành, vết thương lòng này vĩnh viễn không có ngày bù đắp:

Đau đớn nhỉ! Những người mất mẹ

Mất mẹ là mất hết em ơi!

Cha mẹ còn, con nhìn đời đầy hương hoa sắc thắm vui đẹp.  Cha mẹ còn, con còn dịp nghe được thanh âm muôn điệu của trần gian.  Cha mẹ còn, lòng con được sưởi ấm an ổn với niềm hy vọng tương lai, chân trời tươi đẹp thênh thang, cỏ hoa trải rộng.  Cha mẹ còn là bài học cho con sống với đời bằng những lời khuyên nhủ an ủi dịu ngọt.  Cha mẹ còn, đời còn vui đẹp như ánh xuân dương buổi bình minh:

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi nhơn gian còn phiếm xuân cầm

Ai bảo em cuộc đời không đẹp

Khi em còn có mẹ trong tâm

Dù ngày nay con có lớn khôn vì kế sanh nhai hay vì lý tưởng mà phải xa cha mẹ, nhưng nếu lòng con lúc nào cũng hướng vọng tưởng nhớ mẹ cha như cha mẹ nhớ con, thì người con dù ở hoàn cảnh nào cũng cảm nhận được sự dịu hiền thơm mát an lành như liễu rũ mặt nước hồ trong không gợn sóng, như ánh trăng rằm trong mát:

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp mật như đường mía lau

Mẹ luôn luôn muốn gần gũi con, muốn nâng niu con, muốn săn sóc vỗ về con, dù cho nay con đã khôn lớn lập thành gia thất. Tình thương của mẹ dịu dàng như gió mát thoảng đưa cành cây kẽ lá.  Dù cây kia có gẫy cành cằn cỗi, nhưng gió vẫn không ngừng thoảng dịu đem khí mát lành đến cho hoa lá để nuôi cây.  Tâm tư của mẹ, tình thương của mẹ, hình bóng của mẹ như mây che mát bãi sa mạc, như cây che mát người lữ hành, như nguồn suối mát cho người khát nước.  Trong mọi hành hoạt của con đều có bàn tay giúp đỡ của mẹ.  Trong suốt cuộc đời của con đều có lời cầu nguyện của mẹ:

Ngày xưa mẹ vá con trong xanh

Mẹ dắt tay con đến học đường

Ngày nay không vá non sông rách

Mẹ tiễn chân con tận chiến trường

Nhưng mà thưa cha mẹ!  Cảnh đời đổi thay, nay còn mai mất!  Ruộng dâu cồn cát thoạt có thoạt không!  Nay vì vận nước nghiệp dân, con phải đem thân sống đời tha hương đất khách.  Nhưng lòng con lúc nào cũng vương vấn nhớ thương.  Hôm nay ngày Vu-Lan báo hiếu, hình bóng cha già mẹ yếu đang sống khắc khoải mỏi mòn đợi trông trên quê hương rách nát đói nghèo, do những kẻ vong bản tôn sùng lý thuyết phi nhân vô đạo mà tạo nên đất nước dân tộc tang tóc lầm than chưa từng có trong lịch sử dân tộc.  Quê hương đất mẹ, nơi đó chan chứa bao kỷ niệm êm đềm ngay từ tiếng khóc ban đầu:

Quê hương chan chứa tình thương

Tiếng yêu mẹ gọi như đường mía lau

Giờ đây nhớ tiếc thuở nào

Mẹ hiền mẹ gọi, lời chào của con

Mẹ cha ân đức như non

Giờ đây đâu nữa để còn mẹ ơi!

Giờ đây con sống xứ người

Lẻ loi chiếc bóng thiếu trời tình thương

Cửa thiền con nguyện con nương

Nguyện đem công đức cúng dường mẹ cha

Mỗi lần thấy lá chuyển màu vàng, từng chiếc lìa cành nhẹ rơi lặng lẽ nằm phơi trên mặt đất, là khiến cho lòng người con nhớ đến mùa Vu-Lan, bất giác cảm thấy bùi ngùi nhớ đến mẹ cha, cảm thấy lòng xót xa thương cha mẹ hơn bao giờ hết!  Một mình lặng lẽ trầm ngâm lắng lòng suy tư về một cảnh giới mông lung huyền ảo, một hiện tượng não nề chiếm lấy lòng người con thảo cháu hiền về sự sanh ly tử biệt.  Càng nghĩ càng thắm thiết nhân tình thế thái, hoài vọng cố hương, lòng kính thương cha mẹ trào dâng, bất giác miệng thốt lên lời thơ than thở của cổ nhân chan chứa ân tình hoài niệm:

Thiên tải tử tâm du bảo hám

Mỗi tùng thuyết hiếu thuyết ngoan ngân.

Nghĩa là:

Ngàn năm lòng con còn ôm hận

Mỗi lần nhắc hiếu nhớ mẹ hiền

Người con hiếu thảo cảm nhận ân tình sâu nặng của cha mẹ.  Tình thương của mẹ là thứ tình thương trong trắng trinh nguyên cao quý mà không có tình thương nào thay thế được.  Vợ hoặc chồng không may mất đi thì còn có thể tìm lại vợ hoặc chồng khác.  Chớ một khi cha mẹ khuất bóng rồi, thì không thể nào tìm lại cha mẹ.  Thuở xưa Tử-Lộ nhà nghèo ngày ngày phải đội gạo ra chợ bán để kiếm tiền phụng dưỡng cha mẹ già.  Tuy sống trong cảnh nghèo khổ vất vả, nhưng Tử-Lộ trên tay không lúc nào buông thả kinh sách.  Đêm đêm thức khuya chuyên tâm nghiên tầm học hành.  Đến khi Tử-Lộ thi đậu làm quan thì cha mẹ đã qua đời.  Nghĩ đến cha mẹ, Tử-Lộ ngậm ngùi than thở: “Mộc dục tịnh nhi phong bất đình.  Tử dục dưỡng nhi thân bất tại”.  Nghĩa là, cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.  Con muốn đền đáp nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, nhưng cha mẹ không còn nữa!

Thế thường người đời có lòng đền ơn đáp nghĩa mẹ cha thì cũng chỉ cung dưỡng cơm áo thuốc thang tiền bạc vật chất cho thế là đủ, chứ không mấy khi lưu tâm nghĩ đến sự giúp đỡ tinh thần cha mẹ khi từ giã cõi đời.  Thế nên, khi cha mẹ qua đời, con cháu thường hay giết hại sinh vật heo gà để bày tiệc tùng mâm cao cỗ đầy cúng tế rượu thịt, thết đãi bạn bè hỷ hạ say sưa, mà người chết chẳng những không hưởng được gì, làm như thế là vô tình tạo thêm tội lỗi cho người còn kẻ mất, thật ra chẳng được ích lợi gì.

Trái lại, đệ tử nhà Phật không những khi cha mẹ còn tại thế, con cháu ngoài bổn phận phụng dưỡng vật chất thuốc thang, quạt nồng đắp lạnh, tụng kinh cầu nguyện cho cha mẹ được tiêu tai giải hạn, tăng phước an lành, còn có bổn phận tận tình khuyến khích cha mẹ hành thiện, phát tâm quy y Tam-Bảo Phật, Pháp, Tăng, khuyên cha mẹ vận dụng khả năng quãng đời còn lại chuyên cần tu tâm dưỡng tánh.  Khi cha mẹ lâm chung, con cháu nén lòng buồn thương bớt khóc, không nên bày tiệc tùng rượu thịt cúng quảy.  Điều nầy vô tình đẩy người chết thêm sâu tội lỗi đọa đày.  Điều tốt nhất con cháu phải cố gắng một lòng trai giới tịnh tâm cầu nguyện, chay lạt đạm bạc, thành tâm cúng thất trai tuần, tụng kinh, niệm Phật, tập trung năng lực gắng sức làm nhiều phước thiện, cúng dường trai tăng, nhứt tâm hồi hướng tất cả công đức lành nầy đến cho cha mẹ để được siêu sanh cảnh Phật.  Như thế không những cha mẹ hiện đời được an vui, mà sau khi cha mẹ mãn phần lìa cõi đời nầy, hương linh cũng sẽ được tiêu diêu nơi miền Cực-Lạc.  Như bà Thanh-Đề được người con hiếu hạnh Mục-Kiền-Liên làm việc công đức phước thiện, cúng dường trai tăng nhờ công đức đó mà bà được sanh về cõi trời hưởng phước lạc.

Cách báo hiếu của đệ tử nhà Phật đã có hiệu năng thực tế khiến cho người mất được an vui thanh thoát nơi cảnh tịnh, đồng thời người còn cũng được tăng trưởng phước lành:

Mẹ cha là cả trời thương

Là nguồn sống của thiên đường trần gian

Mẹ cha về cảnh Niết-Bàn

Lòng con toại nguyện muôn ngàn nhớ thương

Những người con thảo cháu hiền, cho dù có sống nơi chân trời góc biển nào đi nữa, hễ mỗi độ thu sang rằm tháng bảy, mùa Vu-Lan thắng hội báo hiếu về, noi gương tiền nhân, gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên tôn-giả, người con hiếu hạnh muôn thuở đó, đã khai mở kỷ nguyên hiếu hạnh cho đời, lớp lớp nhân loại nhớ gốc nhớ nguồn tôn kính ca ngợi noi theo:

Hôm nay gặp lễ giải-đảo-huyền

Con nguyền theo gót Mục-Kiền-Liên

Chư Tăng tự tứ con cầu nguyện

Mười phương phụ mẫu giải đảo huyền

Vu Lan mười năm ly hương

Mới ngày nào đây, nay tính đã đầy mười đầu ngón tay.  Đã mười năm!  Mười năm trôi qua tựa hồ vừa ra giấc mộng.  Thời gian như thoi đưa!  Đã mười năm ly hương, mười mùa Vu-Lan thương nhớ ngậm ngùi đi qua như bóng câu cửa sổ, như áng mây chiều nhẹ trôi, như tấc bóng hoàng hôn không một chút lưu luyến đợi chờ!

Đã mười mùa Vu-Lan rồi, mà tôi vẫn còn ngồi nơi đất khách, đành ngậm ngùi đốt nén tâm hương cắm trên mảnh đất lạnh thiếu tình người nầy, mảnh đất không mồ mả ông cha, mảnh đất không mang một kỷ niệm tiếng khóc chào đời của tôi.  Vì đâu mà tôi phải xa lìa nơi chôn nhau cắt rún với nỗi lòng thổn thức tức tưởi nghẹn ngào?!  Vì đâu mà tôi đành phải chịu kéo lê cái kiếp sống tha phương lữ thứ lâu dài dằng dặc với tâm tư chua xót ngất tận trời cao, mà vẫn chưa biết ngày nào trở lại cố hương!  Nhìn lại những tháng năm đã qua, những người dân nước Việt, những người con dân tha thiết với đất nước non sông, những người con thảo cháu hiền của mẹ cha đã phải trải qua bao nỗi thăng trầm trong cuộc sống ly hương.  Sự thật thì đất nước còn đó, mà đành phải từ bỏ ra đi với nỗi uất hận nghẹn ngào.  Giờ đây, từ xa vạn dặm nơi đất khách quê người ngậm ngùi vọng trông đất mẹ.  Đời tôi có hai bà mẹ: Mẹ mang nặng đẻ đau cho tôi hình hài, ru cho tôi ngủ, dạy tôi ăn học nên người.  Và mẹ nơi chôn nhau cắt rốn, chứng kiến tiếng khóc chào đời, chuyên chở dân tộc trong đó có tôi để được sống còn và cất giữ hình hài ngàn năm im lặng.

Sống trên đất khách quê người phải nỗ lực xây dựng lại đời sống bằng sự bắt đầu với hai bàn tay trắng, sau những ngày xa lìa quê hương thập tử nhất sanh, vì tìm tự do.  Chính vì muốn có được đời sống tự do tiến bộ mà phải vượt trùng dương biển cả, phải băng qua núi rừng, tiếp theo đó là những ngày tủi nhục sống trên tàu bè và trong các trại tị nạn của ngoại quốc.  Khắp mọi chân trời góc biển, khắp trên mặt đất của quả địa cầu, hễ đã là người Việt-Nam còn trái tim rung động, còn cảm tình với quê hương dân tộc, thì không luận giàu nghèo đều cùng chung cõi lòng héo hắt buồn thương mỗi độ Vu-Lan về.  Đau buồn vì phải bỏ hết tài sản quyến thuộc, bỏ lại sau lưng bao kỷ niệm của nơi chôn nhau cắt rún đất mẹ, để nghẹn ngào đau xót nhận chịu kiếp sống vong quốc tha hương, dù được tiếp đãi ưu ái, cũng tự cảm thấy thân phận mình bị người xem nhẹ xem thường, trong lúc đất nước mình còn đó mà không ở được!  Con người tự xưng là cách mạng giải phóng đã hủy diệt những ngày êm đềm thân thiết yêu thương của quê hương dân tộc.

Người tha hương nhớ thương đất mẹ, vì xa lìa mồ mả ông cha nhang tàn khói lạnh, làng xưa cảnh cũ im lìm bóng ai.  Mái chùa hiền lành ấm cúng ngày xưa giờ đây lạnh lẽo, chuông chùa im bặt tiếng đồng vọng ngân nga.  Thầy tổ Tăng Ni bị đi đày, ngày đêm bị áp bức.  Cảnh thiền môn, Phật-Học-Viện, nơi đào tạo nhân tài mầm mống sống của đạo pháp giờ đây tiêu điều tan rã như chim vỡ tổ, dần dà đi đến suy tàn.  Xã hội Việt-Nam giờ đây dẫy đầy những con người không có trái tim, chuyên nghề chỉ điểm bắt bớ tù đày áp bức tàn hại nhau.  Trong lúc đó, nơi đây, nơi đất khách quê người nầy, đời sống người con dân nước Việt, đạo cũng như đời, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng, thân thể mệt mõi rã rời, thời giờ luôn luôn bận rộn hấp tấp, ngày ngày phải chấp nhận thực trạng cuộc sống xa lạ ngỡ ngàng, và lúc nào cũng thấy lạc lõng bơ vơ.  Ngước mắt nhìn bốn phương trời không thấy đâu là nơi quen thuộc thân yêu như những ngày còn sống trên đất mẹ quê hương.  Cho dù tìm đôi phút giây khuây khỏa hướng vọng quê hương để vơi nhẹ đi lòng thương nhớ, nhưng quê hương bên kia bờ Thái-bình-dương xa tít ngút ngàn trong làn khói mù sương thăm thẳm!

Nay nhân ngày rằm tháng bảy, ngày lễ Vu-Lan thắng hội, ngày xá tội vong nhân, ngày mọi linh hồn ở chốn u minh cũng như ở cảnh giới an lạc thanh tịnh, nhân ngày giải đảo huyền này mà được về dương thế để thăm con cháu.  Nơi đây, nơi phải sống ở đất khách quê người này, thưa cha mẹ, nơi mà con không ngờ lại có thể xảy ra trong đời con!  Con chỉ còn biết dâng trọn lòng thành khẩn thiết đốt nén tâm hương thỉnh mời cha mẹ về nơi dương thế để cho con được dịp hầu thăm, sau mười năm mồ mả nhang tàn khói lạnh.

Thưa cha mẹ,

Trên và trước hết con thành tâm sám hối với cha mẹ.  Từ ngày con đã lén cha mẹ trốn nhà ra đi để vào chùa tìm thầy học đạo.  Ở cái thời thơ ấu ấy, đầu còn để chỏm.  Con trốn ra đi để vào chùa hành điệu học theo hạnh Phật và nguyện đi theo con đường của đức Phật đã đi.  Nhưng con ra đi không một lời từ biệt cha mẹ làm cho cha mẹ lo lắng trăm chiều.  Điều này không tránh khỏi làm buồn phiền cha mẹ.  Nhưng con biết, nếu con thưa cha mẹ xin xuất gia đầu Phật cầu đạo giải thoát, thì chắc cha mẹ không bao giờ vui lòng ưng thuận để cho con được toại nguyện xuất gia tu hành.  Bởi ngày xưa cha của thái tử Tất-Đạt-Đa cũng đã ngăn cản Thái-tử xuất gia tầm đạo.  Và trên đời này đã có được mấy bậc cha mẹ hoan hỉ đồng ý để cho con mình đi xuất gia cầu đạo giải thoát đâu?  Cha mẹ nào mà chẳng thương con?  Cha mẹ nào có muốn xa lìa con?  Nhưng tình thương đó là tình luyến ái bịn rịn.  Tình thương ái nhiễm để phải mắc vào vòng sanh tử luân hồi.  Trăm ngàn bậc cha mẹ như một, đều thúc giục con cháu học giỏi, tìm công ăn việc làm, mong dựng vợ gả chồng để lập thành gia thất.  Nghĩa là thương mà vô tình đưa con cháu vào vòng phiền trược ái ân để rồi suốt kiếp đọa đày khổ lụy!  Nhưng cha mẹ lại tự mãn với điều phiền lụy buộc ràng đó.  Thật là rõ ràng, trên đời này đã có được mấy bậc cha mẹ khuyến khích con đi xuất gia học đạo giác ngộ đời, thoát ngoài vòng sanh tử luân hồi, để trở lại độ cha mẹ đâu?  Nhờ gương xưa của đức Phật làm cho con biết rõ điều đó, nên con buộc lòng phải trốn nhà ra đi, việc nầy làm cho cha mẹ thương nhớ buồn rầu.  Và sau đó thêm tám năm trời biệt vô âm tín, không dám liên lạc với cha mẹ, chỉ vì sợ cha mẹ biết được chỗ con hành đạo sẽ bắt con về nhà.  Điều biệt vô âm tín này đã làm cho cha mẹ nghĩ rằng con đã chết, nên lập bài vị hương khói cúng cơm.  Hôm nay đây, kỷ niệm mười mùa Vu-Lan trên đất khách, mười năm ly hương, con xin đem trọn cõi lòng thanh tịnh thương kính nhất dâng lên cha mẹ để cầu xin sám hối.  Và đồng thời dâng cúng cha mẹ tách trà thơm với nén hương lòng cùng đóa hoa hồng trắng tinh khiết nhất.

Thưa cha mẹ!  Cuộc sống của người xuất gia khi còn hành điệu cũng như ngày nay, lúc nào cũng là cuộc sống thanh đạm vật chất không thừa, nhưng tinh thần thanh thoát, tình thương có dư.

Người xuất gia thiếu ngũ dục lạc ở đời, nhưng thừa lòng từ bi và trí tuệ.  Chính từ bi và trí tuệ đã đưa con trở thành một người không giống với những người thế tục.  Người thế tục vui với vợ con nhà cửa danh vọng.  Một khi mất đi những thứ này thì như mất đi lẽ sống của họ.  Họ sẽ đau khổ cùng cực, nhìn cuộc đời như hoàn toàn băng hoại, đất trời sụp đổ.  Còn đời sống xuất gia tăng sĩ của con thì lấy giới hạnh đạo đức, lấy sự hoằng pháp lợi sanh làm lẽ sống.  Khi thấy mọi người hồi tâm hướng thiện quy y Tam-Bảo, phát tâm Bồ-đề, tin thiện ác nhân quả luân hồi, gia đình họ hòa thuận là con vui.  Nghĩa là, con vui cùng niềm vui của mọi người.  Ngược lại, những người bất hạnh không được no cơm ấm áo, không biết tin luân hồi, nghiệp báo, không biết tạo phước lành, không biết tin nhân quả là điều làm cho con buồn thương ưu tư cho họ.  Nghĩa là, con sống là sống cho mọi người được hạnh phúc.  Mọi người hạnh phúc là con cảm thấy hạnh phúc.  Mọi người khổ đau là con khổ đau.  Lấy mọi người làm thân bằng quyến thuộc của con.  Lấy việc hoằng dương phật pháp, đào tạo tăng tài là sự nghiệp của con.  Ngôi Tam-Bảo là gia đình của con.  Nghĩa là con tập sống như đức Phật đã sống, mở rộng lòng thương để cho sự thương yêu tràn ngập mọi cõi lòng người.  Để cho đời mọi người được an lành hạnh phúc trong niềm tin chánh pháp.

Thưa cha mẹ!  Khi cha mẹ biết được phần nào về đời sống hành điệu của con ở thời kỳ đầu còn để chỏm, cha mẹ đã xót xa rơi lệ, và con đã nghe cha mẹ than rằng: “Con ơi!  Nhà dư ăn dư để mà sao con vào đời sống tu hành làm chi để phải chịu khổ cực trăm bề!  Sao con không về ở với cha mẹ để được sung sướng hơn!”  Nhưng thưa cha mẹ, khi đó con nghe lời than của cha mẹ như vậy, lòng con không một chút mảy may xúc động, mà chỉ thầm thương cha mẹ chưa tỉnh ngộ, chưa thấu hiểu lý đạo nhiệm mầu!  Bởi vì cuộc sống nâu sồng thanh đạm ở chốn thiền môn của người tu, nó đã làm cho tinh thần con thoải mái, và đời sống con thanh thoát cao thượng hơn những người cùng lứa tuổi với con ở thế gian.  Cha mẹ thấy con tu hành sáng chiều kinh kệ, tương rau dưa muối đạm bạc, nâu sồng chay lạt, tưởng là khổ cực, mà thật ra đời sống thanh đạm với kỷ luật thiền môn quy cũ đó, con lại cảm thấy an lành thanh thoát làm sao!  Nếp sống thanh đạm vô tư lự, không ưu sầu lo lắng nó an vui vô ngần!  Trên đời có đến mấy ai cảm nhận được đời sống tỉnh thức giải thoát của người xuất gia!  Hoàn cảnh xuất gia đã là một môi trường làm cho tâm hồn con thanh thản, đời sống con giải thoát, cõi lòng con mở rộng bao la thương mình, thương cha mẹ, và thương tất cả mọi người.

Thái-tử Tất-Đạt-Đa đã hy sinh tình thương nhỏ hẹp của mình để trang trải tình thương cho tất cả chúng sanh và độ cả gia đình hoàng tộc xuất gia tu hành chứng được chánh quả, thoát vòng sanh tử luân hồi.  Mục-Kiền-Liên tôn-giả, sau khi quy đầu về Phật, tinh tấn tu hành chứng thành đạo quả, và đã cứu độ mẹ thoát khỏi chốn ngạ quỷ, sanh lên cõi trời  hưởng phước lạc an vui.  Đã biết bao nhiêu người đệ tử Phật trốn cha mẹ đi tu và làm tròn hiếu hạnh.  Con may mắn sớm được biết các ngài qua sách sử, phát tâm nguyện học theo gương các Ngài mạnh tiến trên con đường của các Ngài đã đi.  Sau khi cha mẹ qua đời, con đã đem bán hết tài sản của cha mẹ để lại, xây hai mộ đá cho cha mẹ và sắm sửa trai nghi cúng dường chư Tăng có bao nhiêu phước đức con đều hồi hướng cho cha mẹ được siêu thăng về cõi tịnh.

Con đã vâng theo lời Phật dạy.  Con cố gắng noi gương hiếu hạnh của Mục-Kiền-Liên tôn-giả, y theo chánh pháp làm hết tất cả những gì khả năng con có thể làm để hầu mong đền đáp ơn nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ trong muôn một.

Sau khi làm xong việc siêu độ để báo đền hiếu nghĩa, lòng con cảm thấy thanh thản nhẹ nhàng.  Rồi từ đấy, con không ngừng tinh tấn thăng tiến trên con đường tu học đạo giác ngộ, như thuyền thuận gió trên biển êm lướt sóng.  Mỗi khi gặp việc khó khăn, một mình trong đêm khuya thanh vắng, con quỳ trước điện Phật thành tâm khẩn cầu đức Phật, chư vị Bồ-Tát thiện thần gia hộ.  Con khẩn nguyện van vái giác linh cha mẹ giúp đỡ.  Nhờ vậy, mọi việc khó khăn nào, chậm mau rồi cũng qua.  Những việc khó khăn đó là việc khó khăn trong việc học, việc tu, có tánh cách tự độ.  Nguyên nhân của việc khó khăn nầy phần nhiều là hoàn cảnh bên ngoài đưa đến.  Với một tâm hồn đơn giản, một cõi lòng vô tư, con những tưởng chướng ngại của đời mình là do hoàn cảnh ở bên ngoài tạo nên thôi. Nhưng không ngờ sự thật của cuộc đời lại không phải đơn giản như con tưởng!

Thưa cha mẹ,

Khi con lớn, đọc thấy cuộc đời đức Phật, tất cả thời gian và năng lực suốt đời Ngài, Ngài trọn sống cho lý tưởng từ bi vị tha hoằng pháp lợi sanh.  Cao cả thay!  Vĩ đại thay!  Đấng giác ngộ như đức Phật, bậc siêu nhân, một con người muôn thuở.  Ngài là một con người như bao nhiêu con người.  Thế mà Ngài làm nên một con người vĩ đại siêu quần.   Đệ tử của Ngài như tôn giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất, Tu-Bồ-Đề, Ca-Chiên-Diên, A-Nan, Ca-Diếp, Ưu-Ba-Ly, Phú-Lâu-Na, v.v… cũng đã noi gương theo Ngài tu hành và cũng đã trở thành những con người vĩ đại.  Con nay cũng phát nguyện noi gương sáng của các Ngài, hiến thân cho hạnh nguyện hoằng pháp lợi sanh.  Nghĩa là con tập thực hành hạnh nguyện lợi tha để đem ánh đạo vàng và lời dạy của Ngài soi sáng cho đời con và đem soi sáng đến khắp mọi ngả đường trần thế, ngõ hầu báo ân đức Phật và đáp đền ơn nghĩa sanh thành của cha mẹ, thì không ngờ bao nhiêu chuyện nguy khó dồn dập đến với con gấp trăm ngàn lần tiếp sau ngày con phát nguyện.  Nhưng có điều lạ là kẻ gây khốn đốn cho con phần nhiều không phải là ngoại đạo, mà chính là những kẻ ăn cơm Phật, ở nhà Phật, mặc áo Phật, miệng giảng đạo lý nhân nghĩa Phật pháp.  Họ ác tâm đến độ quyết tâm làm cho Phật-Học-Viện tan tành thành tro bụi, tăng chúng ly tán.  Họ quyết tâm không những chỉ để nơi lòng không thôi, mà kế hoạch thành văn tự.  Nhưng Phật-Học-Viện vốn là nơi đào tạo tăng ni trở thành những người chân tu thật học để truyền thừa đạo pháp ngày mai.  Phật-Học-Viện còn là nơi cung cấp kinh sách cho Phật tử bốn phương, là nơi nương tựa tinh thần của hàng Phật tử.  Tăng chúng hiện đang tu học hiền lành và kinh điển toàn là hàm chứa lời Phật dạy, chứ có làm nên tội tình gì đâu, có làm gì sai chánh pháp đâu?  Mà sao những kẻ vô minh kia lại nỡ nhẫn tâm đến thế?

Thưa cha mẹ, con chưa từng gặp thấy một sự tàn nhẫn khủng khiếp nào quá đỗi kinh hoàng trong đời hành đạo của con như vậy!  Mỗi khi con gặp phải một việc khó khăn trong hạnh nguyện đào tạo tăng tài, hoặc gặp phải một trở ngại trên đường hoằng pháp lợi sanh, thì kẻ ác tâm rất vui mừng thích thú hả dạ như được thắng lợi.  Trái lại, mỗi khi con làm một việc hoằng pháp nào thành công thì kẻ ác tâm kia cảm thấy buồn khổ khó chịu.  Họ tìm đủ cách phá hoại bằng cách hoặc tung ra những lá thư, những điện tín phỉ báng, hoặc xúi giục người hăm dọa, hoặc xuyên tạc bôi nhọ, hoặc chụp mũ đủ điều!  Nghĩa là họ diễn đủ trò cố làm cho con lo sợ chán nản.  Họ tạo ra như vậy với quyết tâm đồng hóa con với ý đồ làm sao cho mọi người cũng tưởng con nhơ bẩn hạ đẳng như họ.  Nhưng họ đã lầm!  Gương đức Phật còn sáng ngời!  Gương ngài Phú-Lâu-Na còn rực rỡ!  Gương ngài Quảng-Đức còn nở hoa vô úy ngát hương.  Làm sao con lùi bước được khi mỗi ngày trước tôn dung đức Phật con đều đọc: “Đại hùng, đại lực, đại từ bi, hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc.  Linh ngã tảo đăng vô thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng.  Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước ca ra tâm vô động chuyển”.  Đây là tâm nguyện của tôn-giả A-Nan mà cũng là tâm nguyện của con.  Do vậy mà đối trước những sự kiện chướng ngại nguy khó đó, con chưa từng động tâm nao núng bao giờ, trái lại còn lấy chướng ngại làm phương tiện tôi luyện ý chí hùng tâm để hành đạo.  Con tin uy lực thần diệu của giới đức thanh tịnh đã tu.  Con tin sức linh thiêng nhiệm mầu nơi đức Phật.  Con tin sự sáng suốt của hàng Phật tử chân chính.  Con nghĩ rằng sự thật muôn đời vẫn là sự thật.  Chân lý muôn đời vẫn là chân lý.  Lẽ phải sẽ đánh bại tà ngụy.  Mây mù sẽ tan dưới ánh sáng mặt trời.  Con vẫn là người con của cha mẹ thuở nào.  Con trốn cha mẹ thoát ly gia đình trong chí hướng “bạt tục siêu phương, tâm hình dị tục, triệu long thánh chủng”.

Thưa cha mẹ,

Con đã phát nguyện trước đức Phật: “Con sống là sống trong giới đức thanh tịnh, trong tinh thần lợi tha, và con chết là chết cho đạo pháp cao siêu, cho hạnh nguyện vị tha từ bi hỷ xả”.  Nghĩa là, con nguyện không bao giờ làm nô lệ cho ích kỷ dục vọng, dứt khoát không ràng buộc bè phái địa phương, và cũng không bao giờ để tâm phiền muộn về những kẻ tham vọng trọng tự ngã hơn Phật pháp, đang tâm lũng đoạn chùa viện, khuấy phá hòa hợp tăng đoàn.  Con trọn vẹn tin tưởng giới đức thanh tịnh tu hành của Tăng-già.  Tăng ni sinh là mầm non và sức sống của đạo pháp.  Ngôi Tam-Bảo là nơi nương tựa tinh thần của dân tộc và mọi người.  Kẻ lũng đoạn tăng đoàn, làm ly tán tăng ni sinh là dập tắt nguồn sống của đạo pháp.  Kẻ xuyên tạc thị phi chùa viện là muốn tiêu diệt niềm tin, đồng thời cũng tự tiêu diệt hạt giống lành thiện của chính mình.  Tất cả những việc làm tổn thương đó đều xuất phát từ lòng tham vọng, tự ái, ích kỷ của kẻ vô minh.  Con thành tâm khấn nguyện lên đức Phật và chư Thánh-tử-đạo điểm quang soi sáng cho những tâm hồn thất đức kia sớm tin sâu vào nhân quả nghiệp báo, hầu tránh đào sâu thêm hố thẳm tội lỗi.

Con nghĩ rằng, tất cả những việc phụng sự đạo pháp là tùy nhân duyên.  Nhân duyên thuận hợp thì thành.  Nhân duyên phân ly thì tan.  Hào quang của đức Phật thì muôn màu.  Pháp môn tu của Phật pháp thì muôn vạn phương tiện, không ai có độc tôn tự cho mình trọn quyền nắm giữ.  Con nghĩ rằng, đời sống cao thượng là đời sống đầy đạo hạnh với một tâm hồn quảng đại bao dung.  Theo đó, con tin rằng, đời con chỉ có giới luật tô điểm cho con, và từ đó, con được thánh thiện hóa, thăng hoa cuộc sống trong nguồn tâm giác ngộ.  Ngược lại, nếu con nô lệ cho vô minh dục vọng, không khắc phục được phàm tâm tư lợi, ích kỷ, xem nhẹ những giới luật, khinh thường nhân quả luân hồi là chính tự con phản bội lời Phật dạy và cũng phản bội chính tâm nguyện con.  Như thế, con đã cô phụ ân nghĩa sanh thành dưỡng dục của cha mẹ.  Ấy là con tự đào huyệt chôn mình, tự phá hại đạo đức Phật tâm của con.  Nghĩa là, con quan niệm rằng, ngoài con ra, không ai đủ khả năng tô điểm cho đời con, cũng như không ai phá nổi hạnh nguyện của con được.

 

Đức Phật dạy: “Giới luật là con thuyền bát nhã, là ngọn đuốc soi đường, là hải đăng cho thuyền bè trên biển cả, là trăng, là sao bắc đẩu cho khách lữ hành trong đêm tối, là mặt đất bằng phẳng muôn vật từ đó mà sanh trưởng, là châu ngọc trang sức cho người”.  Ngài còn dạy rằng: “Các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.  Các con là hải đảo cho chính các con nương tựa”.  Đức Phật đã sống trọn vẹn với những lời Ngài nói.  Các đệ tử chứng thánh của Ngài cũng đã sống thực với lời Phật dạy mà được giác ngộ giải thoát.  Con hoàn toàn tin tưởng lời Phật, và tin rằng bàn tay và khối óc của mình sẽ quyết định cho cuộc sống thăng trầm, vinh nhục của con.

Thưa cha mẹ,

Đã mười mùa Vu-Lan ly hương, mười năm tủi nhục chồng chất bao vết thương lòng!  Nỗi tủi nhục mất nước vào tay cường khấu quỷ đỏ  chưa nguôi, lại còn chồng chất thêm nỗi buồn về người Việt ly hương, đạo cũng như đời, chia rẽ trầm trọng, bè phái, tự mãn, tự ái, cống cao, mưu đồ đem việc công để thỏa mãn cho danh lợi cá nhân, phục vụ địa phương bè nhóm tình cảm riêng tư, rồi hãm hại cấu xé nhau, chà đạp lên kỳ vọng và niềm tin của mọi người, tạo ra tình đồng bào xa cách nghi ngờ, tình huynh đệ tan rã, danh dự tối thượng của cộng đồng Phật giáo bị tổn thương băng hoại, khiến cho khách bàng quan khinh khi chê cười, người trong cuộc có tâm yêu đạo thương đời phải rơi lệ thầm than trước sự kiện cá nhân phá sản niềm tin của đoàn thể dân tộc, làm cho đạo pháp dần đến điêu linh.  Trạng huống này khiến cho người còn ở lại quê hương đã phải đau thương thất vọng não nề.  Ở hải ngoại, kẻ có tâm huyết phải xót xa ngao ngán.

Mười năm rồi, mười mùa Vu-Lan trôi qua, ngồi nhìn lại quá trình, ta thấy thực tế quá ư phũ phàng và tủi nhục!  Quê hương vẫn tiếp tục đổ nát đói nghèo chết chóc dưới nanh vuốt chế độ vô thần phi nhân, phi dân tộc!  Còn người ly hương ở đất khách thì chia rẽ không lường, đạo tâm suy vi, dân tình ly tán, hàng ngũ Phật giáo rã rời.  Kẻ ác tâm mang danh nghĩa nọ kia tìm đủ mọi cách phá phách xuyên tạc  với ý đồ triệt hạ những công trình  hoằng pháp thành tựu, bôi nhọ hủy báng những người đạo hạnh có lòng thực sự lo hoằng pháp lợi sanh, xây dựng niềm tin cho đạo pháp, được người kính trọng, có tâm ưu thời mẫn thế lo cho tương lai đạo pháp huy hoàng, lo kiện toàn đoàn thể, bồi đắp niềm tin dân tộc.

Thưa cha mẹ,

Con trọn đủ niềm tin nơi uy linh của đức Phật.  Con tin tưởng mãnh liệt sự linh thiêng của các Thánh-tử-đạo.  Con khẩn nguyện với anh linh dân tộc và hồn thiêng đất nước.  Con xin hứa với cha mẹ là cho dù trên đường hoằng pháp lợi sanh có gặp phải nguy khó đến tánh mạng đi nữa, con vẫn cương quyết hiên ngang quyết chí giữ vững bản nguyện sơ tâm xuất gia của mình là: “Thanh tịnh tinh tấn với chí nguyện cầu giác ngộ giải thoát trong sứ mệnh hoằng pháp lợi sanh, chứ nhứt định không bao giờ lùi bước trước những chướng ngại hiểm nguy để cầu an thân hưởng thụ, hay để mắc phải lợi danh mà bị đồng hóa trong bùn lầy tội lỗi, để rồi cô phụ những người đã chết vì đại nghĩa, phản bội lời nguyện trước Phật, vong ơn cha mẹ và làm mất niềm tin của người khác.  Con hiểu rõ thân xác này là giả tạm, danh lợi quyền uy là mộng huyễn có là chi!  Chơn tâm, huệ mạng mới là điều quý trọng”.  Xin cha mẹ chứng tri tấm lòng thành của con trong giờ phút linh thiêng của ngày Vu-Lan thắng hội.

Con còn nhớ lời Thầy con dạy ngày con còn là chú điệu đầu để chỏm: “Sống thì phải làm lợi ích cho đời, cho đạo.  Nếu làm hại đạo, hại đời thì sống chật đất tốn mất phần ăn của người khác.  Mình là đệ tử Phật, phải xứng đáng là đệ tử Phật.  Nếu không giúp được người an vui thì thôi, chớ tuyệt đối không nên làm người khác phiền khổ vì mình.  Phải biết phân định chánh tà để theo và để bỏ.  Phải biết tập tánh tùy hỷ công đức”.  Lời thầy con dạy cách đây gần 40 năm, nhưng lúc nào cũng hiện rõ trong tâm thức của con.  Ngày con đi du học ngoại quốc, trước giờ rời chùa để lên máy bay, con vào lạy từ biệt Đức-Tăng-Thống Thích-Tịnh-Khiết, với giọng trầm hùng Ngài dạy: “Đức-Niệm, ngày ông về chắc tôi không còn nữa.  Phật pháp sau này trên đôi vai ông gánh vác.  Ông hãy cố gắng”.  Các sư trưởng của con, Hòa-Thượng Trí-Thủ, Hòa-Thượng Thiện-Hòa, Hòa-Thượng Thiện-Hoa v.v… đã đưa con ra tận cổng chùa, vỗ nhẹ vào vai con, dịu dàng như bà mẹ hiền căn dặn: “Thầy Đức-Niệm, khi đi như lúc về, chiếc áo tràng vẫn giữ mặc trên thân, giới luật gắng giữ thanh tịnh, đêm đêm trước khi đi ngủ nhớ tĩnh tọa đọc bài Đại-Bi, Bát-Nhã.  Xa thầy, xa đại chúng, Đức-Niệm hãy cố gắng giữ mình hơn nữa.  Các Thầy đợi Đức-Niệm ngày thành công về nước cùng chung lo Phật sự”.  Lúc ấy đôi mắt con đã âm thầm ứa lệ, im lặng bái biệt thầy lần cuối cùng, trong giọng nói nghẹn ngào đứt quãng, con hướng về các bậc ân sư dâng lời từ biệt: “Xin thầy ở lại, để con tự đi một mình”.  Chiếc xe đưa con về hướng phi trường Tân-Sơn-Nhất, qua những con đường quen thuộc Sư-Vạn-Hạnh, Lý-Thái-Tổ, Trần-Quốc-Toản, Công-Lý v.v… để rồi từ đấy xa cách mãi.

Tuy đã hơn mười năm rồi, hình dung các bậc sư trưởng đã lần lượt vắng bóng trên cõi đời để về bên kia thế giới thanh tịnh.  Nhưng những lời dạy, lời khuyên của những bậc sư trưởng vẫn sống động nơi lòng con như ngọn đèn soi sáng, như bài kinh nhựt tụng.  Và chính những lời đó đối với con có lúc như khuyên nhủ vỗ về, có lúc như nhắc nhở cảnh tỉnh trên bước đường hành đạo.

Thưa cha mẹ,

Con nguyện trọn đời nhớ kỹ ghi dạ tạc lòng lời cha mẹ khuyên dặn, lời các bậc sư trưởng dạy bảo, lời đức Phật giáo huấn.  Tất cả những lời vàng ngọc này con nguyện mãi mãi nhập tâm tạc dạ, xin cha mẹ yên lòng vui sống trong cảnh tĩnh.

Làn khói trầm hương Vu-Lan quyện tỏa, đã đến giờ cha mẹ trở về bên kia thế giới sống trong cảnh tĩnh chân thường chân lạc chân ngã chân tịnh.  Con xin dâng lên cha mẹ đóa hoa hồng trắng tươi tinh khiết với tấc dạ chí thành.  Hoa hồng trắng tượng trưng cho tình thương của cha mẹ đối với con lúc nào cũng trinh nguyên muôn thuở, như mặt trời rạng rỡ ánh sáng lúc nào cũng chiếu soi sưởi ấm đến cho vạn vật, thì tình thương của cha mẹ đem đến cho con nguồn sống sưởi ấm muôn đời!

Mẹ cha là cả trời thương

Là nguồn sống của thiên đường trần gian

Mẹ cha về cảnh Niết-Bàn

Lòng con toại nguyện muôn vàn nhớ thương.

o Trí tuệ là kẻ thù của si mê

o Từ bi nhẫn nhục là kẻ thù của ích kỷ sân hận

o Tinh tấn là kẻ thù của giải đãi

o Nhớ gốc nhớ nguồn là kẻ thù của vong bản

o Hiếu trung là kẻ thù của bất hiếu bất trung.


 

Trở về Trang Tưởng Niệm HT Thích Đức Niệm

--- o0o ---
 

Đánh máy: Nhuận Giai. Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật ngày: 01-08-2006

Vi tính : Thích Đức Tuấn

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 1-09-2002

 


Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về trang Mục lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ: quangduc@quangduc.com
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544