Trang tiếng Việt

 Trang Nhà Quảng Đức

Trang tiếng Anh

Phật Học Cơ Bản


 

 

 

 

Tìm hiểu đại cương toát yếu

Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammatthasangaha)

  

 

   GIỚI THIỆU

   Tất cả giáo điển của Như Lai chỉ có một tâm điểm là làm cho chúng sinh giác ngộ, chứng đạo đạt đến giải thoát vượt qua sinh tử. Và trong muôn vạn lời dạy của Ngài hiển minh cao thấp sâu cạn tùy vào nhận thức căn tánh của mỗi chúng sinh. Điều đó nói lên giáo lý Như Lai là chân lý khế hợp trong mọi hoàn cảnh không gian thời gian mà đối tượng là con người, con người của tất cả mọi thời đại từ vô thủy đến nay.

   Trên nguyên lý như vậy, Kinh Phật là lời dạy của Thế Tôn đã được chư Thánh chúng đệ tử kết tập, rồi lý giải làm sáng tỏ nền giáo điển Như Lai huy hoàng siêu việt hơn. Việc làm này đã tạo thành những tạng luận vi diệu giải bày thắng nghĩa giải thoát; những vị luận sư nổi tiếng có công như vậy, điển hình như Ngài Long Thọ, Thế Thân, Vô Trước...

   Nơi đây chúng ta chỉ sơ lược đại ý nội dung của tạng thư A Tỳ Đàm của Ngài A Nậu Lâu Đà (Annuruddha) biên soạn, là vị Tỷ Khưu người Ấn sống thế kỷ VIII Tây lịch. Tập này toát yếu tóm lược giảng dạy cho các vị Tăng sinh theo Phật Giáo Nam Phương học tập, trước khi đọc vào 7 bộ luận thư cơ bản như: 1) Pháp Tụ Luận (Dhamma Sanghani), 2) Phân Biệt Luận (Vibhanga), 3) Giới thuyết Luận (Dhatu Katha), 4) Nhân Thi Thiết Luận (Pudgala Pannati), 5) Song Đối Luận (Yamaka), 6) Pháp Trí Luận (Patthana), 7) Thuyết sự Luận (Kathavasthu).

   Các Luận thư (Abhidharma) như vậy có thuyết kể rằng chính do Thế Tôn thuyết giảng cho thân mẫu của Ngài tại cung trời Đao Lợi là từng trời thứ 33 (Heaven of  the Thirty- Three). Lại cũng được cho rằng luận này được chư vị Luận sư uyên bác biên soạn; tất nhiên việc biên soạn này phải căn cứ theo lời dạy của Thế Tôn, và nhất là phải phát huệ chứng pháp mới biên soạn được, chứ không thể dùng kiến thức phân biệt thế gian (knowledge) mà hình thành được bộ Luận Vi Diệu này.

   Tuy nhiên thế nào đi nữa Abhidharma vẫn là giáo điển giải thoát là điều mà Thế Tôn gọi là phương tiện như chiếc thuyền đưa chúng sanh qua bờ giải thoát.

 

ĐỊNH NGHĨA:

Tiếng phạn gọi là Abhidhamma, tiếng Pali là Abhidharma. Từ nơi danh từ này tách ra hai chữ: Abhi là thù thắng, vi diệu, sâu thẩm... và Dhamma là pháp. Pháp bao gồm muôn sự muôn vật, nhưng ở đây riêng nghĩa là lời dạy của Như Lai.

Trung Hoa dịch ra nhiều từ như: Thắng pháp, Vô tỷ pháp, Đại pháp, Đối pháp... nhưng tất cả cũng chỉ nói lên đây là pháp vi diệu không thể tìm thấy pháp nào cao hơn hay so sánh bằng; và mục tiêu duy nhất của pháp này là giúp hành giả đạt được trí tuệ tối thượng.

  

  NỘI DUNG CỦA VI DIỆU PHÁP

   Vi Diệu Pháp xuất hiện là do có đối tượng người và vật, hay nói đúng hơn là do chánh báo và y báo của một chúng sanh mang hình ảnh một con người có tánh giác cao. Hay đúng hơn nữa chính sự nhận định sai lầm của con người về tâm và cảnh nên Vi Diệu Pháp ra đời, và sự ra đời để đưa con người nhận chân ra sự thật của thế giới nội tâm và ngoại giới. Và thế giới nội tâm và ngoại giới cũng phát xuất từ trong tâm của chúng sanh.

   Ở đây Vi Diệu Pháp đã làm một việc phân tích mở bày sự thật về con người, về đối tượng vạn pháp mà con người kinh nghiệm trải qua. Sự trình bày được cụ thể hóa bằng hình ảnh nhân quả nghiệp báo qua hành nghiệp và cảnh giới chúng sanh đang thọ nhận, chứ không phải là những giải bày bằng ngôn ngữ trừu tượng mơ hồ. Thí dụ do những tâm sở bất thiện nên sanh vào cảnh giới dục ái, thuần theo hành nghiệp ái dục từ quá khứ mà ra, và cảnh giới Niết Bàn thanh tịnh tuyệt đối cũng do từ tâm sở luôn hành thiện cho đến đạt được tuyệt đối gọi là siêu thế tâm (supra-mundane consciousness). Cho nên cũng có thể gọi đây là một môn triết lý hiện tượng học (phenomenology) về tâm và cảnh của chúng sanh; vì đây giải thích và đưa ra những kinh nghiệm những hành quả xảy ra trước và sau con người.

Để tìm hiểu và đi vào phân giải tiến trình pháp học này. Vi Diệu Pháp đã phân định Tâm con người phát động theo bốn thực tại như sau:

- TÂM (Consciousness)

- TÂM SỞ (TÂM PHỤ TÙY) (Cetasika – Mental State)

- SẮC PHÁP (Matter)

- NIẾT BÀN (Nibbana)

   Bốn thực tại này là chân lý, chân đế sự thật làm sáng tỏ nguyên nhân của một chúng sanh hiện hữu, qua hai phần tinh thần và vật chất mà thuật ngữ tâm lý học nhà Phật gọi là danh, sắc. Danh là tinh thần (thọ, tưởng, hành, thức), sắc là thể chất cơ bản thân thể con người (đất, nước, gió, lửa). Chính đây là nguyên lý cơ bản sinh khởi vấn đề của một dòng sống khổ đau hay hạnh phúc. Và như vậy nếu hiểu rõ nền tảng sinh khởi qua bốn thực tại này thì cái gọi là một dòng sống sẽ đạt đến một sự tự tại vượt lên, đó là thực tại thứ tư, là Niết Bàn chấm dứt sự sinh tử luân hồi. Ngược lại nếu không hiểu, tất nhiên và tuyệt đối tất cả mọi diễn trình hoạt động của thế gian từ tâm đến thân sẽ không ra khỏi luân hồi, và như vậy phải chịu theo cái gì là khôå cái gì là hạnh phúc thật tạm bợ của thế gian. Cho nên bốn sự thật này mà tạng thư gọi là tối hậu không giống và không theo quy ước đặt định của thế gian tương đối. Như thế không hiểu Vi Diệu Pháp tức bốn thực tại chân đế này, con người chúng ta trở thành mê mờ bám víu nô lệ vào tất cả những giả tạm đang hiện ảnh chung quanh đời sống, và điều đó tạo nên cuộc luân hồi chẳng bao giờ dứt đoạn.

 

NHẬN ĐỊNH BỐN THỰC TẠI CHÂN ĐẾ

 

I. TÂM (Citta) Consciousness

Nói về tâm là nói về sự nhận thức tích lũy từ việc tiếp xúc đối tượng, từ đó sanh khởi thành nghiệp, kết quả. Trong nghiệp và quả như vậy có thiện, ác, và không thiện, không ác sanh khởi.

Tuy nhiên hiểu đúng nghĩa tâm sanh khởi, phải hội đủ 4 nhân sau đây mới có thể đủ nghĩa gọi là tâm: 1. Nghiệp từ quá khứ, 2. Sở hữu tâm, 3. Cảnh, 4. Vật

1-     Vì do những việc làm những hành động từ quá khứ, cho nên đời nay mới có phản ứng mới tiếp tục hành động khiến phải tạo ra tâm thiện, tâm ác.

2-     Không thể đơn độc chỉ có một tâm mà nhận thức được, nghĩa là phải có những phụ thuộc tâm như hồi tưởng, tầm cầu... vì trong nhận thức hiểu biết một cái gì phải có những sự liên hệ của tâm nhận xét, hồi tưởng, mong muốn, ghét, ưa v.v...

3-     Không thể nhận thức, hiểu biết, tìm cầu, hồi tưởng, ghét ưa được nếu không có gì cả, như vậy thì vô lý vô nghĩa, thế thì bắt buộc phải có cảnh để làm đối tượng thì tâm mới phát khởi.

4-     Nhưng tâm phải có chỗ nương nhờ gá mượn mới có thể nhận thức thể hiện hành động cụ thể, vậy cả con người chúng ta là nơi nương nhờ đây, và sự nhận thức là do nương vào hệ thần kinh bộ não (tâm thức), cũng như sự thâý, sự nghe gọi là nhãn thức, nhĩ thức vậy.

Tạm hiểu nguyên lý căn bản sanh tâm như thế, vậy ta hiểu con người chỉ là một chuỗi nhân duyên vì ngay tâm là chính nhân sự sống của con người cũng còn lệ thuộc vào điều kiện nhân duyên, thì còn có gì để gọi là thân thể này, con người này là thật là ngã.

         Theo Thắng Pháp Tập Yếu, tất cả các tâm đều thuộc vào bốn cảnh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và Siêu thế. Và ở đây tâm chính gọi là tâm vương được liệt kê phân định như sau:

- Tâm bất thiện ( Immoral Consciousness )

- Tâm vô nhân (Moral Resultant Consciousness without Roots)

- Tâm tịnh quang (“Beautiful” Mental States )

- Sắc giới tâm (Consciousness pertaining to the Form – Sphere)

- Vô sắc giới tâm (Consciousness pertaining to the Formless Sphere)

- Siêu thế tâm (Supramundane consciousness)

Tâm bất thiện (Akusalacitta) thuộc dục giới, được chia làm 14 tâm: si, vô tàm, vô quí, trạo cử, tham, tà kiến, kiêu mạn, sân, tật đố, bỏn xẻn, hối quá, hôn trầm, thùy miên và nghi.

Tâm vô nhân (Ahetukacitta) được hiểu là hành động không đặt vào tâm hiện tại không có tham, sân, si, vô tham, vô sân, vô si, như thế không ai xúi bảo cũng không một động cơ nào. Tâm này phát sinh từ do nhân quả trong quá khứ. Tâm bất thiện vô nhân có bảy tâm. Tâm thiện vô nhân có tám và ba tâm hành vô nhân. Tất cả Tâm vô nhân có mười tám. Riêng tâm hành các vị La Hán đều có tâm này, còn gọi là Duy Tác, có nghĩa hành động mà không tạo nghiệp.

 Tịnh quang tâm (Sobhanacitta): là tâm hướng đến việc làm thiện tạo thành công đức quả báo thiện và giải thoát trong tương lai. Có tất cả là 59 tâm nếu tính giản lược như sau: Dục giới có 24, Sắc có 15, Vô Sắc có 8 và 8 tâm thuộc Siêu thế giới.

Sắc giới tâm (rùpàvacaracitta): đây là cảnh giới thiền mà người tu thiền đạt được. Có 2 loại thiền: Chỉ (Samatha và Quán (Vipassanà). Chỉ là dừng tâm vọng động sống trong tịch tỉnh, Quán là quán chiếu sự giả tạm vô thường của sự vật. Vào được cảnh giới này nghĩa là vào được năm tâm cảnh: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và Ngũ thiền. Trong trạng thái tâm từ sơ thiền đến ngũ thiền sự an trú hỷ lạc thay đổi khác nhau - mức độ lên cao chừng nào thì lạc thọ vi tế chừng ấy. Tuy vậy ở đây vẫn gọi còn hình sắc dù hình sắc vi tế.

Vô sắc giới tâm (Arùpàvacaracitta): cảnh giới tâm ở đây cao hơn sắc giới, và đương nhiên sự hỷ lạc an trụ lại càng vi tế. Nơi đây không có sắc, chỉ an trụ bằng tư tưởng. Hành giả đạt được cảnh giới này đó là nhờ tiếp tục thiền định từ cảnh giới sắc lên. Tuần tự chú tâm thiền định đạt được bốn tâm trong cảnh giới Không vô biên xứ thiện tâm, Thức vô biên xứ thiện tâm, Vô sở hữu xứ thiện tâm và Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện tâm. Ý nghĩa của bốn vô sắc giới tâm là đạt được từ quán tưởng sự yên tịnh thênh thang của hư không, cho đến sự nhận định qua thức suy tưởng không ngằn mé rồi đến không còn vật gì cả và cuối cùng là chẳng xác định được có tưởng hay không tưởng

Siêu thế tâm (Lokuttaracitta): là tâm đạt tới Thánh cảnh không còn phải thối tâm và không trở lại sinh tử như những tâm thiện vừa kể trên. Như vậy có nghĩa cảnh giới tâm thiện cao nhất như ở Vô Sắc Giới là Phi tưởng phi phi tưởng xứ vẫn còn phải bị sinh tử khi thọ báo cảnh giới đã mãn. Điều này nói lên hữu tình ở các cảnh giới sắc giới hay vô sắc giới vẫn còn vô minh tức chưa liễu sinh tử Niết Bàn. Thế thì tâm siêu thế ở đây cũng được gọi là tâm Niết Bàn. Tất nhiên còn có nhiều mức độ Niết Bàn trước khi đạt được Đại Niết Bàn của chư Phật.

Cũng nên hiểu thêm qua về Quả siêu thế tâm. Có bốn quả như sau: Dự lưu đạo tâm, Nhứt lai đạo tâm, Bất lai đạo tâm và A La Hán đạo tâm. Hành giả tu chứng được cảnh giới này là do thắng được phiền não tham, sân, si và quán tưởng thành tựu về các pháp là Vô thường, Khổ và Vô ngã.  Vị ấy sẽ tuần tự nhập vào dòng Thánh và quả đầu tiên là quả Thánh Tu Đà Hoàn hay còn gọi là Dự Lưu; vị này chỉ còn sanh lại bảy đời để trở thành A La Hán. Quả Thánh thứ hai gọi là Tư Đà Hàm chỉ còn một lần sanh lại đời để trở thành A La Hán. Quả thứ ba A Na Hàm gọi là bất lai nghĩa là không còn sanh lại nữa, hoặc sẽ đắc quả A La Hán ngay đời này hoặc sanh lên cõi trời thanh tịnh để đắc quả A La Hán.

Đó là tóm lược diệu dụng của Tâm vương là nguyên nhân chính, nhưng kết quả tâm vương đạt được được cảnh Thánh hay bị rơi vào cảnh khổ lại còn do từ những tâm sở tức là tâm phụ mà ra.

 

II. TÂM SỞ (TÂM PHỤ TÙY) (Cetasika – Mental State)

Còn gọi tâm phụ tùy. Những tâm này là yếu tố khởi lên và diệt đi cùng lúc với tâm khi tâm tiếp xúc với đối tượng.

Tâm sở được chia ra ra theo bốn nhóm: Biến hành tâm sở, Biệt cảnh tâm sở biệt, Bất thiện tâm sở và Tịnh quang tâm sở.

- Biến hành tâm sở: là những tâm hiện khởi bất cứ lúc nào và với tất cả tâm; gồm có: xúc, thọ, tưởng , tư, nhứt tâm, mạng căn, tác ý.

- Biệt cảnh tâm sở: hiện khởi lên tất cả loại tâm, nhưng không phải hết thảy tâm; gồm có: tầm, tứ, thắng giải, tinh tấn, hỷ, dục

- Bất thiện tâm sở: si, vô tàm, vô quý, trạo cử, tham, tà kiến, mạn, sân, tật, xan, hối, hôn trầm, thụy miên, nghi.

- Tịnh quang tâm sở (tâm thiện): tín, niệm, tàm, quý, vô tham, vô sân, trung tánh, tâm sở thư thái, tâm thư thái, tâm sở khinh an, tâm khinh an, tâm sở nhu nhuyển, tâm nhu nhuyển, tâm sở thích ứng, tâm thích ứng, tâm tâm sở tinh luyện, tâm tinh luyện, tâm sở chánh trực, tâm chánh trực. (19)

Cùng với 6 tâm có tính tiết chế (virati): Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng (tiết chế tâm sở) Bi, hỷ (vô lượng tâm sở) cộng với 19 vậy Tịnh quang tâm sở có tất cả là 25 tâm.

 

Như vậy trong tâm sở đều có tâm thiện và bất thiện. Do đó học hiểu tâm sở để nhận ra khi chúng phát khởi trong tâm; và khi nhận ra như vậy ta vừa kềm chế được, vừa thấy rõ tính chất vô ngã của thân và tâm; để hiểu rằng không có cái gì gọi là độc tôn độc ngã mà chỉ là những tràng tâm sở khởi lên rồi biến, rồi khởi...

Tóm lược có 52 loại tâm sở như vậy; và lại thấy tất nhiên phải có đối tượng để tâm sở khởi tác tạo nghiệp thiện và bất thiện, đó là phần sắc pháp tiếp theo.

 

III. SẮC PHÁP (Rùpa)- Matter : thực tại tối hậu thứ 3.

Theo Thắng pháp (Abhidhamma) có 4 nguyên nhân sanh khởi các sắc pháp, đó là: Nghiệp, tâm, thời tiết và thực phẩm (đồ ăn). Sắc pháp tạo thành từ tâm khởi tác nơi Dục giới, Sắc giới và sanh khởi trên tự thân người. Theo đó trong từ sát na tạo dẫn, nối tiếp tâm không dừng (kiết sanh tâm).

Càng lên cảnh giới cao sắc pháp càng vi tế; như cõi Dục giới có 28 sắc pháp, Sắc giới còn 23 và Vô sắc giới thì không có sắc pháp nữa, bấy giờ chỉ còn là tâm vi tế.

 Nơi đây chỉ đưa ra 18 sắc pháp được phân loại theo tự tánh và tự tướng ở cõi dục như:

4 - Đất, nước, gió, lửa

      Các loại phụ còn lại được phân định như sau:

5 - Giác quan: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân

4 - Hình thái đối tượng: Sắc, thanh, hương, vị. Riêng xúc được cho rằng chỉ là từ 3 nguyên tố đất, gió, lửa tiếp xúc nhau.

- Bản tánh sắc nam (giống đực)

- Ban tánh sắc nữ (giống cái)

- Tâm căn (ý thức căn bản)

- Mạng căn (năng lực sự sống)

- Dưỡng chất (chất dinh dưỡng nuôi sống)

Vậy thì hiểu được sắc pháp và tâm pháp một hành giả dựa theo thực hành tu niệm sẽ đạt được cảnh giới tối thượng đó là Niết Bàn.

 

IV. NIẾT BÀN: Thực tại tối hậu tuyệt đối thứ 4

Có lẽ định nghĩa đúng nhất là không có định nghĩa nào có thể định nghĩa được. Vì sao? Vì đó là kinh nghiệm thực chứng, chứ không phải là lý thuyết khái niệm ngôn từ biện minh. Hơn nữa thế giới chúng ta đang sống là thế giới dục, thế giới vô thường, khổ, không, vô ngã – thế giới còn đầy tâm sở thiện, bất thiện, lẫy lừng từng giây phút, vậy làm sao nói được biết được một thế giới lìa hết thảy tâm sở, kể cả lìa hết những khởi động của tâm.

Tuy nhiên dù sự thật như vậy, chúng ta vẫn có thể hiểu được; chỉ hiểu được chứ chưa thể kinh nghiệm được. Đương nhiên hiểu được là vì căn cứ sự giải bày phân giải bốn thực tại mà Luận tạng Thắng Pháp đã vạch ra.

Thế thì ta có thể hiểu Niết Bàn là không còn nữa những tâm sở những duyên trần trong 3 cảnh Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Và nói như thế, ta hiểu có hai loại Niết Bàn, một là còn thân (sắc pháp) tại thế, và hai là rốt ráo vô ngại. Các đệ tử Phật chứng Thánh quả A La Hán tại thế đã được Niết Bàn thứ nhất này, và khi thân mất đi sẽ hưởng Niết Bàn rốt ráo.

Vậy ngay đây ta hiểu chỉ đạt được Niết Bàn là bao giờ 3 thực tại là Tâm, Tâm sở, Sắc pháp không còn vướng bận với hành giả, và như thế thực tại tối hậu cuối cũng là Niết Bàn cũng không còn bàn đến nữa.

Như vậy xét ra tất cả chỉ là do ta, và cái ta chỉ là một chuổi nhân duyên, hoặc ra khỏi luân hồi hoặc dính mắc theo mắc xích mà tự tâm mình dính mắc; lại việc giải quyết đó là nhìn sâu vào ba thực tại như Tâm, Tâm sở, Sắc pháp để đạt được thực tại thứ tư là Niết Bàn. Như vậy cái gì còn lệ thuộc còn điều kiện cái đó không thể gọi Niết Bàn được, điều này Thắng Pháp đã nói đến lý nhân duyên.

 

Nhân duyên

Đó là tiến trình duyên khởi trong thế giới hữu vi, “cái này có nên cái kia có” và tất nhiên điều kiện hiện hữu sắc pháp tự phát nơi thân và tâm con người, sẽ không thể ra khỏi vòng nhân duyên đau khổ của một chúng sanh chưa giải thoát. Điều này là một chuỗi sanh khởi bắt đầu từ vô minh. Từ Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh-sắc. Danh sắc duyên Lục Nhập. Lục nhập duyên xúc. Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Aùi, Aùi duyên Thủ. Thủ duyên Hữu. Hữu duyên Sanh. Sanh duyên lão tử sầu bi khổ ưu não.

Như vậy khi hiểu các duyên dính mắc đó khởi đầu từ vô minh, thì ta cũng tự biết điều kiện và nguyên nhân nào phải xảy ra như vậy, đó là cách để hiểu và học Thắng Pháp.

 

KẾT LUẬN

Sơ lược phần nào nội dung Thắng Pháp Tập Yếu Luận, ta thấy hoàn toàn cái gọi con người chỉ là những yếu tố tập hợp, những duyên khởi của hai phần sắc pháp và tâm pháp làm nên, chứ không phải đơn thuần gọi rằng chỉ có Ta chỉ có Ngã là độc tôn là quyết định. Và như thế từ đó dẫn đến hiểu biết nhận thức sai lầm là có một linh hồn bất sanh bất diệt, như người chết đi thì đầu thai người, thú đầu thai thú.

Với sự phân tích giải thích từng tâm phụ tùy (tâm sở), thiện, bất thiện, hữu nhân, vô nhân,  tâm siêu thế, và những cảnh giới sắc pháp tương hợp với nhận thức của từng tâm niệm để rồi cho thấy nhân nghiệp quả báo của con người là những điều thực tế cụ thể khởi động phát xuất từ tâm -  Để rồi giúp ta không còn thắc mắc nghi ngờ những cảnh tượng, những phiền não khôå lụy thế giới chúng ta đang sống.

Tóm lại diễn biến của tâm còn phức tạp hơn những gì Luận Thư giải thích; nhưng tất cả điều giải thích là để làm sao cho con người biết con người, chính là sự hiện hữu từ một điểm chính là TÂM khởi động tự làm cho mình sáng suốt hay vô minh. Và đương nhiên thành phần làm ra con người còn có những nhân duyên mà tâm chiêu cảm ra để đủ gọi làm con người đau khổ, vui sướng. Cho nên trong Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng vạn pháp duy tâm tạo.

Tạm kết nơi đây để suy niệm tư duy việc hiện hữu của từng cá nhân chúng ta và để thực hiện những gì cần làm, để ít ra thế giới gần nhất của chúng ta là gia đình huynh đệ phải được hài hòa trước khi phóng cái nhìn xa đến bạn đồng loại cũng như tương lai kiếp sống tới.

 

Kính chúc tất cả sống trong thắng pháp.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Pháp Bảo ngày 10/5/2006

Thích Phổ Huân

 

 

Xin tham khảo thêm các tài liệu dưới đây

-Thắng Pháp Tập Yếu Luận của HT Thích Minh Châu tập I và II.

- Vi Diệu Pháp Toát Yếu của Narada Maha Thera – Phạm Kim Khánh dịch

- Vi Diệu Pháp Nhựt Dụng của Hòa Thượng Janakabhivamsa – Thiện Nhựt dịch

- Abhidhamma in daily life (Tâm Lý và Triết học Phật Giáo áp dụng trong đời sống hàng ngày) ĐĐ Thiện Minh dịch

- Abhidhamma Áp dụng – Như Nhiên dịch

- Vi Diệu Pháp giảng giải - Tỳ Kheo Giác Chánh.

- Vi Diệu Pháp nhập môn – Tỳ Kheo Giác Chánh

- Đại cương về “Thắng Pháp tập yếu luận” - Thích Tâm Thiện

 

 

 


(cùng một tác giả)

 

 

 

----o0o----
Cập nhật: 01-06-2012


Webmaster:quangduchomepage@gmail.com

                   Trở về Trang Mục Lục

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp cho Trang Nhà qua địa chỉ:
quangduchomepage@gmail.com
Địa chỉ gởi thư: Tu Viện Quảng Đức, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic. 3060. Tel: 61. 03. 9357 3544