THẬP BÁT LA-HÁN
Trước tác: Lâm Thế Mẫn.
Việt dịch: Thích Ðạo Luận.
--- o0o ---
Thập bát La-hán là căn cứ vào sách Pháp trụ ký, từ
mười sáu vị La-hán diễn biến thành. Mười sáu vị La-hán mặc dù có danh tánh
rõ ràng trong kinh điển nhưng thường người ta không nêu ra; còn về hai vị
được thêm vào thì mỗi người lại đưa ra mỗi ý kiến, chủ trương khác nhau,
khiến mọi người không biết nên giữ ý nào bỏ ý nào.
Thánh tích có liên quan đến cuộc đời trụ
thế, hoằng pháp của mười sáu vị La-hán thì bị thất lạc lung tung rất khó
thu thập lại; còn theo truyền thuyết dân gian thì không đáng tin lắm. Cho
nên, để viết quyển sách này, chúng tôi phải lặn lội khắp “thâm sơn cùng
cốc” tìm kiếm tư liệu. Song thiết nghĩ, kết quả thu được chắc chắn chưa
làm hài lòng độc giả lắm.
Không thể không thanh minh rằng tôi không
phải là người lập truyện thay các vị La-hán, mà tôi chỉ viết truyện La-hán
cho thiếu nhi. Tìm sử liệu khảo cứu chẳng phải sở trường nên tôi ít hứng
thú. Ðiều tôi quan tâm ở đây là chỗ thần thông biến hóa, muôn màu muôn vẻ
của các ngài.
Tuy nhiên, tôi mong sao cuốn sách này xuất
bản có thể gây thêm sự chú ý của nhiều người hữu tâm. Rất vui mừng đón
nhận những ai chỉ ra chỗ thiếu sót hoặc cung cấp thêm tư liệu, để quyển
sách này được hoàn bị hơn trong lần tái bản.
Cao Hùng 30- 4. PL 2527.
Lâm Thế Mẫn.
I. A-la-hán là gì?
Trong các tự viện Phật giáo ở
Trung Quốc, rất nhiều nơi tôn thờ tượng mười sáu hoặc mười tám vị La-hán.
Tướng mạo những vị này kỳ lạ khác thường, chẳng ai giống ai: có vị bụng
to, có vị gầy như que củi, có vị lông mày dài đến tận đầu gối, có vị mặt
đầy vết nhăn, có vị tai to mũi nhọn, có vị môi dày răng ít, có vị phong
thái đoan trang, có vị ngây ngây dại dại, có vị cầm chuỗi hạt, có vị cầm
gậy trúc.... Nhưng nói chung, hình dáng các ngài đều mang đậm sắc thái Ấn
Ðộ, không giống những người tu ở Trung Quốc. A-la-hán gọi tắt là La-hán,
nghĩa là “Bậc đáng được tôn kính”, hay còn gọi là “Tôn giả” ý nói bậc đầy
đủ cả tánh đức và trí tuệ. Trong kinh, La-hán có ba nghĩa:
1. Sát
tặc: là bậc đã diệt trừ sạch bọn giặc phiền não tham, sân, si, mạn, nghi,
phẫn hận, tật đố, thân kiến, biên kiến, hư ngụy, vị kỷ, hẹp hòi ... làm
phương hại đến sự thanh tịnh an lạc của nội tâm và gây cản trở cho chúng
ta tu hành.
2. Ứng
cúng: ý nói A-la-hán là bậc đáng được mọi người tôn kính cúng dường. Vì
sao? Vì các ngài thật chân tu, phạm hạnh, thành tựu vô lượng công đức,
phước huệ trang nghiêm, xứng đáng làm bậc mô phạm cho những hành xử và
ngôn hạnh của chúng ta.
3. Bất
sanh: qua thời gian tu khổ hạnh, bậc A-la-hán đã tận trừ tất cả phiền não
lậu hoặc, chấm dứt gây tạo ác nghiệp và không còn chuyển kiếp đầu thai thọ
khổ luân hồi.
II. Ảnh hưởng
của A-la-hán đối với Trung Quốc:
Từ khi
Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, những bậc thánh tăng La-hán đạo hạnh
cũng dần dần đi vào tín ngưỡng dân gian, sống gần gũi với nhân dân. Lúc
đầu, mọi người chỉ thấy hiếu kỳ và yêu thích hình tướng kỳ lạ khác thường
của các ngài. Nhưng sau đó, thấy khả năng phi hành biến hóa pháp lực vô
biên thì ca ngợi tán thán tỏ lòng ngưỡng mộ. Cuối cùng, cảm được tấm lòng
Từ bi, vị tha, cứu nhân độ thế của các ngài thì tỏ niềm cung kính. Do đó,
A-la-hán mặc nhiên được nhân dân tiếp nhận. Nhất là trong hội họa, điêu
khắc, thơ ca, tiểu thuyết Phật giáo đều dùng La-hán làm nhân vật và đề tài
cho rất nhiều câu chuyện. Ðến nay, Trung Quốc còn có không ít núi non,
thực vật, thức ăn, vật dụng... vẫn lấy La-hán để đặt tên như: núi có động
La-hán; cây có tùng La-hán; ẩm thực có rau La-hán, cơm chay La-hán; trang
phục có áo La-hán, giày La-hán.
III. Xuất xứ mười sáu vị
La-hán:
Y cứ
theo kinh điển ghi chép thì ban đầu chỉ có mười sáu vị La-hán. Ngày nay,
chúng ta thường nói mười tám vị La-hán là do sau khi Phật giáo truyền vào
Trung Quốc được thêm vào hai vị. Ðiểm này chúng tôi sẽ bàn lại ở phần sau.
Mười sáu
vị La-hán xuất hiện sớm nhất trong Pháp trụ ký,
quyển kinh thư do vị đại A-la-hán Nan-đề-mật-đa-la (Hán dịch là Khánh Hữu)
nói tại Srilanka. Dưới đây, tôi xin nói sơ lược về nội dung Pháp trụ
ký:
Sau khi
đức Phật Niết-bàn tám trăm năm, tại nước Sư Tử (nay là thủ đô của
Srilanka) có một vị La-hán tên Nan-đề-mật-đa-la đạo hạnh trang nghiêm,
biện tài vô ngại, có thể lý giải tất cả các nghi vấn để mọi người được an
vui. Vì thế, nhân dân trong nước đó rất tôn kính ngài.
Nhưng
một hôm, ngài nói với mọi người:
- Này
các vị! Trách nhiệm hoằng dương Phật pháp ở thế gian của tôi đã tạm xong,
không bao lâu nữa tôi sẽ xa các vị. Ai có thắc mắc gì thì cứ hỏi, tôi sẽ
giải đáp cho.
Nghe
vậy, ai cũng thương tiếc, tủi khóc sụt sùi. Thấy thế, ngài an ủi:
- Này
các vị! Vạn sự vạn vật trên đời có sanh ắt có diệt, có hợp ắt có tan,
chẳng vật gì thường trụ cả, xin chớ quá bi thương. Chỉ cần các vị nương
theo Phật pháp tu hành thì tự nhiên sẽ có kết quả. Tôi có sống trên đời
này hay không cũng có gì khác đâu!
Nghe
ngài nói, lúc này họ mới chịu nín khóc, hỏi:
- Thưa
tôn giả! Ngài sắp xa chúng con rồi, không biết còn có vị La-hán nào tiếp
tục lưu lại thế gian không?
- À, đương nhiên là có! Cách đây tám trăm
năm, trước lúc đức Thế Tôn sắp niết-bàn, Ngài đã đem chánh pháp vi diệu
phó chúc cho mười sáu vị La-hán cùng với đệ tử của họ, bảo họ tiếp tục lưu
lại nhân gian, dốc sức hộ trì hoằng dương để Phật pháp được trường tồn mãi
trên thế gian.
- Thưa tôn giả! Ðó là mười sáu vị La-hán
nào? – Mọi người thúc giục hỏi.
Thấy thế, Nan-đề-mật-đa-la nêu rõ danh
tánh và trú xứ của mười sáu vị La-hán. Ngài nói:
1. Tân-nộ-la-bạt-la-nọa-xà (còn gọi là
Tân-nầu-lô-phả-la-đọa), vị Tôn giả này trú tại Tây-cù-đà-ni Châu.
2. Ca-nặc-ca-phạt-sa, vị Tôn giả này trú
tại nước Ca-thấp-di-la.
3. Ca-nặc-ca-ly-nọa-xà, vị Tôn giả này trú
tại Ðông Thắng Thần Châu.
4. Tô-tần-đà,
vị Tôn giả này trú tại Bắc-câu-lô Châu.
5. Nặc-cự-la, vị Tôn giả này trú tại Nam
Thiệm-bộ Châu.
6. Bạt-đà-la, vị Tôn giả này trú tại
Ðam-một-la Châu.
7. Ca-lý-ca, vị Tôn giả này trú tại
Tăng-già-trà Châu.
8. Phạt-xà-la-phất-đa-la, vị Tôn giả này
trú tại Bát-thích-noa Châu.
9. Thú-bát-ca, vị Tôn giả này trú tại núi
Hương Túy
10. Bán-thác-ca, vị Tôn giả này trú ở cõi
trời Ðao-lợi.
11. La-hỗ-la, vị Tôn giả này trú tại
Tất-lợi-dương-cù Châu.
12. Na-già-tê-na, vị Tôn giả này trú tại
núi Bán-độ-ba.
13. Nhân-yết-đà, vị Tôn giả này trú tại
núi Quảng Hiếp.
14. Phạt-na-bà-tư, vị Tôn giả này trú tại
núi Khả Trụ.
15. A-thị-đa, vị Tôn giả này trú tại Thứu
Phong.
16. Chú-trà-bán-thác-ca, vị Tôn giả này
trú tại núi Trì Trục.
Có người hiếu kỳ hỏi:
- Thưa tôn giả! Nhưng sao tám trăm năm nay
không ai thấy hình dáng các Ngài?
- Mười sáu vị đại A-la-hán này cùng chư đệ
tử thường tham dự pháp hội khắp các tự viện. Có điều, khi các ngài quang
lâm, toàn bộ cách ăn mặc giống hệt như người thường nên hàng phàm phu mắt
thịt chúng ta không biết các ngài là đại A-la-hán đó thôi. –
Nan-đề-mật-đa-la đáp.
- Thưa ngài, đến khi nào thì mười
sáu vị La-hán ấy mới xa thế giới của chúng con?- Mọi người khẩn thiết
hỏi.
- Mười sáu vị La-hán phải ở mãi đến khi
nào thọ mạng con người sống đến bảy mươi ngàn tuổi, khi Phật pháp đã hưng
thịnh ở nhân gian thì các Ngài mới ra đi. Lúc ấy, mười sáu vị La-hán sẽ
vân tập lại một chỗ, vận thần thông dùng kim ngân, trân châu, lưu ly, pha
lê, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách các món bảo vật của thế gian kiến tạo
một bảo tháp, rồi thỉnh Xá-lợi của Phật an trí vào bên trong. Sau đó, các
ngài cùng chúng đệ tử bay lên hư không nhiễu quanh tháp, xưng tán Như lai,
rải các thứ hương thơm, hoa báu cúng dường rồi thưa với đức Phật: “Bạch
đức Thế Tôn! Nhiệm vụ Ngài giao, chúng con đã hoàn thành viên mãn. Bây
giờ, chúng con muốn chuyển sanh đến quốc độ khác để hoằng dương Phật
pháp”. Nói xong, các ngài dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân giữa hư không,
nhục thân cháy không còn mảy may. – Nan-đề-mật-đa-la tận tình trình bày để
mọi người hiểu rõ việc lưu lại thế gian của mười sáu vị La-hán.
Sau khi
Pháp trụ ký được pháp sư Huyền Trang dịch ra Hán văn, mười
sáu vị La-hán được đông đảo Phật giáo đồ Trung Quốc hân hoan đón nhận, ca
tụng nồng nhiệt. Nhưng trong kinh điển chỉ có mười sáu vị La-hán, không có
danh xưng Thập bát La-hán. Thế thì xuất hiện thêm hai vị nữa
là do đâu? Tên các ngài là gì? Lai lịch thế nào? Hành tung ra sao? Vì sao
các ngài được Phật giáo đồ đời sau chọn đưa vào hàng mười tám vị La-hán?
Thật ra,
mười tám vị La-hán là do từ mười sáu vị diễn biến phát triển, dần dần thêm
vào thành mười tám vị. Nguyên nhân chủ yếu là từ khi bắt đầu có hội họa,
tiếp đến là điêu khắc, sau cùng là văn học.
Vào thời
Ngũ đại, cách đây khoảng hơn một ngàn năm, tại Trung Quốc có họa sĩ Trương
Huyền vẽ tượng mười tám vị La-hán. Ðây là tượng mười tám vị La-hán sớm
nhất mà chúng ta được biết.
Ðến
triều nhà Tống, đại văn hào Tô Ðông Pha phát hiện những bức tượng đó ở đất
Ðam Nhĩ (tức Nam Hải sau này) nên cao hứng làm mười tám bài tán ca ngợi (Tán
là một thể văn cổ sau truyện ký, dùng văn tự ngắn gọn để ca tụng hay phê
bình thiên nhiên và con người), nhưng Tô Ðông Pha không ghi rõ tên từng
vị. Do đó, chúng ta chẳng biết hai vị La-hán mười bảy và mười tám trong
bức họa chung qui là ai.
Sau đó
không lâu, Hòa thượng Quán Hưu
cũng vẽ tượng mười tám vị La-hán. Khi Tô Ðông Pha từ Nam Hải trở về, lúc
đi ngang qua chùa Bảo Lâm ở Thanh Hiệp thì nhìn thấy bức họa này. Nhân
tiện, ông lại viết tiếp mười tám bài tán nữa. Ðiểm khác nhau giữa lần này
và lần trước là ở trước mỗi bài tán, Tô Ðông Pha
đều chú thích rõ ràng tên từng vị. Ông cho rằng vị thứ mười bảy là Tôn giả
Nan-đề-mật-đa-la, vị thứ mười tám là Tôn giả Tân-đầu-lô.
Ở đây, Tô Ðông Pha mắc phải một sai lầm không
nhỏ, đó là ông ta không biết “Tân-đầu-lô” chính là tên gọi tắt của
“Tân-độ-la-bạt-la-nọa-xà”, vị La-hán đầu tiên trong mười sáu vị. Như vậy
hóa ra chỉ một người mà lập lại hai lần, sơ suất này không thể chấp nhận
được.
Còn
tượng mười tám vị La-hán của Trương Huyền và Hòa thượng Quán Hưu vẽ thì vị
thứ mười bảy được thêm vào là Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la, người nói
Pháp trụ ký giới thiệu danh tánh, sự tích mười sáu vị La-hán; vị
thứ mười tám là pháp sư Huyền Trang, vị cao Tăng đời Ðường sang Ấn Ðộ
thỉnh kinh và là người phiên dịch Pháp trụ ký, làm như vậy
cũng không có gì là vô lý quá đáng. Sai là ở chỗ
Tô Ðông Pha đã bỏ ngài Huyền Trang mà trùng lập lại Tân Ðộ La Bạt La Ðọa.
Ðến đời Tống niên hiệu Hàm Thuần năm thứ năm
(CN 1269), ngài Chí Bàn
viết quyển Phật Tổ Thống Ký,
ngài không tán thành việc đưa Tôn giả Nan-đề-mật-đa-la vào hàng mười tám
vị La-hán, vì Tôn giả là người giới thiệu mười sáu vị La-hán, thời gian
cách nhau giữa các ngài đến tám trăm năm, thì làm sao có thể kết hợp ngài
với các nhân vật trong tranh được. Hơn nữa lại còn thêm vào Tôn giả
Tân-đầu-lô tạo nên sự trùng lập càng làm mất đi ý nghĩa. Do đó, ngài đề
xuất nên đưa hai vị Tôn giả Ca-diếp và Quân-đồ-bát-thán vào hàng mười tám
vị La-hán. Ngài Ca-diếp là một trong mười vị đệ tử lớn của Phật, và ngài
Quân-đồ-bát-thán cũng là vị đệ tử được đức Phật rất quý trọng. Lúc tuổi
xế chiều, đức Phật từng dặn:
- Ta
nay đã tám mươi tuổi rồi, sống cũng không còn bao lâu. Ca-diếp,
Quân-đồ-bát-thán, Tân-đầu-lô và La-hầu-la, bốn vị hành đạo giáo hóa sau ta
nên lưu lại ở đời một thời gian nữa, thay ta hoằng dương Phật pháp hóa độ
chúng sanh.
Ðến khi
mười tám vị La-hán được truyền vào Trung Hoa, Tây Tạng thì ngoài mười sáu
vị La-hán vốn có, người ta còn thêm vào cư sĩ Pháp Tăng (Ðạt-ma-đa-la) và
Bố Ðại hòa thượng. Pháp Tăng là người núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thường
ngày, ngài tôn thờ mười sáu vị La-hán và luôn được cảm ứng, ngày nào cũng
thấy Phật giữa mây phóng quang. Hình vẽ của ngài là lưng mang hòm kinh,
bên cạnh có con hổ nằm. Bố Ðại Hòa thượng
tương truyền là hóa thân của Bồ-tát Di
Lặc.
Trong
Bí điện châu lâm tục biên, quyển 4 cũng có tượng mười tám vị
La-hán. Vào đời nhà Thanh, vua Cao Tông từng viết lời ca ngợi vào bức họa,
nhưng vua thay Tôn giả Ca-diếp bằng Hàng Long La-hán và Tôn giả Di Lặc
bằng Phục Hổ La-hán, làm như vậy khác xa với những ý kiến ở phần trước.
Mặt khác, việc vua Cao Tông đưa hai vị Hàng Long, Phục Hổ thay ngài
Ca-diếp và ngài Di Lặc cũng có người không tán thành vì long và hổ là hai
con vật tượng trưng của Ðạo giáo, không quan hệ gì mấy đến Phật giáo.
Tổng hợp
những ý kiến trên, ta thấy sự xuất hiện của mười tám vị La-hán hoàn toàn
không có căn cứ trong kinh điển, chỉ do các họa sĩ ngoài mười sáu vị
La-hán lại vẽ thêm vào hai vị và được quần chúng tiếp nhận rộng rãi mà
thôi. Từ đó, mỗi khi nhắc đến La-hán là mọi người đều nói mười tám vị
La-hán, không ai nói mười sáu vị La-hán. Còn về hai vị được thêm vào là
hai vị nào thì do mỗi người mỗi ý kiến nên không ai tìm tòi nghiên cứu làm
gì.
V. Tượng thập bát
La-hán nổi tiếng xưa nay
Họa sĩ
các triều đại vẽ tượng mười tám vị La-hán nổi tiếng có: Tả Lễ đời Hậu
Ðường; Quán Hưu đời Tiền Thục; Lý Công Lân, Cù Nhữ Văn, Cổ Sư Cổ, Tăng Hải
Luân đời Tống; Triệu Mạnh Phủ, Phương Phương Hồ đời Nguyên; Cừu Anh, Ngô
Bân, Ðinh Vân Bằng, Tiền Cống, Lý Lân, Trần Phạm v.v... đời Minh.
Về
phương diện điêu khắc, sớm nhất có tượng mười sáu vị La-hán tại động Yên
Hà ở Hàng Châu do Ngô Diên Sảng nước Ngô Việt
tạc, gồm trong vách phải hai vị, vách trái mười vị, phía trước bốn vị. Ngô
Diên Sảng là em vợ của Tiền Nguyên Quán – vua nước Ngô Việt. Vào triều nhà
Tống, cũng tại động này, ông ta đã tạc thêm hai vị: một là Bố Ðại Hòa
thượng và một vị nữa không rõ tên, nhưng kỹ thuật vụng về không bằng mười
sáu vị La-hán trước.
Trên
toàn Trung Hoa đại lục cũng có nhiều nơi có phù điêu Thập bát La-hán
nổi tiếng như: chùa Linh Ẩn ở Hàng Châu, chùa Ngọc Phật ở Thượng
Hải, chùa Vạn Niên trên núi Nga My ở Tứ Xuyên v.v... Trong các tự viện tại
Ðài Loan cũng thường thấy như: chùa Kim Sơn ở Tân Trúc, thiền viện Linh
Tuyền ở Cơ Long. Phù điêu Thập bát La-hán hai bên trong chùa
Kim Sơn rất sinh động giống hệt như thật.
VI. Giai thoại về mười
tám vị La-hán
Tóm lại,
mười tám vị La-hán là do từ mười sáu vị diễn biến thành; hai vị được thêm
vào sau thì có nhiều ý kiến bất đồng. Hơn nữa, mười sáu vị La-hán, ban đầu
cũng có một số vị trong kinh điển hoàn toàn không có tư liệu nào rõ ràng
để tham khảo, thậm chí có vị chỉ có tên, ngoài ra chẳng biết gì thêm. Dưới
đây là những giai thoại rất sống động, thú vị về các vị La-hán được căn cứ
theo truyện ký của lịch đại các bậc cao Tăng, truyền thuyết dân gian và
ghi chép của các loại dã sử tổng hợp rồi cải biên thành. Hy vọng, nó sẽ
làm vui lòng quý độc giả.
--- o0o ---
Mục Lục
|
Phần 1
|
Phần 2
|
Phần 3
|
Phần 4
--- o0o ---
Mục Lục Pháp Tạng- 20
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-04-2004