Vũ trụ học Phật giáo
Tác giả :
Rev. Tri Ratna Priya Karuna
Dịch
Việt : Mỹ Thanh
(Nguyên tác : Buddhist Cosmology by
Rev. Tri Ratna Priya Karuna)
---o0o---
Chủ đề của buổi thuyết pháp
hôm nay là Vũ trụ học Phật giáo, một từ không khi nào nghe thấy
trong các buổi nói chuyện thường ngày. Thế thì Vũ trụ học là
gì ? Tự điển giải thích rằng đó là một ngành triết lý có liên
hệ đến nguồn gốc, sự tiến triển và cấu trúc của vũ trụ.
Điều nầy
nghe như một định nghĩa ghê gớm, mà sự thăm dò của ngành nầy ít
có liên quan đến những vấn đề mà chúng ta hằng ngày gặp phải.
Thật ra, vấn đề ngược lại thì đúng hơn, từ khi có sự hiểu biết
về những vận hành và quy luật của vũ trụ, và mô hình của quy
luật nầy đang mở bày ra để có thể cung cấp cho chúng ta, những con
người tầm thường, sự chỉ dẫn quý báu. Nếu chúng ta đủ sáng suốt để
đi theo sự hướng dẫn nầy, chúng ta sẽ tránh được những quyết định sai lầm
có thể dẫn đến những hậu quả không tốt, thay vì tiến triển đến các mục
đích tốt đẹp trong đời sống của chúng ta.
Thêm vào
đó, bởi trí tuệ vô hạn của Thầy chúng ta, đức Phật Sakyamuni
(Thích Ca) và những bậc trước đó đã xuất hiện trên thế gian
trước thời của đức Phật Thích Ca, chúng ta thật may mắn là những
người thừa kế một truyền thống vũ trụ học vĩ đại, đáng kính,
đáng sợ, hoàn toàn làm lu mờ những khái niệm tôn giáo Tây
phương. Kể cả trước thời của đức Phật, những nhà thông thái và
triết gia Ấn Độ qua sự tưởng tượng, sử dụng những sức mạnh siêu
phàm và sự trầm tư của một trí tuệ cổ xưa nhất đã có từ thời
tiền sử, đã xoay xở để đạt đến khái niệm của vũ trụ bao la,
của không gian, và thời gian không thể đo lường. Trên thực tế, họ
đã đạt đến một điểm – điểm vô tận.
Văn học
Phật giáo rõ ràng chứng minh sự thật là đức Phật, với Phật
nhãn, đã thanh lọc và hoàn hảo hoá sự hiểu biết về cái vô hạn
thực sự của vũ trụ cũng như thời gian dài không thể tính được
của thời quá khứ, hiện tại, và tương lai trong vòng tròn của
sinh diệt và hiện hữu. Vũ trụ được khoa học biết đến chỉ là
tầng thấp nhất của ba mươi mốt tầng, vũ trụ không thể đếm được,
vì không có khởi đầu.
Vũ trụ vật
chất bao gồm sự vô hạn định của nhiều hệ thống thế giới nằm rải
rác trong không gian vô định, mỗi thế giới đều thành hình và rồi
bị huỷ diệt trong vòng thời gian vô thuỷ vô chung.
Để cho các
đệ tử hiểu chút ít về ý nghĩa của số lượng lớn thời gian cần có, để
hiểu về cuộc sống mà họ hiện đang trải qua, đức Phật tuyên bố số lượng sữa
mẹ được uống và nước mắt đã chảy trong những kiếp sống trước còn nhiều hơn
nước trong bốn đại dương.
Khái niệm của
Phật giáo bao gồm chân trời to tát, rộng lớn với tầm nhìn vô tận, ngược
lại với khái niệm hạn hẹp của địa lý được tìm thấy ở văn chương tôn giáo
của Do Thái và Ả Rập (Semitic), đặc biệt là Kinh Thánh; theo lời của một
tác giả đương thời, “giống như bước ra một túp lều không cửa sổ và nhìn
lên bầu trời nửa đêm đầy sao”.
Chiều dài
không tính được của thời gian thế giới được nói đến như là một kiếp hoặc
một đại kiếp. Một kiếp được chia ra thành bốn thời gian ngắn, mỗi thời
gian rất dài, không thể đo lường kể cả bằng ngàn năm. Trong thời gian đầu
của một kiếp, hệ thống của những thế giới đã hiện hữu hoàn toàn bị tiêu
huỷ, hoặc chuyển thể sang những nguyên tố kết hợp. Phần đông chúng sinh
sống ở nhiều tầng hiện hữu khác nhau, được tái sanh ở thế giới của Phạm
Thiên, tầng hiện hữu cao nhất và tinh tế nhất, không bị huỷ diệt và tan
biến. Thời gian thứ hai của một kiếp bắt đầu, chúng ta tìm những phần tử
năng lượng còn lại, tiêu biểu hoàn toàn tính khách quan, và thế giới Phạm
Thiên và các chúng sinh sống ở đó, biểu hiện tính cách chủ quan, bị chia
cách bởi các thái cực của sự hiện hữu phi thường. Sự tách rời nầy tiếp tục
cho đến thời gian thứ ba của một kiếp đang hình thành. Trong thời gian
nầy, hệ thống thế giới tiến hoá từ những phần tử còn lại, trong khi số
đông chúng sinh thì từ trời Phạm Thiên thác sinh trở lại trên mặt đất tối
tăm và đầy nước. Điều nầy dường như không làm phiền đến các chúng sinh có
tâm thức ở từng trời Phạm Thiên, họ vẫn sống như họ từng sống, thân thể
sáng chói, được nuôi dưỡng bởi sự sung sướng và không có giới tính.
Với thời gian
dài vô tận, các điều kiện (nhân duyên) bắt đầu thay đổi. Cặn bã, với một
chút sôi sục của nước gạo, bắt đầu tụ lại trên mặt đất lạnh, và những sinh
vật của địa cầu bắt đầu nếm thử và thích thú với vị giác nầy. Niềm sung
sướng nầy dẫn đến sự ham muốn và dần dần họ nương tựa vào cặn bã nầy để
làm món ăn. Những con người ở đây thấy thân thể nhẹ nhàng của họ mất dần
ánh sáng, và trở nên nặng nề, thô kệch, và hình dạng và diện mạo của họ
bắt đầu biến đổi. Dần dần, nước phủ trên mặt đất rút xuống; sương mù biến
mất, và mặt trời, mặt trăng hiện rõ trên nền trời.
Với thời tiến
hoá liên tục, đầu tiên rêu mọc, rồi đến các cây bò sát, cây leo, và cuối
cùng là những hạt giống ăn được xuất hiện. Lúc con người học tồn tại nhờ
vào những nguồn thức ăn nầy, họ trở nên thô kệch, mất hết ánh sáng và nét
rạng rỡ. Và rồi, họ thay đổi, trở thành những giống khác nhau, cũng như
trở thành nam và nữ. Sự chia rẽ thành hai giới tính đưa đến tình trạng ham
muốn nhục dục, đam mê, và ganh ghét, và đồng thời hình thành nhóm gia
đình, và rồi sự thành lập xã hội. Hồ sơ vấy máu của vài chục ngàn năm vừa
qua, là bằng chứng cụ thể về tình trạng điển hình của thời kỳ cuối của
giai đoạn thứ ba của một kiếp.
Phần thứ tư
và cuối cùng của một kiếp là lúc hệ thống thế giới vẫn giữ ở nấc thang
phát triển mà nó đã đạt đến, cho đến lúc bắt đầu một kiếp mới, trong lúc
nầy cả tiến trình được lập lại. Dù muốn dù không, chúng ta cũng đang ở bên
lề giai đoạn thứ tư của kiếp hiện tại.
Cần phải thấy
rõ là tiến trình khó tin nầy chứa đựng một mâu thuẫn gây đau khổ : Khi hệ
thống thế giới đi theo con đường đưa đến sự tiến bộ rất cao về mặt vật
chất, mỗi một bước tiến về mặt vật chất kèm theo đó là một bước tuột dốc
về mặt tinh thần, hoặc tâm linh.
Nguyên tắc
nầy áp dụng cho toàn bộ hệ thống thế giới, và trái đất vô nghĩa nầy là một
phần trong hệ thống ấy. Hệ thống thế giới có khoảng 10.000 thế giới.
Có rất nhiều
hệ thống thế giới như nói ở trên, và chiều dài của một kiếp thật
là dài quá sức tưởng tượng, sự xuất hiện của đức Phật chỉ là
việc hiếm có, so với thời gian một kiếp. Có vài kiếp được xem là những
kiếp trống không vì không có vị Phật nào xuất hiện. Những kiếp khác may
mắn hơn có thể có một hoặc nhiều vị Phật. Hệ thống thế giới của chúng ta,
trong vòng nhiều kiếp được ưu đãi với 28 vị Phật, kể cả đức Sakyamuni
(Thích Ca Mâu Ni). Kiếp mà chúng đang sống được xem là 1 kiếp rất thịnh
vượng với năm vị Phật : Kusanda, Konagamana, Kasyapsa, Sakyamuni và
Maitreya, vị Phật tương lai.
Bây giờ chúng
ta hãy để tâm đến những chúng sinh thông minh, có tri giác của những loài
khác nhau đang hiện hữu trong vũ trụ của chúng ta, kể cả ở những vũ trụ
không thể đếm hết, qua những thời đại không thể đo lường. Mặc dầu, thông
thường thì chỉ có con người mới có thể giác ngộ, nhưng có những tầng hiện
hữu cao hơn và sung sướng hơn, có những chúng sinh được ưu đãi với vẻ đẹp,
sự sung sướng và quyền lực cao hơn loài người rất nhiều. Tái sanh ở những
thế giới nầy chỉ dành riêng cho những chúng sinh biết làm việc phước
thiện, và sống cuộc sống đoan chính. Tuy vậy, những tầng trời nầy không
thường hằng, và một khi nghiệp tốt đã hết, những sinh linh nầy sẽ phải đầu
thai lại làm người ở nơi trần thế.
Dưới cõi
trần, có vô số cấp bậc thấp, sống rất đau khổ, những tầng địa ngục khủng
khiếp, nơi đó các chúng sinh đã từng làm ác đang bị trừng phạt cho đến khi
họ thay đổi trở nên tốt hơn, và có mong ước được tiến triển nơi cõi người,
và nơi này là nơi duy nhất để có thể giác ngộ và đạt đến Niết Bàn.
Tuy vậy, như
chúng ta đã thấy, thời gian và không gian là vô định, và hoàn cảnh của một
chúng sinh trong đời sống đặc biệt nào đó chịu nhiều ảnh hưởng của nghiệp
quá khứ trong những kiếp trước. Năng lượng nghiệp quả này hình thành thiên
hướng, tính cách, và trong chừng mực đáng kể, ảnh hưởng đến tư cách và cá
tính của người này. Để có được sự lựa chọn còn tuỳ thuộc vào việc người
này bị khuất phục bởi năng lượng không tốt của quá khứ, và chẳng chịu cố
gắng để sửa đổi hành vi xấu của mình. Trong trường hợp này, kẻ này sẽ tái
sanh trong một tình trạng xấu hơn tình trạng hiện tại. Mặt khác, nếu người
này tìm hiểu về Phật tính, qua sự cố gắng để thay đổi khắc phục tính xấu,
và để cho ý thức vươn lên đến mức độ cao của trí tuệ, từ bi và sự sáng
suốt, kiếp tái sanh tới của người này không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ là một
tái sanh tốt đẹp, thuận lợi, với nhiều cơ hội để tiến triển đến mục đích
tối thượng – giác ngộ.
Do đó, con
người hoàn toàn chịu trách nhiệm về định mệnh của chính mình. Tất cả chúng
sinh đều nặng trĩu nghiệp, được tái sanh, để kinh nghiệm một cách không
ngừng nghỉ về sự chuyển đổi vận mệnh, được định sẵn hoàn toàn do những
chọn lựa, và hành động của họ trong những kiếp sống ở quá khứ. Đức Phật vì
trí tuệ và lòng từ bi đã tuyên bố về sự thực của vòng luân hồi mãi mãi
tiếp diễn cùng với đau khổ và sự bất như ý. Đức Phật muốn những người theo
Phật phải hiểu rõ hai nguyên nhân khủng khiếp không thể tránh khỏi cho
việc tái sanh không ngừng nghỉ, ấy là ham muốn và si mê. Ham muốn và si mê
chỉ bị khắc phục xuyên qua việc giác ngộ, đạt đến trí tuệ, và việc tái
sanh sẽ không còn nữa. Để giải thoát khỏi vòng luân hồi, dĩ nhiên mục tiêu
tiến đến là Niết Bàn.
Đức Phật mở
rộng những thảo luận về nhân duyên tái sanh ở bài giảng về mười hai nhân
duyên, được gọi là Pratitya Samutpada. Tương quan phụ thuộc của nhân
duyên, hay luật nhân quả của đạo Phật, được nói đến trong mười hai nhân
duyên đưa đến sự đau khổ triền miên và sự bám víu vào việc tái sanh. Mỗi
một nhân duyên trước dựa vào nhân duyên đã có trước đó. Như vậy, khi si mê
chấm dứt, thì các bố trí của nhân duyên cũng chấm dứt, ý thức dứt rồi, thì
tất cả mọi thứ như già, chết cũng như tái sanh đều dứt bặt hết.
Sau khi đức
Phật nhập diệt, cái thấy của đức Phật về luân hồi, vòng luân chuyển của
hiện hữu, cùng với mười hai nhân nhuyên được trình bày như một sơ đồ,
thường được thảo kỹ lưỡng, chi tiết trong bức hoạ, được gọi là Bánh xe
luân hồi (Wheel of Life). Dưới dạng biểu đồ nầy, sơ đồ biểu trưng kịch đời
của một người, với sự lựa chọn của họ và những kết quả tiếp sau đó. Như
chúng ta thấy sơ đồ tôi đang cầm trên tay, nguyên bánh xe được nắm giữ ở
miệng và nanh vuốt của Mara, trong trường hợp nầy biểu trưng cho sự vô
thường và cái chết. Ở chu vi của bánh xe, chúng ta thấy mười hai nhân
duyên và móc xích của nó. Ở trung tâm, chúng ta thường thấy biểu tượng của
ba độc : gà trống tượng trưng cho ham muốn, rắn tượng trưng cho giận
dữ-căm ghét và con heo biểu trưng cho ảo tưởng. Những độc nầy được xem là
những sức mạnh đẩy đưa chúng ta vào vòng sanh tử. Mỗi cá nhân phản ứng
theo những sức mạnh nầy tạo thành nghiệp, từ đây quyết định nơi nào trên
vòng bánh xe mà người đó sẽ bị tái sanh.
Như chúng ta
quan sát sơ đồ, có thể thấy rằng, có sáu thế giới để chúng sinh tái sanh.
Tái sanh ở cõi trời, cõi A-tu-la hoặc cõi người là phần thưởng cho cuộc
sống đoan chính, và những hành động phước thiện, trong khi tái sanh ở cõi
súc sinh, và ngạ quỷ hoặc địa ngục thì có thể xem là bị trừng phạt cho
cuộc sống đắm mình trong si mê, tội ác, chuyên hại người, và không cố gắng
vươn lên để đạt đến trình độ cao của ý thức. Tuy vậy, như tôi đã nói trước
đó, cuộc sống ở địa ngục có thể kéo dài trong một thời gian khác thường,
rất là lâu , nhưng may mắn thay, không phải vĩnh viễn. Tái sanh trong ba
cõi thấp nhất có thể được xem là tình thương cứng rắn của đức Phật, xem
như là một dạng để dạy dỗ và cải thiện những người nầy, như vậy sau khi
nghiệp xấu đã trả xong, họ có thể tái sanh làm người.
Cõi người,
cho dù thấp hơn cõi trời và cõi A-tu-la, cũng vẫn quan trọng hơn, vì chỉ
nơi cõi người, trí tuệ và đức hạnh mới có thể tăng trưởng. Như đã nhắc qua
lúc trước, các chúng sinh tái sanh ở hai cõi cao kia, cũng chỉ là tạm
thời, đó là phần thưởng của họ ở kiếp sống đạo đức trong quá khứ. Tuy
nhiên, một khi nghiệp tốt đã hết, họ sẽ bị tái sanh ở cõi thấp hơn. Sự
trục xuất này đưa họ ra khỏi tình trạng hưởng thụ, đặc ân, có thể nói là
cực kỳ đau đớn.
Do đó, tất cả
các cõi luân hồi với sự thay đổi, đau khổ và cái chết là những việc không
ai ưa thích. Chỉ duy nhất một mục đích, thường hằng và muốn giải thoát
vĩnh viễn khỏi đau khổ, cách tốt nhất là giác ngộ. Đó là sự giải thoát
khỏi bánh xe luân hồi. Đấy là Niết Bàn, giải thoát khỏi tái sanh, và
chuyển hoá hoàn toàn vòng sinh tử ác nghiệt mà chúng ta gọi là luân hồi.
Cho nên, Phật
đã từng ném vào mỗi cá nhân, một câu nói đã từng vang vọng qua hàng thế
kỷ: “Đây là con đường đưa đến giải thoát khỏi đau khổ. Hãy bước đi.”
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập
nhật: 1-9-2006