-
- KINH
PHÁP TRANG NGHIÊM
- (Dhammacetiyasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở giữa dân
chúng Sakka (Thích-ca). Medalumpa là một thị trấn của dân chúng Sakka. Lúc bấy
giờ, vua Pasenadi nước Kosala đi đến Nangaraka vì có một vài công việc. Rồi
vua Pasenadi nước Kosala nói với Digha Karayana:
– Này Karayana, hãy sửa soạn các
cỗ xe thù thắng, ta muốn đi đến các thượng uyển để ngắm phong cảnh.
– Thưa vâng, Đại vương.
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước
Kosala, cho sửa soạn các cỗ xe thù thắng, rồi thưa với vua Pasenadi nước
Kosala:
– Tâu Đại vương, các cỗ xe thù
thắng của Đại vương đã sửa soạn xong, nay Đại vương hãy làm những
gì Đại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên
một cỗ xe thù thắng, đi ra khỏi Nangaraka cùng nhiều cỗ xe thù thắng
khác, với tất cả uy vệ của vua chúa, và đi đến vườn thượng uyển,
đi xe cho đến chỗ còn đi xe được, rồi xuống xe đi bộ, vào vườn thượng
uyển. Trong khi đi qua đi lại trong vườn (thượng uyển), trong khi tản bộ
thưởng ngoạn, vua Pasenadi nước Kosala thấy những gốc cây khả ái, đẹp
mắt, lặng tiếng, ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội
đông đảo, thích hợp với trầm tư mặc tưởng. Thấy vậy, vua liền
nghĩ đến Thế Tôn: "Những gốc cây khả ái, đẹp mắt, lặng tiếng,
ít ồn, vắng người, thoáng gió, xa lánh mọi tụ hội đông đảo, thích hợp
với trầm tư mặc tưởng này, chính tại đây, chúng ta đảnh lễ Thế Tôn,
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác". Rồi vua Pasenadi nước Kosala nói với
Digha Karayana:
– Này Karayana, những gốc cây khả
ái... (như trên)... Chánh Đẳng Giác. Này Karayana, nay Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trú tại chỗ nào ?
– Tâu Đại vương, có một thị
trấn của dân chúng Sakka tên là Medalumpa. Tại đấy, Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đang trú.
– Này Karayana, Medalumpa, thị trấn
của dân chúng Sakka, cách xa Nangaraka bao nhiêu ?
– Tâu Đại vương, cách không xa,
có ba yojana (do tuần). Có thể đi đến chỗ ấy trong ngày.
– Vậy này Karayana, hãy sửa soạn
các cỗ xe thù thắng, chúng ta sẽ đi yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác.
– Thưa vâng, tâu Đại vương.
Digha Karayana vâng đáp vua Pasenadi nước
Kosala, cho sửa soạn các cỗ xe thù thắng, sau khi sửa soạn xong các cỗ xe
thù thắng, liền tâu với vua Pasenadi nước Kosala:
– Tâu Đại vương các cỗ xe thù
thắng đã sửa soạn xong, nay Đại vương hãy làm những gì Đại vương
nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, leo lên
một cỗ xe thù thắng, và cùng với các cỗ xe thù thắng khác, từ
Nangaraka đi đến Medulampa, thị trấn của dân chúng Sakka, đến nơi đó nội
trong ngày, rồi đi đến tịnh xá. Vua đi xe cho đến chỗ nào có thể đi
xe được, rồi xuống xe đi bộ vào tịnh xá. Lúc bấy giờ một số đông
Tỷ-kheo đang đi kinh hành ngoài trời. Vua Pasenadi nước Kosala đi đến các
Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, thưa với các Tỷ-kheo ấy:
– Chư Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ở đâu ? Chúng tôi muốn yết kiến Thế Tôn, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
– Thưa Đại vương, Thế Tôn ở
trong ngôi nhà này với các cửa khép kín. Hãy im lặng đến gần, bước vào
hành lang nhưng không vượt qua, sau khi đằng hắng, hãy gõ vào khóa cửa.
Thế Tôn sẽ mở cửa cho Đại vương.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala, ngay tại
chỗ ấy, trao kiếm và vành khăn cho Digha Karayana. Rồi Digha Karayana tự
nghĩ: "Nay vua muốn đi một mình. Ở đây, ta phải dừng lại". Rồi
vua Pasenadi nước Kosala im lặng đi đến căn nhà đóng cửa, sau khi đến,
bước vào hành lang nhưng không vượt qua, đằng hắng và gõ vào khóa cửa.
Thế Tôn mở cửa. Rồi vua Pasenadi nước Kosala bước vào căn nhà, cúi đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn, miệng hôn xung quanh chân Thế Tôn, tay xoa rờ xung
quanh chân và tự xưng tên:
– Bạch Thế Tôn, con là vua
Pasenadi nước Kosala. Bạch Thế Tôn, con là vua Pasenadi nước Kosala.
– Thưa Đại vương, do thấy nguyên
nhân gì, Đại vương lại hạ mình tột bực như vậy đối với thân này
và biểu lộ tình thân ái như vậy ?
– Bạch Thế Tôn, con có pháp truyền
thống (Dhammanvaya) này đối với Thế Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng
Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, chư Tăng đệ tử của Thế Tôn
khéo tu tập hành trì". Ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy nhiều vị
Sa-môn, Bà-la-môn hành trì Phạm hạnh có giới hạn trong mười năm, hai
mươi năm, ba mươi năm, bốn mươi năm. Những vị này, sau một thời gian,
khéo tắm, khéo phấn sáp, với râu tóc khéo chải chuốt, sống thụ hưởng
một cách sung mãn, đầy đủ năm dục trưởng dưỡng. Ở đây, Bạch Thế
Tôn, con thấy các Tỷ-kheo sống hành trì Phạm hạnh viên mãn, thanh tịnh
cho đến trọn đời, cho đến hơi thở cuối cùng. Bạch Thế Tôn, con
không thấy ngoài đây ra có một Phạm hạnh nào khác viên mãn, thanh tịnh
như vậy. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế
Tôn. "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác. Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
chư Tăng đệ tử, Thế Tôn khéo tu tập, hành trì". Lại nữa bạch Thế
Tôn, vua chúa cãi lộn với vua chúa, Sát-đế-lỵ cãi lộn với Sát-đế-lỵ,
Bà-la-môn cãi lộn với Bà-la-môn, gia chủ cãi lộn với gia chủ, mẹ cãi
lộn với con, con cãi lộn với mẹ, cha cãi lộn với con, con cãi lộn với
cha, anh em cãi lộn với anh em, anh em cãi lộn với chị em, chị em cãi lộn
với anh em, bạn bè cãi lộn với bạn bè. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con
thấy các Tỷ-kheo sống với nhau thuận hòa, thân hữu, không cãi lộn nhau,
hòa hợp như nước với sữa, nhìn nhau với cặp mắt ái kính. Bạch Thế
Tôn, con không thấy ngoài đây ra, có một Phạm hạnh nào khác viên mãn,
thanh tịnh như vậy. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối
với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn
khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập, hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con đi du hành tản bộ từ công viên này đến công
viên khác, từ cung uyển này đến cung uyển khác. Ở đấy, con thấy một
số Sa-môn, Bà-la-môn gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân
nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Bạch Thế Tôn,
con suy nghĩ như sau: "Thật sự các bậc Tôn giả này sống Phạm hạnh
không được hoan hỷ hay có những ác nghiệp được giấu kín. Do vậy,
các vị Tôn giả này mới gầy mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay
chân gân nổi, hình như không có gì đẹp mắt để người ta nhìn. Con đi
đến các vị ấy và nói:
"– Vì sao chư Tôn giả lại gầy
mòn, khốn khổ, da xấu, bạc nhợt, tay chân gân nổi, hình như không có
gì đẹp mắt để người ta nhìn ?".
Các vị ấy trả lời như sau:
"– Tâu Đại vương, chúng tôi
bị bệnh gia truyền".
Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy
các Tỷ-kheo hân hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động,
bình tĩnh, sống dựa vào (sự hỷ cúng) của người khác, với tâm tư như
con thú rừng. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật sự các bậc
Tôn giả này ý thức được một sự tối thắng thù diệu nào trong giáo
lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự nên các bậc Tôn giả này hân
hoan, phấn khởi, hỷ lạc, các căn thoải mái, không dao động, bình tĩnh,
sống dựa vào (sự hỷ cúng) của người khác, với tâm tư như con thú rừng.
Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn:
"Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con là một
vị vua Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh, có thể hành quyết những ai
đáng bị hành quyết, gia phạt những ai đáng bị gia phạt, trục xuất những
ai đáng bị trục xuất. Nhưng bạch Thế Tôn, khi con ngồi xử kiện, có người
đôi khi nói ngắt lời của con. Và con không có dịp để nói: "Này
Quý vị, chớ có ngắt lời nói của ta, khi ta đang ngồi xử kiện. Quý vị
hãy chờ cho đến khi ta nói xong". Bạch Thế Tôn, thế mà có người vẫn
ngắt lời nói của con. Còn ở đây, bạch Thế Tôn, con thấy các Tỷ-kheo,
trong khi Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, trong khi ấy
không có một tiếng nhảy mũi hay tiếng ho khởi lên. Bạch Thế Tôn, thuở
xưa, trong khi Thế Tôn thuyết pháp cho đồ chúng hàng trăm người, có người
đệ tử Thế Tôn ho lên. Một đồng Phạm hạnh khẽ đập vào đầu gối
và nói: "Tôn giả hãy im lặng, Tôn giả chớ có làm ồn. Thế Tôn, bậc
Đạo Sư của chúng ta đang thuyết pháp". Bạch Thế Tôn, con khởi lên
ý nghĩ như sau: "Thật vi diệu thay ! Thật hy hữu thay ! Thính chúng này
thật khéo được huấn luyện, không gậy, không kiếm. Bạch Thế Tôn, con
không thấy ngoài đồ chúng này có một đồ chúng nào khác được khéo huấn
luyện như đồ chúng này. Bạch Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của
con đối với Thế Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được
Thế Tôn khéo giảng, đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành
trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy
ở đây một số Sát-đế-lỵ bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện
bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này, chỗ kia, như muốn
đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe:
"Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ
sắp đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi
này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này,
thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này. Khi bị ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn
Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia".
Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng hay thị trấn
này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp
thoại khai thị cho các vị này, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ. Được Sa-môn Gotama, với pháp thoại khai thị, khích lệ, làm cho phấn
khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước),
huống nữa là chất vấn ! Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn
Gotama. Bạch Thế Tôn, như vậy là pháp truyền thống của con đối với Thế
Tôn: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng,
đệ tử chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, con thấy
ở đây một số Bà-la-môn bác học... (như trên)... Gia chủ bác học,
Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi
tóc, những vị này đi chỗ này chỗ kia như muốn đả phá các tà kiến...
(như trên)... họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống
nữa là chất vấn. Trái lại, họ xin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình. Thế Tôn cho họ được xuất gia. Được xuất gia như vậy,
một số các vị ấy sống một mình, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần
và không bao lâu sau, tự chứng với thắng trí, chứng ngộ chứng đạt và
an trú ngay trong hiện tại mục đích tối thượng của Phạm hạnh mà những
Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng
đến. Họ nói như sau: "Thật sự chúng ta gần hoại vong ! Thật sự
chúng ta gần hoại diệt ! Xưa kia chúng ta không phải Sa-môn lại tự xem
là Sa-môn, không phải Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải bậc
A-la-hán lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay
chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán". Bạch
Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế
Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử
chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Isidatta
và Purana là hai quan giữ ngựa, ăn cơm của con, đi xe của con, sinh sống do
con cho, và chính con đem danh vọng lại cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối
với con như họ hạ mình đối với Thế Tôn. Thuở xưa, bạch Thế Tôn,
trong khi hành quân chống với đội quân (đối nghịch), và muốn thử
thách Isidatta và Purana, hai quan giữ ngựa, con đến ở tại một căn nhà chật
hẹp. Rồi bạch Thế Tôn, hai quan giữ ngựa, Isidatta và Purana, sau khi cùng
nhau đàm luận về chánh pháp hơn nửa đêm, rồi nằm xuống ngủ, với đầu
của họ hướng về phía mà họ được nghe là chỗ Thế Tôn ở và với
chân hướng về chỗ con. Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Thật vi
diệu thay ! Thật hy hữu thay ! Hai quan giữ ngựa Isidatta và Purana này ăn
cơm của ta, đi xe của ta, sinh sống do ta cho, và chính ta đem danh vọng lại
cho họ. Nhưng họ không hạ mình đối với ta như họ hạ mình đối với
Thế Tôn. Thật sự những vị này ý thức được một sự tối thắng thù
diệu nào trong giáo lý Thế Tôn, một sự thành đạt tuần tự". Bạch
Thế Tôn, đây là pháp truyền thống của con đối với Thế Tôn: "Thế
Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, đệ tử
chúng Tăng của Thế Tôn khéo tu tập hành trì".
Lại nữa, bạch Thế Tôn, Thế Tôn
thuộc dòng Sát-đế-lỵ, con cũng thuộc dòng Sát-đế-lỵ. Thế Tôn là người
nước Kosala, con cũng thuộc người nước Kosala. Thế Tôn được tám mươi
tuổi, con cũng được tám mươi tuổi. Vì Thế Tôn thuộc dòng Sát-đế-lỵ
và con cũng thuộc dòng Sát-đế-lỵ; vì Thế Tôn là người nước Kosala,
con cũng thuộc người Kosala; vì Thế Tôn được tám mươi tuổi, con cũng
được tám mươi tuổi; nên con sẵn sàng hạ mình tột bực đối với Thế
Tôn, và biểu lộ tình thân ái. Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng
con nhiều công việc, có nhiều bổn phận phải làm.
– Thưa Đại vương, Đại vương hãy
làm những gì Đại vương nghĩ là hợp thời.
Rồi vua Pasenadi nước Kosala từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi
ra đi.
Khi vua Pasenadi nước Kosala ra đi không
bao lâu, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, đấy là vua
Pasenadi nước Kosala. Sau khi nói lên những pháp trang nghiêm, vua đã từ chỗ
ngồi đứng dậy và ra đi. Này các Tỷ-kheo, hãy học các pháp trang nghiêm.
Hãy thấu triệt các pháp trang nghiêm. Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì các
pháp trang nghiêm. Này các Tỷ-kheo, các pháp trang nghiêm này liên hệ đến
mục tiêu, là căn bản của Phạm hạnh.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.