...... ... |
. |
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- KINH
HIỀN NGU
- (Balapanditasuttam)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi
(Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika. Tại đấy,
Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". – "Thưa vâng,
bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như
sau :
Này các Tỷ-kheo, có ba đặc điểm,
đặc tướng, và đặc ấn này của người ngu. Thế nào là ba ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người ngu tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành các
ác hạnh. Này các Tỷ-kheo, nếu người ngu không tư duy ác tư duy, không
nói lời ác ngữ, không hành ác hạnh, thời làm sao kẻ trí biết được
người ấy : "Người này là người ngu, không phải là Chân nhân
?" Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, người ngu tư duy ác tư duy, nói lời
ác ngữ, hành ác hạnh, do vậy, người trí biết người ấy: "Người
này là người ngu, không phải là Chân nhân". Người ngu ấy, này các Tỷ-kheo,
ngay trong hiện tại cảm thọ ba loại khổ ưu. Này các Tỷ-kheo, nếu người
ngu ngồi giữa hội chúng, hay ngồi bên đường có xe cộ qua lại, hay tại
ngã (ba, ngã tư) đường, tại đấy (nếu) có người nghĩ đến câu chuyện
thích hợp về người ấy. Nếu người ngu, này các Tỷ-kheo, sát sanh, lấy
của không cho, theo tà hạnh trong dâm dục, nói láo, say rượu men, rượu nấu,
thường ở đây, này các Tỷ-kheo, người ngu ấy suy nghĩ như sau : "Các
người ấy nghĩ đến câu chuyện thích hợp về ta, vì những pháp ấy thật
có nơi ta và ta có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại khổ
ưu thứ nhất, người ngu cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người
ngu thấy các vua chúa sau khi bắt tên trộm cướp có phạm tội liền áp dụng
nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh
bằng côn, họ chặt tay, họ chặt chân, họ chặt tay chân, họ xẻo tai, họ
cắt mũi, họ xẻo tai cắt mũi; họ dùng hình phạt vạc dầu, họ dùng
hình phạt bối đồi hình (xẻo đỉnh đầu thành hình con sò) họ dùng
hình phạt la hầu khẩu hình, hỏa man hình (lấy lửa đốt thành vòng hoa),
chúc thủ hình (đốt tay), khu hành hình (lấy rơm bện lại rồi siết chặt)
bì y hình (lấy vỏ cây làm áo), linh dương hình (hình phạt con dê núi),
câu nhục hình (lấy câu móc vào thịt), tiền hình (cắt thịt thành hình
đồng tiền), khối trấp hình, chuyển hình, cao đạp đài, họ tưới bằng
dầu sôi, họ cho chó ăn, họ đóng cọc những người sống, họ lấy
gươm chặt đầu. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người ngu nghĩ như sau :
"Do nhân các ác hành như vậy, các vua chúa sau khi bắt tên trộm cướp
có phạm tội, liền áp dụng những hình phạt sai khác. Họ đánh bằng
roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn, họ chặt tay, họ chặt
chân, họ chặt tay chân.. họ lấy gươm chặt đầu. Những pháp ấy có thật
nơi ta và ta có những pháp ấy. Nếu các vua chúa biết về ta, các vua chúa
ấy sau khi bắt ta liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng
roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh bằng côn... họ lấy gươm chặt đầu.
"Này các Tỷ-kheo, đây là loại khổ ưu thứ hai, người ngu cảm thọ
ngay trong hiện tại.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi người
ngu leo ngồi trên ghế, hay trên giường, hay nằm trên đất, lúc bấy giờ,
những ác nghiệp người ấy làm từ trước, như thân ác hành, khẩu ác
hành, ý ác hành, treo nằm, treo áp, treo đè lên người ấy. Ví như, này
các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, những bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp,
treo đè trên đất; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi người ngu ngồi trên ghế,
hay ngồi trên giường, hay nằm dưới đất, trong khi ấy các nghiệp quá khứ
của người ấy, tức là thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, treo nằm,
treo áp, treo đè trên người ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người ngu suy
nghĩ như sau: "Thật sự ta không làm điều phước, không làm điều thiện,
không làm điều chống lại sợ hãi, làm điều ác, làm điều hung bạo, làm
điều tội lỗi. Do không làm điều phước, không làm điều thiện, không
làm điều chống lại sợ hãi, do làm điều ác, làm điều hung bạo, làm
điều tội lỗi nên phải đi đến ác thú; ác thú ấy sau khi chết ta phải
đi". Người ấy sầu muộn, than van, than khóc, đấm ngực, rên la và rơi
vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây là sự khổ ưu thứ ba, ngay trong hiện
tại, người ngu (phải) cảm thọ.
Này các Tỷ-kheo, kẻ ngu kia sau khi
làm thân ác hành, sau khi làm khẩu ác hành, sau khi làm ý ác hành, khi thân
hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các
Tỷ-kheo, nếu có ai nói một cách đúng đắn về người ấy, phải nói rằng
người ấy hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái, hoàn toàn
không thích ý. Cũng như muốn nói một cách đúng đắn về Địa ngục, phải
nói rằng Địa ngục, hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái,
hoàn toàn không thích ý. Về vấn đề này, này các Tỷ-kheo, cho đến một
ví dụ cũng không dễ gì, vì rất nhiều là sự đau khổ của Địa ngục.
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo
khác bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
cho con một ví dụ được không ?
Thế Tôn đáp :
– Có thể được, này Tỷ-kheo.
Ví như, này Tỷ-kheo, có người bắt được một tên trộm cắp, dẫn đến
trước mặt vua và thưa : "Tâu Đại vương, đây là một tên trộm cướp
phạm tội cho Ngài ! Hãy hình phạt nó như Đại vương muốn". Và vị
vua ấy nói như sau về tên trộm cướp ấy : "Này các Ông hãy đi và
vào buổi sáng hãy đâm người này với một trăm ngọn giáo". Và vào
buổi sáng, họ đâm người ấy với một trăm ngọn giáo. Rồi đến trưa,
vua nói như sau : "Này các Ông, người ấy ra sao ?" – "Tâu Đại
vương, nó vẫn còn sống". Rồi vua lại nói như sau về tên trộm cướp
ấy : "Này các Ông, hãy đi và vào buổi trưa, hãy đâm người này với
một trăm ngọn giáo". Và vào buổi trưa, họ đâm người ấy với một
trăm ngọn giáo. Rồi đến chiều, vua nói như sau : "Này các Ông, người
ấy ra sao ?" – "Tâu Đại vương, nó vẫn còn sống". Rồi vua
lại nói như sau về người kia : "Này các Ông, vào buổi chiều, họ đâm
người này với một trăm ngọn giáo". Và vào buổi chiều, họ đâm người
ấy với một trăm ngọn giáo.
Này các Tỷ-kheo, Ông nghĩ thế nào
? Người ấy bị đâm ba trăm ngọn giáo, do nhân duyên ấy, có cảm thọ khổ
ưu không ?
– Bạch Thế Tôn, chỉ bị ngọn
giáo đâm một lần, người kia do nhân duyên ấy cũng cảm thấy khổ ưu, còn
nói gì đến ba trăm ngọn giáo !
Rồi Thế Tôn lượm lên một hòn
đá nhỏ, lớn bằng bàn tay và nói với các Tỷ-kheo :
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ
thế nào ? Cái gì lớn hơn, hòn đá này, to bằng bàn tay do ta lượm lên,
hay núi Tuyết Sơn (Himava) vua các loại núi ?
– Thật là quá nhỏ, bạch Thế
Tôn, hòn đá này lớn bằng bàn tay do Thế Tôn lượm lên. So sánh với Tuyết
Sơn vua các loại núi, nó không đáng kể gì, nó không bằng một phần
ngàn vạn lần (của núi Tuyết) nó không thể so sánh được !
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, người
ấy bị đâm bởi ba trăm ngọn giáo, do nhân duyên ấy cảm thọ khổ ưu.
Khổ ưu ấy so sánh với khổ ưu ở Địa ngục không đáng kể gì, không bằng
một phần ngàn vạn lần, không thể so sánh được. Này các Tỷ-kheo, các
người giữ địa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc
(pancavidhabandhanam). Họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ
lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung
đỏ đóng vào bàn chân, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ
hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa ngực. Người ấy ở đây
thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người
ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa
được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các người giữa Địa ngục bắt người
ấy nằm xuống và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ
lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không
thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, các người giữ Địa ngục dựng ngược người ấy chân
phía trên, đầu phía dưới và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở
đây cảm thọ... (như trên)... chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các
người giữ Địa ngục cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người ấy
chạy tới chạy lui trên đất được đốt cháy đỏ, cháy thành ngọn,
cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ. Rồi
này các Tỷ-kheo, các người giữ Địa ngục đẩy người ấy lên kéo người
ấy xuống trên một sườn núi đầy than hừng, cháy đỏ, cháy thành ngọn,
cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... (như trên)... chưa được
tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người giữ Địa ngục dựng ngược
người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một
vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực.
Người ấy ở đây bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, ở đây bị nấu
với vạc nước sôi sùng sục; khi thì nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy,
khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây tho lãnh các cảm giác đau đớn,
thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến
khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo,
những người giữ Địa ngục quăng người ấy vào Đại địa ngục. Này
các Tỷ-kheo, Đại địa ngục ấy, có bốn góc, bốn cửa, chia thành phần
bằng nhau; xung quanh có tường sắt; mái sắt lợp lên trên. Nền Địa ngục
bằng sắt nung đỏ, cháy đỏ rực; đứng thẳng, luôn có mặt, rộng một
trăm do tuần.
Này các Tỷ-kheo, với rất nhiều
pháp môn, Ta nói về Địa ngục, nhưng thật khó nói cho được đầy đủ,
này các Tỷ-kheo, vì đau khổ ở Địa ngục quá nhiều.
Này các Tỷ-kheo, có những loại
sanh vật thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn cỏ. Chúng ăn những cỏ ướt
và khô, với răng nhai nghiền, cỏ ấy. Này các Tỷ-kheo, những sanh vật
ấy thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn cỏ là gì ? Các loại ngựa,
trâu, bò, lừa, dê, nai hay các sanh vật khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi
thở, ăn cỏ. Này các Tỷ-kheo, người ngu ấy do trước kia hưởng thọ ở
đây, do trước kia làm các ác nghiệp, ở đây, sau khi thân hoại mạng
chung, sanh ra cọng trú với các loài hữu tình ấy, những loại hữu tình
ăn cỏ.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở và ăn phân. Chúng ngửi được mùi phân
từ đường xa, liền chạy tới, nghĩ rằng : "Chúng ta sẽ ăn ở đây,
chúng ta sẽ ăn ở đây". Ví như các Bà-la-môn chạy đến, ngửi được
mùi lễ tế sanh, nghĩ rằng : "Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ ăn
ở đây". Cũng vậy này các Tỷ-kheo, có các loại sanh vật, thuộc loại
bàng sanh, có hơi thở, và ăn phân. Chúng ngửi được mùi phân từ đường
xa, liền chạy tới, nghĩ rằng : "Chúng ta sẽ ăn ở đây, chúng ta sẽ
ăn ở đây". Và này các Tỷ-kheo, các sanh vật ấy, thuộc loại bàng
sanh, có hơi thở và ăn phân là gì ? Các loại gà, heo, chó, chó rừng (giả
can), hay tất cả các sanh vật khác, thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, ăn
phân. Này các Tỷ-kheo, người ngu ấy do trước kia hưởng thọ ở đây, do
trước kia làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân hoại mạng chung sanh ra cọng
trú với các loại hữu tình ấy, những loại hữu tình ăn phân.
Này các Tỷ-kheo, có các loại sanh
vật thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong bóng tối, già trong
bóng tối và chết trong bóng tối. Này các Tỷ-kheo, những sanh vật ấy,
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong bóng tối, già trong bóng tối
và chết trong bóng tối là gì ? Các loại côn trùng, con sùng, con dòi, con
sâu đôm đốm và các loại sanh vật khác thuộc loại bàng sanh, có hơi thở,
sống trong bóng tối. Này các Tỷ-kheo, người ngu ấy do trước kia hưởng
thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp ở đây, sau khi thân hoại mạng
chung, sanh ra cọng trú với các loài hữu tình ấy tức là các loại hữu
tình sinh ra trong bóng tối, già trong bóng tối, chết trong bóng tối.
Này các Tỷ-kheo, có những sanh vật,
thuộc loại bàng sanh, có hơi thở, sinh ra trong nước, già trong nước, chết
trong nước. Và này các Tỷ-kheo, các sanh vật ấy thuộc loại bàng sanh,
có hơi thở, sanh ra trong nước, già trong nước, chết trong nước là gì ?
Các loại cá, rùa, cá sấu, hay các sanh vật khác, thuộc loại bàng sanh,
có hơi thở, sanh ra trong nước, già trong nước, chết trong nước. Này các
Tỷ-kheo, người ngu ấy, do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm
các ác nghiệp ở đây, sau khi thân hoại mạng chung sanh ra cọng trú với
các loài hữu tình ấy, tức là các loài hữu tình sanh ra trong nước, già
trong nước, chết trong nước.
Này các Tỷ-kheo, có các sanh vật
thuộc loài bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong bất tịnh, già trong bất tịnh,
chết trong bất tịnh. Và này các Tỷ-kheo, các sanh vật ấy, các loại thuộc
bàng sanh, có hơi thở, sanh ra trong bất tịnh, già trong bất tịnh, chết
trong bất tịnh là gì ? Này các Tỷ-kheo, các loài hữu tình nào sanh ra
trong cá thúi hay già trong cá thúi, hay chết trong cá thúi, hay trong tử thi
thúi, hay trong đồ ăn thúi, hay trong vũng nước, hay sinh ra trong đầm nước
(nhớp)... già... hay chết trong đầm nước (nhớp). Này các Tỷ-kheo, người
ngu ấy, do trước kia hưởng thọ ở đây, do trước kia làm các ác nghiệp
ở đây, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra cọng trú với các loài hữu
tình ấy, tức là các loài hữu tình sanh ra trong bất tịnh, già trong bất
tịnh, chết trong bất tịnh.
Này các Tỷ-kheo, với rất nhiều
pháp môn, Ta nói về các loại bàng sanh, nhưng thật khó nói cho được đầy
đủ, này các Tỷ-kheo, vì đau khổ ở loài bàng sanh quá nhiều.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
quăng một khúc cây có một cái lỗ trên biển, một ngọn gió từ phương
Đông thổi nó trôi qua phía tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi nó
trôi qua phía đông; một ngọn gió từ phương Bắc thổi nó trôi qua phía
nam; một ngọn gió từ phương Nam thổi nó trôi qua phía bắc. Rồi có một
con rùa mù, cứ một trăm năm mới trồi đầu lên một lần. Này các Tỷ-kheo,
các Ông nghĩ thế nào ? Con rùa mù ấy có thể đút cổ nó vào trong lỗ
cây này được không ?
– Nếu có được chăng nữa, bạch
Thế Tôn, thời chỉ được một lần, sau một thời gian rất lâu dài.
– Còn mau hơn, này các Tỷ-kheo,
con rùa mù ấy có thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này
các Tỷ-kheo, ta tuyên bố rằng còn khó hơn được làm người trở lại, một
khi người ngu bị rơi vào đọa xứ. Vì sao vây ? Vì ở đấy, này các Tỷ-kheo,
không có pháp hành, an tịnh hành, thiện hành, phước hành. Này các Tỷ-kheo,
ở đây chỉ có ăn lẫn nhau và ăn thịt kẻ yếu. Và này các Tỷ-kheo, nếu
người ngu ấy sau một thời gian rất lâu dài, có được làm người trở
lại, thời người ấy sẽ sanh trong gia đình thấp hèn, trong gia đình hạ
cấp, trong gia đình kẻ đi săn, trong gia đình kẻ đan tre, trong gia đình người
làm xe, hay trong gia đình người đổ phân, trong những gia đình nghèo khốn,
không đủ để uống hay để ăn, cho đến miếng vải che lưng cũng khó
tìm được. Lại nữa, người ấy thô xấu, khó nhìn, lùn thấp, hay bệnh,
mù hay có tật, què hay bị bại, người ấy không có thể được các đồ
ăn, đồ uống, vải xa, vòng hoa, hương liệu, giường nằm, chỗ trú xứ
và ánh sáng. Người ấy hành thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành; vì
hành thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành; sau khi thân hoại mạng chung,
sinh ra trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Địa ngục.
Ví như, này các Tỷ-kheo, một người
đánh bạc, trong canh đổ bạc đầu tiên, mất con, mất vợ, mất tất cả
tài sản, lại cuối cùng phải tù tội. Nhưng này các Tỷ-kheo, còn nhỏ
bé canh đổ bạc ấy, do canh đổ bạc đầu tiên này, người ấy mất con,
mất vợ, mất tất cả tài sản, lại cuối cùng phải tù tội. Và canh bạc
này to lớn hơn, với canh bạc ấy người ngu, do thân ác hành, khẩu ác
hành, ý ác hành, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, Địa ngục. Này các Tỷ-kheo, đây là địa xứ hoàn toàn
viên mãn của kẻ ngu.
Này các Tỷ-kheo, có ba đặc điểm,
đặc tướng, và đặc ấn này của người trí. Thế nào là ba ? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, người trí tư duy thiện tư duy, nói lời thiện ngữ, và
hành các thiện hành. Này các Tỷ-kheo, nếu người trí không tư duy thiện
tư duy, không nói lời thiện ngữ, không hành các thiện hành, thời làm sao
kẻ trí biết được người ấy : "Vị này là người trí, là bậc
Chân nhân". ? Và vì rằng, này các Tỷ-kheo, người trí tư duy thiện
tư duy, nói lời thiện ngữ, hành thiện hành, do vậy người trí biết người
ấy : "Vị này là người có trí, là bậc Chân nhân". Người trí
ấy, này các Tỷ-kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba loại lạc hỷ. Này
các Tỷ-kheo, nếu người trí ngồi giữa hội chúng, hay ngồi bên đường
có xe cộ qua lại, hay tại ngã (ba, ngã tư) đường, tại đấy (nếu) có
người nghĩ đến câu chuyện thích hợp về người ấy; nếu người trí,
này các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà
hành trong dâm dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ say rượu men rượu nấu, thời
ở đây này các Tỷ-kheo, người trí ấy suy nghĩ như sau : "Các người
ấy nghĩ đến câu chuyện thích hợp về ta, vì những pháp ấy thật có nơi
ta và ta có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại lạc hỷ
thứ nhất, người trí cảm thọ ngay trong hiện tại.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, người
trí thấy các vua chúa, sau khi bắt tên trộm cướp phạm tội, liền áp dụng
nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy, họ đánh
bằng côn... (như trên)... họ lấy gươm chặt đầu. Ở đây, này các Tỷ-kheo
người trí suy nghĩ như sau : "Do nhân các ác hành như vậy, các vua
chúa sau khi bắt tên trộm cướp có phạm tội, liền áp dụng những hình
phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy... (như trên)... họ
lấy gươm chặt đầu, những pháp ấy thật không có nơi ta, và ta không
có những pháp ấy". Này các Tỷ-kheo, đây là loại lạc hỷ thứ hai,
người trí cảm thọ ngay trong hiện tại. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi
người trí leo ngồi trên ghế, hay trên giường, hay nằm trên đất, lúc bấy
giờ những thiện nghiệp người ấy làm từ trước, như thân thiện hành,
khẩu thiện hành, ý thiện hành treo nằm, treo áp, treo đè trên người ấy.
Ví như, này các Tỷ-kheo, vào buổi chiều, những bóng các đỉnh núi treo nằm,
treo áp, treo đè trên đất; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, khi người trí ngồi
trên ghế hay ngồi trên giường, hay nằm dưới đất, trong khi các nghiệp
quá khứ của người ấy tức là thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành
treo nằm, treo áp, treo đè trên người ấy. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
trí suy nghĩ như sau : "Thật sự ta không làm điều ác, không làm điều
hung bạo, không làm điều tội lỗi, lại làm điều phước, làm điều thiện,
làm điều chống sợ hãi. Do không làm điều ác, không làm điều hung bạo,
không làm điều tội lỗi, do làm điều phước, làm điều thiện, làm điều
chống sợ hãi, được đi đến (thiện) thú nào, (thiện) thú ấy sau khi chết,
ta được đi". Vị ấy không sầu muộn, không than van, không than khóc,
không đấm ngực, rên la và rơi vào bất tỉnh. Này các Tỷ-kheo, đây là sự
lạc hỷ thứ ba, ngay trong hiện tại người trí được cảm thọ. Này các
Tỷ-kheo, kẻ trí kia sau khi làm thân thiện hành, sau khi làm khẩu thiện
hành, sau khi làm ý thiện hành, sau khi thân hoại mạng chung, sanh ra trong thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, nếu có ai nói một cách
đú 鮧
đắn về vị ấy phải nói rằng vị
ấy hoàn toàn tốt đẹp, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn thích ý. Cũng như muốn
nói một cách đúng đắn về Thiên giới phải nói rằng Thiên giới hoàn
toàn tốt đẹp, hoàn toàn khả ái, hoàn toàn thích ý. Về vấn đề này,
này các Tỷ-kheo, cho đến một ví dụ cũng không dễ gì, vì rất nhiều
là sự (an) lạc của Thiên giới,
Khi được nói vậy, một Tỷ-kheo
khác bạch Thế Tôn :
– Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có thể
làm cho con một ví dụ được không ?
– Có thể được, này Tỷ-kheo.
Ví như, này các Tỷ-kheo, vị vua Chuyển luân có đầy đủ bảy món báu
và bốn như ý đức, do nhân duyên ấy cảm thọ lạc hỷ. Thế nào là bảy
? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vua Sát đế lỵ, đã làm lễ quán đảnh, vào
ngày Bố-tát trăng rằm sau khi gội đầu, lên cao điện để trai giới, thời
Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xa, với vành xe, trục xe, đầy
đủ mọi bộ phận. Thấy vậy, vua Sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh
suy nghĩ: "Ta nghe như vầy : Khi một vị vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh vào ngày Bố-tát trăng rằm, sau khi gội đầu, lên cao điện để
trai giới, nếu có Thiên luân báu hiện ra, đủ một ngàn cọng xe, với
vành xe và trục xe, đầy đủ mọi bộ phận, thời vị vua ấy là Chuyển
luân vương. Như vậy ta có thể là Chuyển luân vương".
Này các Tỷ-kheo, rồi vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y trên một
vai, tay trái cầm bình nước và với tay phải rưới nước trên xe báu và
nói : "Này xe báu hãy lăn khắp. Này xe báu hãy chinh phục !" Và
này các Tỷ-kheo, xe báu lăn về hướng Đông và vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh cùng với bốn loại binh chủng đi theo sau. Và này các Tỷ-kheo,
chỗ nào xe báu dừng lại, chỗ ấy vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh,
an trú cùng với bốn loại binh chủng.
Này các Tỷ-kheo, các địch vương
ở phương Đông đến yết kiến vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh,
và nói : "Hãy đến đây, Đại vương !" Hoan nghênh, đón mừng Đại
vương ! Tâu Đại vương, tất cả đều thuộc của Ngài. Đại vương hãy
giáo huấn cho chúng tôi !"
Vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh, nói rằng: "Không được sát sanh. Không được lấy của không
cho. Không được tà dâm. Không được nói láo. Không được uống rượu.
Hãy ăn uống cho thích nghi".
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch
vương ở phương Đông đều trở thành chư hầu vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, rồi xe báu ấy lặn
xuống biển lớn ở phương Đông rồi nổi lên và lặn về phương Nam... lặn
xuống biển lớn ở phương Nam, rồi nổi lên và lặn về phương Tây... lặn
xuống biển lớn ở phương Tây.. , rồi nổi lên và lặn về phương Bắc
và vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh cùng với bốn loại binh chủng
đi theo sau. Này các Tỷ-kheo, chỗ nào xe báu dừng lại, chỗ ấy vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh an trú cùng với bốn loại binh chủng.
Này các Tỷ-kheo, các địch vương
ở phương Bắc đến yết kiến vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh và
nói : "Hãy đến đây, Đại vương ! Hoan nghênh, đón mừng Đại vương
! Tâu Đại vương; tất cả đều thuộc của Ngài, tất cả đều thuộc của
Ngài. Đại vương hãy giáo huấn cho chúng tôi !"
Này các Tỷ-kheo, tất cả địch
vương ở phương Bắc đều trở thành chư hầu vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ
quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, xe báu ấy sau khi
chinh phục trái đất cho đến hải biên, liền trở về kinh đô Ku-savati,
và đứng trước pháp đình, trên cửa nội cung như một trang bảo cho nội
cung của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là sự xuất hiện của xe báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, voi báu
xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, thuần trắng, bảy
xứ kiên cường, có thần lực, phi hành trên hư không và tên là Uposatha (Bố-tát).
Thấy (voi báu), vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, sanh tâm hoan hỷ
và nghĩ: "Lành thay được cỡi con voi này, nếu nó chịu sự điều ngự"
Và này các Tỷ-kheo, như một con hiền tượng quý phái chịu sự điều ngự
lâu ngày, con voi báu ấy tự đến để chịu điều ngự. Này các Tỷ-kheo,
thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, để thử voi báu này,
sáng sớm cỡi voi đi khắp quả đất cho đến hải biên rồi về lại kinh
đô Kusavati kịp giờ ăn sáng. Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện
voi báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ngựa
báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, thuần trắng,
đầu đen như quạ, bờm ngựa màu đen, có thần lực, phi hành trên hư không
và tên là Valahaka. Thấy (ngựa báu), vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh,
sanh tâm hoan hỷ và nghĩ : "Tốt đẹp thay được cỡi con ngựa này nếu
nó chịu sự điều ngự". Và này các Tỷ-kheo, như một con hiền mã
quý phái, chịu sự điều ngự lâu ngày, con ngựa báu ấy tự đến để
chịu sự điều ngự. Này các Tỷ-kheo, thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đã làm
lễ quán đảnh để thử con ngựa báu này, sáng sớm liền cỡi ngựa, đi
khắp quả đất cho đến hải biên, rồi về lại kinh đô Kusavati kịp giờ
ăn sáng. Này các Tỷ-kheo, như vậy là xuất hiện ngựa báu của vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, châu
báu lại xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh. Châu báu
ấy là lưu ly châu, sáng suốt, thuần chất, có tám mặt, khó dũa, khó
mài, thanh tịnh, trong suốt, hoàn hảo mọi phương diện. Này các Tỷ-kheo,
hào quang châu báu này chiếu sáng cùng khắp một do tuần. Này các Tỷ-kheo,
thuở xưa, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh để thử châu báu này
đã cho dàn bày bốn binh chủng, đặt bảo châu cao trên quân kỳ và có thể
tiến quân trong đêm tối âm u. Này các Tỷ-kheo, mọi người trong làng ở
xung quanh đều bắt đầu làm việc, tưởng rằng trời đã sáng rồi. Này
các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện châu báu của vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, nữ báu lại xuất
hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, mỹ miều, khả ái, cử
chỉ đoan trang, màu da tuyệt mỹ, không quá cao, không quá thấp, không béo,
không gầy, không quá đen, không quá trắng, vượt trên dung sắc loài Người,
ánh sáng bằng dung sắc chư Thiên. Này các Tỷ-kheo, thân xác nữ báu này
là (êm mịn) như bông, như nhung. Này các Tỷ-kheo, khi trời lạnh, chân tay
nữ báu này trở thanh ấm áp; khi trời nóng, trở thành lạnh mát. Này các
Tỷ-kheo, thân nữ báu tỏa mùi thơm chiên đàn, miệng tỏa mùi thơm hoa
sen. Này các Tỷ-kheo, nữ báu này dậy trước và đi ngủ sau vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, mọi hành động làm vua thỏa thích, yên lành khả
ái. Này các Tỷ-kheo, nữ báu này không có môt tư tưởng nào bất tín đối
với vua Sát đế lỵ đã làm lễ quán đảnh, huống nữa là về thân thể.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự xuất hiện nữ báu của vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, cư sĩ
báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, chứng được
thiên nhãn, do nghiệp dị thục sanh và nhờ thiên nhãn này có thể thấy
châu báu chôn cất có chủ hay không có chủ. Cư sĩ báu này đến vua Sát-đế-lỵ
đã làm quán đảnh và nói :
– "Tâu Đại vương, Đại
vương chớ có lo âu, thần sẽ xử lý thích nghi tài sản Đại
vương".
Này các Tỷ-kheo, thuở xưa vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh, muốn thử cư sĩ báu này, liền cỡi thuyền, chèo
ra giữa sông Hằng và bảo cư sĩ báu :
"- Này cư sĩ, ta cần vàng.
"- Tâu Đại vương, hãy cho
chèo thuyền gần bờ nào cũng được.
"- Này cư sĩ, ta cần vàng ngay
tại đây.
Này các Tỷ-kheo, khi ấy cư sĩ báu
thọc hai tay xuống nước nhắc lên một ghè đầy cả vàng ròng rồi tâu với
vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh :
"- Tâu Đại vương, như vậy đã
đủ chưa ? Tâu Đại vương, làm như vậy đã được chưa ?"
Vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán
đảnh trả lời :
"- Này Cư sĩ, như vậy là đủ.
Này Cư sĩ, làm như vậy là được rồi. Này Cư sĩ, cúng dường như vậy
là được rồi".
Này các Tỷ-kheo, như vâ ﹠là sự xuất hiện cư sĩ báu của vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh.
Lai nữa, này các Tỷ-kheo, tướng
quân báu xuất hiện cho vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, có học
thức, thông minh, sáng suốt, có khả năng khuyến cáo vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh, khi đáng tiến thì tiến, khi đáng lùi thì lùi, khi đáng
dừng thì dừng :
Vị này đến tâu vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh :
"- Tâu Đại vương, Đại
vương chớ có lo âu, thần sẽ cố vấn Đại vương".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là sự
xuất hiện tướng quân báu của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh có đầy đủ bảy báu như vậy.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh có đầy đủ bốn như ý đức. Thế
nào là bốn ?
Này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh đẹp trai, khả ái, cử chỉ thanh lịch, sắc diện
tuyệt luân, thấy xa hơn mọi người. Này các Tỷ-kheo, đó là như ý đức
thứ nhất của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa, vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh sống lâu, tuổi thọ thắng xa các người
khác. Này các Tỷ-kheo, đó là như ý đức thứ hai của vua Sát-đế-lỵ đã
làm lễ quán đảnh.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vua
Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh ít bệnh tật, ít tai ương thể nhiệt
không quá lạnh, không quá nóng, được quân phân để điều hòa sự tiêu
hóa, thắng xa các người khác. N 覣224;y các Tỷ-kheo,
đó là như ý đức thứ ba của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Lại nữa này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ,
đã làm lễ quán đảnh được các Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến.
Này các Tỷ-kheo, như người cha được các người con ái kính và yêu mến;
cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh được
các Bà-la-môn và Gia chủ ái kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, các vị
Bà-la-môn và Gia chủ được vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh ái
kính và yêu mến. Này các Tỷ-kheo, như những người con được người cha
ái kính và yêu mến; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia chủ
được vua Sát-đế-lỵ, đã làm lễ quán đảnh ái kính và yêu mến. Thuở
xưa, này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh đi đến hoa
viên cùng với bốn loại binh chủng. Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn và Gia
chủ đến vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh và tâu rằng:
"- Tâu Đại vương, hãy cho đi
chậm chậm để chúng tôi có thể chiêm ngưỡng lâu dài hơn. ".
Này các Tỷ-kheo nhưng vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh lại ra lệnh cho người đánh xe:
"- Này anh Đánh xe, hãy đánh xe
chậm chậm đủ để ta có thể thấy các vị Bà-la-môn và Gia chủ lâu
dài hơn".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là như
ý đức thứ tư của vua Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh.
Và này các Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ
đã làm lễ quán đảnh suy nghĩ : "Nay ta hãy cho xây những hồ sen giữa
các hàng cây tala, cứ cách khoảng một trăm cung tầm !"
Này các Tỷ-kheo, vua Chuyển luân
có đầy đủ bốn như ý đức này.
Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ thế
nào ? Vua Chuyển luân, đầy đủ bảy món báu và bốn như ý đức; do nhân
duyên ấy, có cảm thọ lạc hỷ không ?
– Bạch Thế Tôn, vua Chuyển luân
chỉ đầy đủ một món báu, do nhân duyên ấy, có cảm thọ lạc hỷ; còn
nói gì đầy đủ bảy món báu và bốn như ý đức.
Rồi Thế Tôn lượm lên một hòn
đá nhỏ, lớn bằng bàn tay và nói với các Tỷ-kheo :
– Này các Tỷ-kheo, các Ông nghĩ
thế nào ? Cái gì lớn hơn ? Hòn đá này, to bằng bàn tay do Ta lượm lên
hay núi Tuyết Sơn, vua các loại núi ?
– Thật là quá nhỏ, bạch Thế
Tôn là hòn đá này, lớn bằng bàn tay, do Thế Tôn lượm lên, so sánh với
Tuyết Sơn vua các loại núi, nó không đáng kể gì, nó không bằng một phần
ngàn vạn lần (của núi Tuyết), nó không thể so sánh được.
– Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vua
Chuyển luân với bảy món báu và bốn như ý đức, do nhân duyên ấy cảm
thọ lạc hỷ, lạc hỷ ấy so sánh với Thiên lạc không đáng kể gì,
không bằng một phần ngàn vạn lần, không thể so sánh được. Này các Tỷ-kheo,
người có trí ấy, nếu sau một thời gian rất lâu dài, được sinh làm người,
người ấy sẽ sinh ra trong một gia đình cao quí Sát-đế-lỵ đại gia, hay
Bà-la-môn đại gia, hay Cư sĩ đại gia giàu có, tài sản nhiều, tài nguyên
nhiều, vàng và bạc phong phú, tài vật phong phú, lúa thóc phong phú. Hơn nữa,
vị ấy đẹp trai, khả ái, dễ thương, đầy đủ dung sắc tối thượng.
Vị ấy nhận được đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng hoa, hương
liệu, giường, trú xứ và ánh sáng. Vị ấy sống với thân thiện hành,
khẩu thiện hành, ý thiện hành. Sống với thân thiện hành, khẩu thiện
hành, ý thiện hành, sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh lên
thiện thú, Thiên giới. Ví như, này các Tỷ-kheo, một người đánh bạc,
chính trong canh bạc thứ nhất (đổ xúc sắc) được tiền bạc rất nhiều.
Thật là quá nhỏ, này các Tỷ-kheo, là canh bạc ấy, nhờ canh bạc đầu
tiên này người đánh bạc ấy được tiền bạc rất nhiều. Lớn hơn canh
bạc ấy là canh bạc nhờ đó người trí sau khi hành thân thiện hành, khẩu
thiện hành, ý thiện hành, sau khi thân hoại mạng chung, sanh lên thiện
thú, Thiên giới, cõi đời này. Này các Tỷ-kheo, đây là địa vức hoàn
toàn viên mãn của bậc có trí.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
|
|