CHƯƠNG VII
NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO - VƯƠNG TRIỀU VUA A DỤC VÀ SAU ÐÓ
TIẾT I.
SỰ HƯNG SUY CỦA VƯƠNG TRIỀU.
- Sự tàn lụi của vương triều Khổng Tước.
Chính cuộc của Ấn Ðộ, tính từ khi tổ phụ của vua A Dục
chưa kiến lập vương triều Khổng Tước, thì tại quốc nội,
Ấn Ðộ không thể thống nhất được nổi, bởi các dị tộc từ
tây bắc không ngớt xâm nhập vào nội địa Ấn Ðộ; lúc vương
triều Khổng Tước hưng khởi, chính là lúc Ấn Ðộ đánh lui
được thế lực của Hy Lạp do A Lịch Sơn để lại tại nước
Ấn, mãi đến thời A Dục Vương, Ấn Ðộ mới xuất hiện cục
diện đại thống nhất. Nhờ vua A Dục là vị quân vương hết
lòng tin Phật, nhân đấy mà Phật giáo đại hưng. Sự sùng
kính Phật giáo của vua A Dục được thể hiện bằng những
việc làm như: bố thí rộng khắp, ở dâu có nghèo đói, ở đó
liền có kế sách cứu giúp. Ông cho kiến tạo tám vạn bốn
nghìn tòa bảo tháp để phụng thờ xá lợi Phật. Ông cho tu
sửa tất cả tịnh xá, nồng hậu cúng đường chư tăng, khiến
giới ngoại đạo vì tham lợi dưỡng phong túc mà vào cung
thất đề nghị vua A Dục lập chùa Kê Viên cho giới Tăng
già của họ, và họ phá hòa hợp tăng của Phật giáo, làm
cho tăng giới không hòa hợp để tụng giới trong bảy năm
ròng. Vua A Dục đối với Phật giáo, thậm chí ông ba lần
đem cả phù đồ (quốc độ) ra bố thí.
Những việc làm của A Dục như vừa nêu dẫn đến ba hậu quả:
1. Phật giáo nhờ sinh hoạt đời sống dư dật, khiến nhiều
phần tử trong tăng đoàn ngày càng đọa lạc, và trở nên
phức tạp.
2. Quốc gia nhiều năm liền làm các Phật sự tu phước,
khiến quốc khố trở nên trống rỗng.
3. Các hàng ngoại đạo thấy quốc vương thiên vị Phật
giáo, và thường làm “vô giá đại thí” (bố thí không giới
hạn), nên sinh lòng tật đố, ganh ghét Phật giáo. Cũng vì
thế nên lúc tuổi về già các vương thất và đại thần giới
hạn nhà vua chỉ được dùng nửa quả A Ma Lặc để cúng tăng.
Nhưng những việc đại bố thí của vua A Dục không phải là
điều mà đức Phật hy vọng, đức Thích Tôn thường luôn
khuyến khích việc bố thí, và Ngài cũng lưu lại lời dạy
về việc bố thí với đầy lòng nhân ái; ấy là hãy lượng sức
mình mà làm việc bố thí. Ðời sau các đệ tử Phật mỗi khi
khuyên tín chúng bố thí, thì nên bắt chước tinh thần Bồ
tát mà bố thí, ấy là xả bỏ tất cả mọi sở hữu về tài sản,
thân mệnh để bố thí, dụng ý của lời khuyên là nhằm loại
bỏ lòng tham đắm, nhưng lại trái ngược với thường tình
của đời thường, tiếc thay!
Vương triều Khổng Tước truyền được ba đời mới đến đời
vua A Dục. Ba vị vua trước vua A Dục cũng đều là những
vị vua sùng tín Phật giáo, và thế nước rất cường thịnh.
Sau khi vua A Dục băng hà, quốc thế gặp phải tai biến cố
đột ngột, nguyên do chính là do vị vua kế tiếp không đủ
tài năng, và lại thù ghét Phật giáo, đó là vua Ðạt Ma Sa
Ðà La, con vua A Dục, ông này tín phụng Kỳ Na giáo, nhà
vua cho kiến lập rất nhiều tự viện Kỳ Na giáo khắp nơi
thuộc Ngũ Ấn. Ðến đời cháu vua A Dục là vua Thập Xa, ông
tin theo tà mạng ngoại đạo để tạo ba động Quật Tinh Xá.
Ðời chắc vua A Dục là vua Ða Xa, ông lên ngôi vua nhưng
không được lòng dân, và bị vị đại tướng là Bổ Sa Ða Ma
Lợi (Pusymitra) dấy binh chống lại và giết chết vua Ða
Xa, (đó là nhờ sự trợ lực của vị quốc sư thuộc giòng họ
Bà La Môn và tự lập lên làm vua). Như vậy vương triều
Khổng Tước trải qua sáu vị vua, trị vì được một trăm ba
mươi bảy (137) năm (từ năm 322 đến 185 trước tây lịch)
thì bị diệt vong. Sau vua A Dục, Phật giáo không những
không được con cháu ông kính trọng mà còn bị họ thù
ghét. Do đó, tăng đồ bị tá tán, họ hướng về tây nam và
tây bắc Ấn Ðộ để phát triển. Ðồng thời, sau khi vua A
Dục khứ thệ, đột nhiên tộc người Ðạt La Duy Trà ở nam Ấn
lại hưng khởi. Người Ai Cập và người Ba Tư lại tiến sâu
vào mạn bắc Ấn. Khiến Ấn Ðộ một lần nữa rơi vào cục diện
phân tranh.
- Pháp nạn tại trung Ấn.
Bổ Sa Mật Ða La là vị tướng lĩnh của vương triều Khổng
Tước dưới thời vua Ða Xa, ông được vị quốc sư thuộc dòng
Bà La Môn trợ giúp mà dấy khởi, và rồi tự xưng vương.
Kinh đô của vương triều Khổng Tước là thành Hoa Thị, nên
cũng tại đây ông kiến lập vương triều Hắc Ca. Ông vốn
nhờ quốc sư Bà La Môn mà nên vương nghiệp. Do đó, ông
tin nghe theo vị quốc sư này, và cho rằng vương triều
Khổng Tước sở dĩ bị tiêu vong là do quá sùng tín Phật
giáo - một tôn giáo vô thần, vô tránh (không tranh cãi
hơn thua). Vì thế ông cho thực hành lại phép tu Mã tự
(Asvanedha). Phép tu này trước đó bị vua A Dục nghiêm
cấm.
Sau khi tái thực hành phép tu Mã tự, ông có cuộc tây
chinh và dành được ít nhiều thắng lợi, nhân đó giáo sĩ
Bà La Môn cậy thế mà đại chấn hưng. Bà La Môn giáo núp
dưới âm mưu chính trị, mở rộng cuộc vận động bài xích
Phật giáo khắp nơi. Bấy giờ Phật giáo phải hứng chịu khổ
ách cùng cực; chỉ tiếc trong các truyện ký không ghi lại
tường tận pháp nạn này. Hiện nay nhờ cuốn “A Dục Vương
Truyện”, và bộ “ Xá Lợi Phất Vấn Kinh” v.v... để có được
sự hiểu biết ít nhiều về giai đoạn này. Theo Xá Lợi Phất
Vấn Kinh, thì vua Bổ Sa Mật Ða La hy vọng ông cũng sẽ
lưu danh bất hủ giống như vua A Dục, nhưng ông cũng tự
biết uy đức mình không thể sánh kịp với tiên vương (A
Dục Vương). Tiên vương thì kiến tạo tám vạn bốn nghìn
bảo tháp thờ xá lợi Phật, và dốc cạn tài vật quốc gia để
cúng dường Tam Bảo mà lưu lại thịnh danh. Ngược lại, vua
Bổ Sa Mạt Ða La la người “phá tháp diệt pháp”, không
ngừng tàn diệt tứ chúng đệ tử Phật, thì làm sao lưu được
thịnh danh. Ông sát hại tập thể bất luận đó là Tỳ kheo
hay Tỳ kheo ni, Sa di hay Sa di ni, không kể lớn nhỏ. Sự
giết hại khiến máu chảy thành sông, và tàn phá chùa tháp
hơn tám trăm ngôi, ngay cả các thanh tín sĩ
cũng bị phiền hà tù tội, và chịu nhiều hình phạt roi
gậy. Ðương thời có năm trăm vị La hán vượt qua dãy núi
phái nam nhờ đó mà thoát được kiếp nạn. Theo luận Ðại Tỳ
Bà Sa,
phần cuối quyển 125, chép: “Xưa có vị vua Bà La Môn tên
là Bổ Sa Hữu đem lòng ganh ghét phương pháp, ông cho
thiêu đốt kinh điển, hủy “tốt đổ ba” (tháp); phá Tăng
già lam, hại Bí sô (Tỳ kheo) chúng, chỉ riêng khu vực
biên cảnh giáp với nước Ca Thấp Di La, ông cho phá hủy
năm trăm Tăng già lam (chùa tăng cư trú), huống nữa là
các nơi khác”. Ðoạn văn trên là miêu tả vua Bổ Sa Mật Ða
lúc ông tây chinh có được “tiểu chiến thắng”. Cùng lúc
cũng tại vùng biên cảnh nước Ca Thấp Di La, ông mở cuộc
vận động bài Phật giáo. Còn đoạn văn được nói trong “Xá
Lợi Phất Vấn Kinh” là chỉ tình hình tại thành Hoa Thị
thuộc trung Ấn Ðộ. Việc năm trăm vị la hán vượt qua dãy
núi phía nam, ấy là chỉ một bộ phận tăng nhân Phật giáo
thoát khỏi nước Ma Kiệt Ðà ở trung Ấn dể đi đến nam Ấn
Ðộ.
Như vậy vương triều Hắc Ca của nước Ma Kiệt Ðà được hình
thành sau Phật diệt độ và truyền đến vị vua thứ mười là
Ðịa Thiên vương, thời gian là một trăm mười hai năm
(trước tây lịch từ 185 đến 73 năm), và lại cũng do đại
thần giòng Bà La Môn là Bà Tu Ðề Bà được một quốc sư Bà
La Môn ủng hộ mà soán ngôi và kiến lập vương triều Ca
Lạp Bà một cách riêng biệt, vương triều này truyền được
bốn đời, đến đời vua Thiên Hộ là dứt, trước sau được bốn
mươi lăm năm (trước tây lịch 28 năm) thì bị vương triều
Án Ðạt La của vua Bà Ðà Ha (Sàtavàhana) ở ;nam Ấn tiêu
diệt. Trong khi đó tại trung Ấn Ðộ, Bà La Môn giáo lại
phục hưng, tuy kết cục cũng vẫn không cứu nổi sự suy tàn
của Ma Kiệt Ðà (ở đây là vương triều Hắc Ca). Nhưng tại
nam Ấn và tây Ấn, Phật giáo lại trở nên hưng thịnh nhờ
thế nước tại hai khu vực này rất mạnh.
Từ lúc trung Ấn bị Án Ðạt La của nam Ấn thôn tính, và
kiến lập vương triều Án Ðạt La cũng tại nam Ấn Ðộ, và
cùng với vương triều Quý Sương của bắc Ấn Ðộ đối địch
nhau, tạo thành tình thế phân cục nam - bắc triều.
- Vương triều Án Ðạt La.
Từ sau thời vua A Dục, lãnh thổ của đế quốc Ma Kiệt Ðà
lần hồi bị thu hẹp, tại đông nam Ấn Ðộ, tộc người Án Ðạt
La - phân chi của dân tộc Ðạt La Duy Trà, thừa lúc vương
triều Khổng Tước đang hồi suy vi mà tuyên cáo độc lập.
Ước khoảng từ năm 240 - 230 trước tây lịch. Vua Thi Ma
Ca (Simuka) người hưng khởi vương triều Bà Ða Bà Ha và
lập kinh đô tại đất Ðà na Yết Kiệt Ca (Dhanakataka), cao
ngyên Ðưc Can (Deccan) cũng thuộc về vương triều này.
Trước Công nguyên hai mươi tám năm, vương triều Bà Ða Bà
Ha thôn tính toàn bộ vùng trung Ấn của Ma Kiệt Ðà. Sau
Công nguyên khoảng một trăm năm lẻ sáu (106) năm, vua
Kiều Ðạt Di Phổ Ðặc La, và vua Tất Ðạt Khải Nhĩ Ni
(Gautamìputra Sàtakarni) bành trướng lãnh thổ sang tây
Ấn Ðộ, nhưng thừa lúc vương triều Bà Ða Bà Ha bị suy
yếu, các địa phương tại trung Ấn và tây Ấn liền tuyên bố
ly khai. Khoảng năm 225 sau Công nguyên (có thể là năm
226), vương triều Bà Ða Bà Ha bị diệt vong.
Về mặt tín ngưỡng tôn giáo, vương triều Bà Ða Bà Ha của
tộc Án Ðạt La, phần lớn các vua tín phụng Bà La Môn
giáo, trong đó cũng có một số vị quân vương tín phụng Kỳ
Na giáo và Phật giáo, cũng có vị bảo hộ và hoằng dương
Phật pháp. Vị anh chúa là Tất Ðạt KhảiNhĩ Ni cùng mẫu
hậu bố thí tịnh xá Ðộng - Quật cho tăng đồ Hiền Vị Bộ.
Lại có vua Bà Ða Bà Ha lấy hang động trên đỉnh Hắc Sơn
cúng ngài Long Thọ. Ðoán rằng đây có thể là vua Kiều Ðạt
Di Phổ Ðặc La. Khoảng từ năm 170 - 201 sau tây lịch hoặc
vua Da Kỳ Na Xá Lợi (Gautamìputra Yajnõasri).
Riêng tại Tích Lan, có vị vua tên là Mộc Xoa Già Ma Ni
kiến thiết tịnh xá, đại tháp, đồng điện v.v... tại vùng
đất A Nậu La Ðà Bổ La, và cúng dường tăng già rất hậu.
Tại đây vị quân vương làm người ngoại hộ; do đó, mà Phật
giáo tại Tích Lan phát triển vô cùng thuận lợi. Khi Phật
giáo chưa truyền đến Tích Lan, thì người dân tại đây
cũng đã cất Vô Úy Sơn Tự để cúng dường cho Ni Kiền Tử
(môn đồ Kỳ Na giáo). Họ cũng chuyển sang cúng dường ngôi
đại tự cho trưởng lão Ma Ha Ðế Tu. Về sau nhờ có nhiều
vị vua và đại thần hộ trì, nên tại Tích Lan cho kiến tạo
được rất nhiều chùa tháp Phật giáo. Tích Lan vốn là một
chi của Phật giáo Ấn Ðộ, do đó sách này sẽ dành một
thiên để giới thiệu, ở đây chỉ xin sơ lược.
- Vua Di Lan Ðà.
Sau khi A Lịch Sơn Ðại xâm nhập Ấn Ðộ (năm 326 trước tây
lịch), lại có một người Hy Lạp rất nổi tiếng tên là Ðức
Di Ða Lợi Áo Tư (Demetrois) thống suất đại quân tái
chiếm A Phú Hãn (Afghanistan), rồi từ A Phú Hãn xâm nhập
Ấn Ðộ bằng cách vượt qua sông Tín Ðộ, chiếm hữu các địa
khu thuộc thượng du sông Hằng, và đóng đô tại Xá Kiệt
(Xa Yết La - Sàkala) - Vua Di Lan Ðà thuộc tộc người
Demetrois.
- Vua Di Lan Ðà (Milanda) lên ngôi khoảng năm 160 trước
Công nguyên. Ông là vị vua tịnh tín đối với Phật giáo,
ông từng đến trước Na Già Tư Na (Nàgasena được dịch là
Long Quân, hoặc dịch âm là Na Tiên) Tỳ kheo để hỏi Phật
pháp. Sự kiện này được biên tập thành bộ sách, đó là bộ
“Di Lan Ðà Vấn Kinh” được viết bằng văn tự Ba Lị, mà bản
Hán dịch vơi tên là “Na Tiên Tỳ Kheo Kinh”.
Theo Ấn Ðộ Thông Sử của Chu Tường Quang, trang 88 chép
là vào khoảng năm 155 trước Công nguyên, Khách Bố Nhĩ
(Kabul) và tổng đốc của Bàng Giá Phổ là Mai Na Ðà
(Menander) thống suất đại quân Hy Lạp tấn công nước Ma
Kiệt Ðà, vì thế mà Ma Thâu La, A Du Ðà (Ayodhyà), Mạt Ðệ
Mật Ca (Madhyamika) cũng thường xuyên bị vậy hãm, mãi
tới khi thành Hoa Thị thuộc vương triều Hăc Ca cử đại
quân đánh bại quân Hy Lạp, và buộc họ phải thối lui. Sau
đó vài năm, Bổ Sa Mật Ða La xưng vương và cho thực hành
phép Mã tự. Phép Mã tự dùng ngựa làm vật để hiến tế;
phàm ngựa được hiến tế mà chạy qua bang nào, thì bang
(nước) đó được làm phép Mã tự, tức là cho quân gia nhập
sĩ gia nhập đội bảo vệ lễ cúng ngựa, nếu không ắt phát
sinh chiến tranh. Quân đội Hy Lạp nhân đó bắt được cháu
của Bổ Sa Mật Ða La - người thống suất đội bảo vệ tế mã,
và đánh nhau với Bà Tô Mật Ða La (Vasumtra - tướng của
vương triều Hắc Ca), quân tướng Hy Lạp đánh bại quân của
Tô Mật Ða La hai bên bờ sông Ấn hà.
Mai Na Ðà được nói trên đây là vua Di Lan Ðà, gọi giản
đơn là vua Di Lan. Trước ông đến nước Ấn Ðộ Ðại Hạ, đồn
trú tại Kabul và làm tổng đốc tại Bàng Giá Phổ. Sau đó
ông kế vương vị nước Ðại Hạ. Lãnh thổ do ông thống trị
bao gồm Afghanistan, lưu vực Ấn Ðộ hà, Lạp Gia Phổ Ðại
Na (Rajaputana) và một bộ phận của đông bộ Ấn Ðộ. Sau
khi ông chết, thì Ấn Ðộ Ðại Hạ bị chia đôi, vị vua sau
cùng có tên là Hạng Mậu Tư (Hermanes), vào năm 50 trước
Công nguyên, ông đầu hàng Ðại Nguyệt Thị (Cơ Tộc -
Scythian) thuộc vương triều Quí Sương.
- Vương triều Quí Sương.
Kế tiếp sau người Hy Lạp xâm nhập Ấn Ðộ là tộc người Ðại
Nguyệt Thị, tộc người này xâm nhập vào vùng tây bắc Ấn
Ðộ. Theo “Hán Thư Tây Vực Truyện” chép: “Ðại Nguyệt Thị
vốn định cư tại Ðôn Hoàng bị họ Hạnh Ðốn đánh phá, nhân
đấy Lão Thượng Ðơn tàn sát tộc Ðại Nguyệt, dùng đầu của
tộc Ngyệt Thị bị giết làm đồ đựng thức uống. Từ đó tộc
Nguyệt Thị bỏ chạy khỏi dải Ðôn Hoàng, vượt qua Ðại
Uyển, đánh phá phái tây nước Ðại Hạ, nhưng lại thần phục
Ðại Hạ. Lập thành triều đình và đóng đô ở phái bắc Quy
Thủy”. Tây Vực Truyện cho biết là tộc Nguyệt Thị: “Có
năm Linh hầu, một là Hưu Mật Linh hầu, hai là Song Mi
Linh hầu, ba là Quí Sương Linh hầu, bốn là Khoa Ðốn Linh
hầu, năm là Ðộ Mật Linh hầu”.
Phần sau cùng của “Hậu Hán Thư Tây Vực Truyện” lại chép:
Lúc đầu tộc Nguyệt Thị bị người Hung Nô tiêu diệt, bèn
chạy đến Ðại Hạ định cư, chia đất nước ra thành năm Bộ
Linh hầu. Hơm trăm năm sau, Linh Hầu Quí Sương là Khưu
Tự Khước, tấn công tiêu diệt bốn linh hầu còn lại, rồt
tự lập lên làm vua, xưng quốc hiệu là Quí Sương. Vua
nước Quí Sương mang quân đi xâm lược An Tức Chiêm lấy
đất Cao phủ, lại tiêu diệt Bộc Ðạt, Kế Tân mà có được
nước riêng cho vương triều Quí Sương. Khưu Tựu Khước
sống hơn tám mươi tuổi mới chết. Con là Diêm Cao Trân
lên thay cha làm vua, lại một lần nữa đánh phá nước
Thiên Trúc”.
Tộc Nguyệt Thị gốc là giống người Mông Cổ bị người Hung
Nô tại vùng sơn cốc thuộc tỉnh Cam Túc của Tung Quốc
đuổi chạy đến Ðại Hạ (nay là Châu Bố Hiệp Nhĩ của Thổ
Nhĩ Kỳ Tư Ðát). Thời ấy Ðại Hạ là đất bị thực dân Tây Hạ
cai trị, và do bộ tướng của A Lịch Sơn Ðại (Alexander)
lập thành một tiểu quốc. Khưu Tựu Khước đánh bại người
Hy Lạp, lập nên vương triều Quí Sương. Sau khi bị đại
bại, người Hy Lạp rút chạy về phía nam, và tiến vào Ca
Thấp Di La thuộc vùng tây bắc Ấn Ðộ (nay là Khách Thập
Nhĩ Mễ - tức bang Kamira do từ sự kiện này), tiếp đó tộc
Nguyệt Thị truy đuổi người Hy Lạp nên cũng tiến vào Ấn
Ðộ. Ðến con của Diêm Cao Trân là vua Ca Nị Sắc Ca (theo
V.A. Smith, thì vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi năm 120 sau
tây lịch). Thời này, vùng phía tây bắc trung Ấn Ðộ mới
trở thành cộng chủ dưới quyền vua Ca Nị Sắc Ca. Về niên
đại lên ngôi của vua Ca Nị Sắc Ca không thể xác định.
Nếu căn cứ việc ông cho đúc tiền mà khảo sát. Thì đại
khái khoảng từ năm 78 đến 128 tây lịch. Nhưng đó là thời
kỳ ông tại vị
Về phương diện lịch sử Phật Giáo Ấn Ðộ, thì địa vị vua
Ca Nị Sắc Ca và A Dục đều được coi là các ông vua của
Phật Giáo, cả hai đều là những bậc quân vương hùng tài
đại lược, văn trị, võ công song toàn, người trước người
sau đều ngời sáng. Vua Ca Nhị Sắc Ca kiến lập kinh đô
tại Bố Lộ Sa Bố La (Purusa - Pura, nay là A Phú Hãn và
giao giới với xứ Ba Cơ Tư Ðát (Pakistan) của Bạch Hạ
Ngõa), đông giáp lưu vực sông Diêm Ngưu Na, nam từ dãi
sơn mạch Tần Xà Da (Vindhya) đến Ấn Ðộ hà khẩu, tây tiếp
giáp An Tức (nay là Y Lãn và một bộ phận của A Phú Hãn),
đông bắc chạy đến phía đông của ngọn Ðạt Ðát Ân. Nghiễm
nhiên là một đại đế quốc.
Theo sử gia Tra Na Tư Hoa (KP. Jayaswal), thì trong ba
mươi ba ba vị vua của vương triều Quí Sương. Chỉ có mười
tám vua trước thống lãnh đến tận trung Ấn Ðộ; từ thời
trung kỳ trở lui, tại địa phương Ca Ma Phổ (Campà) đã có
vương triều Na Già Tư Na (Nàgasena) - 150 - 134 sau tây
lịch. Tại địa phương Kiều Ðức (Gaudà), có vương triều
Kiều Ðức (? - 320 tây lịch). Sau này có vua Phổ Lạp Bạch
Suy Tư Nô (Prabhavisnu) xuất hiện, và thôn tính cả hai
vương triều Na Già Tư Na và Kiều Ðức đến vua Sa Mổ Ðà La
Cấp Ða (Samudra - gupta), người sáng lập vương triều Cấp
Ða. Ấn Ðộ một lần nữa qui về thống nhất. Thực ra thì nền
tảng của vương triều cấp đa được dựng xây từ thời vua
cha là Chiên Ðà La Cấp Ða đệ nhất (Candragupa I) đó là
năm 320 tây lịch. Vương triều này lúc khởi đầu chỉ là
tên của vị Thổ vương có tính thế tập, sau đổi thành quân
vương.
Ở phương bắc vương triều Quí Sương bị diệt vong vào năm
320 tây lịch, trong khi ở phương nam vương triều Án Ðạt
La bị bại vong vào năm 326 tây lịch. Thay vào đó là sự
đại hưng của vương triều Cấp Ða.
TIẾT
II. PHẬT GIÁO VỚI VUA CA NỊ SẮC CA.
- Phật Giáo trong thời gian ba trăm năm.
Lịch sử Ấn Ðộ tính từ thời vua A Dục đến thời vua Ca Nị
Sắc Ca có hơn ba trăm năm, trong khoảng thời gian này,
kết luận dù là tôn giáo hay chính trị, lịch sử Ấn Ðộ cớ
hồ như tờ giấy trắng vì chẳng có sự ghi chép nào cả! Về
mặt sử học, trong thời cận đại nhờ có sự khai quật mới
phát hiện những di vật của thời cổ đại, nhờ vậy mới khảo
sát, cùng lợi dụng các thứ tư liệu vừa gián tiếp và lờ
mờ để qua đó đối chiếu, so sánh và thẩm tra rồi đi đến
kết luận một cách đại lược. Phật Giáo trong thời kỳ này
theo Lữ Trường, ông dựa vào bộ Phật Giáo Ấn Ðộ của Ðịch
Nguyên Vân để biên soạn bộ Ấn Ðộ Phật Giáo Sử Lược, mà
một thiên của chương một, tiết bảy, có hai đoạn nói tới
thời gian này đại loại có năm khu vực:
- Phương nam thịnh nhất là Tích Lan.
- Tiếp đó là Ma Lạp Bà (Malava) thuộc Tây nam Ấn Ðộ.
- Thứ nữa là Tín Ðộ ở tây bắc Ấn Ðộ.
- Tương đối thịnh là Ca Thấp Di La và Kiền Ðà La thuộc
bắc Ấn Ðộ.
- Ở đông bắc Ấn Ðộ là phạm vi của Kỳ Na giáo rất mạnh.
Như ta biết, sự phục hưng của Bà La Môn giáo đầu tiên là
tại trung Ấn Ðộ. Từ sau khi vương triều Án Ðạt La tiêu
diệt vương triều Ma Kiệt Ðà, lúc ấy tư tưởng Phật Giáo
Ðại Chúng Bộ của phương nam mới đến được trung Ấn Ðộ, và
rồi theo chân triều Án Ðạt La mà tiến vào tây Ấn Ðộ,
khiến Phật Giáo Hữu Bộ của tây Ấn cũng cảm nhiễm tư
tưởng của Ðại Chúng Bộ, cho nên sự xuất hiện của Sư Kinh
Lượng Bộ ở tây Ấn không phải là ngẫu nhiên. Nhân vụ tại
trung Ấn xảy ra pháp nạn nên có một bộ phận học giả của
Thượng Tọa Bộ ở đông nam Ấn phải lánh nạn vào nam Ấn Ðộ,
tại đây họ tiếp xúc tư tưởng của Ðại Chúng Bộ mà hình
thành Phân Biệt Bộ rất tiến bộ. Lệ như Hóa Ðịa Bộ và
Pháp Tạng Bộ lấy thành Ba Tra Li Tử làm trung tâm, Pháp
Tạng (tức Ðàm Vô Ðức Bộ) có mang sắc thái Mật giáo, ấy
là do tiếp thụ ảnh hưởng của văn hóa Án Ðạt La, do đó
cho nên dưới thời vua A Dục có sự bất đồng giữa Pháp
Tạng Bộ và Phân Biệt Bộ, cũng thế lúc Pháp Tạng Bộ
truyền đến Tích Lan lại bất đồng với Phân Biệt Thượng
Tọa Bộ.
Trong giai đoạn này, vùng đất căn cơ của Bà La Môn giáo
sơ kỳ là tại tây Ấn và bắc Ấn; bởi tại trung Ấn thế lực
Phật Giáo đang thịnh hành, vì là thời trị vì của vua A
Dục. Nên Phật Giáo phản đối sự chiếm lĩnh của Bà La Môn
giáo, do vậy, Bà La Môn giáo hướng về nam Ấn, và hình
thành tín ngưỡng của dân tộc Án Ðạt La. Rồi cũng do sự
hỗn hợp giữa Bà La Môn giáo với văn hóa Án Ðạt La mà sản
sinh ra tân Bà La Môn giáo - đó là phái Thấp Bà. Lại
nữa, cũng do vương triều Án Ðạt La đến trung Ấn. Nhờ
vậy. Phật Giáo tại trung Ấn lại hưng thịnh hẳn lên.
- Riêng tại Tích Lan, sách này sẽ dành một thiên để giới
thiệu.
Phương diện hiểu biết về Án Ðạt La rất giới hạn, duy chỉ
có một hệ của Hữu Bộ ở phương bắc còn lưu lại điển tích,
do đó sẽ giới thiệu vấn đề này.
- Vua Ca Nị Sắc Ca và những việc làm của ông.
Tên tuổi vua Ca Nị Sắc Ca được thấy trong các ghi chép
của Phật Giáo, và được truyền đến Tây Tạng và Mông Cổ.
Năm 1909, bác sĩ Tư Ban Nội (Dr. Spooner) khai quật được
một hòm xá lợi Phật tại tây bắc Ấn Ðộ, trên nắp hòm có
khắc tên vua Ca Nị Sắc Ca, điều đó chứng thực rằng ông
là người có thực trong lịch sử Ấn Ðộ cổ đại; mặt ngoài
hòm xá lợi có khắc tự dạng “Nạp Thọ Thuyết Nhất Thiết
Hữu Bộ”, như vậy cho thấy ông là người hộ pháp của Phật
Giáo Hữu Bộ.
Căn cứ nét hoa văn trên tiền đúc dưới thời trị vì của
vua Ca Nị Sắc Ca mà khảo sát, thì vua lúc về già mới tín
phụng Phật pháp. Tiền tệ được phát hành vào thời kỳ đầu
dưới thời ông, về hình sắc mà nói thì rất đẹp. Chữ Hy
Lạp được khắc chạm lên tiền đồng, và khắc cả tượng thần
Nhật Nguyệt nữa. Lần phát hành tiếp theo ông lại dùng Ba
Tư ngữ thuộc cổ văn Hy Lạp để khắc lên tiền đúc, đồng
thời cũng khắc tượng thần được các dân tộc như Hy Lạp,
Ba Tư và Ấn Ðộ tôn thờ lên tiền đúc, nhưng chưa thấy
khắc tượng đức Thích Ca.
Phật Giáo tại Ca Thấp Di La và tại Kiền Ðà La phải đợi
đến cuối thời vua A Dục mới được xiển dương hoằng hóa,
và do hoàn cảnh đặc thù mà Phật Giáo tại đây dần dà trở
thành một hệ riêng, mang nặng tính tuyển thuật phong phú
về luận điển, và coi trọng thiền dịnh, do đó cho nên sau
này các luận sư, thiền sư cũng như mười chín học giả đều
xuất từ hệ này. Khi đã có nhiều luận sư, thì điều không
thể tránh là giữa họ xảy ra tranh luận với nhau; vì vậy,
vua Ca Nị Sắc Ca đối với Phật Giáo là một vị vua có công
đưc cực lớn, đó là việc ông xúc tiến cuộc kết tập lần
thứ tư thành công. Có ba truyền thuyết nói về lần kết
tập thứ tư:
1. trong Ðại Ðường Tây Vực Ký quyển ba,
Huyền Trang chép:
Nhân việc vua lấy đạo hỏi người, mỗi người giải đáp khác
nhau, vua bèn đem việc ấy hỏi Hiếp Tôn giả. Tôn giả
đáp:”Sau khi Như Lai diệt độ, qua nhiều năm tháng, chúng
đệ tử Phật chấp theo Bộ phái mình, khiến lời dạy của
Phật được giải thích theo sự “kiến văn” khác nhau của
mỗi Bộ, kết quả dẫn đến mâu thuẫn nhau”. Nghe xong, nhà
vua vô cùng xót xa, đau đớn, ông liền phát tâm và truyền
lệnh triệu tập chư vị thánh triết đến dự cuộc kết tập.
Ðại chúng trong đại hội kết tập đồng lòng thỉnh Bồ Tát
Thế Hữu làm thượng chủ. Cuộc kết tập lần lượt tiến hành
các việc như: tạo luận, giải thích kinh, luật mỗi thứ có
đến mười vạn bài tụng. Cộng cả thảy có ba mươi vạn bài
tụng với chín trăm sáu mươi vạn lời (9.600.000) chú
thích đầy đủ tam tạng.
2. Truyện Bà Tẩu Bàn Ðậu
Pháp sư chép:
Sau Phật nhập diệt năm trăm năm, có ngài La hán Ca Chiên
Diên Tử xuất gia với Bồ tát Bà Ða, ngài cùng năm trăm vị
La Hán và năm trăm vị Bồ Tát cùng nhau tuyển tập bộ A Tỳ
Ðạt Ma cho Bộ phái Tát Bà Ða.
3. Vấn đề này được truyền tại Tây Tạng:
Tại nước Ca Thấp Di La có vua Ca Nị Sắc Ca cúng dường
tịnh xá Nhĩ Lâm, dùng nơi này để triệu tập năm trăm vị
La Hán, năm trăm vị Bồ Tát, và năm trăm học giả tại gia,
thỉnh cầu họ kết tập lời Phật. Từ đó về sau những thuyết
của mười tám Bộ được chứng nhận đúng là lời Phật dạy.
Lại cho ghi chép luật thành văn tự, những kinh, luận nào
trước đây chưa được viết thành văn, thì nay cũng được
viết đầy đủ.
Trong ba thuyết vừa nêu, thì Ðại Ðường Tây Vực Ký chỉ
lấy ngài Thế hữu xưng là Bồ Tát. Trong khi Thế Thân
truyện lại ghi có năm trăm vị Bồ Tát và Tây Tạng thì gia
thêm năm trăm vị học giả tại gia. Như vậy, có thể hình
dung lần kết tập này thông hàm tất cả những điều Phật
dạy. Thực ra, lần kết tập thứ tư này là của Nhất Thiết
Hữu Bộ, vì trong ba thuyết trên chỉ có thuyết của Ðại
Ðường Tây Vực Ký là đủ độ khả tín. Thành quả của lần kết
tập này là sự xuất hiện của luận Ðại Tỳ Bà Sa với hai
trăm quyển, và bộ luận này hiện vẫn còn trong tạng luận,
trong đó còn lưu giữ tự dạng thời vua Ca Nị Sắc Ca. Nếu
xét về nội dung, bộ luận Ðại Tỳ Bà Sa đã qua nhiều tăng
bổ của hậu nhân.
- Ngài Mã Minh với vua Ca Nị Sắc Ca.
Theo những gì được truyền tại Trung Quốc cũng như tại
Tây Tạng, thì giữa vua Ca Nị Sắc Ca và ngài Mã Minh
(Asvaghosa) đều có liên quan với nhau. Truyền rằng, khi
vua Ca Nị Sắc Ca tấn công nước Ma Kiệt Ða, dân nước này
địch không nổi bèn lấy bình bát của đức Phật ra cung
hiến và nhờ Bồ Tát ngài Mã Minh đứng ra cầu hòa. Lại
nữa, theo Ðại Trang Nghiêm Luận, thì ngài Mã Minh là
người viết bài “Qui Kính Tự” trong đó có câu “Phú Na
Hiếp Tỳ kheo, ngã đẳng giai kính thuận” (Ngài Hiếp Tôn
Giả Tỳ kheo Phú Na, chúng con xin cung kính qui thuận).
Qua đó cho thấy dưới thời trị vì của vua Ca Nị Sắc Ca,
ngài Mã Minh là đệ tử của Hiếp Tôn Giả, truyền thuyết
cũng nói đến vua và ngài Mã Minh đều thờ Hiếp Tôn Giả
làm thầy. Theo “Thế Thân Truyện
thì “Mã Minh viết một mạch trong mười hai năm xong bộ
luận Tỳ Bà Sa, với một trăm vạn bài kệ”. Theo truyền
thuyết này thì Mã Minh là người trước tác luận Ðại Tỳ Bà
Sa. Sự thực thì Mã mInh là một đại văn hào của thời đại
ông mà thôi, và ông là người nhuận sắc Luận Ðại Tỳ Bà
Sa, chứ ông không phải là sư của Bà Sa. Vì trong “Ðại
Trang Nghiêm Kinh Luận - Qui Kính Tự”, ông tỏ rõ một mực
qui kính các ngài: Phú Na, Hiếp Tỳ kheo, Di Lặc (Hóa Ðịa
Bộ), Tát Bà Thất Bà (Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ), Ngưu
Vương Chánh Ðạo Giã (tức Kê Dẫn Bộ) v.v...
Bất luận thế nào, trong quá trình kiến quốc vua Ca Nị
Sắc Ca là người mở thông Bộ giữa hai nước Ấn Ðộ và Trung
Quốc. Khi về già ông là vị vua tích cực hộ trì Phật
Giáo. Cũng nhờ đó mà Phật Giáo có đủ thời gian truyền
đến các dân tộc trong vùng. Buổi đầu Phật Giáo đến được
Trung Quốc là do đường bộ từ Tây Vực mà đến. Vì vậy, khi
nói đến công đức vua Ca Nị Sắc Ca, ta có thể sánh công
đức của ông ngang với vua A Dục.
- Pháp nạn tại Ấn Ðộ.
“Vật cực tắc phản” tựa hồ như đấy chính là qui luật thép
của thế gian pháp! Theo Sử thư Ràjatanginì của Ca Thấp
Di La thì hai vị vua của vương triều Quí Sương trước
thời vua Ca Nị Sắc Ca, đều là những vị vua hộ pháp và có
kiến trúc tăng viện, Chi Ðề (tháp thờ xá lợi) rất nhiều,
khi vua Ca Nị Sắc Ca lên ngôi thì Phật Giáo tại Ca Thấp
Di La lại càng hưng thịnh hơn, và có phần áp đảo tín
ngưỡng Thấp Bà của Bà La Môn giáo, bấy giờ tại Ca Thấp
Di La, Phật Giáo bị tộc người Thổ Bang Long (Nagà) phản
đối bằng cách sát hại Phật Giáo đồ một cách bừa bãi. Vua
Ca Nị Sắc Ca cũng từng gặp phải sự bất ổn này nên đành
tránh né.
Bấy giờ có Bà La Môn là Cam Ðà La Ðề Bà (Condradeva) nổi
lên trấn áp Phật Giáo. Ðến vua Chiên Ðà La (Gonada) đời
thứ ba mới chận đứng được sự đàn áp Phật Giáo. Ðại Ðường
Tây Vực Ký quyển ba
cũng chép:
Sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời, giống người Ngật Lợi
Ða lại tự xưng vương, họ bài xích và xô đuổi tăng đồ,
hủy hoại Phật pháp, về sau nhờ có Tứ Ma Ðát La thuộc tộc
Thích Ca của nước Ðồ Hóa La giết chết vua Ngật Lợi Ða,
Phật Giáo nhơn đó được phục hưng.
Nhờ cả hai sách vừa dẫn đều được ghi giống nhau, do đó
có thể đủ để tin là sau khi vua Ca Nị Sắc Ca qua đời
chắc chắn là có việc thổ vương theo Bà La Môn giáo, nổi
lên hủy diệt Phật Giáo.
- Ảnh hưởng sau Pháp nạn.
Theo pháp sư Ấn Thuận, sau pháp nạn tại trung Ấn, Phật
Giáo tại Trung Ấn đi đến ba kết quả.
1. Vội vàng chạy theo ngoại diên, đánh mất sự thuần
chơn:
Cảm nhận từ giáo nạn đưa đến lãnh vực nhận biết về tôn
giáo thế giới, mà trước tiên không còn tôn trọng chính
tôn giáo mình, không chịu củng cố cái gốc của mình, và
không chịu làm sạch nguồn mạch của tôn giáo mình. Ngược
lại ngày càng vọng ngoại, cho đấy là tùy phương ứng hóa.
Tuy những suy nghĩ như thế bị Ðức Thích Tôn bác bỏ, cũng
không nên tiếc rẽ việc tùy phương ứng hóa, cho đó là
phương tiện, dù vẫn biết phải thích ứng với hoàn cảnh để
vượt qua giáo nạn, và khỏi bị diệt vong, còn cho đó là
sức mạnh mà đánh mất chơn thuần của Phật pháp thì không
nên.
2. Tin về Phật pháp bị tiêu diệt được loan đi, tạo
nên tâm lý chán nản:
Chánh pháp trụ thế cả nghìn năm, và được truyền bởi
kinh, luật từ xưa trước, lấy đó mà hình dung sự trường
tồn Thánh giáo tại thế gian, chứ chẳng nên nhìn thấy
việc người bị sát hại mà cho rằng chánh pháp cũng nhân
đó mà bị diệt theo. Chính vì thế mà đức Phật chế định
giới luật có công năng nhiếp tăng (giữ cho tăng sĩ thanh
tịnh). Nhưng cũng từ giáo nạn, cổ nhân hứng khỏi niềm bi
cảm mà than “Thiên niên pháp diệt”. Pháp diệt do lòng bi
cảm không đồng với pháp diệt do chính đức Phật dự đoán.
Bởi khi khởi niệm bi cảm như thế, thì phong cách hùng
biện của Phật Giáo liền bị tiêu tan, sự suy vong không
có gì nguy hơn là”tâm tử” (chết từ trong lòng), quả đúng
là điều không htể nói hết.
3, Nhờ Phật tử tự lực đứng vững và cầu sự hộ pháp của
vua quan từ bên ngoài:
Trước giờ người Phật tử tự coi mình rất cao đó là không
cần cậy sự trợ giúp từ sức mạnh chính trị, cũng không bị
câu thúc bởi sức mạnh chính trị. Nhưng sau pháp nạn,
người Phật tử cảm thấy tự lực không thôi không đủ để duy
trì việc hộ pháp. Mà cho rằng Phật pháp cũng cần sự
ngoại hộ của các vua, quan. Nhưng tăng đoàn thanh tịnh,
và Phật pháp được lưu bố là do tự lực, nhưng cũng cần có
ngoại lực trợ duyên. Thánh điển chép là có thiên long hộ
trì, đó là muốn nhấn mạnh: hãy tự lực đi rồi sẽ cảm đến
ngoại lực. Như vậy là cần sự trợ giúp chứ không bỏ qua
sự trợ giúp. Sau giáo nạn, tư tưởng hướng vào ngoại lực
trợ giúp ngày càng đậm thêm, làm lộ ra sự cầu cạnh không
mấy thanh cao.
TIẾT
III. NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO ẤN ÐỘ.
Sự quan hệ giữa Tôn giáo và Nghệ thuật.
Ðịnh nghĩa thế nào là nghệ thuật, phạm vi của nó có thể
nói người này khác người kia, nhưng theo quan niệm phổ
thông thì nghệ thuật là chỉ cho: kiến trúc, điêu khắc,
đồ họa, âm nhạc và các tác phẩm văn học. Ở thời hiện đại
này người ta lấy khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, phân ra
từng lĩnh vực để giới thuyết. Và đưa ra nhận định: khoa
học chủ đích là nhắm đến cái chân, chủ đích của tôn giáo
là Thiện, và của nghệ thuật là Mỹ. Thực là không hẳn là
như vậy, đứng trên quan điểm nghệ thuật có thể chia
thành nghệ thuật khoa học, nghệ thuật tôn giáo và nghệ
thuật của nghệ thuật. Trong thời cận đại có người đưa ra
quan niệm dùng nghệ thuật sáng tạo nghệ thuật; như vậy,
việc truy tầm di tích cổ đại của nhân loại có nhiều nghệ
thuật phẩm hết sức vĩ đại, nhưng có rất ít các nghệ
thuật phẩm tách khỏi nghệ thuật tín ngưỡng tôn giáo để
độc lập phát sinh tồn tại. Riêng về kiến trúc, thì những
kiến trúc vĩ đại nhất trong thời cổ đại là ở Hy Lạp và
Ai Cập. Ðó là điện thờ thần và Kim tự tháp. Các công
trình này cơ bản vẫn xuất từ tín ngưỡng tôn giáo. Thời
cổ đại ở Trung Quốc có kiến trúc lớn nhất là Minh Ðường.
Sách Lễ Ký của Trung Quốc có thiên chép về “Minh Ðường
vị”. Minh Ðường là gì? Là nơi các bậc đế vương trong
thời cổ đại của Trung Quốc dùng vào việc bái thiên, tế
thổ, hành chính và phổ biến giáo dục.
Về điêu khắc, những tác phẩm điêu khắc trong thời cổ đại
hiện còn, phần nhiều là các tượng thần mang tính tôn
giáo, đôi khi cũng có tượng người nhưng cũng sản sinh từ
đức tin tôn giáo. chẳng hạn “Sử Ký - Chu Bản Kỷ” chép
“Chu Võ Vương vì Văn Khương mà làm mộc chủ (còn gọi là
thần chủ) rời chở đi thảo phạt”. Ðấy là nói lúc Võ Vương
đi thảo phạt, ông dùng xe chở tượng Văn Vương được làm
bằng gỗ đi cùng, tượng gỗ được coi là đại biểu cho Văn
Vương. Việc làm này khiến cho người đời sau theo đó tô
vẻ di tượng người trước, và chế tác ra bài vị tổ tiên để
thờ cúng.
Ngay như âm nhạc, thời cổ đại người ta dùng âm nhạc vào
các lễ nghi tôn giáo, dần dần người ta sử dụng âm nhạc
vào các cuộc vui chơi, hoặc đệm cùng thi ca để xướng
tụng các thần, không sự kiện nào là không dùng dến âm
nhạc. Còn có loại âm nhạc chuyên dùng cho việc vui chơi
nhảy múa. Như chúng ta biết, Vệ Ðà của Ấn Ðộ trước tiên
dùng những vần thơ mỹ miều để ca tụng thần minh. Bích
họa trong các di tích cổ dại, người ta phát hiện thấy
các nhân vật thần thoại đang trong tư thái nhảy múa
trông đẹp một cách dị thường. Ngày nay vẫn còn một số
vùng mà ở đó thổ dân vẫn còn lạc hậu, họ sử dụng âm nhạc
để khiêu vũ, ca xướng coi đó là cách thức để tế thần và
tạ thần.
Vì thế, mà xã hội loài người từ thời cổ đại đã biết sáng
tác nghệ thuật mà nền tảng của nó đại để xuất phát từ
tín ngưỡng tôn giáo.
Ðương nhiên về tính chất, thì giữa tôn giáo và nghệ
thuật là không tương đồng, bởi tôn giáo là do tín
ngưỡng, trong khi nghệ thuật thông qua sự biểu hiện, có
tín ngưỡng rồi sau mới có tôn giáo. Tôn giáo đem lại cho
người ta cảm tưởng là mình được vĩnh viẽn an toàn; trong
khi nghệ thuật chỉ biểu hiện “cái có” của đương thời,
hoặc niềm hân hoan đương tại cảm thú về cái đẹp.
Do đó, sự thành kính đòi hỏi tín đồ của tôn giáo phải
đạt đến trình độ tương đương, có thể họ không có nhu cầu
nghệ thuật trong sinh hoạt tín ngưỡng, nhưng họ phải
luôn giữ tâm họ bình tĩnh an lạc; cũng có hạng người nhờ
vào phương pháp nghệ thuật làm môi giới để từ đó đi vào
tín ngưỡng tôn giáo. Vì thế, tôn giáo không nhất thiết
phải cần đến nghệ thuật, nhưng sự biểu hiện của nghệ
thuật có thể dẫn đường để con người đến tôn giáo. Ðìều
này, về phương diện tư tưởng của Phật Giáo mà nói là phù
hợp sự thực.
* Bản chất Phật Giáo đối với nghệ thuật có thuận
nghịch. Thứ nhất, Phật Giáo nguyên thỉ chỉ chú trọng
việc tu trì, và giải thoát, không có thì giờ nhàn hạ để
nghĩ đến nghệ thuật: người người có hiểu biết Phật
pháp đều biết rằng một Tỳ kheo hoặc Tỳ kheo ni, họ không
được theo đuổi công tác nghệ thuật.
Vì là tất cả mọi hiện tượng được sản sinh từ pháp duyên
sinh, đã là duyên sinh thì không thực, mà chỉ là quang
ảnh của sự giả hữu và tạm hữu, cho nên có gì đâu phải
coi trọng, đồng thời tìm cách giải thoát tâm tham luyến,
tâm ưa thích muốn chiếm hữu quang ảnh; người tu đạo nếu
không thoát khỏi sự trói buộc của ảo ảnh, người đó sẽ
không đạt lợi ích thực sự trong việc tu hành. Vì vậy,
trong giáo nghĩa nguyên thỉ, không giáo nghĩa nào không
cảnh giác con người hãy mau chóng thoát khỏi nghiệp sinh
tử. Khẩn cấp cầu pháp giải thoát. Tất nhiên hiện tượng
mà tôn giáo tín ngưỡng đưa đến phải là cảnh giới tương
đương. Ðặc biệt là Phật Giáo, nhân duyên quan lưu lộ từ
bi trí của đức Phật, giúp chúng ta biết được sự sinh tồn
của con người và vạn hữu giữa thời gian và không gian,
đó chẳng qua chỉ là sự tồn tại tạm thời của thân tâm do
ngũ ấm giả hợp, rốt cuộc cũng qui về hoại diệt, vì thế,
chớ nên để vật chất bên ngoài như thanh, sắc v.v... làm
cho mê hoặc, trong khi sự biểu hiện của nghệ thuật lại
rất cần sự môi giới của thanh sắc.
Tóm lại, trong thời đức Phật tại thế, cố nhiên trong
việc giáo hóa nhân gian, đức Phật chưa từng phản đối
nghệ thuật, nhưng nghệ thuật đối với việc giáo hóa của
Ngài cũng không được trọng thị một cách tích cực. Vì
rằng, kiếp nhân sinh có là bao, thọ mệnh vô thường, sáng
không thay được chiều. Cầu xuất biển khổ sinh tử là việc
cần kíp như cứu lửa trên đầu, vậy lấy đâu ra thời gian
nhàn hạ để theo đuổi công tác nghệ thuật? Do đó cho nên
trong thánh điển Phật Giáo nguyên thỉ phải đợi đến khi
khai quật và phát hiện di chỉ Phật tích của Ấn Ðộ cổ
đại, ghi là sau Phật nhập diệt hơn hai trăm năm, thuộc
dưới thời vua A Dục, nghệ thuật Phật Giáo mới xuất hiện.
Việc khai quật diễn ra cách thời đại đức Phật quá xa, nó
vượt quá sức tưởng tượng, sức dự đoán của tín đồ đối với
thánh cách của đức Phật. Ðồng thời nó cũng cho thấy Phật
Giáo dưới thời vua A Dục cũng chịu ảnh hưởng văn hóa của
các tôn giáo khác, rồi dần dà mới dùng thanh, sắc làm
công cụ để biểu đạt nghệ thuật Phật Giáo. Do đó, những
tác phẩm ở thời kỳ đầu được ra đời không do nhu cầu
thưởng thức nghệ thuật, mà là tượng trưng cho nhu cầu
tín ngưỡng.
- Thứ hai, quan niệm nghệ thuật từ Tiểu thừa đến Ðại
thừa Phật Giáo: Ở đây, điều đầu tiên cần nói rõ là vào
thời đức Phật tại thế, chưa có việc phân chia Tiểu thừa,
Ðại thừa, bởi Phật pháp là “nhất vị”. Nhưng do căn khí
của hàng đệ tử không đồng nhất, cho nên việc tiếp tục lý
giải lời dạy của Phật là có khác nhau. Do đó, tùy đối
tượng mà đức Phật giảng thuyết; với hàng xuất gia, Ngài
chú trọng giảng về pháp ly thế, xuất thế, với hàng đệ tử
tại gia, sự thuyết giảng của Ngài nghiêng về hòa thế,
lạc thế; tuy mục tiêu vẫn là nhắm đến cảnh giới Niết bàn
giải thoát. Nhưng, thường thì đức Phật chú trọng đến
hàng đệ tử xuất gia. Sau khi Phật diệt độ, lần kết tập
(biên tập) kinh Phật thứ nhất, hoàn toàn do các vị xuất
gia đảm trách. Cho nên trong thánh điển Phật Giáo nguyên
thỉ khó mà tìm ra được đâu là dấu hiệu của tư tưởng Ðại
thừa. Vì thế, trên nguyên tắc không cần phải đinh ninh
là tại sao kinh điển nguyên thỉ chỉ thiên trọng Tiểu
thừa.
- Nhưng, được gọi là Phật Giáo Tiểu thừa, điều này không
xuất hiện dưới thời Phật tại thế, mà chỉ xuất hiện sau
Phật nhập diệt. Nguyên do là vì tăng đoàn xuất gia chịu
ảnh hưởng văn hóa khác nhau theo từng địa vực mà họ
hoằng hóa, nên đối với giáo pháp của Phật, mỗi mỗi tăng
đoàn có sự lý giải không tương đồng, từ đó đưa đến việc
phân xuất nhiều Bộ phái. Tiểu thừa Phật Giáo, ấy là Bộ
phái Phật Giáo. Việc phân phái đầu tiên là phân thành
Lão Tỳ kheo phái thuộc Thượng Tọa Bộ và Thanh niên Tỳ
kheo phái thuộc Ðại Chúng Bộ. Sau đó từ Thượng Tọa Bộ và
Ðại Chúng Bộ lại phân ra thành nhiều Bộ phái, theo giới
thiệu của luận Dị Bộ Tông Luận, có tất cả hai mươi Bộ
phái; từ ngữ Bộ phái tương đương với danh từ Tông phái
của Trung Quốc, hoặc danh từ học phái của Hy Lạp. Trong
số các Bộ phái thuộc
Tiểu thừa Phật Giáo, thì tại nam Ấn Ðộ có các Bộ phái
của Ðại Chúng Bộ, và tại tây bắc Ấn Ðộ có Nhất Thiết Hữu
Bộ của Thượng Tọa Bộ truyền bá tại đây, và tư tưởng càng
tiến bộ; do họ tôn trọng việc giáo hóa Phật pháp đến
sinh họat của giới tín đồ tại gia, một lần nữa Phật Giáo
Nhất Thiết Hữu Bộ phục hưng, ấy là Ðại thừa Phật Giáo.
Ðại Chúng Bộ của nam Ấn Ðộ cũng là Tiểu thừa, nhưng từ
từ cũng dung nhập vào lĩnh vực Ðại thừa. Nhất Thiết Hữu
Bộ của tây bắc Ấn Ðộ cũng từ trong tăng đoàn Tiểu thừa
mà sản sinh rất nhiều bậc tông sư của Ðại thừa (vấn đề
này xin đọc thêm ở chương tám của sách này).
Như chúng ta biết Phật giáo Ðại thừa thiên về “hòa thế
lạc quần” (chan hòa vào thế tục, làm lợi lạc quần sinh).
Tinh thần Ðại thừa là hạnh nguyệt tự độ, độ tha của Bồ
tát. Hạnh Bồ tát và pháp thế tục, về mặt biểu hiện không
có gì sai biệt, chỉ khác chăng là tâm niệm độ sinh mà
thôi. Hạnh Bồ tát là dấn thân vào đời để giáo hóa độ
sinh, trong khi pháp thế tục vẫn lưu chảy trong cuộc
sống thế tục và không khác thế tục (tức cứu đời). Vì
thế, con đường của Ðại thừa Bồ tát tuy bên ngoài biểu
hiện những việc làm có tính cách thế tục, nhưng hàm ẩn
bên trong pháp môn tu giải thoát vô cùng vĩ đại.
Hẳn nhiên khi đã “nhập tục hóa tục”, điều cần yếu là
phải thực hiện đồng sự nhiếp trong Tứ nhiếp pháp, ấy là
trước phải tùy thuận dục lạc của chúng sinh để lần lần
dẫn dắt chúng sinh chúng sinh về với chánh đạo của Phật.
Riêng về phương diện này, nghệ thuật Phật giáo cũng cần
rất nhiều nhu yếu. Do đó, sự tiến bộ của các Bộ phái
Tiểu thừa còn lưu truyền trong Thánh điển Phật giáo, cho
chúng ta thấy về nghệ thuật hội họa và điêu khắc.
Trong bộ Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp
Sự, quyển hai,
tuy có qui định Tỳ kheo không được sáng tác hội họa,
nhưng nếu họa tử thi, hoặc đầu lâu thì không phạm. Tỳ
Nại Da quyển ba mươi tư, được truyền tụng bởi Căn Bản
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ
có ghi là, đối với cửa của các chùa được phép họa các
bích họa như: vẽ tranh về sinh tử luân hồi, tranh minh
họa cảnh địa ngục, cảnh thiên nhiên hay cảnh tượng Phật;
vẽ chim bồ câu để biểu thị sự tham dục, vẽ hình độc xà
để biểu thị sự sân nhuế, vẽ hình lợn để biểu thị sự ngu
si, và cũng được phép vẽ tướng sinh diệt thuộc mười hai
pháp duyên sinh.
Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Mục Ðắc Ca quyển tám
có chép: nếu bức bích họa có sắc màu cũ kỹ không còn
sáng đẹp, thì Tỳ kheo được phép tô vẽ lại.
Kinh Thế Ký trong kinh Trường A Hàm của Thượng Tọa Bộ
được truyền bởi Pháp Tạng Bộ,
đã hoàn toàn dùng thủ pháp nghệ thuật để miêu tả các thứ
cảnh giới trên cung trời, ở cõi nhân gian, cõi địa ngục
và thần đạo. So với những bộ phái khác, sự xuất hiện của
Pháp Tạng Bộ có phần muộn hơn, cũng nhờ đó mà Pháp Tạng
Bộ tiếp cận với Ðại thừa nhiều hơn; vì thế nên Tứ Phần
Luật là bộ lụât được Pháp Tạng Bộ truyền tụng.
Ngài luật sư Ðạo Tuyên - vị sơ tổ của Luật tông Tung
Quốc cho rằng Tứ Phần Luật cũng có “phần thông Ðại
thừa”. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển hai mươi tám
chép việc vua Chơn Ðiền lệnh cho thợ khéo giỏi “dùng gỗ
Ngưu Ðầu Chiên đàn để chế tác hình tượng đức Phật, với
chiều cao năm thước”.
Trong thánh điển Ðại thừa, không khí nghệ thuật Phật
giáo dương nhiên là thêm phần nồng hậu. Cho dù là vậy,
nhưng trong kinh Ðại Bát Nhã quyển 327 - Phẩm Sơ - Phần
Bất Thối Chuyển
chép là Bồ tát “ đối với văn chương, kỹ nghệ thế gian,
tuy có được thiện xảo (khéo léo tài giỏi) nhưng cũng
không vì thế mà ái trước”, vì chúng thuộc về “Tạp uế
ngữ”, và “tà mạng sở nhiếp”.
Ở dây, chúng ta cần nêu ra các sáng tác phẩm của nghệ
thuật Phật giáo; cố nhiên các tác phẩm ấy là nhằm tiếp
dẫn tín đồ, và biểu đạt sự nhiệt thành tín ngưỡng của
họ, trong đó, vẫn có nhân tối ngoại tại. Nhân vì các dân
tộc bản địa ở nam Ấn Ðộ cũng đã có nền văn hóa và tín
ngưỡng đặc biệt của riêng họ; họ sùng bái rất nhiều thứ
và dần dà mới tiến tới sùng bái ngẫu tượng thần minh.
Phật giáo vì muốn hóa độ thổ dân tại chỗ, nên cũng sử
dụng phương thức tùy thuận theo tập quán của họ, ấy là
đúc các tượng thần hộ pháp cho Phật giáo. Vì vậy, ngẫu
tượng tối sơ mà Phật giáo có được không phải là tượng
Phật, tượng Bồ tát, mà là tượng thần minh, tượng thiên
nhân hộ pháp.
Tại tây bắc Ấn Ðộ, do bị thế lực chánh trị của người Hy
Lạp xâm lấn xuống nam Ấn; đồng thời họ cũng mang văn hóa
Hy Lạp đến Ấn Ðộ. Như chúng ta biết, A Lịch Sơn Ðại
(Alexander) tuy là người không rời lưng ngựa, nhưng mục
đích xâm nhập Ấn Ðộ của ông vào năm 326 trước Công
nguyên là nhằm đem văn minh Hy Lạp đến Ấn Ðộ. Năm 160
trước Công nguyên, lại có một vị tướng Hy Lạp mang quân
xâm nhập Ấn Ðộ, và chiếm cứ các vùng đất miệt thượng du
sông Hằng. Ðó là vua Di Lan Ðà được chép trong kinh Na
Tiên Tỳ Kheo. Chúng ta cũng biết trong thời cận đại, văn
hóa phương tây được mở rộng, mà uyên nguyên của vấn đề
là sự tái phục hưng nền văn minh Hy Lạp; tại bắc Ấn Ðộ
cũng chịu sự kích thích của nền văn nghệ Hy Lạp. Ðại
biểu cụ thể nhất của việc ảnh hưởng này là tượng Phật
điêu khắc mang phong cách nghệ thuật Hy Lạp, hiện còn
sót lại tại địa phương Kiền Ðà La.
- Liên quan đến tượng Phật của Ấn Ðộ.
I. THỜI PHẬT GIÁO NGUYÊN THỈ CÓ THỜ TƯỢNG PHẬT KHÔNG?
Vấn đề này được coi là có giá trị quan trọng. Ðức Phật
không hề chủ trương cho các hàng đệ tử Ngài tạo hình
tượng Ngài để sùng bái, ít nhấ là về mặt hình thức. Ðức
Phật luôn lúc nào cũng dạy các hàng đệ tử phải thực tiễn
tu tập theo thánh đạo giải thoát. Ðiều đó được biểu lộ
qua sự thân cận giữa Ngài và đệ tử. Nếu không thực tiễn
trong tu tập, thì chính mỗi người chẳng tu theo Thánh
đạo của Phật, cho dù ngày ngày đều nhìn thấy tượng Phật
cũng chẳng có chút ý nghĩa gì. Ðồng thời, trong số những
khai quật được giới khảo cổ học cận đại phát hiện, thì
tại Ấn Ðộ từ thời vua A Dục trở về trước người ta chưa
phát hiện có mối liên hệ nào về tượng Phật, hoặc di vật
biểu thị cho nghệ thuật Phật giáo. Ấy vậy, nhưng trong
những kinh, luật được truyền thừa bởi bộ phái Phật giáo,
đều xác nhận là ở thời đại đức Phật đã có xuất hiện
tượng Phật. Xin đơn cử một số kinh, luật:
1. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển hai mươi tám
chép:
Việc đức Phật lên cõi trời Ðao Lợi thuyết pháp cho mẫu
hậu, hàng tứ chúng đệ tử ở nhân gian trông ngóng mong
được gặp lại Ngài với niềm
khái niệm phi
thường. Trong đó, vua Chơn Ðiền là người nhớ Phật thâm
thiết nhất; ông nghĩ quả như ông không nhìn thấy Phật mà
ông lại chết đi thì sao. Nhân đó mà vua nhận được kiến
nghị của quần thần là hãy mời thợ điêu khắc tài giỏi
dùng gỗ Chiên đàn để khắc chạm thành một tượng Phật tôn
quí, cao năm thước. Tiếp đó, vua Ba Tư Nặc biết được
biện pháp này, ông cũng mời thợ điêu khắc tài khéo dùng
Tử Ma Kim thuần túy để tạo thành tượng Phật, cũng cao
năm thước.
2. Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da,
thì thuật rằng:
Nhân lúc đức Phật ngồi thuyết giảng giữa đại chúng, thì
hàng đệ tử ai ai cũng oai nghi chỉnh túc. Nhưng lúc
không có đức Phật, chúng đệ tử không mấy người được oai
nghi. Vì thế, ông trưởng giả Cấp Cô Ðộc thỉnh thị đức
Phật chuẩn hứa cho ông tạo một tượng Phật, và coi tượng
Phật như là đại biểu cho Ngài ở trong đại chúng, khi
vắng Ngài. Ðức Phật đáp “tùy ý tương tác, trí ư chúng
thủ” (tùy ý mà làm, nên đặt ở chỗ cao ngang đầu).
3. Cũng trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại
Da, quyển bốn mươi lăm,
có chép:
Về việc Ảnh Thắng của nước Ma Kiệt Ðà muốn họa một tượng
Phật để gởi vua Tiên Ðạo ở thành Thắng Ân xa xôi. Nhà
vua hướng về đức Phật để xin chỉ dạy. Phật đáp: “lành
thay diệu ý, này đại vương, có thể họa một tượng Phật
gởi đến vua kia”. Vả lại còn đưa ra qui định về cách
thức họa tượng.
Từ các dẫn chứng trên, tuy là tứ thánh điển thuộc Phật
giáo Bộ phái, nhưng chúng ta không thể nói Phật giáo chủ
trương không lễ cúng tượng Phật. Lúc Phật tại thế, Ngài
dùng thân giáo và ngôn giáo, sau khi Phật nhập diệt, thì
lấy tượng giáo làm trung tâm tín ngưỡng. Phàm khi Phật
giáo đã có hình tượng Phật có công dụng “hóa thế diệu
tục” (giáo hóa thế gian, dẫn dắt người đời), đã thế thì
không diều gì là không thuộc phạm vi tượng giáo.
II. SỰ XUẤT HIỆN TƯỢNG PHẬT.
Nếu căn cứ vào những phá hiện khảo cổ học cận đại, thì
tượng Phật được phát hiện sớm nhất tại Ấn Ðộ là ở địa
phương Tát Ðặc Na thuộc nam Ấn. Ðây là tác phẩm điêu
khắc được tạo vào thời gian sau vua A Dục lên ngôi
khoảng một trăm rưởi năm (tức 100 năm trước Công
nguyên), ở thời đại vua A Dục tuy đã có tháp Phật, trụ
đá và bia đá còn lưu lại, nhưng chưa thấy xuất hiện
tượng Phật được điêu khắc. Việc lập tượng Phật tại địa
phương Tát Ðặc Na tuy thuộc về nghệ thuật Phật giáo,
nhưng đó là phỏng theo hình tượng Dạ Xoa. Hình tượng Dạ
Xoa này vốn là thần của thổ dân thuộc dân tộc Ðạt La Duy
Trà ở nam Ấn Ðộ, về sau thần được qui hóa thành vị thần
hộ pháp của Phật giáo.
Phật giáo xưa nay vẫn luôn coi trọng việc kiến thiết
nhân cách con người trong chiều sâu tinh thần nội tại.
Và không mấy chú tâm đến việc sùng bái mang tính hình
thức, chính vì thế mà Phật giáo nguyên thỉ không hề có
nghi thức tế tự nào, cho nên không tạo ngẫu tượng để
sùng bái. Tinh thần này được thiền tông Tung Quốc tôn
trọng. Nhân vậy mới có câu chuyện thiền sư Ðan Hà lấy
tượng Phật gỗ bửa làm củi để sưởi ấm. Sau này, trong
nhiều thiền đường của Tung Quốc cũng không thờ cúng
tượng Phật. Bởi Phật vốn ở tại tâm, ngoài tâm không có
Phật, tinh thần này cùng việc bài báng cho rằng Phật
giáo chuyên sùng bái ngẫu tượng để nhằm so sánh việc
sùng bái mộc đầu của Cơ Ðốc giáo. Thực thì không có cách
nào để tỉ dụ là tín đồ Cơ Ðốc giáo không sùng bái ngẫu
tượng, nhưng họ dùng thập tự giá thay cho ngẫu tượng và
quỳ trước thập tự giá mà cầu nguyện. Như vừa trình bày
trên, Phật giáo đồ vốn không thiết lập ngẫu tượng, nhưng
càng về sau do khu vực giáo hóa của Phật giáo càng phát
triển và mở rộng, nhân đó tiếp xúc với nhiều dân tộc có
nền văn hóa khác nhau. Chẳng hạn như dân tộc Ðạt La Duy
Trà ở nam Ấn Ðộ, người Hy Lạp và người Nguyệt Thị xâm
nhập vào bắc Ấn Ðộ, họ đều là những dân tộc sùng bái
tượng thần. Khi dân tộc Trung Hoa tiếp thụ tín ngưỡng
Phật giáo cũng kéo theo nhu cầu sùng bái tượng Phật. Như
vậy ở thời kỳ đầu tại nam Ấn Ðộ, Phật giáo phỏng theo
tượng thần Dạ Xoa để tạo tượng Phật cho nên trên đỉnh
đầu tượng Phật không có nhục kế, và phần lớn là dùng sư
tử làm tòa; về sau tại tây bắc Ấn Ðộ, Phật giáo phỏng
theo tượng thần của người Hy Lạp để tạo tượng Phật, thì
trên đỉnh đầu tượng Phật mới có tướng nhục kế, và dùng
hoa sen làm tòa, tượng còn có cả râu tóc. Việc này diễn
ra trước sau tây lịch bốn trăm năm, vì đó là thời kỳ
thịnh hành nên nền nghệ thuật điêu khắc mang tên Kiền Ðà
la.
- Nghệ thuật điêu khắc của Phật giáo Ấn Ðộ
Ðại loại có thể chia nghệ thuật của Phật giáo Ấn Ðộ
thành bốn thời kỳ.
1. Từ vua A Dục đến vương triều Án Ðạt La.
Không nghi ngờ gì, kỹ thuật điêu khắc của Ấn Ðộ vào thời
đại đức Phật là đã có rồi. Nhưng nói về những di vật còn
lưu lại đến ngày nay, thì những điêu khắc trên vách đá,
trên trụ đá có từ thời vua A Dục được coi như những tác
phẩm điêu khắc đầu tiên của Phật giáo Ấn Ðộ, kỹ thuật
điêu khắc dưới thời vua A Dục là cực kỳ tinh xảo. Chẳng
hạn như trụ đá được vua A Dục cho dựng tại vườn Nai (Lộc
dã uyển), mà đầu trụ hiện nay còn lưu giữ tại Bác Vật
Quán - Lộc Dã Uyển của Ấn Ðộ. Trụ cao bảy thước,
đầu trụ là bộ điêu khắc bốn con sư tử, dưới sư tử là một
cái trống, vành trống có phù điêu chạm hình bốn con thú
là voi, ngựa, nai và sư tử, bốn đầu sư tử và bốn con thú
trông rất có thần và cực kỳ sinh động. Chúng được mài
dũa rất nhẵn, và đối với lịch sử nghệ thuật của thế
giới, thì trụ đá này chiếm vị trí rất cao.
Hơn trăm năm sau thời vua A Dục, ước khoảng thế kỷ thứ
hai trước Công nguyên có Bà Nhĩ Ha Ðặc (Bhàrhut) và cửa
thép Tang Khư (Sànõchi) mà đường nét điêu khắc trên trụ
và lan can hiện vẫn còn. Cho thấy những chạm khắc sư tử,
lực sĩ Kim Cang, Dạ Xoa và các nhân vật trong truyện
tích xưa của Phật giáo v.v... là hết sức tinh xảo, thẩm
mỹ.
Dù vậy, nhưng thời kỳ này vẫn chưa chính thức thấy xuất
hiện tượng Phật, mới chỉ thấy hoa sen tượng trưng cho sự
đản sinh của đức Phật, cây Bồ Ðề tượng trưng cho sự
thành đạo của đức Phật, lấy Luân Bảo tượng trưng cho sự
thuyết pháp của Phật, và lấy Tháp Ba (Stùpa) tượng trưng
cho Phật Niết bàn. Những điều vừa nêu trên thuộc về điêu
khắc Phật Giáo của nam Ấn Ðộ.
2. Những điêu khắc tại địa phương Kiền Ðà La:
Kiền Ðà La nay thuộc A Phú Hãn (Afghanistan) và là địa
khu của một tỉnh ở vùng tây bắc Ấn Ðộ. Tại khu vực này
còn lưu lại nhiều di tích điêu khắc tượng Phật. Về tổng
thể, nền điêu khắc tại khu vực này đã được thai nghén
ước khoảng bốn trăm năm trước tây lịch, nhưng mãi đến
thế kỷ thứ hai sau tây lịch nó mới được người Ðại Nguyệt
Thị dưới thời vua Ca Nị Sắc Ca của vương triều Quí Sương
đưa đến cực điểm thịnh đạt. Nghệ thuật điêu khắc của
thời kỳ này lấy tượng Phật, tượng Bồ tát làm chủ đề. Sử
dụng kỹ thuật điêu khắc của người Hy Lạp để biểu hiện
tín ngưỡng Phật giáo. Do đó, nếu lấy hình tượng của
tượng Phật mà nói, thi người Hy Lạp là giống người có
sống mũi cao, để nhiều râu tóc, dệt lông thú dày làm y
sức. Như chúng ta biết, tinh thần cơ bản của Sa Môn là
cạo bỏ râu tóc; tại lưu vực sông Hằng của Ấn Ðộ, Sa Môn
cũng không được mặc áo dệt bằng lông thú để ngự hàn -
chống rét.
Vương triều Án Ðạt La là do người nam Ấn Ðộ kiến lập, và
vương triều Quí Sương là do tộc người Ðại Nguyệt Thị xâm
nhập vào vùng tây bắc Ấn Ðộ sáng lập, nên lịch sử Ấn Ðộ
gọi thời này là thời Nam - Bắc triều.
Chính là do hai nền văn hóa của các dân tộc ở bắc và nam
kích hoạt khiến làm xuất hiện nghệ thuật điêu khắc Lan
thuẫn
của đại tháp A Ma La Bà Ðề (Amaràvat) ở trung Ấn Ðộ.
Nghệ thuật điêu khắc Lan thuẫn này chịu ảnh hưởng của
điêu khắc Kiền Ðà La, nhưng vẫn giữ được thủ pháp thuần
túy của Ấn Ðộ ở thời kỳ thứ nhất đến thế kỷ thứ hai tây
lịch.
3. Ðiêu khắc của vương triều Cấp Ða:
Nền điêu khắc này mang sắc thái Hy Lạp pha trộn với văn
hóa bản địa của Ấn Ðộ mà thành. Có được điều đó là nhờ
sự bảo hộ và cổ vũ của vương triều Cấp Ða, và rồi đạt
đến đỉnh điểm, thời gian là từ năm 300 đến 640 tây lịch.
Ðây là thời khai thác kỹ thuật điêu khắc tượng Phật của
Kiền Ðà La, và phát huy nguyên tắc điêu khắc của Ấn Ðộ
cổ đại, cho nên nét đặc trưng của tượng điêu khắc trong
thời kỳ này là có mặc y rất mỏng phụ thêm vào thân thể
nhưng vẫn để lộ đường nét trạng thái bên trong rõ ràng
qua việc sử dụng các đường gấp cực mảnh (mỏng), cả hai
bên trái bên phải tượng đều khắc họa nếp gấp đường nết
lộ rõ trên thân; nếu so với cách điêu khắc của Kiền Ðà
La vẫn có nhiều điểm khác nhau, như tượng điêu khắc ở
thời kỳ thứ hai thì lưng tượng nhẵn, tròn đơn điệu chỉ
như tấm ván tròn, gốc của thời kỳ này là lưng tròn hình
vỏ đậu có phụ thêm hoa văn. Ðầu và tóc của tượng Phật
của thời kỳ này đa phần có hình xoán ốc; để có được
tướng bạch hào, và tay chân có khuỷu, có mắt (mắt cá
chân) cũng như ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân,
biểu lộ tính từ ái một cách đoan chính, trang nghiêm thì
thời kỳ thứ hai chưa thể có được. Ðiều đó phải chờ đến
sự biểu thị tinh thần Ðại thừa, giàu lý tưởng lợi tha.
Chẳng hạn như tượng đức Phật chuyển pháp luân ở Lộc dã
uyển, và tượng Phật được điêu khắc để thờ tại tịnh xá
Ðộng Quật ở A Khương Tha (Ajantà, còn gọi là A Xà Ân Ðà)
thuộc tây nam Ấn Ðộ, đấy là những tác phẩm điêu khắc đại
biểu của thời kỳ này.
4. Nền điêu khắc Mật giáo:
Vào cuối thế kỷ thứ tám sau công nguyên, có vương triều
Ba La tại địa phương Thiên An ở đông Ấn Ðộ ủng hộ Phật
pháp và hết lòng tin Mật giáo. Tình hình đó kéo dài được
năm trăm năm. Ở thời kỳ này tượng Phật, tượng Bồ Tát đều
căn cứ theo giáo lý Mật giáo. Ðối với tượng ngồi, tượng
kiết ấn, tượng phóng quang, tượng mặc y phục, và các thứ
dùng để trang sức để tượng thêm phần trang nghiêm, đều
phải tuân theo qui định và tỷ suất nhất định. Một cách
đại để thì hai mắt phải hướng lên như lưỡi câu, bộ hàm
phải vuông rộng và hơi nhọn một chút. Ðặc trưng nhất là
tượng có nhiều mắt, nhiều tay.
Lại còn có quy định tùy theo (trong mỗi) nghi quĩ tu mật
pháp như thế nào, thì dùng tượng Phật, tượng Bồ Tát sao
cho phù hợp với đàn pháp đó.
Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Phật Giáo lớn nhất tại Ấn
Ðộ còn lưu giữ đến nay, tọa lạc tại một bang thuộc tây
bộ Ấn Ðộ đó là chùa Thạch Quật ở Hải Ðức Lạp Ba thuộc
địa phương A Khương Tha. Chùa được phát hiện vào đầu thế
kỷ mười chín bởi một học giả người châu Âu là Kiệt Mỗ Tư
(James Fegusson). Tại đây có cả thảy mười chín hang
động, về niên đại khai mở của những điêu khắc tại các
hang động này có thể chia làm ba thời kỳ:
1. Trước Công nguyên hai thế kỷ, cho đến sau Công nguyên
từ 150 đến 200 năm.
2. Từ thế kỷ thứ IV cho đến nửa cuối thế kỷ thứ VI sau
Công nguyên.
3. Hậu bán thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ thứ VIII sau
Công nguyên.
Trong cả ba thời kỳ này, bao quát có các thể loại được
điêu khắc bằng đá như: tượng Phật, cửa đá, trụ đá v.v...
Các học giả Nhật Bản và phương tây rất chú tâm nghiên
cứu những tác phẩm điêu khắc trong các hang đá này.
- Phật Giáo Ấn Ðộ với nghệ thuật Kiến trúc.
Nền điêu khắc của các thời kỳ được tồn tại là nhờ kèm
theo đó là các công trình kiến trúc. Nhân chỉ có di vật
kiến trúc thời thượng cổ, tuy còn trong sự hư nát, và
không biết dựa vào đâu để phục chế lại cho hoàn thiện
như diện mạo vốn có của nó. Còn nói nhờ khảo cổ khai
quật phát hiện, thì cũng chỉ có được cái gốc gác mà
thôi. Kiến trúc Phật giáo đại loại có thể chia làm ba:
1. Tháp Bà (Stùpa):
Tháp Bà hay còn gọi là Tốt Ðổ Ba (Stùpa). Từ tháp là
cách gọi giản đơn, sự cấu thành của tháp có bốn bộ phận
tính từ dưới lên, đó là: Cơ Ðàn, Phúc Bát, Bình Ðầu, Can
tản v.v... Hình dáng của tháp còn tùy vào thời đại trước
thời đại sau nên không giống nhau. Có tháp ở tại chu vi
Bình đầu tạo thành một khán thờ Phật, có tháp lại đặt
tượng Phật ở mặt trước Phúc Bát; có tháp lại lấy tầng
thứ hai, hoặc tầng thứ ba làm mái lợp tròn, bên trên tạo
thành Can Tản nhằm biểu lộ ý sùng kính. Có tháp lấy Cơ
Ðàn làm thành ba tầng hoặc năm tầng. Sau cùng mới xuất
hiện công trình kiến trúc kết hợp tháp với Lan thuẫn.
Cách xây tháp Phật của Nhật Bản và Trung Quốc là đến từ
đây. Ngày nay các quốc gia theo Phật giáo nam truyền vẫn
gìn giữ và xây dựng tháp theo phong cách của hình thái
nguyên thỉ.
Hiện nay tại Ấn Ðộ, di tích tháp cổ tìm thấy được là
tháp Bà Nhĩ Ha Ðặc, cách A Lạp Hiệp ba (Allahabad) một
trăm hai mươi dặm Anh về hướng tây nam, và tháp Tang Khư
nằm cách vị trí trung ương của châu (bang) Bà Nhĩ Sa
(Bhilsa) sáu dặm về hướng nam. Những điêu khắc nền cửa
tháp và Lan thuẫn của tháp Bà Nhĩ Ba Ðặc hiện được lưu
giữ ở Bảo vật quán Gia Nhĩ Các Ðáp của Ấn Ðộ. Tháp Tang
Khư có đường kính một trăm hai mươi thước Anh. Cơ Ðàn ở
độ cao mười bốn thước Anh, và độ cao bốn mươi hai thước
Anh đặt một Phúc Bát hình bán cầu, trên Phúc Bát còn có
Bình - đầu và Tản Cái.
Gần đây tháp Tang Khư được tu bổ lại. Ðây là ngôi tháp
mang đậm bản sắc nghệ thuật kiến trúc cổ và đẹp nhất của
Ấn Ðộ - đẹp từ thấp lên cao. Cũng có một truyền thuyết
nói về tháp Tang Khư nhưng được chép ở hai nơi khác
nhau. Ngoài ra, tại địa phương Ma Thâu La có ngôi đại
tháp A Ma La Bà Ðề với qui mô to lớn, cao đẹp.
Lại nữa, theo truyền thuyết, vua Ca Nhị Sắc Ca từng kiến
tạo một ngôi đại tháp thờ Phật tại Phú Lâu Sa Bổ La,
tháp cao hơn bốn mươi trượng, trang nghiêm nhất trên
toàn Ấn.
2. Chi Ðề (Caitya):
Còn có tên là Chế đa, chữ Chi Ðề, Chế đa đều có nghĩa là
Tháp. Về sau là nơi dùng để chư tăng tụ hội được đặt là
Chế đa đường.
Chế đa đường chủ yếu là nơi cứ mỗi nửa tháng chư Tỳ kheo
tụ hội để bố tát tụng giới. Cấu tạo của Chế đa đại thể,
bên trong là hình chữ nhật, bức tường sau ở khoảng giữa,
phía bên trong tạo ra nửa hình tròn ở giữa Chế đa. Chế
đa hiện vẫn còn tuy đã bị hư hoại nhưng rất nổi tiếng,
nổi tiếng hơn cả là Ca Lị (Karli), Na Tây Khắc (Nàsik)
và viện Thạch Quật động ở A Khương Tha ở nam Ấn Ðộ. Ðây
là những di tích Chi đề cổ xưa nhất.
3. Tỳ Ha La (Vihàra):
Chi Ðề là nơi tụ hội. Tỳ Ha La nơi nơi ngủ nghỉ, hay còn
gọi là tăng phòng. Tỳ Ha La được tạo thành bởi nhiều
tiểu thất. Nhưng cả một quần thể tăng phòng, tiểu thất
tập trung lại thì gọi là Tăng Già Lam(Samghàràma), đơn
độc chỉ có tăng phòng mới gọi là Tỳ Ha La. Nhưng tập hợp
cả nhà ăn, tăng phòng, giảng đường, thiền đường v.v...
tất cả được xây dựng tại một trú xứ nhất định, thì gọi
là Tăng già lam. Vì thế, nên giá trị đích thực của nghệ
thuật kiến trúc Phật giáo là Tăng già lam. Như tịnh xá
Kỳ Viên, tịnh xá Trúc Lâm được nhắc tới trong kinh, luật
chẳng hạn. Nói về qui mô của các tịnh xá, hay Tăng già
lam đều vô cùng trang nghiêm thanh tịnh. Tiếc một điều,
tuy các nơi này đúng là kỳ quan khi đức Phật còn tại
thế, nhưng hiện nay chẳng biết dựa vào đâu để khảo cứu.
Thời gian gần đây di chỉ các tịnh xá Kỳ Viên, Trúc Lâm
được phát hiện và khai quật tại các địa phương ở Ấn Ðộ,
còn vườn Nai và chùa Nan Lan Ðà đều được hậu nhân tu bổ
và xây dựng thêm, nên cũng không còn giữ được diện mạo
ban đầu.
- Nghệ thuật hội họa.
Bên trong chùa thờ Phật có bích họa. Căn Bản Thuyết Nhất
Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự,
quyển mười bảy chép là: lúc ban đầu đức Phật cho phép
ông Cấp Cô Ðộc được vẽ bích họa trong chùa, chỉ rõ cách
vẽ như thế nào và vẽ ra làm sao. Từ môn ngạch đến miếu
sở, không một nơi nào được vẽ bích họa.
Ghi chép này có liên quan đến bối cảnh thời đại của Hữu
Bộ Luật. Giống như các phân tích ở phần trước - nói về
điêu khắc. Ngày nay sở dĩ còn biết đến nền hội họa của
Phật giáo, cũng là nhờ sự phát hiện trong cùng một hệ
thống điêu khắc Kiền Ðà La. Lệ như, tại địa phương Phạm
Diễn Na (Bamian), thuộc phía tây Kiền Ðà La, bên trong
khám thờ Phật rất lớn có vẽ một bức bích họa - hình
thiên nữ.
Ðịa chỉ Di Lan (Miran) Phật tự ở phía đông nước Thiện
Thiện, người ta phát hiện một di phẩm bích họa cũng cùng
hệ thống Kiền Ðà La, được vẽ khoảng thế kỷ thứ ba tây
lịch. Trong hang động tại Ba Cổ (Bàgh) cũng phát hiện
được các tác phẩm bích họa vô cùng tinh mỹ, được vẽ vào
cuối vương triều Cấp Ða (thế kỷ thứ bảy tây lịch).
Bích họa trong động A Khương Tha tại nam Ấn Ðộ - mới là
đại biểu cho nền hội họa Ấn Ðộ. Về niên đại chế tác bích
họa A Khương Tha là một sáng tác trường kỳ, tính từ một
thế kỷ trước tây lịch cho đến thế kỷ thứ bảy tây lịch.
Vách đá bên trong động cứ men theo hình thể vòng cung
của đá núi mà khắc họa, mở ra hai chín tòa hang động,
trong đó đếm được mười sáu hang động có bích họa và hiện
đang vẫn còn. Ðề tài khắc họa, ban đầu được lấy từ Bản
Sinh Ðàm và Phật truyện cũng như miêu tả cảnh sinh hoạt
của các quí nhân đương thời. Ðứng về phương diện phong
tục và y phục v.v... mà xét thì điều kiện vật chất thời
ấy chưa cao, nhưng về mặt nghệ thuật thì những bích họa
trên vách đá là những tác phẩm chiếm vị trí cực cao
trong nền hội họa Ấn Ðộ.
- Tác phẩm Văn học:
Thánh điển Phật giáo ở thời kfy đầu khí vận văn nghệ
không mấy nồng ấm, phần nhiều sử dụng phương thức văn
học như kinh Bát Nhã là biểu hiện pháp phủ định, kinh
Pháp Hoa, kinh Duy Ma, kinh Hoa Nghiêm được sử dụng biểu
hiện pháp tượng trưng, kinh Ðại Vô Lượng Thọ biểu hiện
pháp cảm giác, Minh chú của Mật giáo dùng cách biểu hiện
thanh âm.
Về Phật truyện; như Phật Sở Hành Tán của Mã Minh thì lại
dùng lối thơ cách điệu tươi đẹp mang tính cung đình để
viết, trong khi Bản Sinh Ðàn thì dùng phương thức cố sự
của dân gian nhằm ngụ ý về Phật giáo. Trong Kệ Tụng
(Geyya - Kỳ Dạ) và Trùng tụng (Gàthà - Già Ðà) của cửu
phần giáo (chín bộ kinh), trừ những bài tụng của Luận
Bộ, còn thì tất cả đều sử dụng sắc thái văn học vô cùng
phong phú. Thông thường đa phần là dùng Cơ Lạc Ca
(S’loka) điệu. Cơ Lạc Ca điệu qui định một câu phải có
đủ tám âm, bốn câu mới thành một bài tụng. Loại văn vần
này về sau được dịch ra Hán văn, tuy phần nhiều không ăn
vần, nhưng cũng không quá khó hiểu.
Trong các tác phẩm của Mã Minh, ngoài các phẩm Phật Sở
Hành Tán, còn có tác phẩm Tôn Ðà Lợi Nan Ðà Thi, và Xá
Lợi Phất Hí Khúc. Sau Mã Minh có ngài Ma Hí Lí Chế Tra(
Matrceta) mà niên đại không rõ ràng, sáng tác Tứ Bách
Tán, Nhất Bách Ngũ Thập Tán Phật Tụng. Hai tác phẩm này
theo ghi chép của Nghĩa Tịnh trong Nam Hải Ký Qui Nội
Pháp Truyện, quyển bốn
thì ở Ấn Ðộ phàm đã là người học vấn thì phải học cách
tạo tán tụng, và không ai là không học tập; người xuất
gia, bất luận là Ðại thừa hay Tiểu thừa, sau khi đã học
tụng được năm giới và mười giới đều phải tụng, học hai
tác phẩm trên. Ðiều đó cho thấy địa vị trọng yêu của nhị
táng.
Tiền bán thế kỷ thứ bảy có vua Giới Nhật (Silàditya) -
vị lãnh tụ ở bắc Ấn Ðộ, ông muốn nhấn mạnh quan niệm từ
bi của Phật giáo nên sáng tác thành vỡ ca kịch Long - Hỷ
Ký (Nàgànanda) gồm năm màn (hồi). Vua Giới Nhật vị quân
vương kiền thành tín Phật, đồng thời ông cũng là nhà văn
hóa của đương thời. Ngoài ra ông còn sáng tác các vở ca
kịch như: Hỷ Kiến Ký và Anh Lạc Ký, về thi tập, ông có
cuốn Ca Ðan Ba Lê tập.