Lời
Mở đầu: Bài viết nầy không thể được coi là một bài biên khảo đúng
nghĩa, vì được hình thành trong điều kiện hạn hẹp của tư liệu.
Trong lời mở đầu của cuốn sách
„Phật Giáo Mỹ“ (tập I) Giáo Sư Trần Quang Thuận tâm sự … Tôi cứ đắn đo mãi
không biết phải đặt tên cho quyển sách nầy như thế nào cho nó xứng hợp với
nội dung. Phật Giáo tại Hoa Kỳ? Phật Giáo Mỹ ? Phật Giáo tại Hoa Kỳ nói
lên các giáo phái Phật Giáo từ xa đến đang hoạt động tại Mỹ, trong khi
Phật Giáo Mỹ biểu hiện màu sắc đặc thù của nền Phật giáo dung hợp với
truyền thống lịch sử văn hoá của nhân dân Hiệp Chủng Quốc (1)
Đọc hết „Phật Giáo Mỹ“ (tập I,
II) của Gs Trần Quang Thuận, người viết cảm nhận được sự đắn đo và ngần
ngại của tác giả khi phải đặt tên cho đứa con tinh thần của mình. Còn
riêng người viết bài này khi chọn tựa đề „Bước Chân Của Phật Giáo Việt Nam
Tại Hoa Kỳ“ là cố ý giới hạn lại một góc cạnh trong toàn cảnh „Phật giáo
Mỹ“ rộng lớn mà nhà Phật học Trần Quang Thuận đã mời gọi chúng ta bước
vào.
I-) Phật Giáo Đi Vào Xã Hội
Phương Tây:
Cách đây hơn 25 thế kỷ, tại Ấn
Độ, Phật giáo xuất hiện như là nguồn ánh sáng chói loà dẫn dắt nhân loại
ra khỏi những mê lầm của kiến thức mang tính thần thoại. Phật giáo lấy Bi,
Trí, Dũng để đối lại với bạo lực, hận thù và hèn yếu, tôn trọng sự thật,
bình đẳng, đề cao sự vận dụng của lý trí để tìm về chân lý, không áp đặt,
khuyến dụ, thuyết phục hay thần thánh hoá đấng tối cao (Ta là Phật đã
thành, các ngươi là Phật sẽ thành). Phật giáo dễ đi vào lòng người, dễ hòa
đồng với các cộng đồng xã hội trong điều kiện văn hóa khác biệt, vì thế ta
dễ thấy và thường nghe nói đến Phật giáo Ấn Độ như là cái nôi, như là nơi
xuất phát. Nhưng khi Phật giáo Ấn Độ đi vào xã hội Trung Hoa, Nhật Bản,
Tây Tạng thì lịch sử Phật giáo thế giới lại phải đề cập đến những nét đặc
thù trong nền Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Tây Tạng,
Phật giáo Việt nam (chẳng hạn danh từ zen trong Phật giáo Nhật Bản, Ch'an
trong Phật giáo Trung Hoa, Thiền trong Phật giáo Việt nam, hay hình tượng
Đạt Lai Lạt Ma trong Phật giáo Tây Tạng….)
Giáo lý nhà Phật dựa trên tính
duy lý và thực nghiệm, mang nặng tính triết học nên rất gần gũi với các
quan điểm về khoa học thực nghiệm của Tây phương. Chính lý do nầy mà Phật
giáo ngày nay đi vào các cộng đồng xã hội Phương tây một cách lừng lững,
dễ dàng và rất sống động.
Trong „A Brief History of
Buddhism“ (Sơ Lược Lịch Sử Phật Giáo), tác giả Kalinga Senevinathne đã ghi
nhận: „Trong 25 thế kỷ qua Phật giáo đã hội nhập với các niềm tin cổ
truyền và các tôn giáo của nhiều vùng đất, hài hòa chúng với bản chất
thanh khiết của nền triết học Phật giáo. Cùng một lúc, Phật giáo đã nẩy nở
trên khắp Á Châu. Cho đến nay, Phật giáo vẫn là Tôn giáo chính của các dân
tộc như Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Lào, Trung Quốc, Mông Cổ
và một số nước Trung Á như: Bhutan, Sikkim và Siberia. Cũng còn nhiều cộng
đồng Phật tử lớn ở Mã Lai, Tân Gia Ba và Ấn Độ, cũng như các nước Tây
Phương như Anh Quốc, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Đức, Pháp, các nước Bắc Âu và Úc …
(2)
Tuy nhiên , nếu con đường Phật
giáo từ Ấn Độ đi vào các quốc gia phương đông mang độ dày thời gian khá
sâu và khá đậm, vì phương đông thường hướng nội nhiều hơn là hướng ngoại,
thì trái lại sự du nhập Phật giáo vào các xã hội phương Tây đã gặp các lực
cản rất lớn, nhất là trong giới trí thức khoa bảng Tây phương. Roger pol
Droi đã viết một bài báo đăng trên tờ tạp chí „Le nouvel observateur“
tháng 4,5 và 6/2003, số đặc biệt về Phật giáo dưới nhan đề „Phật Giáo Và
Hư Vô Chủ Nghĩa: (Le Grand Christ du Vide“) đã đưa ra nhận xét:
„Ít có nhà nghiên cứu nào ở Tây
phương tự hỏi đối tượng của trí thức được gọi là Phật giáo đã được khởi
thảo như thế nào. Câu trả lời có vẻ quá hiển nhiên, quá giản dị đến nỗi
tưởng như không cần phải đặt ra: Phật giáo hiện hữu từ khi Phật thuyết
pháp và Tây phương biết Phật giáo dần dần. Chỉ thế thôi. Chắc chắn người
ta đã nhìn sơ qua các chủ thuyết tùy theo thời đại, theo nguồn thông tin,
theo khả năng ngữ văn và cơ cấu tinh thần của những chứng nhân. Dù vậy,
căn bản mà nói, có thể đã có một cái gì đáng gọi là „Phật giáo“ hiện diện
và những người Châu Âu hiểu dần dần, như họ đã phát hiện ra những con hải
sư có lông hay quần đảo Kerguelen.“
„Lúc nầy (tức vào 1820 ghi chú
của người viết) cuộc nghiên cứu rời bỏ chân trời huyền thoại để đi vào
không gian lịch sử. Người ta bắt đầu sử dụng một từ cho đến lúc đó vẫn
chưa hiện hữu: „bouddhisme“. Từ này chưa hề được dùng đến trong bất kỳ
ngôn ngữ nào ở Châu Âu. Sự ra đời của nó là dấu chỉ cho một đối tượng tri
thức mới, đến lúc đó còn vắng mặt. Ở Pháp, Michel Jean Francois Ozeray
dùng từ „bouddhisme“ từ năm 1817; Benjamin Constant dùng từ „bouddhisme“
năm1827; Eugène Burnouf và Christian Lassen dùng từ „bouddhisme“ năm 1826
trong tác phẩm „Essai sur le Pali“. Từ „bouddhism“ xuất hiện lần đầu trong
Anh ngữ qua tựa đề của một tác phẩm của Edward Upham „The History &
Doctrine of Buddhism“ năm 1829, nhưng người ta đã dùng từ này từ nhiều năm
trước đó. Ở Đức, năm 1819, Schopehauer dùng „bouddhaismus“, từ còn được
dùng cho đến giữa thế kỷ 19, trước khi được thay thế hẳn bởi một từ khác
của Hégel được ông sử dụng từ năm 1827: „buddhismus“.
„Việc khám phá ra Phật giáo
trước hết bắt nguồn từ sự phát triển của phương pháp đối chiếu, là thứ lý
thuyết pha trộn các quy phạm Đông phương học riêng biệt. Do sự truyền bá
giáo lý Phật giáo ra khắp Á Châu. Và vì sự biến mất của nó ở Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 11, việc xác định mốc điểm đòi hỏi những tài liệu so sánh từ nhiều
lĩnh vực: Trung Hoa học, Tây Tạng học, Nhật học và Mông Cổ học. Những luận
điểm Phật giáo viết bằng tiếng Sanskrit được Brian tìm thấy ở Népan trong
thập kỷ 1820 cùng thời, Burnouf và Lassen đọc được tiếng Pali và
Jean-Pierre Abel-Rémusat nghiên cứu những bản kinh văn Phật Giáo Trung
quốc; không lâu sau đó, nhà nghiên cứu Hung Alexandre Csoma de Koros học
được tiếng Tây Tạng. Đó là một khúc quanh dẫn Âu châu từ chỗ mê mờ đến chỗ
sáng tỏ“ (3)
Qua đoạn văn trích dẫn, dù ngắn
ngủi trên đây của nhà nghiên cứu Roger Pol Droi, mọi người đều thấy rõ
Phật giáo đến với các học giả Tây phương (chưa nói đến thành phần đại
chúng) cũng chỉ vào những năm đầu của thế kỷ 19 và ý niệm Phật giáo chưa
thực sự mọc rễ trong các xã hội phương Tây. Và bây giờ vào những năm đầu
của thế kỷ 21, chính nhà nghiên cứu nầy đã xác nhận: „Hình ảnh mà hôm nay
chúng ta có về Phật giáo rõ ràng qui hướng theo một cách khác. Tích cực,
an nhiên, giải thoát . Những vị thiền sư Nhật, những đại sư Tây Tạng xuất
hiện giữa chúng ta như những kẻ bảo tồn các nguồn suối tri thức có thể
giúp phục hồi, ngay cả cứu chuộc, thế giới già cỗi của chúng ta“ (4). Và
giờ đây Phật giáo đã thực sự bước vào thế giới phương Tây bằng ánh sáng
rạng ngời của một tôn giáo nhập thế. Các nhà trí thức phương tây đã tìm
thấy đạo Phật là một tôn giáo vĩ đại, giải thoát con người khỏi tất cả
những xiềng xích nô lệ, các tập tục mê tín dị đoan. „Ngày nay tất cả các
nhà văn hóa trí thức trên thế giới dù có hay không liên hệ gì đến Phật
giáo đều tôn kính Đức Phật Cồ Đàm, trong khi những nhà khai sáng các tôn
giáo khác chỉ được các tín đồ của riêng tôn giáo mình tôn kính mà
thôi“(5). Nhà Đại văn hào Pháp Anatole France phát biểu về Đức Phật:
„Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành ấy, ngồi khoanh chân trên
hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải dơ lên như khuyên nhủ, như trả lời:
Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi, con hãy luyện tập trí huệ và
từ bi „ (6).
Bertrand Russell, nhà toán học
kiêm triết gia người Anh, người đoạt giải Nobel văn chương1950 cũng đã
từng phát biểu: „Nếu nói đến trí tuệ và đức hạnh thì tôi không thể nào
nghĩ rằng Chúa Christ ở một vị thế cao như mọi người biết đến qua lịch sử.
Tôi nghĩ rằng: tôi phải đặt Đức Phật trên Chúa về những phương diện đó.“
(7)
Charles W.Eliot, nguyên Giáo sư
viện trưởng Viện Đại học Harward (Hoa kỳ) nhận xét về yếu tính của đạo
Phật qua lời phát biểu: „Đức Phật không giận hờn với thế gian. Ngài nghĩ
là thế gian không phải là độc ác, bất trị mà là vô thường và mê muội. Ngài
phiền não đôi chút về những người không nghe theo Ngài, nhưng Ngài cũng
không biểu lộ tinh thần khó chịu“ (8)
Và riêng Giáo sư Rhys Davids,
chuyên ngành Đông Phương học người Anh đã tâm sự: „Là Phật tử hay không
phải là Phật tử tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo thế giới,
tôi đã khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được vẻ đẹp và
sự quán triệt Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện
đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó.“(9)
Rõ ràng là Tây phương chỉ tiếp
xúc với Phật giáo vào khoảng thế kỷ 19 đến nay mà thôi. Các học giả Tây
phương bắt đầu chú tâm đến việc nghiên cứu Phật học qua các kinh tạng Nam
tông tiếng Pali, và sau đó là Bắc tông theo phạn ngữ (Sanskrit). Sử gia
ngưới Anh chuyên nghiên cứu về các nền văn minh trên thế giới Arnold
Toynbee đã nêu lên nhận xét; „Sự gặp gỡ của Phật giáo và Tây phương là một
biến cố có ý nghĩa trọng đại nhất của thế kỷ XX “ (10).
Trước khi đề cập đến Phật giáo
Việt Nam tại Hoa kỳ, xin ghi nhận vài nét chính về sự phát triển của Phật
giáo ở một số quốc gia phương Tây. Căn cứ trên tài liệu của Giáo sư Trần
Quang Thuận („Phật giaó Mỹ“ tập I và II), của nhà nghiên cứu Trần Nhu
(„Tinh Thần Phật giáo Nhập Thế“), của nhóm Giao điểm („Phật giáo trong thế
kỷ mới“), của anh Lê Hữu Đỗ („Buddhist Churches of America in the
Vietnamese Tradition“) và một số tư liệu khác, người viết xin tổng hợp sơ
lược như sau:
1) Tại Anh Quốc:
Hội Phật giáo Anh quốc và Ái
Nhĩ Lan (Buddhist Society of Great Britain and Ireland) được thành lập
ngày 26.11.1907. Đến năm 1923 Hội đổi tên thành The Buddhist Society.
Người có công đầu là nhà nghiên cứu đông phương học, Gs. T.W. Rhys Davids.
Ông đã xuất bản rất nhiều sách nói về kinh điển Phật giáo bằng chữ Pali và
chuyển dịch sang Anh ngữ.
Hiện có 340 cơ sở, Đoàn thể, Tổ
chức, Hội đoàn Phật giáo trên khắp nước Anh, trong đó phải kể tới hai tu
viện nổi tiếng là Amaravati có 33 vị tăng, 12 vị Ni, 16 Sa di và Sa di Ni
tu học; Tu viện Chithurst có 65 vị Tăng. Phật giáo ở đây được Chính phủ
Anh cho giảng dạy từ cấp Tiểu học đến Đaị học, có chương trình truyền bá
Phật giáo hằng ngày trên đài truyền hình và truyền thanh BBC (11)
2) Tại Pháp quốc:
Pháp là quốc gia sớm tiếp xúc
với nền văn minh Á châu, nhất là Trung Hoa và đã từng chiếm Đông dương làm
thuộc địa. Làn sóng định cư của người Việt trên đất Pháp sau cuộc chiến
tranh Đông dương (1954) lên rất cao. Và sau khi miền Nam (1975) làn sóng
người Việt tỵ nạn tại Pháp ngày càng tăng cao. Phật giáo Việt nam đã theo
chân người Việt phát triển khá mạnh trên vùng đất nầy, dĩ nhiên bên cạnh
đó cũng phải nói đến Phật giáo Trung hoa, Phật giáo Nhật và Phật giáo Tây
Tạng cũng đã bành trướng mạnh trên quốc gia lớn mạnh nhất Âu châu nấy.
Cộng đồng Phật giáo Pháp đã có tới 200 cơ sở với hơn 600 ngàn Phật tử,
trong đó phải nói đến Tu viện Monastère Nalanda, nơi đào tạo, huấn luyện
các Tăng Ni cho các nước Âu châu. Hiện nay số ngưới quy hướng về Phật giáo
chiếm tỷ lệ 5%, Phãn Thệ giáo 6% và Thiên Chúa giáo La Mã là 12% (12). Dù
Phật giáo mới đến Pháp trong nửa đầu thế kỷ 19, nhưng Phật tử tại Pháp
chiếm tỷ lệ 5%. Như vậy là khá cao và có triển vọng phát triển mạnh hơn
nữa. Vai trò hàng đầu trong việc nghiên cứu Phật học thuộc về nhà Đông
Phương học người Pháp Eugene Burnouf, kế đến là học giả Sylvan Levi, Paul
Demieville và Louis Reneu. Cơ sở Làng Mai của Thiền Sư Nhất Hạnh ở miền
Nam nước Pháp cũng là nơi đào tạo và phát triển phong trào thiền học ngày
càng phát trỉển mạnh mẽ kể từ năm 1982.
3) Tại Úc Châu và New
Zealand:
Tờ Tạp chí Sun Herald số ra
ngày 30.3.1991 cho biết số Phật tử Úc là 200.000 người so với 80.387 (vào
năm 1986) như vậy là tăng lên 250% trong vòng 15 năm. Theo văn phòng thống
kê Úc (The Australian Bureau of Statistics) thì Phật tử đang gia tăng ở
mức độ nhanh hơn cả Hồi giáo và có thể còn hơn cả Kito giáo nữa. Phật giáo
hiện nay đã đạt được 1% tổng số dân Úc (13) Trên toàn nước Úc hiện có
khoảng 190 cơ sở Phật giáo và 2 viện Cao đẳng Phật học để đaò tạo Tăng tài
hoằng pháp. Thiền viện Wat Buddha Dhamma Meditation Center tọa lạc trên
một vùng đồi 200 mẫu đất ở Ten Mile Hollow, Wisemans Ferry thuộc New South
Wales. Thiền viện Bodhinyana ở Perth (Úc), và ở Wellington (NZ) có chùa
Buddhist Vihara ở Auckland (NZ) là những nơi thu hút Phật tử và khách thập
phương nhiều nhất. Vào đầu năm 1990, một vị Thượng toạ người Úc từng tu
học ở Tích Lan và Miến Điện hơn 20 năm đã thành lập nên Thiền viện
Vipassana tại thành phố Sydney, đó là Thượng tọa Pannayavaro. Cũng chính
vị Thượng tọa này đã mở trang báo điện tử rao giảng giáo lý nhà Phật qua
Internet và con số người theo dõi chương trình này đã lên tới 50.000 người
(14).
Hội đồng Phật giáo New South
Wales (Buddhist Council of New South Wales) đã ghi nhận: “Phật giáo được
trình bày qua phương tiện truyền thông rộng rãi và được sự chú ý đến Phật
giáo cổ truyền đầy tính giáo điều” “ Phật giáo là tôn giáo phát triển
nhanh nhất tại Úc” (15)
4) Tại Nước Nga:
Gs Trần Quang Thuận đã xuất bản
cuốn sách dày viết rất cặn kẽ về “Phật giáo Nga”. Những ai muốn đi sâu vào
vấn đề này sẽ tìm thấy ở đây nhiều nguồn tài liệu quý báu để đối chiếu.
Riêng người viết chỉ ghi lại một số nét tổng quát về Phật giáo tại Nga, vì
chủ đề của bài này là chú trọng đến Phật giáo Việt nam tại Hoa kỳ.
Phật giáo hiện diện trên đất
Nga với ngôi chùa Kuntsechoinei được xây dựng đầu tiên ở St. Petersburg từ
năm 1908 và hoàn thành vào năm 1915. Em ruột của Nga Hoàng Nicolas II là
Hoàng thân Ukhtomsky rất uyên bác về Phật học. Kể từ khi chế độ Cộng sản
Xô Viết cai trị từ 1917 thì phong trào Phật giáo ở đây cũng như các tôn
giáo bị đàn áp và triệt tiêu. Mãi cho đến khi Cộng hoà Liên Bang Xô Viết
sụp đổ vào cuối năm 1989 thì Phật giáo Nga mới được phục hoạt. Chùa
Kuntsechoinei được hoàn trả lại và được sửa chữa, hiện có 20 vị Sa di tu
học.
Hội Phật giáo Estonia (The
Estonian Buddhist Association) với 2 nghìn Phật tử mà vị lãnh đaọ của hội
đã được bầu làm cố vấn trong hội đồng Chính phủ. Các cộng đồng Phật giáo ở
Novosibirsk, Kiev, Khalov và Tashkent cũng được thành lập. Hai ngôi chùa
Ivolga và Ago đã đuợc trùng tu và là nơi sinh hoạt cho 20 đoàn thể Phật tử
ở Siberia. Một trung tâm Phật giáo cũng được thành lập ở Kalmykia. Các hội
Phật học ở Moscow và Latvia trước kia cũng tái lập lại và đang tích cực
sinh hoạt.
Thượng toạ Samayev cho biết các
đài truyền thanh và truyền hình đều có chương trình Phật giáo hàng tuần.
Sự khôi phục và phát triển Phật giáo ở Nga đang đạt được những thành công.
Điều này chứng tỏ là người Nga đang có một sự lự chọn mới cho cuộc sống
tâm linh của họ. (16)
Trên đây chúng tôi chọn một số
quốc gia phương tây tiêu biểu để giới thiệu sự bành trướng của Đạo Phật
vào cuối thế kỷ 19 cho đến nay. Dĩ nhiên, chúng ta cũng đã gặp sự hiện
diện của Phật giáo trên hầu hết các quốc gia Âu châu kể cả Bắc Âu và Đông
Âu. Phật giáo tại Đức, Ý, Ba Lan, Tiệp khắc, Thuỵ Điễn,… cũng gặp được
nhiều thuận duyên để phát triển và phong trào nghiên cứu, tìm hiểu đạo
Phật ngày càng dâng cao với làn sóng di dân từ các quốc gia Á Châu như
Nhật, Đại Hàn và nhất là cuộc ra đi tị nạn cộng sản vĩ đại nhất trong lịch
sử loài người của cộng đồng Việt nam sau tháng 4 năm 1975. Và chính nhờ
cuộc di cư của hơn ba triệu người Việt của ba thập niên qua mà một sự kiện
phải được tìm hiểu và nói đến, đó là Phật giáo Việt nam ở hải ngoại, trong
đó có Phật giáo Việt nam tại Hoa kỳ.
II- SỰ HÌNH THÀNH CỦA PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TẠI HOA KỲ:
Dĩ nhiên trong bài viết hạn hẹp
này, chúng tôi sẽ không đề cập đến Phật giáo Hoa kỳ theo cách nhìn tổng
hợp của Gs Trần Quang Thuận với tác phẩm “Phật giáo Mỹ” Người viết chỉ chú
trọng đến việc tìm hiểu Phật giáo Việt Nam đến Mỹ ra sao ? Bằng con đường
nào và bằng những nỗ lực nào mà Phật giáo Việt Nam đang xây dựng được một
Giáo hội lớn mạnh là “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất hải ngoại tại
Hoa Kỳ”. Tìm hiểu được vấn đề này thì cũng giải thích được sự lớn mạnh của
các tổ chức GHPGVNTN trên những quốc gia có đông người Việt tị nạn cư ngụ
và sẽ đánh giá được tiềm năng phát triển tương lai của thực thể Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Hải ngoai nầy.
Theo Gs Trần Quang Thuận, Hoà
thượng Thích Thiện Ân là vị Pháp sư đầu tiên truyền bá Phật Giáo Việt Nam
đến Hoa kỳ. Hoà thượng xuất gia năm 1936, tốt nghiệp Đại học Phật giáo năm
1952. Đỗ Tiến sĩ văn chương tại Đại học Waseda Tokyo năm 1962. Năm 1964,
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cử Ngài làm Vụ trưởng Vụ Giáo dục,
đồng thời làm Khoa trưởng phân khoa Văn Học Và Khoa Học Nhân văn Viện Đại
học Vạn Hạnh. Hòa thượng còn là Giáo sư Đại học Sài gòn và Giáo sư thỉnh
giảng ở Đại học văn khoa Huế (Người viết bài này có được niềm vinh dự làm
môn đệ của Ngài khi theo học năm cuối của chương trình Cử nhân văn chương
và sử học ở Đại học Huế.)
Năm 1966 Hoà thượng được mời
sang Hoa kỳ và dạy học tại Đại học UC Los Angeles. Sự hiện diện của Hòa
thựơng tại Hoa kỳ vào những năm cuối thập niên 60 đã là nhân tố tích cực
cho phong trào Phật giáo Việt Nam nẩy nở ở Hoa kỳ và là nền tảng cho việc
hình thành các tổ chức thuộc Phật giáo Viêt nam tại Hoa kỳ sau này. Quốc
tế Thiền Viện (International Meditation Center) được Hoà thưọng thành lập
năm 1970. Qua 1973 Đại học Đông phương (University of Oriental Studies)
được hình thành và Hoà thượng đảm nhận vai trò Viện trưởng. Tháng 4/1975
khi làn sóng người tỵ nạn cộng sản Việt nam đổ dồn đến Hoa kỳ, Hòa thượng
thành lập chùa Việt nam ở Los Angeles, để chăm sóc đời sống tinh thần cho
các Phật tử lưu vong. “Hội Ái Hữu Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ” ra đời
1976 với Hoà thượng làm Chủ tịch Hội Đồng Quản trị và Gs Trần Quang Thuận
làm Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành. Hội này sau đổi tên là “Hội Liên Hữu Phật
Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” là nền tảng đầu tiên cho tổ chức Phật giáo Việt
nam tại hải ngoại.
Vào năm 1978 khi cộng đồng Việt
nam, nhất là đa số Phật tử đã đến định cư đông đảo trên đất Mỹ thì một tổ
chức lớn hơn mang danh xưng “ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” được
hình thành với Hoà thượng Thích Thiện Ân làm Chủ tịch Hội Đồng Điều Hành,
Gs. Trần Quang Thuận làm Tổng Thư Ký.
Với sự kiện này thì rõ ràng là
đã có một Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại thành hình tại Hoa Kỳ rồi.
Hoà thượng Thích Thiện Ân viên tịch năm 1980 và Hoà thượng Thích Mãn Giác
đã được ủy thác kế tục sự nghiệp lãnh đạo Tổng Hội của Ngài với tư cách là
Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa kỳ (nhiệm kỳ 1982 - 1984).
Tại Hoa Thịnh Đốn, các Tăng Ni
họp Đại Hội ngày 06 tháng 5 năm 1979 để thành lập một tổ chức Phật Giáo,
mang tên là:”Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại” mà Thượng thủ
là Hòa thượng Thích Tâm Châu, Tổng Thư ký là Thượng toạ Thích Giác Đức.
Giáo Hội này qua năm 1980 đổi tên thành: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên
Thế Giới” với mục tiêu nhắm tới là tổ chức xúc tiến việc tu học cho hàng
Tăng Ni và Cư sĩ Phật tử, tổ chức công tác xã hội, giúp đỡ đồng bào tỵ
nạn, vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng tại quê nhà. Như vậy, từ đây có hai
tổ chức hoạt động song hành. Tổng Hội (Ht Thích Mãn Giác) và Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Trên Thế Giới. (Ht. Thích Tâm Châu) (17)
(Theo Hoà thượng Thích Giác
Lượng cho biết thì vào năm 1979 một tổ chức Phật Giáo dòng phái Khất Sĩ ra
đời mang tên là: “Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới” Hoà thượng
Thích Giác Nhiên làm Pháp Chủ. Thượng toạ Thích Giác Lượng làm Viện Trưởng
Viện Hành Đaọ. Thượng toạ Thích Minh Tuyên làm Tổng Thư Ký. (hiện nay Thầy
Giác Lượng và Thầy Minh Tuyên với Giới phẩm là Hoà thượng)
Ngày 21.9.1991 trong lễ khai
mạc Đại Hội Tổng Hội PGVN tại Hoa kỳ khai diễn tại chùa Liên Hoa, thành
phố Olympia, tiểu bang Washington State, Hoà thượng Hội Chủ Thích Mãn Giác
đã tuyên đọc Tâm thư của Đại lão Hoà thương Thích Đôn Hậu Chánh thư Ký
Viện Tăng Thống gửi chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ Đại đức Tăng Ni đang tu
học và hành đạo ở hải ngoại, Ngài kêu gọi “Vì sự tồn tại của Giáo Hội, vì
sự quang vinh của Đạo Pháp và Dân tộc mà gát bỏ những quan điểm dị biệt để
cùng nhau hoằng dương Chánh Pháp”
Dựa trên Tâm thư của Đại lão
Hoà thượng Thích Đôn Hậu và Thông Điệp của Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN từ
Việt nam gởi qua, một cuộc vận động thống nhất tất cả các tông phái Phật
giáo Việt nam tại hải ngoại, nhất là tại Hoa kỳ để đi tới một “Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại” mà căn bản tổ chức dựa theo các
quy định của Hiến chương Phật Giáo 1964 ở trong nước.
Tuy vậy, trong thời gian cuộc
vận động thống nhất đang tiến hành thì Hoà thượng Thích Thanh Cát tiến
hành một Đại hội thánh lập Giáo Hội tại chùa Giác Minh, Palo Altos,
California, với sự tham dự của 30 đại biểu và hơn 300 đồng bào Phật tử vào
3 ngày 6, 7, và 8 tháng 3 năm 1992 . Giáo Hội mới này có tên là: “Giáo Hội
Liên Tông Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ” mà Hoà thượng Thích Thanh Cát đảm
nhiệm chức vị Tăng Thống.
(Theo lời của Hòa thượng Thích
Minh Tuyên cho biết thì hiện nay có đến 8 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đang
sinh hoạt tại Hoa Kỳ. Ngoài 4 Giáo Hội đã được đề cập còn có Giáo Hội Tăng
Già Nguyên Thuỷ Việt Nam tại Hoa kỳ do Hoà thượng Thích Hộ Giác làm Tăng
Thống . Giáo Hội Phật Giáo Linh Sơn do Hoà thượng Thích Huyền Vi với chức
vị Tăng Thống. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Hoa Kỳ do Hoà
thương Thích Nguyên Đạt làm Chủ tịch và Thượng toạ Thích Pháp Châu làm
Tổng Thư ký.)
Việc Thống Nhất Phật Giáo Việt
Nam ở hải ngoại là một ước nguyện cháy bỏng của toàn thể Phật tử và của
quý chư tôn đức, nên cuối cùng một Đại hội quy mô đã đựợc tiến hành tại
San Jose, California trong 3 ngày 25, 26, và 27 tháng 9 năm 1992, để hình
thành một cơ chế thống nhất: “Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
Ngoại Tại Hoa Kỳ” gồm có:
HỘI ĐỒNG ĐẠI DIỆN (*)
Hoà thượng Thích Giác Nhiên,
Hoà thượng Thích Hộ Giác, Thượng toạ Thích Chánh Lạc,
Thượng toạ Thích Thắng Hoan ,
Thượng toạ Thích Đức Niệm ,Thượng toạ Thích trí Chơn,
Thượng toạ Thích Thiện, trì
Thượng toạ Thích Chơn Điền, Thượng toạ Thích Pháp Nhẫn,
Thượng toạ Thích Giác Lượng
Hội Đồng đã suy cử Thượng toạ
Thích Đức Niệm giữ chức vụ Chánh Văn Phòng của Hội Đồng Đại Diện.
HỘI ĐỒNG ĐIỀU HÀNH
Chủ tịch: Hoà thượng Thích Hộ
Giác
Phó Chủ tịch: TT. Thích Chánh
Lạc, TT.Thích Thắng Hoan, TT. Thích Pháp Nhẫn,
TT. Thích Trí Chơn, TT.Thích
Giác Lượng,
Tổng Thư ký: TT. Thích Viên Lý
Phó Tổng Thu ký: Đại đức Thích
Minh Dung, Đại đức Thích Từ Lực
Thủ quỹ : Ni Su Thích Nữ Nguyên
Thanh
Phó Thủ quỹ: Ni Sư Thích nữ
Tịnh Thường
Vu Trưởng Vụ Tăng Bộ: TT. Thích
Thiện Trì
Phụ tá: TT. Thích Chơn Điền
Vu Trưởng Vụ Ni Bộ: (y chỉ Tăng
Bộ)
Ni Sư Thích Nữ Diệu Từ
Vụ trưởng Vụ Hoằng Pháp: TT.
Thích Chánh Lạc
Vụ trưởng Vu Văn Hoá : TT.
Thích trí Chơn
Vu trưởng Vu Giáo dục : TT.
Thích Tịnh Từ
Phu tá : Đại đức Thích Minh Đức
Vụ trưởng Vu Cư Sĩ : TT. Thích
Minh Tuyên
Vụ trưởng Vụ Thanh niên, Sinh
Viên &GĐPT.
TT. Thích Minh Đạt
Vu trưởng Vu Xã Hội : TT. Thích
Giác Lượng
Vụ trưởng Vu Kinh tế, Tài
chánh: TT.Thích Nguyên Trí
Vu Trưởng Vụ Truyền thông : Gs
Bùi Ngọc Đường
Phụ tá : Gs. Ngô Văn Bằng
Vụ trưởng Vu Nghi Lễ : TT.
Thích Tín Nghĩa
Vu trưởng Vụ Pháp chế : TT.
Thích Pháp Nhẫn
Vu trưởng Vu Giao tế : GS. Trần
Quang Thuận
Trưởng Ban nghiên cứu kế hoạch
va phát triển:
Pháp Sư Thích Giác Đức
( với sự cộng tác của nhiều
nhân sĩ trí thức Phật tử được Đại hôi đề cử)
HỘI ĐỒNG GIÁM LUẬT:
Chu tịch: Thượng toạ Thích
Thiện Trì
HỘI ĐỒNG GIÁM SÁT :
Chủ tịch: Thượng toạ Thích
Phước Thuận
Thành Viên: TT. Thích Hạnh Đạt,
TT. Thích tri Tuệ,
Thượng toạ Thích Giác Sơn.
Đại Hội đã nhận được lời chúc
mừng từ nhiều nơi trên thế giới, từ nhiều đoàn thể Tôn giáo bạn và đặc
biệt Tổng Thống Bush, Thống đốc Tiểu Bang California đều có gởi điện chúc
mừng. Đại hội đã thành công rực rỡ qua hình ảnh buổi lễ khai mạc với trên
2000 Phật tử tham dự. Đêm văn nghệ chào mừng Đại Hội với hơn 3000 khán
giả.
Đặc biệt cần lưu ý trong đại
hội thống nhất này là đã không có sự tham dự của Ht. Thích Mãn Giác Hội
Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa kỳ, Hoà thượng Thích Tâm Châu,
Thựơng thủ Giáo Hội Phật Giáo VN trên Thế giới, Hoà thượng Thích Thanh
Cát, Tăng Thống Giáo Hội Liên Tông PGVN tại Hoa kỳ và cũng không có sự
hiện diện của Ht. Thích Huyền Vi Tăng Thống GHPG Linh Sơn và Ht. Thích
nguyên Đạt Chủ tịch của GHPGVNTN tại Hoa kỳ (xin lưu ý, sự khác biệt giữa
hai Giáo hội( GHPGVNTN tại Hoa kỳ của thầy Thích Nguyên Đạt và Pháp Châu.
Và GHPGVNTN hải ngoại tại Hoa Kỳ do Ht. Thích hộ Giác làm Chủ tịch Hội
Đồng Đìều Hành ra đời tháng 9 năm 1992.)
Giáo Hội PGVNTN hải ngoại tại
Hoa kỳ sau đó được Viện Tăng Thống và Viện Hoá Đạo trong nước do nhị vị
Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ lãnh đạo, đã ra chiếu chỉ ủy thác cho
Giáo Hội này ở Hoa kỳ thành lập văn phòng II Viện Hoá Đaọ (Trung Ương)
Từ ngày thành lập (tháng
9.1992) đến nay, GHPGVNTN/HN tại Hoa kỳ đã tiến hành được 3 đại hội khóang
đại (1996, 2000, 2004) để kiện toàn cơ sở, củng cố thực lực và đẩy mạnh
công cuộc hoằng pháp và nhất là vận động đấu tranh mạnh mẽ cho tư do tôn
giáo tại quê nhà. Hoà thượng Thích Hộ Giác vẫn giữ chức vụ Chủ tịch Hội
Đồng Điều Hành.
Hiện có gần 3 triệu người tỵ
nạn cộng sản đang định cư tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó đông
nhất là tại Hoa kỳ. Cho đến giờ chưa có một cuộc thống kê đầy đủ con số
Phật tử hải ngoại. Nhưng căn cứ vào tỷ lệ hơn 80% tín đồ Phật giáo so với
dân số trong nước, thì có thể nói là số Phật tử Việt nam hiện nay trên thế
giới phải lên đến trên hai triệu người rải rác trên khắp các tiểu bang Hoa
kỳ, Úc, Pháp, Canada… Cứ nhìn vào con số chùa và tu viện được xây dựng gần
đây thì thấy sự lớn mạnh của Phật giáo Việt nam trên Hoa kỳ phát triển đến
mức nào: Tại bang Alabama (1 chùa) Arizona(3 chùa) Arkansas (I chùa)
California là tiểu bang có nhiều chùa viện nhất(cả thảy đến con số 73),
Colorado (7 chùa Viện) Connecticut (2 chùa)District of Columbia (Hoa Thịnh
Đốn với 2 chùa), Florida ( 6 chùa và tự viện) Georgia
(3 chùa),Hawaii (3 chùa) Idaho
(1 chùa) Ilinoir (7 chùa Viện) Indiana (1 chùa) Iowa (1 chùa) Kansas (3
chùa) Kentucky (1 chùa) Louisiana (4 chùa và Tự Viện) Massachusetts (5
chùa) Michigan (2 chùa) Minnesota (2 chùa)Mississippi (2 chùa) Missouri (2
chùa) Nebraska (1 chùa) Nevada (1 chùa) New Mễxico (2 chùa) New York (4
chùa) North Carolina (3 chùa) Ohio (3 chùa) Oklahoma (3 chùa) Oregon (5
chùa) Pensylvania (5 chùa) Tennessee (1 chùa)
Texas là tiểu bang thứ hai sau
California có nhiều chùa, tự viện và tu viện nhất (với tổng số lên tới 20
) Utah (2 chùa) Vermont (2 chùa) Virginia (4 chùa) Tiểu bang Washington (9
chùa) Wisconsin (1 chùa)
Nhìn qua ghi nhận ở trên đây
thì cả thảy 39 tiểu bang trên tổng số 50 bang của Hoa kỳ đều có Phật giáo
Việt nam hoạt động, gần như nơi đâu có người Việt thì ở đó có chùa, viện
mọc lên. Tính cả thảy chùa viện trên lãnh thổ Hoa kỳ do cộng đồng Phật
giáo Việt nam xây dựng thì đã lên đến con số 209 đơn vị. Con số này nói
lên được nhiều điều về sự sùng mộ Đạo Phật của cộng đồng tỵ nạn Việt nam,
đời sống tâm linh phong phú, cùng ảnh hưởng mạnh mẽ lên các cộng đồng sắc
dân khác, nhất là cộng đồng thuần tuý người Mỹ. Con số này cũng nói lên
được sự đông đảo của người Việt tại hai vùng Nam Bắc Cali (75 chùa viện)
và Texas (20 chùa,viện) và cũng cho thấy các bang ít người Việt đến định
cư như là Alabama, Arkansas, Idaho, Indiana, Iowa, Kentucky, Minnesota,
Mebraska , Nevada, Tennessee, Wisconsin, mỗi bang chỉ có một chùa hay một
thiền viện mà thôi (18)
Khi đề cập đến bước chân của
Phật giáo Việt nam trên đất nước Hoa kỳ mà không nhắc đến vai trò của
Thiền Sư Nhất Hạnh thì hẳn là điều sơ xuất (ở đây, người viết xin chỉ đề
cập đến góc cạnh lịch sử và xin được miễn phê phán về thái độ chính trị
của Thầy ).Thầy Thích Nhất Hạnh tu học ở Huế, có công sáng lập trường
Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (1965) kêu gọi tuổi trẻ dấn thân theo kiểu
Kibout của Do Thái. Thầy xuất bản rất nhiều sách, nhưng cuốn”Hoa Sen Trong
Biển Lửa” (Lotus in the sea of fire) xuất bản 1966 là gây nhiều tiếng vang
nhất, được nhà thần học Thiên Chúa Giáo nổi tiếng người Mỹ là Linh mục
Thomas Merton đề tựa, bán rất chạy ở Hoa kỳ và trên Thế giới.
Tháng 5. 1966 Thầy Nhất Hạnh
được Đại học Cornell ở Mỹ mời diễn thuyết hoà bình và cùng năm này Thầy
Thích Thiên Ân được mời dạy ở Đại học UCLA (Hoa kỳ). Sự hiện diện của hai
nhà Sư lỗi lạc của Việt nam thời đó đã là nhân tố, là duyên lành cho bước
đi thành công của Phật Giáo Việt Nam trên bước đường hoằng pháp tại Hoa kỳ
hiện nay.
Giáo sư Trần Kiêm Đoàn trong
bài viết “Biển lửa giữa hoa sen” đã nhận xét về đạo tràng Làng Mai (ra đời
khoảng 1982) như sau: “Với sự ra đời của Làng Mai, Thầy Nhất Hạnh đã tiếp
nối phát huy tinh thần đại chúng hóa của Phật giáo Việt nam, đưa tinh hoa
của Thiền tông và Tịnh độ đến gần với mọi người không phân biệt chủng tộc
hay hoàn cảnh xuất thân. Bên cạnh Thiền Sư Ấn độ, Nhật Bản, Trung Hoa, Tây
Tạng, Đài Loan, Đại Hàn… thì Thiền học Việt nam theo mô thức Làng Mai
(cũng gọi là Thiền Làng Mai) cũng được hàng ngàn, hàng vạn người Âu Mỹ
quan tâm tìm hiểu và theo học. Trong hiện trạng sinh hoạt văn hoá và tâm
linh tại các nước Âu Mỹ, phải khách quan để thấy rằng: Thầy Nhất Hạnh là
nột trong những hiện tượng hiếm hoi về sự thành công của một nhà Sư Phật
giáo Việt nam trong cộng đồng thế giới. Trong gần 40 năm qua, Thầy Nhất
Hạnh đã liên tục mở những khóa tu học cho cả Việt nam và người nước ngoài.
Đặc biệt tại Mỹ, những buổi nói
chuyện về các đề tài Thiền học và cách ứng xử với cuộc sống hằng ngày
trước mắt bằng tinh thần Thiền học do Thầy Nhất Hạnh thuyết giảng và hướng
dẫn tại nhiều nơi trên đất Mỹ, thường thu hút đông đảo người nghe. Những
hội trường rộng mênh mông không còn chỗ trống. Nét đặc trưng của các khóa
tu học hay thuyết giảng về Thiền của thầy Nhất Hạnh là tính chất đơn giản
và thực dụng, rất hợp với căn cơ của ngưới Mỹ và người Việt trong xã hội
công nghiệp Âu Mỹ. Thính chúng không cần phải có một căn bản giáo lý hay
một quá trinh tu học vẫn theo dõi và hiểu được”(19). Và “Thiền Làng Mai”
đã tạo được ảnh hưởng rộng lớn trên khắp đất nước Hoa kỳ. Gs. Trần Quang
Thuận trong “Phật Giáo Mỹ”(trang 341 - 353) đã ghi nhận được địa chỉ và số
điện thoại của các Trung tâm Thiền do Thầy Nhất Hạnh và các môn đệ hướng
dẫn trên các tiểu bang Hoa kỳ: Alaska (1), Arizona (3), Arkansas (1),
California (18), Colorado (1), Connecticut (1), Florida (1), Idaho (2),
Ilinois (3), Louisiana (1), Maine (2), Maryland (1), Maswsachusetts (1),
Michigan (3), Missouri (2), Montana (2), New Hampshire (1), New Jersey
(3), New Mexico (2), New York (9), North Carolina (3), Ohio (3), Oregon
(4), Pennsylvania (4), Texas (5), Utah (1), Vermont (4), Virginia (6),
Washington (2), Wisconsin (5).
Theo con số ghi nhận trên đây
thì 30 trong số 50 tiểu bang Hoa kỳ đều có buớc chân của đạo tràng Làng
Mai hiện diện. Như vậy ảnh hưởng lớn mạnh của thầy Nhất Hạnh và Tăng thân
Làng Mai ở Hoa kỳ là điều không thể phủ nhận đựợc, nhất là ảnh hưởng này
không những tác động trên Phật tử Việt nam, mà còn tác động lên các sắc
dân khác và nhất là trong giới trẻ của người Hoa kỳ chính gốc.
Nếu so sánh với sự có mặt của
các chùa, tự viện như đã trình bày ở phần trên, thì trung tâm Thiền do
Làng Mai điều hành đã vươn tới những tiểu bang không có chùa hay tự viện
nào cả như New Hampshire, Main, Maryland, Montana và đã đẩy sự hiện diện
của Phật giáo Việt nam từ 39 tiểu bang lên đến 43 trên 50 tiểu bang Hoa
kỳ. Đặc biệt ở bang Vermont chỉ có 2 chùa, nhưng lại có đến 4 trung tâm
Thiền của Thầy Nhất Hạnh, hay tại bang Wisconsin chỉ có một chùa Phước
Hậu, nhưng lại có đến 5 trung tâm Thiền của đạo tràng Làng Mai.
Qua phần trình bày trên đây,
người viết chỉ mong đóng góp một cái nhìn tổng quát về sự hiện diện của
Phật Giáo Việt nam trên đất Hoa kỳ. Sự hiện diện này ngày càng được củng
cố và phát triển đến mức độ mà ít ai ngờ được. Dĩ nhiên Phật Giáo Việt Nam
không thể đạt đến thành công lớn lao như vậy trên con đường hoằng pháp nếu
không có làn sóng di dân tị nạn đổ dồn đến vùng đất hứa này sau tháng 4
đen của 1975.
Người viết chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót về tư liệu và không tránh khỏi những nhận định
chủ quan, nhưng tâm thành của người viết là ước mong ghi lại một chặng
đường đáng trân trọng trong công cuộc hoằng pháp của chư tôn Hoà thượng,
Thượng toạ, Đại đức Tăng Ni và toàn thể Phật tử Việt nam ở hải ngoại nói
chung và ở Hoa kỳ nói riêng.
Và bài viết này cũng để thành
kính cúng dường Đại hội Hoằng Pháp với chủ đề: “Phật Giáo Với Phương Tây
trong Thời Đại Mới” được Giáo Hội Phật Giáo Tăng Già Khất Si Thế Giới,
Việt nam Phật Giáo Liên Hiệp Hội, Tổng Hội Phật tử Việt nam cùng một số
trung tâm văn hóa, xã hội phối hợp tổ chúc tại Như Lai Thiền Tự, San Diego
trong ba ngày 16, 17, và 18 tháng 9 năm 2005
Nam Mô A Di Đà Phật.
Chú thích:
1) Trần Quang Thuận, PHẬT GIÁO
MỸ, tap I, nxb Trung tâm học liệu Phật giáo, Mission Hills, CA. 1999, tr.
VII.
2) Minh Ngọc “ Phác thảo về
tình hình Phật giáo ở một vài nước trên thế giới” trong” Phật giáo trong
thế kỷ mới”, Tuyển tập II do Giao điểm ấn hành tại Hoa kỳ 1997, tr.130,
131.
3) Bài nầy “ Le Grand Christ du
Vide” ( Vị Chúa Vĩ đại của cái “KHÔNG” của Roger pol Droi, được nhà văn
Trần Doãn Nho và Chân Phương dịch và đăng lại trong tạp chí Thế kỷ 21, số
184, ấn hành tạ Nam Cali, tháng 8 .2004, tr. 44, 47.
4) Roger Pol Droi, tài liệu đã
dẫn, tr. 47.
5) Phát biểu của Đại lão Hoà
thượng Tiến sĩ K.Sri Dhammananda trong “ Buddhism in the Eyes of
Intellectuals” do Thích Tâm Quang dịch, Đường sáng Ấn quán xuất bản, San
Jose CA.1994, tr. 21.
6) Trích dẫn theo K.Sri
Dhammananda (bản dịch của Thích Tâm Quang,) sđd, tr.103.
7) Ibid, tr.27
8) I bid, tr. 135
9) Ibid, tr. 50
10) Trần Nhu „ Tinh Thần Phật
Giáo Nhập Thế“, nxb. Nguồn Sống, San Jose, CA. 2005, tr. 1099
11) Ibid , tr.1100, 1101 và của
Minh Ngọc ( Giao điểm),sđd,tr.148
12) Minh Ngọc, sđd,tr. 146, 147
13) Ibid , tr. 145, 146
14) Trần Nhu, sđd, tr. 1105
15) Minh Ngọc, sđd, tr. 145
16) Ibid, tr. 154, 155
17) Xin xem thêm chi tiết về
thành phần lãnh đạo và tiến trình hình thành của Tổng Hội và Giáo Hội PGVN
trên Thế giới trong sách của Trần Quang Thuận, sđd , tr. 267, 274
18) Có sự khác biệt trong tài
liệu của Gs. Trần Quang Thuận và của Lê hữu Đỗ về tên của các chùa, tự
viện tại các bang tại Hoa kỳ. Xin đối chiếu: TQT., PGM, sđd, tr. 320, 340.
và từ trang 341 đến 353.
LHĐ. “Buddhist Churches of
America in The Vietnamese Tradition,” Dorrance Publishing
Co,Inc,Pennsylvania, 2003,tr 157-205
19) Tran Kiem Doan , ”Bien Lua
Giua Hoa Sen “ dang tren nhieu to bao va tap chi o Hoa Ky .Phan trich doan
nay duoc chuyen tai tu website : phusa.net
(*) Thành phần các chức vụ lãnh
đạo xin tham khảo Tạp chí Bông Sen Hoa kỳ số 12, tháng 11- 12, 1992.
San Jose, những
ngày vào thu 2005
LÊ ĐÌNH CAI
Pháp danh Quảng Uyên
---o0o---
Nguồn: www.khoahoc.net
Trình bày: Anna
Cập nhật: 01-7-2007