Ý
NGHĨA TAM QUY
--- o0o ---
Đức
Phật kể chuyện : Ông trưởng giả có 4 người bạn. Với bạn I ông chìu chuộng. Muốn
ăn được ăn, muốn áo được áo. Cho đến muốn đi chơi ông cũng lo xe kiệu cho đi
chơi.
Ông thương quý bạn II
không rời. Hơi xa vắng ông liền sợ hãi lo âu.
Bạn III ông coi như ruột
thịt tay chân. Bạn vui, ông an tâm. Bạn buồn, ông chia sẻ. Mong cho bạn tất cả
phú quý vinh hoa hạnh phúc.
Chỉ có bạn IV, nếu anh đến
thì ông cũng tiếp chớ không đến nỗi nào. Nếu anh không đến thì ông còn bận phụng
sự 3 người bạn kia, đâu có thời giờ để đi tìm anh.
Chợt vua cho lính tới bắt
trưởng giả bỏ ngục. Bạn I tuyên bố bất lực chẳng giúp được gì. Bạn II lạnh như
tiền đi chơi với người khác. Bạn III khóc như mưa, đưa trưởng giả tới cửa quan.
Lại tru tréo lên khóc nữa. Nhưng rồi cũng trở về nhà. Ai cũng có nồi cơm phải
nấu, manh áo phải may, đâu có thể đứng mãi đấy. Chi chi rồi cũng thành dĩ vãng,
thành không. Chỉ có bạn IV len lỏi vào tới cung vua. Xin cho trưởng giả trắng
án.
Phật dạy tất cả chúng ta
đều có 4 bạn này. Bạn I là tấm thân yêu quý. Nó đòi ăn mặc, tắm rửa, đòi nhà
cửa, giày dép... đòi cả trăm thứ. Nhất nhất ta trọn đời tận tình phụng sự. Nay
vâng lời Phật, chúng ta hãy nhìn lại xem, thân này là cái gì ?
Hư không chẳng sáng thì
tối. Tinh thần chúng ta chẳng tỉnh thì mê. Mê đến nỗi theo nghiệp vào tử cung
mẹ. Uống máu tanh hôi, kết làm da thịt, thành bào thai, tự nhận là thân thể. Mẹ
do ăn cơm uống nước mới có máu cho ta. Nay ra khỏi bụng mẹ rồi, ta cũng ăn cơm
uống nước, tự chế tạo ra máu để tự nuôi thân. Vậy toàn thân ta là máu. Máu từ
cơm gạo thành. Gạo từ cây lúa mà có. Cây lúa từ đất mọc lên. Vậy cơm gạo tức là
đất. Ta mượn đất làm thân. Của đi vay ắt có ngày phải trả. Ai đã ăn cơm để sống
quyết có ngày phải trả thân về đất. Ta gọi chết là đại hạn.
Bạn II là tiền bạc. Trọn
đời chúng ta lo kiếm tiền. Đồng tiền là nơi nương tựa. Vắng bóng nó, chúng ta lo
âu sợ hãi. Nhưng tới ngày đại hạn, nó làm gì cho ta ? Nó lạnh lùng sang tay
người khác.
Bạn III là cha mẹ, vợ
chồng, anh em, con cháu, họ hàng, bạn bè. Tên nó là Tình Ái. Thế gian cho người
không có bạn này là kẻ cô độc, cô quả, bạc phước, không nơi nương tựa. Nhưng hỏi
ngày đại hạn, con cháu làm gì cho cha mẹ ? Chúng nó đau xót lắm, nước mắt như
mưa, đưa cha mẹ tới mộ địa, chắp tay 3 xá. Nhất từ vạn kiếp chia ly, vĩnh viễn
không bao giờ gặp nhau nữa.
Bạn IV là tâm từ thiện.
Vua Diêm Vương thấy trong tâm thức chúng ta lấp lánh ánh sáng từ thiện thì đâu
dám bắt. Hẳn phải vội vàng đón rước cung nghênh tiễn thỉnh lên cảnh giới Thánh
Hiền.
Thiện ác tuy từ tâm khởi
nhưng phải đợi các duyên tịnh nhiễm. Chúng ta đã mê muội đến nỗi chui vào tử
cung mẹ, hút máu nhơ, quyện chặt làm thân. Ngạc nhiên gì chẳng thiếu sáng suốt
đến nỗi Thiện thấy ra Ác, Ác thấy ra Thiện. Đức Phật xuất thế để nhắc nhở chúng
ta quan tâm đến bạn IV.
Ngài vạch sẵn cho chúng ta
một con đường gọi là đạo Phật. Đạo là tiếng Tàu. Việt Nam dịch là đường đi. Phật
là tiếng Ấn Độ. Việt Nam dịch là giác tỉnh, là sáng suốt, là trí tuệ.
Từ Sài Gòn lên Đà Lạt,
chúng ta đi nhanh chóng dễ dàng lại quyết chắc đến nơi vì đã có một con đường
vạch sẵn. Đường đời như thế, đường đạo cũng vậy. Nhưng đường đời ở ngay trước
mắt. Còn đường đạo ở đâu ? Ai cũng biết đạo Phật tu tâm. Tâm không hình không
sắc nhưng thật vẫn hiện tướng trên lời nói và hành động. Vâng lời đức Phật,
chúng ta dùng khẩu nghiệp và thân nghiệp để luyện tâm.
Người theo đạo Phật, miệng
không nói dối, không hai lưỡi, không thêu dệt, không ác khẩu. Chỉ nói lời hòa
nhã chân thật, trí tuệ và từ bi.
Miệng ta như đóa hoa sen
Mỗi khi hé mở một phen
thơm lừng.
Tiếng ta như tiếng chuông
ngân,
Vang vang cảnh giác xa gần
khắp nơi.
Phật dạy : Không được sát
sanh. Con gà cũng như ta, ăn bằng miệng, đi bằng chân, nhìn bằng hai mắt, nghe
bằng hai tai. Cũng ruột gan tim phổi, khác gì chúng ta ? Ta có phước hơn nó nên
có sức mạnh và khôn ngoan hơn nó. Nếu dùng phước này để bắt nạt nó, cướp thịt
xương nó, vui miệng trong chốc lát. Phước sẽ thành tội. Mai đây sẽ như nó, đem
thân đền nợ miệng thiên hạ. Người trí tuệ sáng suốt dùng phước đức để hộ sanh
phóng sanh nên phước đức còn hoài. Vậy đệ tử Phật không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, không uống rượu. Rượu tuy làm bằng ngũ cốc trái cây nhưng
khiến mê say. Mê si là gốc ác nên người học Phật, một giọt cũng không thấm môi.
Tóm lại, từ vô thủy chúng
ta đã lầm lạc nên nay quay về nương tựa Phật, Pháp, Tăng gọi là quy y Tam-bảo
(Quy :
quay về
; Y :
nương tựa ; Tam
:
3
; Bảo :
báu).
Phật
nói đủ là Phật đà. Tàu
phiên âm là Bồ-đề. Anh phiên âm là Boddhi. Pháp là Bouddha. Việt Nam xưa gọi là
ông Bụt. Bậc hoàn toàn trí tuệ vì đã dẹp sạch vô minh vọng tưởng, trở về sống
với chân tâm bản tánh thường trụ ở khắp pháp giới. Ngài đã khám phá ra chân lý
là tánh Phật, tất cả chúng sanh bổn chất sẵn đủ.
Pháp
gốc chữ Phạn là Dharma tức
là những phương pháp tu hành Phật đã phát minh để giúp chúng ta ra khỏi đường
mê. Pháp gồm 3 tạng Kinh, Luật, Luận.
Tăng
phiên âm từ chữ Phạn
Shanga. Tàu dịch là hòa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ 4 người sắp
lên, cống hiến trọn đời học pháp để thành Phật.
Trước hết chúng ta quy y TRỤ TRÌ TAM-BẢO.
Trụ trì Phật bảo
là xá lợi Phật hoặc hình tượng Phật để nhớ tới đức
Thích Ca Mâu Ni đã hiện thân ở xứ Ấn Độ. Một vị Phật bằng xương bằng thịt đã ghi
một nét son rực rỡ trong lịch sử nhân loại về nếp sống thanh cao, đạo hạnh tuyệt
vời, chứng tỏ một trí tuệ không thể nghĩ bàn.
Trụ trì Pháp bảo
: Kho tàng giáo điển đầy đủ để giáo hóa từ thấp đến
cao cho tất cả căn cơ, sở thích, hoàn cảnh, dắt dẫn từng bước, từ sơ tâm đến
vĩnh viễn giải thoát an vui.
Trụ trì Tăng bảo.
Tăng là hòa hợp. Học chúng 3 thừa hòa hợp chung
sống, đồng lấy việc tu chứng nhập Niết-bàn làm lý tưởng và mục đích. Tam thừa
Thánh chúng, Thầy hiền bạn tốt, ai biết quay về nương tựa, thật là đại hạnh.
Ngôi Trụ trì Tam-bảo dạy
chúng ta quỳ gối chắp tay ngưỡng cầu ngôi
XUẤT THẾ TAM-BẢO.
Phật bảo xuất thế gian
: Mười phương ba đời tất
cả những bậc chánh giác, đã đầy đủ lục độ vạn hạnh. Nhập diệu trang nghiêm hải
tức là từ bi cứu cánh
(Giải-thoát đức).
Viên mãn Bồ-đề nhất thiết chủng trí tức trí tuệ cứu cánh
(Bát-nhã đức).
Quy vô sở đắc, khế hợp tánh chân bản hữu tức là chân lý cứu cánh
(Pháp-thân đức).
Hiện tại các Ngài thường
trụ ở khắp mười phương. Tuy không hình không tướng nhưng oai thần cứu độ chúng
sanh không lúc nào ngơi nghỉ.
Pháp bảo xuất thế gian
: Là những công năng cởi
gỡ vô minh, đưa chúng sanh lên Thánh địa. Vọng tâm là căn bệnh chính phát khởi
phiền não, thúc đẩy ngũ dục, che mờ lương tri, khiến chúng sanh không thể nhận
định chánh tà, thật giả, thiện ác. Phật sáng kiến ra những pháp quán như sổ tức
để an hòa thân tâm. Bất tịnh, từ bi, nhân duyên, 18 giới v.v... dùng lý giải
khai trí giác tỉnh. Lại phát minh những phương pháp thực hành, dùng sự việc để
hiển lý tánh như lục độ, giới luật, 4 vô lượng tâm v.v... Khiến mỗi Phật tử đủ
phương tiện khí cụ thực hiện hoài bão tự giác giác tha, sớm đạt tới giác hành
viên mãn.
Tăng bảo xuất thế gian
: Các Thánh Tăng và các
Bồ-tát đã thực hiện chương trình độ sanh vĩ đại của đức Phật, đã đạt tâm giải
thoát tuệ giải thoát. Đang cùng Phật kiến lập một nền giáo dục xuất thế cho vạn
loại hữu tình ở khắp pháp giới.
Nương ngôi Tam-bảo trụ
trì, chúng ta tìm học ngôi
ĐỒNG THỂ TAM-BẢO
để viên mãn pháp Tam quy nghĩa là có lợi ích thiết thật trên đường giải thoát.
Phật bảo đồng thể
tức là tánh thấy nghe hay biết không sanh không
diệt, không cấu không tịnh, không tăng không giảm. Mây mù chỉ che khuất chớ
không tiêu diệt được vầng trăng. Gió thổi, mây tan, trăng vẫn sáng rỡ. Phật tánh
bị vọng tưởng, ác nghiệp, báo chướng trở ngại không thể hiển xuất diệu dụng.
Nhưng vẫn thường còn bất biến. Chúng ta học Phật, như pháp tu hành, sẽ phát huy
vô biên công đức.
Pháp bảo đồng thể.
Từ bi hỷ xả, trí tuệ bình đẳng, nhẫn nhục thanh
tịnh, tinh tấn, bá thí... đâu có thể mượn ở bên ngoài. Tâm chúng ta hằng sa tánh
đức, chỉ cần đúng như lời Phật dạy mà khai thác thì cả pháp giới hữu tình đều
được chung hưởng.
Tăng bảo đồng thể.
Biết vạn pháp duy tâm. Biết tâm là chủ nhân ông trong pháp giới nên vận trí trở
về chân lý cho đến khi Trí Lý hòa hợp đồng nhất.
Quy y đồng thể Pháp bảo là
quay về nương tựa tâm mình. Quy y đồng thể Phật bảo là khai vận trí tuệ, phát
huy giác ngộ. Quy y đồng thể Tăng bảo là đem chân trí soi chân lý. Sống hòa hợp
với lẽ phải nên hằng thanh tịnh. Như thế Phật Pháp Tăng không ngoài tâm ta nên
cũng gọi là
NHẤT THỂ TAM-BẢO.
Phật Pháp lấy Nhất thừa
làm cứu cánh. Đạo pháp Nhất thừa quan trọng ở chỗ tu nhân. Nhân khai phát trọn
vẹn, đạt mục đích cứu cánh là chứng nhập Pháp-thân. Phật tánh là chánh nhân. Tu
học là duyên nhân. Trí giác ngộ là liễu nhân.
Quy y Tam-bảo đích thực là
quy y tự tánh chúng sanh. Chỗ thâm diệu của Phật Pháp khác với tất cả ngoại đạo
chính ở chỗ này. Ngoại đạo chủ trương nương tựa một oai quyền ở ngoài. Phật giáo
dạy quy y bản tâm sẵn có của mình, hồi quang phản chiếu Như Lai Tạng tánh.
Phật tử phải quy y cả 3
ngôi trụ trì, xuất thế và đồng thể. Như lấy đức tướng Phật đối chiếu thân tướng
mình. Lấy lời Phật dạy soi sáng tâm mình. Lấy Tăng làm mô phạm cho hành vi cử
chỉ của mình.
Đức tướng Phật trang
nghiêm, xét thân tướng mình làm sao sai khác ? Pháp Phật từ bi hỷ xả, bình đẳng
giải thoát. Phản chiếu lại tâm ta đã thể hiện được chút nào ? Tăng cắt ái từ
thân, ly trần đoạn dục, miên mật chỉ quán, trọn đời phụng sự đại nghĩa. Còn ta
phàm tâm tục hạnh đã đoạn xong chưa ?
Nếu chỉ quy y Pháp và Tăng
hoặc chỉ quy y Phật và Pháp gọi là phiến diện quy y, không viên mãn pháp quy y.
Nếu thâm tâm cung kính Phật, do căn bản từ Phật mà quy y Pháp, quy y Tăng thì
vẫn đủ tam quy. Ba ngôi Phật, Pháp, Tăng như 3 chân của cái đỉnh, không thể
thiếu 1.
Hòa-thượng Thích Đức Niệm
viết lời Tựa
kinh Thắng Man :
Trăm sông chảy về 4 biển
nhưng nước biển chỉ có một vị mặn. Phật dạy trăm ngàn pháp môn nhưng giáo pháp
chỉ có một vị giải thoát.
Phật ra đời không ngoài
mục đích “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” cho chúng sanh. Nhưng vì căn cơ mỗi
người mỗi khác nên Phật đã quyền tạm chia Nhất thừa thành ngũ thừa, tam thừa.
Khiến tất cả nhân dân tùy trình độ đều được hưởng ích.
Vừa giác ngộ, dưới gốc cây
Bồ-đề, Phật nói kinh Hoa Nghiêm làm đề tựa một đời giáo hóa. Cuối cùng Ngài kết
luận bằng kinh Đại Niết Bàn. Trước sau vẫn chỉ một vấn đề : Tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh nên đều có khả năng thành Phật.
Lời nói của Ngài đã thể
hiện. Trải 3000 năm lịch sử, ai theo giáo pháp tu hành đã thành Thánh quả. Như
ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, từ xưa tới nay có tới ngàn vạn. Bên nữ cũng có
bà Đại Ái Đạo, Liên Hoa Sắc v.v... Thậm chí những đại ác như Đề Bà Đạt Đa, A Xà
Thế, Vô Não v.v... cuối cùng đều có phần giải thoát. Các vương tử trọn đời vui
nghiệp kiếm cung. Một khi biết tới đạo Phật, đã trở thành hiền nhân quân tử. Như
vua A Dục của Ấn Độ, Đường Thế Tông bên Tàu, Thánh Đức Thái tử xứ Nhật Bản. Đời
Trần đời Lý, Việt Nam lấy đạo Phật làm quốc giáo, ngọn đèn đạo đức được thắp
sáng, đã tạo thành một thời thịnh trị huy hoàng.
Phật Pháp mục đích đem
giải thoát cho tất cả chúng sanh. Nhưng cảnh vui cõi trời gây mê quá nặng. Nỗi
khổ tam đồ tê liệt kiệt quệ hết khả năng. Duy chỉ có loài người đủ trí tuệ phát
tâm Bồ-đề và có hoàn cảnh tu hành tiến tới Phật quả. Mất thân người rồi khó nói
đến giải thoát.
Bước đầu vào đạo Phật là
tam quy 5 giới. Liệt vị Tổ sư đều công nhận : Tất cả biển khổ thế gian ngoài
pháp tam quy không cách nào cứu vớt. Tất cả an vui thế gian và xuất thế gian đều
từ tam quy ngũ giới mà kiến lập.
Tam quy ngũ giới là 2 bước
đầu tiên của chiếc thang chánh pháp đưa chúng ta lên lầu Vô-thượng-giác.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
--- o0o ---
Cập nhật ngày 01-9
-2005