Tiếng Việt

Trang nhà Quảng Đức

   Tiếng Anh 

qd.jpg (8936 bytes)

Giới Luật


...... ... .

 

TỲ NI HƯƠNG NHŨ

Toát yếu

Hòa-thượng Khương Tạng rút ở kinh Hoa Nghiêm một phẩm Tịnh Hạnh lưu truyền riêng.
Hòa-thượng Khuê Sư ở Tuyên Thành góp thêm các bài thần chú, đặt tên là Phao Nổi Qua Biển Khổ.
Tỳ-kheo Hoằng Giới Độc Thể ở núi Bảo Hoa soạn tập, lấy tên sách là Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu.
Luật học Tỳ-kheo Thơ Ngọc thêm lời giải nghĩa gọi là Hương Nhũ Ký.

— Chùa Linh Sơn, xã Đại Tráng, huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh (Việt Nam)
Tỳ-kheo Giới Sanh Định pháp danh Thanh Việt khắc bản chữ Hán.

Hòa-thượng Thích Thiện Chơn Việt dịch và chú giải.
Tỳ-kheo-ni Tuệ Giác toát yếu.

 

Tựa

Tỳ Ni Thiết Yếu phát xuất từ đại đạo tâm tu chứng và lợi sanh. Ai đọc văn này, phát nguyện này, làm hạnh này, sẽ đồng với bậc Viên giác, không hai không khác. Muốn độ sanh, muốn cầu đạo Phật, cần phải nhất tâm. Nếu nguyện và hạnh không đủ, không do đâu chứng nhập.

Các Hòa-thượng xưa vì thương xót hậu lai nên từ phẩm Tịnh Hạnh kinh Hoa Nghiêm và Mật Bộ, trích ra những kệ chú, để người sơ tâm học thuộc và suy ngẫm. Sớm tối hành dùng, lần thành đạo quả, không đến nỗi uổng hao tín thí. Đại Thánh độ người chỉ dùng giới luật. Một bộ Nhật Dụng này, sự thì nhiếp thân tâm, lý thì quy viên đốn, chẳng nên coi thường.

Năm Giáp Tý mùa Xuân, tôi trụ trì chùa Chiêu Khánh, ứng lời thỉnh của chư Tăng, tùy văn giải nghĩa, đặt tên là Hương Nhũ. Những mong nơi tay đại bi Quán Thế Âm nhỏ sữa giúp người vào đạo. Tự hổ ít học, đâu dám thừa đương. Chỉ đem một phiến tâm hương đền ơn Phật Pháp. Lo nước sông ngày càng xuống, lấy gương xưa để soi đời nay. Nếu y đây mà vâng làm sẽ hữu ích lắm lắm vậy !

Xứ Trung Hoa, Khang Hy năm thứ 23

Ngày Phật hoan hỷ

Tỳ-kheo học Luật tên Thơ Ngọc


 

I- NHÂN DUYÊN GIÁO HƯNG

1) Vì khuôn mẫu Thầy trò.

2) Vì căn bản hành chỉ.

3) Vì diệt hoặc nghiệp.

4) Để sanh phước tuệ.

5) Thành 3 tụ giới.

6) Bốn hoằng thệ nguyện.

7) Nhiếp trì thân tâm.

8) Lợi ích ta người.

9) Khai phát nhân tu cho người sơ tâm.

10) Vì tròn đầy quả Phật.

II- NHIẾP VỀ

A. 1) Luật tạng (y cứ theo ý nghĩa vấn đáp trong phẩm Tịnh Hạnh).

2) Kinh tạng (rút ở kinh Hoa Nghiêm).

3) Mật tạng (đà la ni thần chú).

B. Các bài kệ là lời Văn Thù Bồ-tát đáp Trí Thủ Bồ-tát nên sách này nhiếp về đại thừa.

C. Trong 5 giáo (tiểu thừa giáo, đại thừa thủy giáo, đại thừa chung giáo, đốn giáo, viên giáo) sách này nhiếp về viên và đốn giáo. Đốn giáo vì luận về chân tánh. Tuy rộng gồm vô lượng giáo nhưng thật ra chỉ hiển một Phật thừa. Viên giáo vì biển tánh viên dung, duyên khởi không ngại, tương tức tương nhập, chủ bạn vô tận. Kệ nói : “Nhập thâm pháp giới, tâm không chướng ngại”. Hoặc nói : “Được mắt vô ngại, thấy tất cả Phật” v.v...

III- TÔNG THÚ

TÔNG : Nhiếp ý định thần, dứt ác làm lành, thanh lương tâm địa.

THÚ : Viên giác bất nhị.

IV- NHAN ĐỀ

Tỳ Ni : Tên chung của Luật tạng.

Nhật Dụng Thiết Yếu : Tên riêng của sách này. Tỳ Ni là tiếng Phạn, Tàu dịch là Thiện Trị, điêu luyện 3 nghiệp, ngăn phục lỗi quấy. Đây là từ công dụng mà đặt tên. Đúng nghĩa là Luật, xét đoán khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm. Không có pháp không thể quyết định. Trong một quốc gia, hiệu lịnh thưởng phạt phải do vua quyết định. Nếu các quan lạm vượt, lòng dân mất tin, sẽ có cái họa bại vong. Phật Pháp cũng thế. Giới luật phải do đấng Pháp-vương chế định. Bồ-tát và Nhị thừa không được thêm bớt. Chúng sanh có tin tưởng phụng hành thì Phật Pháp mới hưng thịnh.

Nhật Dụng là từ sớm đến tối, lại từ tối đến sáng, kệ chú nhiếp buộc thân tâm. Khiến người mới học, trong 4 oai nghi, đối cảnh 5 trần, xúc trải các việc, đều phát đại nguyện. Chẳng những điều phục 3 nghiệp mà khắp mong chúng sanh huân triêm pháp lợi, đồng nên đạo giác. Phát tâm thì chúng sanh sẽ độ, lập nguyện thì đạo Phật sẽ thành. Nhật dụng hành trì sẽ có ngày chứng nhập.

Tổ Huệ Viễn nói rằng : “Tâm là chủ của thân, là gốc vạn pháp. Hễ chánh được tâm vương thì lục tặc không xâm, chánh niệm hiện tiền, dễ dàng vào đạo”.

Tỳ Ni ước về giáo, Nhật Dụng ước về hạnh. Giáo không hạnh là giáo hư luống. Hạnh không giáo thì hạnh tà sai. Giáo, hành gồm đủ mới thành thắng dụng.

Thiết Yếu : Cần thiết, cốt yếu. Như đường quyết phải đi thì chọn đường tắt cho nhanh chóng. Mặc áo, ăn cơm, lễ Phật v.v..., giờ giờ khắc khắc kiểm thúc 6 căn, không cho mảy may buông lung. Như chăn voi bằng câu, trị khỉ bằng xiềng. Kèm tâm một chỗ, đêm ngày không hở thì việc nào chẳng xong. Chữ Thiết ước về lý vì rất thân thiết với tâm. Chữ Yếu ước về quả vì khẩn yếu cho nền đạo đức.

Trong phẩm Tịnh Hạnh, Trí Thủ Bồ-tát hỏi : “Bồ-tát làm thế nào để ba nghiệp không tội lỗi ? Làm thế nào để viên mãn đàn ba-la-mật và thi la ba-la-mật ?” Há chẳng phải là hỏi về nghĩa Tỳ Ni ư ? Ngài Văn Thù đáp : “Nếu các Bồ-tát khéo dùng tâm mình thì sẽ được tất cả công đức thắng diệu”. Há chẳng phải nghĩa Nhật Dụng đấy ư ? Trí Thủ lại hỏi : “Làm thế nào để thành chỗ nương cậy, cây đuốc, người dẫn đường cho tất cả chúng sanh ?” Há chẳng phải Thiết Yếu   ư ? Theo văn nghĩa, người học cần để ý.

 

SOẠN GIẢ

Núi Bảo Hoa, Tỳ-kheo Hoằng Giới Độc Thể.

Bảo Hoa : Do ngài Bảo Chí Công khai hóa, lại hình hoa sen.

Hoằng Giới : Rộng bủa giới pháp. Trong sạch thân tâm. Hai chữ này nói rõ chí nguyện của Ngài.

Độc Thể : Là biệt danh. Chính tên Ngài là Kiến Nguyệt. 27 tuổi ngộ lý vô thường, cầu Pháp sư Lượng Như tế độ. Đêm hôm đó, Pháp sư mộng thấy một người đắp cà sa, chúng Tăng chen chân cầu xin cạo tóc. Sáng ra Ngài tới, giống in như người đã thấy trong mộng, Sư mừng rỡ truyền giới cho ngay. Sau Ngài đến Kim Lăng hầu Tam Muội Luật Tổ, được truyền Bồ-tát giới. Tổ dạy Ngài lên pháp tòa diễn giảng. Cả ngàn thính chúng cùng khen ngợi. Tổ thường nói : “Giới tràng 30 năm của ta, nếu không có Kiến Nguyệt ắt đổ gãy”. Khi sắp thị tịch, Tổ trao y và các giới bổn cho Ngài. Ngài thay Tổ làm chủ núi Hoa Sơn, quên ăn bỏ ngủ vì chúng.

Giặc núi vào chùa, Sư đem điều lợi hại giảng giải, giặc tức khắc rút lui. Nhà vua ngờ Sư dung ẩn giặc, toan gia tội nặng. Ruộng vườn thường trụ đều nhập vào quan. Đứng trong rừng gươm giáo, Sư thung dung, thần sắc chẳng biến. Cảm hai tướng quân kính phục. Họ thỉnh Sư trở về núi, hoàn lại ruộng đất, dâng biểu khen ngợi, phát nguyện vĩnh viễn hộ pháp.

Sư 2 lần tu Bát Chu Tam Muội. Mỗi lần 90 ngày đêm, không ngồi không nằm. Sư lập Thạch Giới Đàn nơi mé hữu đồng điện. Đêm cắm nền, cảm Đại sĩ hiện điềm rực rỡ. Giới đàn và đồng điện ánh sáng giao chiếu thẳng tận mây xanh. Sư mở đàn thuyết giới. Ít thời 5000, nhiều thời cả vạn người lãnh thọ.

Một hôm Ngài mỉm cười : “Bảy ngày nữa ta đi”. Đúng hẹn Ngài ngồi ngay ngắn thị tịch. Tuổi đời 78, Tăng lạp 44. Để bảy ngày mới trà tỳ. Đệ tử gần xa nhóm tới niệm Phật vang trời. Trong lửa thấy hình tướng Phật. Trong khói hiện hoa sen. Lửa tắt xá lợi ngũ sắc vô số.

Sư một đời 8 lần ngồi đạo tràng, khai giới 70 kỳ, người nối pháp 60 vị, còn đệ tử thì tính số vạn.

Thân cao lớn, đỉnh đầu có nhục kế, tiếng nói như chuông, hình dáng như Phật.

Năm Thuận Trị, có Thiện sĩ từ đất Điền Trung đến nói rằng : “Đệ tử hằng lễ núi Kê Túc, cầu thấy đức Ca Diếp, chiêm bao cảm Vi Đà Thiên tướng mách rằng : “Tôn giả ở núi Hoa hoằng Luật. Nếu anh muốn gặp thì đến đó”. Nên đệ tử đến lễ bái”. Sư e chúng mê hoặc nên cấm tiệt không ai được nói tới việc này. Đất Mã Lăng có giếng khô từ lâu, khi Sư tới thì nước trào lên đầy tràn. Đất Long Miên có người thiện tín bệnh nguy, oan gia ba đời kéo níu, lên núi cầu giải. Sư giúp sám hối, oan tiêu bệnh khỏi. Ngoài ra những chuyện rồng thần hộ pháp linh hiển khó biên cho hết.

PHÂN KHOA

I- Tỉnh dậy.

1) Sớm thức.

2) Xuống đơn.

3) Cất bước.

4) Ra nhà.

II- Vệ sinh.

1) Ngồi nhà xí.

2) Đến nước.

3) Rửa tịnh

4) Rửa tay.

5) Súc miệng.

6) Rửa mặt.

7) Rửa chân.

III- Nước.

1) Lọc nước.

2) Nước chảy.

3) Sông lớn.

4) Cầu đường.

5) Tắm gội.

6) Cạo tóc.

IV- Mặc áo.

1) Áo trên.

2) Quần.

3) Buộc giải.

4) Y trơn.

5) Y ngũ.

6) Y thất.

7) Y cửu.

8) Tọa cụ.

V- Chánh điện.

1) Dóng chuông.

2) Nghe chuông.

3) Thấy Phật

4) Khen Phật.

5) Nhiễu Phật.

6) Lễ Phật.

7) Cầm bình nước.

8) Rửa bình.

9) Rót nước cúng.

VI- Ăn.

1) Dở bát.

2) Bát không.

3) Bát đầy.

4) Cúng dường.

5) Xuất sanh.

6) Tống thực.

7) Tăng bạt.

8) Cử bát.

9) Tam đề.

10) Ngũ quán.

11) Uống nước.

12) Cầm tăm.

13) Xỉa răng.

14) Kết trai.

15) Thọ thẩn.

16) Rửa bát.

17) Lấy gậy tích.

18) Cháo.

VII- Ngồi nằm.

1) Trải tòa.

2) Ngồi.

3) Ngủ.

4) Nuôi bệnh.

VIII- Xuất gia.

GIẢI NGHĨA VĂN KỆ

 

I/- TỈNH DẬY

1- Sớm thức : Kinh Tỳ Ni Mẫu : Các Tỳ-kheo ham ngủ, phế bỏ chánh nghiệp. Thần Kim Cang lực sĩ  nói : “Như Lai 3 a-tăng-kỳ đại kiếp khổ hạnh mới thành Phật. Nay các Tỳ-kheo tham ngủ, thế nào được vậy ?” Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy : “Ăn của tín thí không nên giải đãi. Đầu đêm cuối đêm phải thiền tụng, kinh hành, gia công tấn đạo. Giữa đêm mỏi mệt, cho phép nghỉ ngơi”.

Ngủ vừa tỉnh giấc, xin nguyện chúng sanh đầy đủ trí giác, khắp thấu mười phương.

Ý thức mê muội là thùy. Năm tình tối mịt là ngủ. Chúng sanh vô minh như ở đêm dài. Bồ-tát giác soi khiến dứt ác tu thiện. Mười phương đỗng chiếu gọi là trí. Phát minh việc lớn gọi là giác.

Khắp thấu có 2 nghĩa : 1) Giác tỉnh khác phàm mê. 2) Phát minh nhân duyên việc lớn. Nhị thừa chỉ thấy một góc, chưa thấy toàn thân con voi. Bồ-tát chánh trí tỏ soi vô lượng chúng sanh, hằng sa thế giới, khắp nguyện đưa ra khỏi vô minh đen tối. Trì kệ này khiến miệng phàm thành miệng Phật (đốn giáo). Nguyện chúng sanh đều thành Phật (viên giáo). Đây là cảnh giới Bồ-tát, bi trí song tu, nhị thừa không bì kịp.

2- Xuống đơn. Đơn : cô đơn : giường chõng nhỏ một người nằm. Phật cấm người xuất gia chung ngủ.

Từ sớm giờ Dần thẳng đến tối,

Tất cả chúng sanh tự giữ mình.

Nếu lỡ dưới chân mất thân hình,

Nguyện ngươi tức thời sanh Tịnh-độ.

Giờ Dần : Khi minh tướng xuất hiện.

Chúng sanh : Nhiều pháp hợp lại mà sanh ra. Đất nước gió lửa hợp lại thành hình vóc, nên vô ngã, vô thường.

Lỡ sát sanh phải trả quả : Vua Lương Võ Đế rất kính tin sư Khạp Đầu. Hôm nọ sai Sứ vời đến, Sứ đưa Sư vừa tới cửa, nghe vua hô “giết đi”, tưởng vua ra lệnh nên mang Sư đi chém.

Vua đánh cờ xong, bảo Sứ thỉnh Sư vào, Sứ tâu : “Khi nãy bệ hạ bảo thần giết đi rồi !” Vua giật mình hỏi : “Sư có nói gì không ?” Sứ tâu : Sư nói : “Bần đạo kiếp trước, lúc làm Sadi, lấy dùi gạch đất, lỡ đứt một con trùng. Nay là vua vậy. Đây là bần đạo trả quả”.

3- Cất bước chân đi, xin nguyện chúng sanh ra khỏi sanh tử, đầy đủ pháp lành.

Cất bước : Người tu đi đứng nằm ngồi đều phải nhiếp tâm, không để mảy may vọng niệm xen lọt. Dụng tâm như thế thì pháp lành đầy đủ, biển lớn sanh tử mới có thể qua.

Pháp lành : Hạnh nguyện Bồ-tát. Bồ-tát cất chân động tay đều một lòng ước nguyện cho chúng sanh ra khỏi biển khổ. Nhưng nếu không thật hạnh thì thành nguyện suông. Bồ-tát phải dùng công hạnh để viên mãn thiện nguyện. Chỉ cần đừng buông lung theo vọng tưởng. Một niệm hồi đầu, bội trần hợp giác là đầy đủ pháp lành để lên bờ kia. Đoạn dòng sanh tử, xóa sạch tên chúng sanh, Phật cũng không làm, đó là chí thiện (rất lành).

4- Khi ra khỏi nhà, xin nguyện chúng sanh thâm nhập Phật trí, thoát ly ba cõi.

Nhà : Điện chùa, thiền đường, chỗ Thích tử gởi lòng tu niệm. Bàng cư sĩ nói : “Mười phương đồng nhóm họp, ai cũng học vô vi. Đây là trường tuyển Phật, tâm không thì sẽ đậu”.

Thâm nhập Phật trí, thoát ly ba cõi : Mượn sự để tỏ lý, ra khỏi nhà hữu vi vào nhà trí tuệ vô vi. Vô sư trí mỗi người sẵn đủ. Vì tình trần che lấp mới có Thánh phàm. Vì thế nên cần phải vào sâu.

Ba cõi là dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Dục giới có 4 thứ : Tình dục, sắc dục, tham dục và dâm dục. Sắc giới đã chuyển được sắc cấu nhơ thành sắc thanh tịnh, từ trời Phạm Thiên trở lên 18 tầng, không có phụ nữ. Vô sắc giới không còn sắc chất chỉ có thọ, tưởng, hành, thức.

Ra khỏi ba cõi, dứt phận đoạn sanh tử. Lại còn biến dịch sanh tử nên phải sâu vào trí Phật. Kinh Pháp Hoa tượng hình ba cõi là nhà lửa lớn. Tiểu trí Thanh-văn ra khỏi nhà lửa, tạm được dạo chơi. Chẳng biết ngoài nhà còn nhiều lửa lắm nữa. Phải là bậc vào sâu trí Phật mới mong hưởng thanh lương.

II/- VỆ SINH

1- Khi đại tiểu tiện, xin nguyện chúng sanh bỏ tham sân si, dẹp trừ tội lỗi.

Tham sân si, ba độc phiền não là nguyên nhân tạo nghiệp chịu khổ. Cổ đức dạy : ăn cơm, mặc áo, đại tiểu v.v... mà không tạp tâm, đó là công phu tốt. Được như thế lo gì chẳng giải thoát. Tiến lên một bước nữa, ngộ được bản nguyên tịnh uế thời có thể giác biết đại thiên thế giới không ngoài tâm, liền biết thân ta là pháp giới, pháp giới là thân ta, chẳng hai chẳng một. Khi ấy ba độc tự trừ. Mới thật là cấu tận tâm tịnh.

2- Xong việc tới nước, xin nguyện chúng sanh tiến tới mau chóng, vào pháp xuất thế.

Rửa sạch có 3 : Rửa thân, rửa miệng, rửa ý. Nếu không tẩy tịnh, không được lạy Phật, tụng kinh v.v... luật Sadi nói rõ.

Mau chóng vào pháp xuất thế : Ở trong ác thế 5 trược, mắt thấy tai nghe toàn những phiền não nghiệp ác. Các thứ này ràng buộc thân tâm khiến trầm luân sanh tử. Ngục tù còn có ngày hết hạn. Ba cõi gông cùm, năm ấm vọng tưởng mấy ai biết cầu ra. Bồ-tát ước nguyện khai trí tuệ xuất thế cho chúng sanh.

3- Cọ rửa thân nhơ, xin nguyện chúng sanh thanh tịnh điều nhu, vĩnh viễn không nhiễm.

Tức sự tỏ lý. Hai chướng phiền não và sở tri ràng buộc thân tâm. Hai chấp ta và pháp từ vô thủy che lấp chân lý. Nay nhờ công lao trì giới, lực dụng định tuệ, ánh sáng tịch tịnh tự quang minh, phiền não nhiễm ô tự tan biến.

4- Xối nước rửa tay, xin nguyện chúng sanh được tay thanh tịnh thọ trì Phật Pháp.

Tụng kệ xong trì chú 7 lần :

Ám, chủ ca ra da sa ha.

Ngài Thích Ca Di Đa La nước Sư Tử đã chứng quả thứ 3, đến Trung Hoa được vua Cao Tông tôn phụng. Khương Tạng Pháp sư khi còn làm cư sĩ tới Ngài cầu Bồ-tát giới. Chúng Tăng thưa : “Hành giả này tụng kinh Hoa Nghiêm và giảng kinh Phạm Võng”. Phạm Tăng kinh ngạc khen rằng : “Chỉ trì kinh Hoa Nghiêm công dụng đã khó lường, huống chi còn giải nghĩa. Phẩm Tịnh Hạnh, 140 lời nguyện gói tròn Bồ-tát giới rồi. Cần gì phải cầu giới tướng nữa. Tây Quốc danh đồn ai đọc kinh này, nước rửa tay thấm vào trùng kiến, con nào cũng được sanh Thiên. Hành giả này về sau tất lợi ích rộng lớn cho tất cả hữu tình”.

Khê Đường Tập Lục : Trí Siêu Pháp sư người nước Thục, 30 năm tụng Hoa Nghiêm. Bỗng thấy một đồng tử nói : Ở núi Ngũ đài đến vì muốn nhắc nhở. Siêu thưa : Xin nghe. Đáp : Tôn sư tụng kinh thật đáng khen. Nhưng ở nhà xí ra, tẩy tịnh nước nhơ bắn lên lưng tay mà không rửa lại bằng tro bùn. Phép tro bùn Luật dạy xoa tay 7 lần. Sư chỉ 2, 3 lần. Vì còn nhơ mà lễ Phật tụng kinh nên có lỗi. Nói xong biến mất.

Kinh Nhân Quả : Tay nhơ cầm kinh mắc báo làm trùng trong nhà xí.

5- Ngậm nước thơm trăm hoa

Súc miệng tâm thanh tịnh,

Ba nghiệp hằng trong sạch

Cùng Phật vãng Tây phương.

Chính vì giữ giới chắc thật, tâm thể thanh tịnh thì hương giới ngạt ngào. Giới sạch làm nhân, cõi Phật là quả, bèn đồng chư Phật không hai không khác, Cực Lạc Tây phương gẩy móng tay liền tới.

6- Dùng nước rửa mặt, xin nguyện chúng sanh được tịnh pháp môn, trọn không nhiễm bẩn.

Tịnh pháp môn : Tức sự hiển lý, đem 8 vạn 4 ngàn trần lao chuyển thành 8 vạn 4 ngàn tam muội.

8 vạn 4 ngàn = 10 sử x 10 (trong mỗi sử có đủ 9 thứ kia) x 10 cõi x 7 chi x 3 đời x 4 (3 độc + 1 đẳng phần).

Nếu có thể cùng chân hết vọng thì bổn lai diện mục chẳng cần lau cũng sáng. Được pháp môn như thế rồi, rốt ráo thanh tịnh, thẳng đến quả Phật. Nên gọi là vĩnh viễn không cấu nhiễm.

7- Dùng nước rửa chân, xin nguyện chúng sanh đủ sức thần túc, chỗ đi không ngại.

Trong 37 phẩm trợ đạo có 4 pháp thiền định gọi là tứ như ý túc. Túc : Chân. Chân như ý : Chân thần. Ai tu được sẽ thần thông tự tại, tùy ý bay trong hư không, đi trên nước, ẩn thân dưới đất v.v... Theo đại thừa thì một ba-la-mật đến chỗ rốt ráo sẽ đầy đủ không lường ba-la-mật. Không lường ba-la-mật chẳng ngoài một ba-la-mật nên gọi là chỗ đi không ngại.

III/- NƯỚC

1- Lành thay ! Đãy lọc nước,

Lòng từ hộ chúng sanh.

Đi đâu thường mang dùng

Mới hợp đạo Bồ-tát.

2- Lọc nước phải nên nhè nhẹ tay,

Côn trùng vi tế đáng thương tình.

Nếu để chết khô trên đãy lọc

Không miễn hiện tiền tội sát sanh.

3- Khi thấy nước chảy, xin nguyện chúng sanh được ý nguyện lành, rửa sạch phiền não.

Thấy nước : Nhãn căn phát ra cái biết gọi là thấy. Xét văn kệ, quan trọng đặt ở chữ Kiến (thấy). Thấy không thấu triệt làm sao có thể dạy chúng sanh phát nguyện ? Làm sao vì họ phá trừ lầm mê ? Nếu người thấy chấp cảnh thì nước kia tình trạng không một. Loài người thấy vui với nước mát trong. Ngã quỷ thấy là sông máu huyết. Rồng cá cho là cung điện chỗ ở. Với kẻ đang bị chìm nịch thì đây là hang chết. Kinh Hoa Nghiêm dạy : Cõi Diêm-phù-đề thấy trời mưa nước trong. A-tu-la thấy toàn võ khí đao gậy v.v... Cõi trời 33 mưa châu ma ni. Xét cho kỹ thì ngay danh từ “nước” cũng là gượng dùng huống chi các chỗ thấy như trên. Tất cả đều do nghiệp lực trình bày.

Ngài A Na Luật Đà nhận được tánh thấy của mình là Như Lai Tạng diệu chân như tánh. Ngài trở về sống với chân tâm bản tánh, không bận lòng đến những vọng trần. Ngài chứng A-la-hán liền thấy tất cả sự vật trong tam thiên đại thiên thế giới rõ ràng như thấy trái soài để trên bàn tay. Đây là chỗ Tăng Ni nên tập học. Nếu thấy được nguồn tánh của vạn pháp, ắt tại trần không nhiễm, phiền não chẳng thể xâm. Có khả năng trở về biển tánh thì chuyển sanh tử thành Niết-bàn. Khi ấy lượng đồng pháp giới, bình đẳng cứu vớt bốn loài sanh mà không hề thấy mình làm lành. Tam Hiền thập Thánh còn không đủ lời để ca ngợi huống chi chúng ta phàm ngu làm sao biết được chỗ đại dụng này.

Được lòng mong muốn thiện lành : Phiền não là biệt danh của lầm nhơ (hoặc cấu). Muốn tẩy trừ lầm nhơ từ vô thủy ở trong tâm, Bồ-tát nguyện cho chúng sanh cũng như Ngài phát nguyện. Nhà Thiền gọi là tốt chác đồng thời (ngay lúc ở ngoài mẹ gà mổ để phá vỡ vỏ trứng, ở trong gà con cũng đang đạp giãy vẫy vùng phá trứng cầu ra). Nếu Bồ-tát phát nguyện độ chúng sanh mà chúng sanh chẳng chịu giải thoát thì nguyện của Bồ-tát ích gì ?

4- Khi thấy sông lớn, xin nguyện chúng sanh được dự pháp lưu, vào biển Phật trí.

Nương dòng pháp vào biển trí là dứt vọng chứng chân có chút phần tương ưng. Ước ngôi vị ngang với sơ Tín. Kinh Lăng Nghiêm nói : “Dục tập mới khô, chưa cùng pháp lưu Như Lai tương tiếp, gọi là Càn tuệ địa”.

Trí Phật không thể dùng phàm trí để biết, không thể dùng thức tâm để hiểu. Đại trí Xá Lợi Phất nhiều như lúa mè tre lau, cùng chung đo lường, cũng không thể biết được trí Phật. Nay thấy dòng sông, nguyện cho tất cả chúng sanh dự hàng pháp lưu không thoái, thẳng vào biển quả Diệu giác.

5- Khi thấy kiều lộ, xin nguyện chúng sanh rộng độ muôn loài cũng như cầu đường.

Cầu đường có số lượng nhưng người qua lại không chừng hạn. Bồ-tát cũng như cầu đường, trải thân ra làm lợi ích chúng sanh không bao giờ chán mỏi.

6- Tắm Phật :

Con nay dội tắm thân Như Lai,

Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ.

Ngũ trược chúng sanh lìa trần cấu,

Đồng chứng Như Lai tịnh Pháp-thân.

Phật và chúng sanh gốc nguồn không khác. Một niệm vọng động thành cảnh giới 5 trược. Nay tắm gội Phật nguyện cho chúng sanh bỏ nhơ 5 trược, hiểu lý “Tâm, Phật, chúng sanh, tam vô sai biệt” mà trực nhận lấy Pháp-thân của mình.

7- Tắm rửa thân thể, xin nguyện chúng sanh thân tâm không nhơ, trong ngoài sáng sạch.

Tỳ-kheo nửa tháng tắm một lần. Cọ rửa sắc thân để sạch sẽ hành đạo. Nửa tháng bố tát là tắm gội giới thân, do đây định tuệ phát sanh.

Thân tâm không nhơ : Trên hội Lăng Nghiêm, Tôn-giả Bạt Đà Bà La chợt ngộ nước không rửa bụi, không rửa thân, chặng giữa an nhiên, được vô sở đắc. Nếu quả nhận hiểu được như vậy thì trong ngoài sáng sạch.

Kinh Phước Điền : Ngài Nan Đà một kiếp xưa thân bị ghẻ dữ, đến chùa sắm nước tắm cúng chúng Tăng. Bệnh ghẻ được lành. Từ đó đời đời sanh ra đoan chánh, ánh vàng sáng chói, 91 kiếp thường được hưởng tịnh phước.

Kinh Hiền Ngu : Thời Phật Tỳ Bà Thi, một cùng tử làm thuê tự sống, nghe nói công đức tắm chúng Tăng, bèn cúng ít tiền. Lại sắm đồ ăn thỉnh Phật và Tăng. Cảm quả báo được thân ánh sáng, được tên là Tịnh Thân. Cả ngàn Phật ra đời vẫn như vậy.

8- Cạo bỏ tóc ái, xin nguyện chúng sanh xa lìa phiền não, rốt ráo tịch diệt.

Ngài Thạch Đầu độ ông Đơn Hà, phủi tóc gọi là hớt cỏ trước điện Phật. Phật dạy xuất gia, tướng Tăng tục phải rõ ràng khác biệt. Nên cần cạo tóc nhuộm áo. Cạo bỏ tất cả phiền não. Căn trần như núi như biển, mê vọng này từ vô thủy. Nay cần phải đưa ra lưỡi dao trí tuệ, tận tình giải kết mới được tịch diệt. Khách ly trần xuất tục phải dứt kết sử ba cõi, thoát ái buộc sanh tử, thẳng tới quả Bồ-đề.

IV/- MẶC ÁO

1- Khi mặc thượng y, xin nguyện chúng sanh được đại thiện căn, lên tới bờ kia.

Mặc áo tôn thắng, phát tâm tối thắng, phát nguyện tối thắng, tâm nguyện này là thắng thiện căn.

2- Khi mặc hạ y, xin nguyện chúng sanh đầy đủ căn lành, thường biết hổ thẹn.

7 Thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý.

3- Chỉnh áo cột giải, xin nguyện chúng sanh kiềm thúc căn lành, chẳng để tản mất.

Sửa là nghiêm chỉnh lại, buộc là thâu nhiếp lại. Người hộ 6 căn thì ngoài nghiêm chỉnh thân, trong thâu nhiếp tâm. Thân tâm nghiêm tịnh, các pháp lành lần lượt tăng trưởng. Đây là chỗ dụng công để thấy đạo.

4- Mạn y (y Sadi) :

Lành thay áo giải thoát,

Vô tướng phước điền y,

Cung kính trì giới hạnh,

Rộng độ khắp quần sanh.

Nam mô Ca Sa Tràng Bồ-tát.

5- Y năm :

Lành thay áo giải thoát,

Vô thượng phước điền y,

Con nay cung kính thọ,

Đời đời chẳng xa lìa.

Ám, tất đà da sa bà ha.

An Đà Hội Tàu dịch là Y Tác Vụ, để làm các việc nhọc mệt trong chùa và qua lại nơi đường xá. Tỳ-kheo ba học tinh nghiêm, giải thoát ba độc nên ai thấy y này hay sanh pháp lành, hay dẹp phiền não. Vô thượng vì y phục vua quan, trên trời dưới trời, không chi bằng y này. Ruộng phước vì Tăng Ni đắp y này sanh trưởng trí tuệ, vun bồi 5 phần Pháp-thân nên là ruộng phước của thế gian.

6- Y bảy :

Lành thay áo giải thoát,

Vô thượng phước điền y,

Con nay cung kính thọ,

Đời đời được đắp y.

Ám, độ ba độ ba sa bà ha.

Uất Đa La Tăng Tàu dịch là Y Nhập Chúng. Ứng thọ trai tăng, nghe kinh trì tụng, ngồi thiền, lễ Phật, lễ Pháp, lễ Hòa-thượng, lễ thượng tòa, Tăng hòa nhóm, đều dùng y này.

Ba y còn có tên là giáp nhẫn nhục, áo hoa sen, áo giải thoát, cà sa. Luật dạy ba y có tên, thể, sắc, lượng, cho đến phép may. Mỗi mỗi xin người gánh vác pháp môn xem kỹ để chỉ dạy cho hàng hậu học. Thể là 10 thứ vải, chẳng phải gấm thêu, cỏ cây, tà mạng mong cầu mà được thành y.

Phật dạy Anan : “Áo hoại sắc là tướng Thánh Hiền. Ai khởi một niệm ác với người đắp y, tội vô lượng. Ai phát tâm kính người đắp y, phước cũng vô biên (sư tử Kiên Thệ). Ta do lòng tin kính tột bực nên nay thành Phật”.

7- Y lớn :

Lành thay áo giải thoát,

Vô thượng phước điền y,

Phụng trì Như Lai mệnh,

Rộng độ khắp quần sanh.

Ám, ma ha ca bà ba tra tất đế, sa ha.

Tăng Già Lê : Y tạp nát, có nhiều bậc, 9 điều, 11 điều cho đến 25 điều. Đắp y này khi vào cung vua, thuyết pháp, khất thực, ngăn dẹp ngoại đạo... cũng gọi là đại y, tổ y, vì Phật trao tay, Tổ Tổ truyền nối, nên gọi là Pháp y. Thế Tôn dùng tông “thật tướng không tướng” truyền cho sơ Tổ Ca Diếp, lấy y này làm chứng cứ. Mạch pháp xâu suốt truyền đến ngày nay, nương y này truyền đăng. Song phải nhớ truyền y là phần sự để hiển truyền pháp. Người không hiểu Phật Pháp chớ nên trao bậy, thọ bậy, tự chuốc tội vào thân.

Vâng mệnh Như Lai : Bản nguyện Như Lai là rộng độ quần sanh. Nay ta vâng thọ giới pháp thanh tịnh, phải cung kính thật hành. Đem pháp lành này nhiếp hóa chúng sanh, nối thịnh giống Phật, tức là gánh vác tuệ mạng của Phật Tổ.

Phật nói trong kinh Xá Lợi Phất Vấn : “Khi tu cúng dường phải một vai hở cho dễ làm việc. Khi làm ruộng phước, phủ hai vai, hiện tướng đoan trang”. Tu cúng dường là thấy Phật, thăm hỏi Sư Tăng, phủi giường quét đất v.v... Làm ruộng phước là phó trai khất thực, ngồi thiền, tụng kinh v.v...

8- Tọa cụ :

Tọa cụ Ni-sư-đàn,

Nuôi lớn giống Bồ-đề,

Mở trải lên đất Thánh,

Phụng trì lệnh Như Lai.

Ám, đàn ba đàn ba sa ha.

Hạt giống Bồ-đề gieo rắc nơi tâm. Mở trải Ni-sư-đàn, vun quén mạ Bồ-đề. Hạt giống gặp đất tốt, tuệ mạng hưng thịnh, đó là vâng giữ mệnh lệnh của Như Lai. Xưa có Tỳ-kheo La-hán nhập định trong núi. Một con khỉ lấy tọa cụ của Ngài đắp vào thân, cũng trần vai hữu, đi đi lại lại. Tỳ-kheo xuất định truyền tam quy cho nó. Khỉ mừng nhảy múa, trượt chân té xuống vực mà chết, sanh về cung trời Đâu Suất.

Phật dạy các Tỳ-kheo vắt tọa cụ ở cánh tay tả dưới cà sa.

V/- CHÁNH ĐIỆN

1- Dóng chuông :

Nguyện tiếng chuông này vang pháp giới,

Thiết vi tăm tối thảy đều nghe.

Nghe trần thanh tịnh chứng Viên thông,

Hết thảy chúng sanh thành chánh giác.

Tây Kinh Ký : Trong biển có cá kình. Trên cù lao có con thú tên Bồ-lao. Trên chuông người ta hay làm hình Bồ-lao mà cây dộng thì hay chạm hình đầu cá kình. Người dóng chuông đọc kệ rồi mới cầm chày niệm :

“Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.

Nếu ai muốn rõ biết

Ba đời hết thảy Phật,

Nên quán tánh pháp giới,

Tất cả duy tâm tạo.

Ám, dà ra đế da sa bà ha”.

7 tiếng đầu thật thưa, 20 tiếng kệ chậm vừa vừa, 8 tiếng thần chú nhanh tay dóng. Cộng 35 tiếng thành một hồi. Ba hồi thành 105 tiếng. Rốt dộng 3 tiếng kết, cộng đủ 108. Chúng ta có 108 cái ngu : (6 căn + 6 trần) x 3 độc (tham, sân, si) x 3 đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) = 108 thọ. Mỗi tiếng chuông thức tỉnh. 108 phiền não chuyển thành 108 tam muội. Sự nương lý khởi. Sự lại hiển lý.

Kinh Tăng Nhất A Hàm : Dóng chuông nguyện tất cả khổ đình dứt. Ai nghe chuông đọc bài kệ này, trừ tội nặng 500 ức kiếp sanh tử. Tổ Bách Trượng dạy : “Tòng lâm dóng chuông. Buổi sớm phá đêm dài hôn trầm, buổi tối nhổ gốc khổ u minh. Phải để hết ngân vang, mới dóng tiếng khác”.

Chí Công Hòa-thượng giúp đạo nhãn cho Lương Võ Đế thấy khổ địa ngục và bảo rằng : “Chỉ nghe tiếng chuông, khổ này mới tạm dứt”. Đế liền hạ chiếu khắp thiên hạ các chùa am phải dóng chuông. Khi dóng chuông phải thật chậm rãi.

Có nơi tụng kệ rồi, tay dộng chuông, miệng niệm Phật trì chú tụng kinh cầu pháp giới hữu tình đồng giải thoát. Pháp giới là chỗ vạn pháp sanh ra rồi lại trở về, tức là bản thể của chư Phật. Vạn pháp chẳng ngoài một tâm, tâm không sanh thì muôn pháp đều dứt. Bốn Thánh sáu phàm, tùy nhân cảm quả, nên giới phận mỗi mỗi chẳng đồng. Chánh báo bị chướng tế trói buộc, không thể siêu thoát y báo. Kinh Lăng Nghiêm nói : “Từ vô thủy chúng sanh và thế giới ràng buộc nhau nên chúng sanh chẳng thể siêu vượt khí thế giới”.

Nay dóng chuông, nhờ oai thần Tam-bảo, âm thanh thấu suốt thiên đường địa ngục. Thiết vi ở đây ước cả 3 đường ác. Tối tăm gồm cả địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh. Nhĩ thức duyên thanh trần, nhuốm nhơ tình thức gọi là trần cấu. Nay nguyện nghe trần thanh tịnh chứng Viên thông nghĩa là chuyển văn trần thành văn tuệ. Thanh trần trong sạch thì thành Phật có ngày.

 

2- Nghe chuông :

Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ,

Trí tuệ trưởng Bồ-đề sanh,

Lìa địa ngục thoát hầm lửa,

Nguyện thành Phật độ chúng sanh.

Sớm tối đi đứng nằm ngồi nghe tiếng chuông liền niệm kệ, phiền não nặng cũng dần dần nhẹ. Đức Quán Thế Âm từ văn, tư, tu vào chánh định tức là phiền não nhẹ trí tuệ trưởng. Bồ-đề là quả của trí. Đây là tịch diệt hiện tiền. Chúng ta mỗi lần nghe chuông, tâm hoa trí tuệ rộ nở, quả đạo Bồ-đề mau thành. Xét lý gọi là trí (căn bản trí). Khéo phân biệt gọi là tuệ (hậu đắc trí).

Địa ngục là nơi ngày đêm nung nấu người có tội. Nay nghe tiếng chuông siêu vượt thế xuất thế gian, khổ chướng hầm lửa địa ngục chuyển thành Giải Thoát đức. Trí tuệ thêm lớn, Bồ-đề sanh trưởng tức là chuyển hoặc chướng thành trí Bát Nhã đức. Phát nguyện thành Phật độ chúng sanh là chuyển nghiệp chướng thành Pháp-thân đức.

Người chưa tự độ mà nguyện độ sanh, tâm này là tâm Phật. Nghe tiếng chuông phát khởi đại nguyện. Từ đây vô biên phiền não nhất tề cắt đứt. Từ đây vô tận pháp môn thề chứng nhập. Từ đây vô thượng Phật đạo sẽ viên thành. Như thế thì từ đây mười phương địa ngục làm sao không giải thoát ? Nghe tiếng chuông lợi ích thật chẳng thể nghĩ bàn !

Phó Pháp Tạng : Vua Kê Nị Tra vì tội sát hại đọa làm cá ngàn đầu. Có vòng gươm chuyển quanh chặt đầu. Đầu vừa bị chặt lại mọc ra. Có vị Tăng La-hán dộng chuông. Cá mỗi thời nghe chuông thì vòng gươm ngừng chuyển. Cá xin Tăng dộng chuông lâu dài cho tôi đỡ khổ. Bảy ngày sau cá thoát khổ báo.

Phật Tổ Thông Tài : Huyện Thượng Nguyên có người dân chết giấc thấy một người bị gông bảo rằng : Ta là Tiên chúa triều Nam Đường vì tội sát sanh phải đọa. Nhờ ngươi về thưa với vua xin các chùa viện dộng chuông dài tiếng. Chỉ nghe tiếng chuông, khổ ta mới tạm hết. Vua Đường liền đúc một quả chuông dâng vào chùa Thanh Lương, khắc ở trên rằng cầu siêu cho liệt khảo cao tổ Hoàng Đế thoát u minh, xuất tai ách.

3- Thấy Phật :

Nếu được thấy Phật, xin nguyện chúng sanh được mắt vô ngại, thấy tất cả Phật.

Ám, a mật lật đế hồng phấn tra.

Bất luận nhà đỏ hay xanh, hễ có tượng Phật ở trong đều gọi là đạo tràng. Một khi thấy phải niệm kệ.

Nếu được thấy Phật : Là tỏ ý không dễ được thấy Phật. Tánh Phật ai cũng sẵn có, sao nói không dễ được thấy ? Chính vì sẵn có nên chẳng dễ thấy. Không thấy được thật mặt mày núi Lô, bởi vì thân ở trong núi ấy. Chúng sanh chẳng thấy Phật vì bị vọng tưởng ngăn che. Tận được vọng tưởng thì bổn giác thủy giác đồng một viên minh, chẳng còn có tên Phật và chúng sanh. Được mắt vô ngại liền được thấy Phật, cũng được chỗ thấy của Phật. Tức là đủ 5 mắt.

4- Khen Phật :

Đấng Pháp-vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Đạo sư khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài,

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp tăng kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận.

Luận Câu Xá : Đức Thích Ca từ cổ Phật Thích Ca đến Phật Thi Khí, gặp 7.500 Phật là a-tăng-kỳ thứ nhất. Từ Phật Thi Khí đến Phật Nhiên Đăng gặp 7.600 Phật là a-tăng-kỳ thứ hai. Từ Phật Nhiên Đăng đến Phật Tỳ Bà Thi gặp 7.700 Phật là a-tăng-kỳ thứ ba.

Bồ-tát Bổn Hạnh : Tứ sự cúng dường trăm ngàn na do tha vô số Bích Chi Phật luôn 100 năm, công đức không bằng dùng một bài kệ 4 câu, vui mừng ca ngợi Như Lai.

Luận Trí Độ : Biết tất cả Thánh phàm không ai hơn Phật là tôn ; thiết tha coi hơn cha mẹ vua quan là trọng ; khép nép sợ nể là cung ; bái phục trí đức là kính. Nghe công đức Phật, sanh lòng tôn trọng cung kính tán thán, người này được phước không lường.

5- Thấy Phật tướng hảo, xin nguyện chúng sanh thành tựu Phật thân, chứng vô tướng pháp.

Ám, mâu ni mâu ni tam mâu ni sa bà ha.

Chẳng luận đúc vàng, đắp đất, giấy đỏ, tô xanh, một khi thấy hình tượng Phật liền niệm kệ chú, xưng dương lễ kính. Đã biết Thánh giáo dạy phép lễ khen công đức không thể nghĩ bàn, người tu phải lo vô thường chợt đến, không còn được chiêm bái nữa. Nên mỗi khi thấy Phật phải tận tình tán lễ.

6- Nhiễu Phật :

Nhiễu Phật 3 vòng, xin nguyện chúng sanh siêng cầu Phật đạo, lòng không biếng trễ.

Pháp Phật lấy “giác tỉnh” làm căn bản, còn lễ nghi thì tùy phương xứ. Ấn Độ vai trần chân lộ là cung ; Trung Hoa phải khăn giày đầy đủ mới là kính. Ấn Độ đi vòng quanh là cung ; Trung Hoa lễ bái nhiều là kính.

Kinh Đề Vị : Nhiễu Phật có 5 phước :

1) Đời sau sắc tốt đoan chánh.

2) Âm thanh tốt.

3) Sanh lên trời.

4) Dòng họ phú quý.

5) Được Niết-bàn.

7- Lễ tán :

Trên trời dưới đất ai bằng Phật,

Mười phương thế giới ai sánh tày,

Ta thấy tận cùng khắp thế gian,

Hết thảy không ai như đức Phật.

Ám, phạ nhật ra vật.

Lễ khen công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Quán Âm Huyền Ký : “Phật Đề Sa có 2 đệ tử Thích Ca và Từ Thị. Một hôm Thích Ca vào núi, bỗng thấy Phật Đề Sa đang nhập định, uy quang chói lọi. Thích Ca đang giở bước một chân co lên, thành suốt 7 ngày đứng một chân. Bởi lực tinh tấn này Thích Ca thành Phật sớm 9 kiếp, vượt ngài Từ Thị”.

Phổ Hiền Quán : Ngày đêm 6 thời lễ Phật tụng kinh, suy ngẫm đệ nhất nghĩa không. Công phu này một gảy móng tay trừ trăm vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp sanh tử trọng tội.

Có 7 thứ lễ :

1/ Ngã mạn lễ.

2/ Xướng hòa lễ (miệng xướng theo người mà tâm xao lãng).

3/ Thân tâm cung kính.

4/ Phát trí thanh tịnh (Pháp-thân Phật viên dung, lễ một Phật là lễ tất cả Phật).

5/ Khắp vào pháp giới (quán thân tâm cùng vạn pháp. Phật và ta đồng thể ở khắp pháp giới).

6/ Chánh quán (trở về Phật mình. Biết rõ tâm, chúng sanh, Phật, bình đẳng).

7/ Thật tướng bình đẳng lễ (trên còn có quán có lễ, ta và người 2 ngôi khác nhau. Nay một lễ này không ta không người, Thánh phàm nhất như, thể dụng không hai. Đức Văn Thù dạy : “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”).

Kinh Ly Cấu Huệ : Tôi nay 5 vóc lễ Phật để dứt 5 đường, lìa 5 cái. Nguyện chúng sanh đủ 5 mắt chứng 5 thần thông. Gối hữu tôi khi đặt xuống đất, nguyện chúng sanh vào đạo chánh giác. Gối tả tôi khi đặt xuống đất, nguyện chúng sanh không tà kiến ngoại đạo. Tay hữu tôi đặt xuống đất, nguyện chúng sanh được như Thế Tôn ngồi tòa kim cang chứng đại Bồ-đề. Tay tả tôi đặt xuống đất, nguyện chúng sanh đủ 4 nhiếp pháp. Đầu tôi khi đặt xuống đất, nguyện chúng sanh xa lìa kiêu mạn, thành tướng vô kiến đảnh.

8- Tay cầm tịnh bình, xin nguyện chúng sanh trong ngoài không nhơ, ắt trí quang khiết.

Tỳ-kheo sáng sớm tụng kinh chú xong, lấy bình sạch đựng nước sạch cúng trước tượng Phật. Trong ngoài không nhơ : Tâm trì giới đã vững mạnh, ngoài không nhiễm trần lao, trong không khởi phiền não, trí tuệ hằng sáng suốt. Kinh Lăng Nghiêm nói : “Căn trần không vướng, giữ tâm hư tịnh, tuệ tánh viên minh ánh mười phương giới”.

Rửa tịnh bình tụng thần chú :

Ám, lam sa ha. (21 biến)

Đến bàn thờ Phật, quỳ gối, tay trái cầm bình, tay phải bắt ấn phổ cúng dường, niệm chú đại bi 7 lần.

VI/- ĂN

1- Dở bát :

Như Lai ứng lượng khí, con nay mở bát ra, nguyện cùng tất cả chúng sanh đồng chứng tam luân không tịch.

Được mở bát ra : Hàm tưởng khó gặp. Vì có thọ đại giới mới được trì bát.

Tam luân không tịch :

1) Người thí huyễn vọng.

2) Người thọ không thật.

3) Vật cho cũng không.

Trí Bát Nhã nhận biết như vậy, không trụ tướng bá thí cũng không mong cầu phước báo. Bá thí như vậy công đức vô lượng.

2- Nay thấy bát không, xin nguyện chúng sanh cứu cánh thanh tịnh, sạch hết phiền não.

Bát-đa-la Tàu dịch là Ứng lượng khí. Thể, sắc và lượng 3 việc phải đúng pháp. Thể bằng sành hay bằng nhôm. Sắc màu cổ chim ngói. Lượng  có 3 : thượng, trung và hạ.

3- Nay thấy bát đầy, xin nguyện chúng sanh sung túc thịnh mãn tất cả thiện pháp.

Chuyện Tây Vức : Bát của Phật sắc ngọc xanh, đựng 3 đấu, được xây tháp thờ ở nước Kiền Đà. Thế gian quý trọng cúng dường suốt ngày, hoa hương không ngớt.

Khi cúng, dâng bát ngang chân mày, vì e hơi từ miệng mũi tạp uế thức ăn. Khi cúng không được tình kiến phân biệt khéo vụng dở ngon, mở ra 3 độc, không những mất phước mà còn thêm tội.

4- Cúng dường trai phạn :

Cúng dường thanh tịnh Pháp-thân Tỳ Lư Giá Na Phật.

Tiếng Phạn là Tỳ Lư Giá Na. Tàu dịch là Biến Nhất Thiết Xứ (khắp tất cả chỗ), nghĩa là chân như bình đẳng khắp nơi các pháp, lấy pháp giới làm thân.

Viên mãn Báo-thân Lư Xá Na Phật.

Tiếng Phạn là Lư Xá Na. Tàu dịch là Tịnh Mãn. Mê hoặc không còn, trí đức viên mãn. Tự báo thân là trí chiếu cõi pháp chân thật. Tha báo thân là tuệ chiếu ứng cơ lợi ích. Lý trí như như là tự báo. Vi trần tướng hảo là tha báo. Tu nhân cảm quả gọi là báo. Tích tụ công đức trí tuệ gọi là thân.

Thiên bách ức Hóa-thân Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tiếng Phạn là Thích Ca, Tàu dịch là Năng Nhân, tâm tánh không bờ mé ngậm chứa vạn pháp. Tiếng Phạn là Mâu Ni, Tàu dịch là Tịch Mạc, tâm tánh bổn tịnh, động tĩnh không can. Năng Nhân là bi, không trụ Niết-bàn. Tịch Mạc là trí, không trụ sanh tử. Đây là giáo chủ thuyết pháp cõi Ta-bà.

Hóa thân nghìn trăm ức : Biến hóa rất nhiều, lược nói 3 thứ : 1) Hóa thân lớn để tiếp dẫn bậc tam Hiền, như kinh Phạm Võng nói : “Nay ta là Lư Xá Na, đương ngồi trên đài Liên hoa, trên nghìn cánh sen đơm vòng, lại hiện ra nghìn Thích Ca. Mỗi cánh sen trăm ức cõi, mỗi cõi một Phật Thích Ca”. 2) Hóa thân nhỏ để tiếp dẫn bậc Nhị thừa, như kinh Pháp Hoa nói : “Liền tới thành Ba La Nại vì 5 Tỳ-kheo thuyết pháp”.      3) Tùy loại hóa thân để tiếp dẫn tất cả, như  kinh Phạm Võng nói : “Nghìn trăm ức Thích Ca tiếp chúng như vi trần”. Ví như nghìn sông chia bóng, trên không chỉ một vầng trăng. Ứng và hóa vô cùng mà Pháp-thân không động. Trí và lý lặng như, tùy cơ khắp ứng, thuyết pháp lợi sanh gọi là hóa. Ba thân vô ngại, lưỡng túc xưng tôn, gọi là Phật.

Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật.

Cực Lạc là vui cùng cực. Chúng sanh cõi ấy không có những khổ chỉ hưởng toàn vui. A Di Đà Tàu dịch là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, 10 hiệu đầy đủ, 3 thân tròn hiển. Đây là giáo chủ tiếp dẫn chúng sanh ở phương Tây.

Đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật.

Tiếng Phạn Di Lặc, Tàu dịch là Từ Thị. Dòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, tên A Dật Đa (Vô Năng Thắng). Đời quá khứ Ngài gặp đức Đại Từ Như Lai, được truyền Từ Tâm Tam muội. Kiếp sau Ngài là Bà-la-môn tên Nhất Thiết Trí, trải 8 ngàn năm chuyên tu tập hạnh Từ. Kinh Bi Hoa nói : “Ngài phát nguyện ở trong kiếp đao binh để ủng hộ chúng sanh”.

Hòa-thượng Bố Đại là hóa thân của Ngài ở bên Tàu có bài tụng rằng : “Di Lặc chân Di Lặc, hóa thân nghìn trăm ức, thường thường dạy thế gian, mà người đời không biết”.

Quán Âm Huyền Ký : Từ Thị và Thích Ca đồng phát tâm Bồ-đề. Từ Thị hay dạo chơi nhà thế tục phế bỏ việc tụng tập nên thành Phật sau đức Thích Ca. Ngài làm giáo chủ hội Long Hoa. Phàm những người ở trong pháp Phật Thích Ca Mâu Ni, trì giới tu hành và tạo phước, đều được thọ ký thành Phật ở hội Long Hoa.

Mười phương ba đời tất cả chư Phật.

Đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.

Tàu dịch là Diệu Cát Tường. Bồ-tát nói đủ là Bồ-đề tát đỏa, Tàu dịch là Giác hữu tình, trên cầu Phật Pháp, dưới độ chúng sanh. Đại trí giác ngộ tánh Phật sẵn có. Đại bi khắp lợi hữu tình. Không trí, Phật đạo không thành. Không bi, chúng sanh khó độ. Trí, Bi vận đủ gọi là Bồ-tát. Kinh nói : “Văn Thù là mẹ của chư Phật, Thầy của Thích Ca, đại trí độc tôn, đứng đầu tất cả Bồ-tát”.

Đại hạnh Phổ Hiền Bồ-tát.

Đại : Muôn hạnh trang nghiêm. Hạnh : Trên cúng dường dưới lợi ích. Phổ : Không chỗ nào không khắp. Hiền : Trên dưới lợi ích. Văn Thù nêu biểu tín giải. Phổ Hiền nêu biểu vạn hạnh. Y tín khởi hạnh, nhân hạnh hiển lý. Trí và Hạnh đi đôi mới viên thành quả đức. Hạnh : Sự việc. Hiền : Tâm đức.

Đại bi Quán Thế Âm Bồ-tát.

Đại : Thề nguyện rộng sâu. Bi : Tầm thanh cứu khổ. Phi trí chẳng thể khởi hạnh, phi hạnh chẳng thể hưng bi. Bi Trí đồng vận mới có thể rộng độ chúng sanh, đền ơn tín thí. Nên đây riêng kể Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Thế Âm.

Chư Tôn Bồ-tát ma-ha-tát.

Gồm nhiếp tất cả mười phương Bồ-tát nhiều như vi trần. Ma-ha-tát : Bồ-tát lớn, từ thập Địa trở lên.

Ma ha Bát Nhã ba-la-mật-đa.

Bát Nhã : Trí tuệ. Ba-la-mật-đa : Đến bờ kia, tới Niết-bàn. Trí tuệ chỉ huy lục độ vạn hạnh.

Phật giáo hóa, Tăng truyền bá, Pháp là chỗ dựa nương của trời người. Tam-bảo một phen cúng dường, sáu đạo chúng sanh đồng triêm lợi ích, bốn ân đền trả.

Ba đức sáu vị, cúng Phật và Tăng.

Pháp giới hữu tình, khắp đồng cúng dường.

Ba đức : sạch sẽ, mềm dẻo, nấu đúng pháp.

Sáu  vị : chua, đắng, ngọt, cay, mặn, nhạt.

Khắp đồng cúng dường : Trên chư Phật, giữa Hiền Thánh, Thiên long hộ pháp, dưới đến hàm linh, không loài nào không cúng thí.

Nay giờ ăn cơm, xin nguyện chúng sanh ăn món thiền duyệt, pháp hỷ sung mãn.

Vui thiền mừng pháp là 2 món ăn xuất thế. Còn chánh niệm, thiện nguyện và giải thoát cũng là 3 món ăn để thành tựu Bồ-đề.

5- Xuất sanh :

Sức pháp chẳng nghĩ bàn,

Từ bi không chướng ngại,

Bảy hạt biến mười phương,

Khắp thí hằng sa cõi.

Khi ấy, Thế Tôn thấy mẹ con lũ quỷ não hại nhân dân, trước dùng oai để hàng phục, sau dùng từ để nhiếp độ. Chẳng nỡ để chúng nó chết đói nên dạy pháp xuất sanh.

Quỷ có 3 chướng : 1) Ngoại chướng : Da thịt huyết mạch khô khao, mặt mũi môi miệng khô cháy. Nước đối với ngã quỷ là máu huyết. 2) Nội chướng : Họng kim, miệng đuốc, bụng to phình. 3) Có loài ngã quỷ tuy không có 2 chướng như trên nhưng thức ăn vừa vào miệng liền biến thành than lửa.

Từ bi không chướng ngại : Dùng 7 hạt cơm hóa khắp hằng hà sa cõi toàn cơm. Khiến quỷ thần tội chướng tiêu trừ, không những được no lòng mà thấm nhuần pháp vị sẽ được giải thoát.

6- Tống thực :

Đại bàng chim cánh vàng,

Chúng quỷ thần Khoáng-dã,

Mẹ con quỷ La-sát,

Cam lồ đều no đủ.

Ám, mục đế sa ha. (3 lần)

Kinh Đại Niết-bàn : Quỷ Khoáng-dã mỗi ngày ăn thịt một người. Phật giảng pháp cho nghe, khuyên thọ giới bất sát. Quỷ bạch rằng : “Tôi chỉ ăn máu huyết, nay giữ giới thì làm sao    sống ?” Phật hứa : “Các đệ tử ta mỗi khi ăn sẽ thí một phần cho các ngươi”.

Kinh A Hàm : Chim đại bàng bắt rồng ăn thịt. Rồng chúa cầu cứu Phật. Phật trao cho một tấm y, dặn về chia cho mỗi rồng con một sợi. Chim không ăn thịt được rồng nữa, đành phải quy y Phật, lãnh giữ 5 giới. Như Lai dạy Samôn Thích tử khi dùng bữa phải thí cho đại bàng.

Nữ Dược-xoa có 1000 con, chuyên bắt trẻ ăn thịt. Người trong thành mất con trai con gái đến cầu Phật. Phật dấu thằng quỷ út vào trong bình bát. Mẹ nó được Tăng Trưởng Thiên vương dạy đến cầu Phật. Phật bắt thọ tam quy, ngũ giới rồi mới trả. Nó nghe pháp liền chứng quả Tu-đà-hoàn. Phật dạy mỗi khi đại chúng thọ thực, phải bá thí cho má con nó.

Các ngươi chúng quỷ thần,

Ta nay khắp thí cúng,

Cơm này biến mười phương,

Tất cả quỷ thần hưởng.

Quỷ có loài nhiều kiếp không được nghe tên cơm nước. Có loài chỉ rình cầu cõi nhân gian rửa bỏ máu mủ phân uế mà ăn. Có loài lâu lắm mới được một lần ăn no.

Truyện Cảm Thông : Nam Sơn Đại sư 20 năm thường thọ cõi trời cúng dường. Vị trời thưa rằng : “Lúc Sư làm Sadi, xuất sanh cúng thí quỷ thần. Chúng tôi nhờ pháp thực, thoát khổ được sanh lên trời. Cảm ơn tế độ nên hằng cúng dường”.

7- Tăng bạt :

Phật dạy chúng Tăng khi ăn tâm tưởng 5 phép quán, tán tâm nói chuyện tín thí khó tiêu. Thỉnh chư đại chúng nghe tiếng kiền chùy, ai nấy nhất tâm chánh niệm.

Tam bát la dà đa. (7 biến)

Tăng bạt là pháp xướng cúng bình đẳng. Phạm Ma Quốc Vương thường cúng dường riêng Thái tử xuất gia đã đắc đạo. Phật biết vua chỉ dùng ân ái, nên dạy : “Tất cả chúng sanh đều  đã từng là thân bằng quyến thuộc của ta. Cho nên phải bình đẳng cúng thí”.

Luận Thập Tụng : Thi Lợi Cầu Đa sửa soạn cơm độc thỉnh Phật. Trong nhà làm hầm lửa lớn, lấy cát phủ lên. Tự nghĩ : Nếu Phật thật có trí thì không đến. Phật biết đã tới thời độ được nên im lặng nhận lời. Đến giờ, Như Lai và các Tỳ-kheo vào nhà. Hầm lửa hóa thành hoa sen. Phật và các Tỳ-kheo đi trên hoa. Phật xướng tăng bạt và chú nguyện. Các món ăn trở thành tốt lành. Phật ra lệnh từ nay trở đi các Tỳ-kheo phải xướng tăng bạt rồi mới được ăn.

8- Cử bát :

Tay nâng bình bát, xin nguyện chúng sanh thành tựu pháp khí, ứng thiên nhân cúng.

Ám, chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra. (3 lần)

Thượng tòa phải ăn chầm chậm, chớ ăn mau xong rồi ngồi ngó làm cho tuổi trẻ lật đật ăn không no.

9- Tam đề:

Miếng thứ nhất : nguyện dứt tất cả ác.

Miếng thứ hai : nguyện làm tất cả lành.

Miếng thứ ba : nguyện độ tất cả chúng sanh.

Ác : Kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc, trần sa hoặc. Lành : Giới, định, tuệ, 37 phẩm trợ đạo v.v... Bao nhiêu căn lành hồi hướng cho tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo. Công đức này hơn tất cả cúng dường bá thí.

10- Ngũ quán :

1) Xét công nhiều ít vật này tới đây.

2) Xét đức hạnh mình tròn khuyết ứng cúng.

3) Phòng tâm lìa lỗi, tham sân si là gốc.

4) Cơm là thuốc chữa bệnh hình khô sắc héo.

5) Vì thành đạo nghiệp nên thọ thực.

Ăn không chánh niệm khác chi bò ăn cỏ. Vật của mười phương Tăng nặng như núi, ngàn đời muôn kiếp khó trả đền. Miệng vàng nói rõ mà người chưa tin. Thành sắt vạc dầu khó thoát ra. Lại nói : “Thân người khó được hãy suy lường. Đầu đội lông sừng ngày tháng trường. Cười bây tham kia một hạt gạo. Dần dà mất cả nửa năm lương”. Ba học không siêng, đọa vì ăn uống, há chẳng răn dè ư ?

11- Uống nước :

Phật xem một bát nước 8 vạn 4 ngàn trùng. Nếu chẳng trì chú này, như ăn thịt chúng sanh.

Ám, phạ tất ba ra ma ni tóa ha. (3 biến)

Luận Tát Bà Đa : Ngài Xá Lợi Phất dùng thiên nhãn thấy vi trùng vô số khắp nơi. Trải 2, 3 ngày không ăn. Phật cấm không được dùng thiên nhãn khi ăn uống. Tỳ-kheo trì giới dù có lọc nước vẫn phải tụng kệ chú thì mới không lỗi.

12- Tay cầm cây tăm, xin nguyện chúng sanh đều được diệu pháp, rốt ráo thanh tịnh.

13- Cầm tăm xỉa răng, xin nguyện chúng sanh tâm ý điều tịnh, không các phiền não.

Tăm dùng xong rồi phải bỏ chỗ khuất, không được quăng chỗ đại chúng đi ngồi.

14- Kết trai :

Niệm chú Chuẩn Đề 3 biến :

Ám, chiết lệ chủ lệ chuẩn đề sa bà ha.

— Vì việc gì bá thí, ắt sẽ được như ý,

Như vì vui mà thí, sau ắt được an vui.

— Ăn cơm xong rồi, nguyện cho chúng sanh

Tất cả các việc, đầy đủ như pháp.

Nhờ sức thần chú gia hộ và 2 bài kệ chúc nguyện, người thí của, người thí pháp, đôi bên đồng lợi, 2 thí vô cùng.

Bài kệ này là lời hồi hướng của Như Lai khi mới thành đạo, thọ mật lớ của 2 người lái buôn.

Thọ thực tráng bát xong, chính là lúc thí pháp, nguyện tất cả chúng sanh trọn xong tất cả việc. Nhị thừa mới dứt kiến hoặc tư hoặc. Bồ-tát phá vô minh hoặc chưa xong. Tới ngôi Phật mới là xong việc. Nay hồi hướng Phật đạo cũng có thể gọi là chỗ làm được xong, đủ như Phật Pháp.

15- Thọ thẩn :

Xưa đàn việt trai tăng, trước lấy vải mới lót tòa ngồi, trai tăng rồi hiến vải làm y. Nên chữ thẩn thêm bộ y. Nay người ta dùng tiền bạc thay vải nên chữ thẩn bỏ bộ y mà thêm bộ bối. Bởi vì đãi Tăng chưa đủ thỏa mãn tâm cung kính, cần tặng thêm đồ vật để tỏ ý ân cần.

Tài pháp hai thí, công đức đều đưa đến đàn ba-la-mật, đầy đủ viên mãn.

Ba-la-mật : Đến bờ kia, đến kết quả trọn vẹn. Cầu mong của thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận.

16- Rửa bát (đổ nước rửa bát) :

Nước rửa bát này, như vị cam lồ, cúng thí quỷ thần đều được no đủ.

Ám, ma hu ra tất sa ha. (3 lần)

Ngã quỷ cổ phực cháy. Duy nhờ thần chú mới được uống nước mát mẻ.

17- Gậy tích :

Tay cầm gậy tích, xin nguyện chúng sanh lập hội thí lớn, bày đạo như thật.

Pháp y tâm mà lập, giáo đối cơ mà thành. Pháp của Samôn hễ rõ được nghĩa “Không” thì gọi là đắc đạo.

Lập hội thí lớn, bày đạo như thật : Tức sự tỏ lý, nơi Thật mở Quyền. Dựng pháp tràng lớn, khiến cho chúng sanh chẳng lạc đường mê. Đóng chặt các nẻo ác. Mở đường chánh cho nhân thiên. Hiển bày lý nhất chân thật tướng.

18- Cháo :

Cháo có 10 lợi, nhiêu ích người tu, quả báo vô biên, cứu cánh thường lạc.

10 lợi ích :

1. Giúp ích cơ thể, nhan sắc phong thịnh.

2. Bổ dưỡng thân thể, thêm lớn khí lực.

3. Bổ dưỡng nguyên khí, tăng thêm tuổi thọ.

4. Thanh tịnh mềm dịu, ăn khiến an vui.

5. Đượm nhuần cổ mép, luận nghị không ngại.

6. Điều hòa thông lợi, phong khí tiêu trừ.

7. Ấm áp tỳ vị dễ dàng tiêu hóa.

8. Khí không trệ ngại, âm thanh trong trẻo.

9. No lòng vừa ý, đói khổ tiêu trừ.

10. Cổ mép thấm nhuần, khát tưởng liền hết.

VII/- NGỒI NẰM

1- Khi trải thiền tòa, xin nguyện chúng sanh khai mở pháp lành, thấy tướng chân thật.

Thiền na Tàu dịch là tĩnh lự, nghĩa là tịch chiếu không hai.

Vóc huyễn từ lâu, vô minh che lấp, làm sao hiểu được chân lý. Nên phải dùng giới làm căn bản. Rồi ngồi thiền tập định, vọng tâm tuyệt dứt, trí tuệ mới khai. Thấy tướng thật của tâm địa. Đây là gốc nguồn chư Phật, lìa tất cả tướng, tức tất cả pháp, vượt các hý luận, không thể phá hoại. Không tướng tức tướng nên gọi là thật tướùng.

2- Chánh thân đoan tọa, xin nguyện chúng sanh ngồi Bồ-đề tòa, tâm không tham trước.

Bồ-đề : Giác đạo. Kinh Pháp Hoa nói : Ngồi tòa pháp không (tự ngộ bổn hữu không vương). Không tham trước : Như hoa sen không nhiễm.

Kinh Viên Giác nói “Tuệ thanh tịnh vô ngại từ thiền định sanh”. Nên biết vượt phàm vào Thánh phải nhờ tịnh duyên. Ngồi đứng thoát vọng phải nương sức định. Cố gắng còn e chưa kịp, huống chi chần chờ, lấy gì địch nghiệp ?

Kinh Hoa Nghiêm : “Tâm Bồ-đề là hạt giống sanh tất cả Phật Pháp”. 118 thí dụ vẫn chưa nói hết thịnh đức của tâm Bồ-đề. Ngoài tu hạnh quán, trong tỏ lý trí, vạn duyên đều tịch, nhất tâm hướng đạo. Tâm không dính mắc chính là tòa pháp không. Chuyển phiền não thành Bồ-đề nghĩa là vô minh dứt hết thì chân lý hiện tiền.

3- Ngủ nghỉ phải thời, xin nguyện chúng sanh thân được an ổn, tâm không loạn động.

Khi ngủ niệm Phật 10 tiếng rồi tụng kệ. Tâm định thân định ít chiêm bao. Quán tưởng tâm mình như vầng tròn sáng trong có chữ  (A) ánh sáng rực rỡ. Chữ A là nghĩa vô sanh. Biết chư hành vô thường, như chiêm bao, huyễn thuật, rỗng không thì thân tâm an ổn.

4- Thấy người tật bệnh, xin nguyện chúng sanh biết thân không tịch, lìa sự tranh cãi.

Đại thừa tiểu thừa đều dạy phải nuôi người bệnh. Trong 8 ruộng phước, người bệnh là thứ nhất. Như Lai căn dặn : “Ai cúng dường ta hãy cúng dường người bệnh”. Bồ-tát chẳng những lo thuốc men mà còn mềm dịu an ủi. Khiến cho thân tâm 2 bệnh đều lành. Nhưng chúng sanh tình kiến nhiều chấp, Bồ-tát phải ứng bệnh cho thuốc mới dứt khổ được chớ không phải một bề chìu chuộng ngọt ngào.

Biết thân không tịch là thuốc đối bệnh. Quán không, biết rõ thân huyễn, không dính mắc cảnh, xa lìa ngã chấp, tự nhiên nhẹ bệnh. Thấy người tật bệnh, mãnh tỉnh vô thường, nỗ lực hành đạo, mong cầu giải thoát.

VIII/- XUẤT GIA

Luận Tát Bà Đa : Trì giới là tánh tu. Đắp y bưng bát, đối cảnh gặp duyên giữ gìn không phạm là tướng tu. Tướng từ tánh phát, tánh nương tướng tu. Tánh tướng ráp thành giới thể.

Anan có người đàn việt. Cả nhà bị bệnh dịch chết hết. Duy sót một đứa nhỏ hàng ngày ở chợ lượm đồ ăn dư tự sống. Anan đi qua, đứa nhỏ gọi. Anan đi tuốt. Cư sĩ chê hiềm : “Samôn  Thích tử với người giàu thì thân như cha con, nay thấy suy tàn lại không đoái nghĩ”. Đứa    nhỏ chạy theo Anan vào chùa Kỳ Hoàn. Phật hỏi Anan sao không độ ? — Thưa, vì Phật dạy không được thân cận trẻ nít. Phật hỏi : Trẻ này đuổi quạ được không ? Trì giới được không ? Ăn một bữa được không ? Nếu được thì cho xuất gia. Do nhân duyên này hàng xuất gia có Sadi đuổi quạ, 7 tuổi trở lên. Phàm ai muốn thế độ, chẳng nên nói xuất gia vui mà phải cho biết tất cả những khó khăn để tùy ý phát tâm.

Luật Ngũ Phần : Hỏi lý do xuất gia. Nếu đáp : Vì cầu pháp lành, vì chán sanh già bệnh chết ưu bi khổ não thì nên độ. 20 tuổi trở lên, 70 tuổi  trở xuống, kham làm trượng phu thì cho thọ cụ túc giới.

Luật Tăng Kỳ : 7 tuổi biết thiện ác cho xuất gia. Quá 70, nằm ngồi phải người phù trì,   không cho xuất gia. Nếu đã xuất gia, không   nên đuổi đi.

Xuất gia chưa cạo tóc gọi là tịnh nhân.

Kinh Chư Đức Phước Điền : Sadi phải biết 5 đức:

1) Phát tâm xuất gia, chí cầu làm đạo.

2) Bỏ trang điểm cầu áo pháp.

3) Cắt ái từ thân, thoát ly yêu ghét.

4) Coi thường thân mạng, tôn trọng đạo pháp.

5) Chí cầu đại thừa rộng độ quần nhân.

Luật Tăng Kỳ : Sadi phải biết 10 việc. Mỗi việc đều có nghĩa đối trị và hiển chánh.

1- Tất cả chúng sanh đều nương ẩm thực

Thánh nhân sống nương vui thiền mừng pháp. Ẩm thực của phàm là : đoạn thực, xúc thực, thức thực và tư thực. Cõi dục đủ cả 4, lấy đoạn thực làm chính. Cõi sắc có 3 tư, xúc, thức, lấy xúc làm chính. Ba tầng dưới cõi vô sắc lấy tư thực làm chính. Phi phi tưởng xứ : thức thực.

Ăn độc thì chết, ăn lành thì sống. Chúng sanh sống với tịnh duyên thì nên Hiền nên Thánh, sống với ác duyên liền thành phàm ngu.

Kinh Đại Niết Bàn : Chúng sanh vì ăn mà khổ, nên tu quán bất tịnh để đối trị. Ta tu hành nguyện khiến chúng sanh chán 4 món ăn phàm, thành tựu 2 món ăn Thánh.

2- Danh sắc

Danh là thọ tưởng hành thức thuộc về tâm. Sắc là căn thân khí giới có hình tướng.

Luận Trí Độ : Tất cả pháp chỉ có danh và sắc, không một pháp nào ngoài danh sắc. Chúng sanh thấy pháp, chấp là ta và của ta, cần đối trị. Phật dạy danh sắc, chính để hiển nghĩa danh sắc là không. Đệ nhất nghĩa lìa danh tuyệt tướùng.

3- Ba thọ

Thoï là lãnh nạp : thọ khổ, thọ vui, thọ chẳng khổ chẳng vui. Ý căn thọ trong, 5 căn thọ ngoài. Mỗi thứ đều có 3 thọ. Biết thọ thị khổ là biết 3 thọ. Về nghĩa đối trị, chúng sanh tưởng thọ là vui, Như Lai dạy 3 thọ đều khổ. Không thọ, xả mới là chánh thọ.

4- Tứ đế

Đeá là xét thật. Vì thẩm xét nên biết đích xác. Biết quyết chắc khổ tập diệt đạo, gọi là tứ đế.

1) Khổ đế biết rõ nghĩa bức não.

2) Tập đế biết rõ nghĩa chiêu cảm.

3) Diệt đế biết rõ nghĩa viên chứng.

4) Đạo đế biết rõ nghĩa suốt thông.

a- Hai đế trên biết nhân quả thế gian để tránh thoát.

b- Hai đế sau biết nhân quả xuất thế gian để mong cầu. Trước nói quả sau nói nhân. Thấy rõ 4 chân đế sẽ ra khỏi ba cõi.

5- Ngũ ấm, cũng gọi là ngũ uẩn

Ấm : che đậy. Uẩn : tích tụ. Sắc thọ tưởng hành thức, 5 pháp này vốn không thật thể, chúng sanh vọng chấp là ta. Phật nói ngũ ấm cho những người nặng về mê tâm, khiến chuyển 5 uẩn thành 5 phần Pháp-thân.

6- Sáu nhập

Nhập : vào. Sáu căn làm chỗ nương cho 6 thức thủ 6 trần. Sáu căn, 6 trần, 6 thức là gốc sanh tử. Thoát ly căn trần thì ba cõi chẳng thể trói buộc. Kinh Niết-bàn gọi 6 căn là đại tặc vì cướp đoạt các thiện pháp. Phật vì người mê sắc nặng dạy quán lục nhập, khiến giải thoát căn cảnh, chứng tánh diệu thường.

7- Bảy giác chi

Cũng gọi là giác phần hay ý giác, là pháp phân biệt đạo dụng (7 pháp này mỗi mỗi đều có công dụng minh bạch, không thể loạn dụng).

Pháp Giới Thứ Đệ nói : 7 chi này đưa đến giác ngộ của vô học. Giác là xét, xét tỏ pháp tu chỗ chân chỗ ngụy. Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, 3 ý giác này thuộc tuệ. Trừ, xả, định, 3 ý giác này thuộc định. Còn niệm ý giác gồm cả định tuệ. Nếu tâm hôn trầm thì dùng Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, phấn khởi tâm lên. Nếu tâm phù động thì dùng Trừ giác ý để trừ thô của thân khẩu, dùng Xả để xả bớt quán trí. Nhập thiền dùng Định tâm. Muốn khiến tâm chẳng phù động mà vẫn có tuệ chiếu cần nhờ Niệm.

Phật nói 7 giác chi để các hành giả thoát ly hôn trầm và trạo cử, khiến định tuệ quân bình.

8- Tám chánh đạo

Y pháp này sẽ không nghiêng về tà nên gọi là chánh. Dắt ác về lành nên gọi là đạo. Tám chánh đạo đưa về Niết-bàn.

1) Chánh kiến : Giải thoát tà kiến.

2) Chánh tư duy : Xả vọng phân biệt.

3) Chánh ngữ : Thuận lời Thánh.

4) Chánh nghiệp như giáo hóa chúng sanh.

5) Chánh mạng : Sống với 4 Thánh chủng.

6) Chánh tinh tấn :  Không khổ hạnh vô ích.

7) Chánh niệm : Xả loạn tưởng.

8) Chánh định : Vào bất tư nghì giải thoát môn.

9- Chín chỗ chúng sanh ở

Tức là 10 pháp giới trừ chỗ ở của Phật. Chúng sanh là chánh báo, gồm có tam thừa và lục đạo. Chỗ ở gọi là y báo. Nay vì kẻ sơ tâm nói tam giới là 9 địa hay 9 hữu (dục giới 1, sắc giới 4, vô sắc giới 4). Biết 9 cõi như nhà lửa, khiến lìa tham đắm. Nếu đồng hạnh nguyện Như Lai, chẳng lìa đương xứ, siêu vào Phật giới.

10- Thập thiện

Thân không 3 ác : sát sanh, trộm cắp, dâm dục. Miệng không 4 ác : nói dối, hai lưỡi, thêu dệt, lời độc. Ý không 3 ác : tham lam, sân giận, tà kiến. Lìa 10 ác tức thành 10 thiện.

Mười lành đóng cửa địa ngục, ngã quỷ, bàng sanh, mở cửa cõi người cõi trời.

Mười lành là căn bản của Thanh-văn giới, giải thoát luân hồi sanh tử.

Mười lành là thềm bậc để tiến lên Bồ-tát giới, con đường hoa gấm Vô-thượng Bồ-đề.

Đây là Tỳ Ni Thiết Yếu Nhật Dụng của những ai tu Tịnh-độ, cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới thơm ngát hương sen.

Đây là phao nổi của liệt vị thượng nhân, tham thiền nhập định, minh tâm kiến tánh, sửa soạn lướt qua bờ kia.

Lòng từ cứu vớt hậu lai của chư Phật, chư Bồ-tát, lịch đại Tổ sư, không thể rời đây mà hữu hiệu.

Cổ đức dạy : 10 điều thiện, trẻ thơ cũng biết nhưng cụ già 80 chưa mấy ai đã viên thành.

Nguyện cầu sơ tâm Sadi vâng giáo phụng hành, ba nghiệp tinh nghiêm, ngõ hầu :

Tông phong vĩnh chấn,

Tổ ấn trùng quang.

Giác hoa hương biến khắp rừng thiền.

Mưa pháp tưới nhuần hàng sơ học.

Cành cành lá lá tiếp nối không ngừng.

Tổ đường rực rỡ, chánh pháp xương minh.

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát,

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát,

Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát ma-ha-tát.

 

--- o0o ---

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật ngày 01-9 -2005

 

Webmaster:quangduc@quangduc.com

Trở về Trang Giới Luật

Đầu trang

 

Biên tập nội dung: Tỳ kheo Thích Nguyên Tạng
Xin gởi bài mới và ý kiến đóng góp đến ban biên tập qua địa chỉ:
quangduc@tpg.com.au