BÁT QUAN TRAI GIỚI
THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt
---o0o---
Duyên Khởi
Hơn năm năm trước, nhân chuyến chiêm bái Phật tích ở
Ấn, trên đường về, Đại Đức Minh-Giác, trụ trì chùa Niệm Phật (Hòa Lan) đã ghé
thăm và đảnh lễ ngài Diễn Bồi tại Bát Nhã Giảng Đường ở Tân Gia Ba, và được ngài
trao tặng cuốn sách nhỏ, mang tựa đề Bát Quan Trai Giới Thập Giảng. Về đến Âu
Châu, thầy Minh-Giác đã tặng lại tôi cuốn sách này. Vốn sẵn ngưỡng mộ tài đức
ngài Diễn Bồi, thêm phần nhân chân sự thực lợi của Pháp tu Bát Trai Giới, nhất
là đối với hàng Phật tử tại gia trong thời kỳ chính tà khó phân này, nên tôi
quyết định phiên dịch cuốn sách trên, hầu làm tài liệu cho các Phật tử thích tu
học, có sự hiểu biết rõ ràng và đúng đắn về Pháp tu Bát Trai Giới, pháp tu căn
bản do chư Phật chế định và trao truyền cho tứ chúng.
Sau khi tài liệu này được diễn giảng trong các khóa
tu học ở Âu Châu và Canada, nhu cầu tu học Pháp Bát Trai Giới gia tăng. Duyên
may. được quý Phật tử người Hoa ở Montréal tặng một số sách, trong đó có bài văn
Phụng Khuyến Tăng Tục Nam Nữ Phổ Trì Bát Quan Trai Giới của ngài Từ Hàng, một
trong tứ đại thánh tăng thời cận đại của Trung Hoa. Bản văn này liền được dịch
thuật và giảng dậy trong các khóa tu học ở Oslo (Na Uy) và Bern (Thụy Sĩ).
Nhân dịp đó, nhằm giúp cho người Phật tử có được
phương hướng tu tập chính xác, và còn để phổ biến Pháp tu Bát Trai Giới rộng rãi
hơn, Đại Đức Quảng-Hiền trụ trì chùa Trí Thủ ở Bern, đã cùng quý Phật Tử tại
Thụy Sĩ phát tâm ấn tống lần đầu tập tài liệu về Bát Trai Giới này. Song số sách
ấn tống không đủ cung cấp cho mọi nơi, nhất là ở Hoa Kỳ, nơi nhiều tự viện nhất,
và đa số các chùa đều thường xuyên tổ chức tu Bát Trai Giới hàng tháng. Vì vậy
Sư Bà Đàm-Lựu trụ trì chùa Đức Viên ở San José, phối hợp cùng đạo hựu Diệu
Phụng, đại diện cho nhóm Phật tử tu Bát Trai Giới chùa Hương Tích ở Santa Ana,
tái bản tập sách này. Thành tâm tán thán công đức Sư Bà Đức Viên cùng quý Phật
tử.
Mong rằng cuốn sách này sẽ là áo giáp, giúp người tu
học ngăn được ma chướng, chận đứng mũi tên dục nhiễm, để thân tâm luôn thanh
tịnh trang nghiêm, chính pháp do vậy hiển bày, hướng đến Tịnh Độ, xa rời trần
lao, lợi mình lợi người, báo được Phật ân, không uổng một kiếp gặp được Phật
Pháp.
Nguyện mười phương chư Phật chứng minh, hồi hướng mọi
công đức lành đến pháp giới chúng sinh đều thành Phật đạo.
Paris, 23/3/1993
Thích Thiện Huệ
Lời Giới Thiệu
Giới là chính nhân của xuất thế gian pháp, lìa giới
ra không thể có giải thoát, nên kể từ sơ phát tâm cho đến bát tướng thành đạo,
Đức Phật trong hằng niệm không rời Tam Tụ Tịnh Giới, tu vô lượng thiện pháp, nhờ
vậy mọi động tĩnh nơi ba nghiệp không gì không là pháp thiện xảo cứu độ chúng
sinh. Giới có công năng phát sinh hạnh lợi mình, lợi người như vậy, nên trước
lúc nhập diệt, Đức Phật cũng chỉ ân cần dặn: “Sau khi ta diệt độ, nên tôn
trọng, kính quý Ba La Ðề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó
được của báu. Phải biết đó là bậc thầy của các vị, Như Lai có ở đời cũng không
khác như vậy”. Ngay khi tại thế, Đức Phật cũng dùng giới làm cửa ngỏ vào đạo
cho người tu học, cả hai hàng Tăng Tục đệ tử đều được trao cho giới pháp để tu.
Vì Giới là nền tảng của muôn hạnh lành, không Giới ắt thành thiên ma hoặc sa ác
đạo.
Người tu học Phật ngày nay, vì lơ là giới pháp, nhất
là hàng đệ tử tại gia, vọng cho giới chỉ dành riêng cho Tăng, không lo thủ trì
ngũ giới, tâm ý nhiễm trần, đem tâm phi giới này cầu tìm pháp môn, nên không sao
có trí phân biệt pháp, chính tà chẳng rõ, ma Phật không phân, nên dễ sinh tâm
thích pháp tham dục, lạc vào nẻo dữ, thực uổng công tu hành. Hoặc có kẻ phát tâm
tu học, nhưng cũng bởi coi nhẹ giới, nên chung cục không thực đạt được tự lợi
lợi tha, vẫn lẩn quẩn trong vòng nhân ngã thị phi. Thế nên, Diễn Bồi Đại Sư cũng
từng khuyến cáo: “Chúng ta phát tâm tu học Phật, không phải để tiêu khiển, mà
để mong cầu Thánh quả; song Thánh quả không chỉ mong cầu mà được, phải cầu bằng
sự thực tiễn thật hành. Sự thực hành
không ngoài hai phương diện hành thiện và đoạn ác. Nếu ác pháp không đoạn, thiện
pháp tất khó tu”. Phương pháp hành thiện
đoạn ác tích cực nhất chính là giới pháp. Vì vậy, Như Lai đã từ bi rất mực,
thương xót chúng sinh đa dục khó xả, nên dùng phương tiện thiện xảo, lập nên
pháp tu Bát Quan Trai Giới giúp người tu học có nền tảng Thánh đạo vững chắc,
gieo duyên mật thiết với Tam Bảo. Bởi Bát Trai Giới là nhân xuất gia nên duyên
với Tăng Bảo, bởi Bát Trai Giới là nhân của pháp xuất thế nên duyên với Pháp
Bảo, bởi Bát Trai Giới là nhân thành Phật quả nên duyên với Phật Bảo. Vì vậy, tu
Bát Quan Trai Giới chính là chân thật phụng sự, cúng dường và thân cận Tam Bảo.
Song le, hàng đệ tử Tăng tục dù đã nhiều lần thọ trì
Bát Trai Giới, nhưng nơi ý nghĩa, công ích, tác pháp và các vấn đề khác liên
quan đến Bát giới vẫn còn rất hàm hồ, hiểu biết lệch lạc, nên không thể đạt được
điều quan trọng và tôn quý nhất trong pháp thọ trì là đắc được giới thể và
phương cách dụng công tu tập cùng trì giới.
Chính vì các lý lẽ trên, để người tu học Phật có được
pháp căn bản, để Phật pháp được cửu trụ, để thế gian thêm lợi lạc, các bậc cao
tăng đại đức như ngài Diễn Bồi, Từ Hàng… đã ra công giảng giải và sửa đổi lại
các thói quen sai lạc xưa nay trong pháp tu Bát Quan Trai, là pháp tu căn bản
một tháng phải thọ trì sáu ngày vào thời Phật. Những lời giảng dạy này được gọi
là Bát Quan Trai Thập Giảng và Phụng Khuyến Tăng Tục Nam Nữ Phổ Trì Bát Quan
Trai Giới Văn, là kim chỉ nam giúp người tu học có nhận thức chính xác về Trai
Giới, không còn hoài nghi hay coi nhẹ giới pháp, nhờ vậy có thể thực tu, thực
chứng, đạt được thực lợi. Mong người đồng tu đạt được nhiều lợi ích nơi quyển
cẩm nang tu tập nhỏ bé này.
Nguyện mười phương chư Phật chứng minh và hồi hướng
cho pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.
Thích Thiện Huệ
Bern, ngày 29 tháng Hai năm 1992
Chương 1
Huấn Luyện Xuất Gia
Ðức Phật chế Cận Trụ Luật Nghi, mục đích để cho người
tại gia có được phương pháp tu học xuất gia tạm thời. Như trong Kinh Thập
Thiện Giới dạy: “Bát Trai Giới là do
chư Phật quá khứ, hiện tại vì hàng tại gia chế pháp
xuất gia”. Do đó, ta thấy rõ rằng: Chẳng
riêng Đức Thích Ca chỉ bày pháp xuất gia Bát Trai Giới này cho hàng tại gia, mà
chư Phật quá khứ cũng đều chỉ dạy như vậy. Từ quá khứ, hiện tại, suy đến vị lai,
tất nhiên chư Phật vị lai cũng có chế độ này. Vì vậy, Bát Trai Giới tuy có vẻ
đơn giản, song rất ư trọng yếu, đáng cho Phật tử thường luôn thọ trì, học tập
phát xuất gia Bát Quan Trai này, để từ từ tiến đến việc chánh thức xuất gia.
Ở đây, hẳn có người tự hỏi: “Phật pháp đã có hai
chúng xuất gia và tại gia. Hàng đệ tử tại gia có thể ở nhà tu học được rồi, cần
gì phải chế pháp xuất gia tạm thời này?” Về điểm này, tôi xin minh xác cùng quý
vị: Phật pháp tuy cũng nói có thế gian pháp, nhưng vẫn lấy xuất thế làm mục đích
tối hậu, không hề coi thế gian pháp là trọng. Những người đắm nhiễm thế gian, dĩ
nhiên muốn họ xuất thế không phải điều dễ, hơn nữa, sức họ cũng không làm nổi
chuyện đó. Nhưng bất luận họ đủ sức hay không, để đạt được mục đích tối cao, chỉ
cần trong đầu óc người học Phật luôn tâm niệm rằng đây là mục đích duy nhất của
mình. Không những chỉ vậy mà còn phải luôn ghi nhớ không quên, mong mỏi sẽ có
ngày thực hiện trọn vẹn được mục đích xuất thế. Ðó là căn bản của việc học Phật.
Người học Phật nếu không có ý niệm này thì dẫu học hay tu hành môn nào, cũng vẫn
không tương ưng với tinh thần chính yếu của Phật pháp.
Phật pháp đã coi xuất thế là mục đích cao nhất, xuất
gia lại là con đường để đi tới mục đích này, nên tuy là hàng tại gia học Phật
cũng cần tìm cách học tập đời sống xuất gia để sau này ắt có ngày chân chính
xuất gia, dõng tiến trên con đường xuất thế giải thoát. Phật pháp dĩ nhiên chẳng
kêu gọi hết cả mọi người phải xuất gia, chỉ có điều hoàn cảnh thanh tịnh và
phương thức sinh hoạt của đời sống xuất gia thích hợp với những người tìm cầu
xuất ly và tiến tu giải thoát, bởi họ nhận ra rằng đây là con đường thích hợp
nhất để đạt được xuất thế giải thoát.
Tại sao trong Phật giáo lại coi trọng pháp xuất gia
như vậy? Bất luận các Thánh Quả của hàng Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, dù A La Hán Quả
hay Vô Thượng Phật Quả, cũng đều do xuất gia mới hoàn thành. Như hỏi ba đời chư
Phật thành Phật cách nào? Ðức Phật trả lời trong kinh, không có vị Phật nào
không từ xuất gia mà thành Phật. Nếu đã như vậy, chúng ta học Phật, mong mỏi
tương lai thành Phật, nếu không phát tâm xuất gia, làm sao thành tựu được mục
đích thành Phật? Luận Bồ Tát Bổn Sinh nói: “Lợi ích của xuất gia cao
hơn cả Tu Di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Sở dĩ như vậy là do xuất gia
mới thành Phật, ba đời chư Phật chưa có vị nào thành Phật mà không do nhờ xả gia
xuất gia cả”. Vì vậy, người hành Phật pháp, nếu muốn chứng thành Phật Quả,
tất phải có ngày xả tục xuất gia. Muốn khỏi xuất gia mà thành Phật, cứ y theo
kinh điển thì điều này không thể thành tựu được.
Chẳng những ba đời chư Phật như vậy, mà ngay cả đến A
La Hán của Tiểu Thừa cũng thế. Cứ như thuở giờ vẫn thấy người xuất gia chứng Sơ
Quả, tại gia cũng chứng Tu Ðà Hoàn, cho đến hàng xuất gia chứng Tam Quả, tại gia
chúng cũng chứng quả Bất Hoàn (A Na Hàm), điều này chẳng có gì lạ từ thời Phật
đến sau này, nên ba quả đầu, xuất gia, tại gia đều có thể chứng quả bình đẳng
như nhau. Trừ ra A La Hán, tại gia không thể chứng được. Ðiều này không có nghĩa
hàng cư sĩ học Phật không có khả năng chứng quả A La Hán, mà ngụ ý phải hiện
tướng xuất gia trước khi chứng A La Hán quả. Như sắp chứng A La Hán quả mà vẫn
xả không nổi mái tóc, xuất gia thì vẫn dừng ở Tam Quả. Vậy nên mới biết: Xuất
gia mới đạt được quả vị cao nhất của cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa.
Nhưng vì đời sống xuất gia không đơn giản đến mức độ
ai cũng làm được, nên đức Phật đại từ đại bi, vì hàng tại gia học Phật, chế ra
Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm để huấn luyện cho người học Phật từ từ quen
với đời sống xuất gia. Vì vậy, Thái Hư Ðại Sư nói: “Ðây là Phật vì cư sĩ tại
gia chế ra giới điều để luyện tập ngắn hạn đời sống xuất gia”. Hoặc có người
cho rằng: “Tôi đã thọ ngũ giới, hoặc đã thọ Bồ Tát giới, cần gì phải thọ Bát
Quan Trai giới?” Phải biết thọ Bát Quan Trai Giới là thọ sự huấn luyện đời sống
xuất gia, cũng như tân binh phải tập tác chiến, từ từ huấn luyện không ngừng sẽ
trở thành thói quen, khác hẳn thọ ngũ giới hay tại gia Bồ Tát giới sống đời thế
tục. Ðây là điều chư vị phải nhận thức rõ ràng trước tiên.
Có người ngỡ đời sống xuất gia rất đơn giản, cho rằng
xuất gia là chuyện dễ, thậm chí bảo rằng người xuất gia được hưởng phúc nhàn.
Nào hay đời sống xuất gia rất mộc mạc, thanh bần, ngay đến nhu yếu trong đời
sống như y phục, đồ ăn, chốn ở đều khác người thường. Trong Giới Luật đã dạy
chúng ta: Hàng nam tử, nữ nhân xuất gia phải mặc áo hoại sắc, phải bỏ hết các
món trang sức, phải ở phòng ốc giản lậu; y lời Phật dạy, xuất gia còn phải ôm
bát đi khất thực. Các vị hiện tại thọ Bát Quan Trai Giới, bao nhiêu nữ trang,
vàng ngọc đều rời bỏ, y phục hoa hòe đều được thay bằng áo hoại sắc, đó là tập
đời sống thanh đạm của người xuất gia. Các vị đều nhất nhất làm tròn, chứng tỏ
các vị đã nhận chân được trong lúc sống đời xuất gia, là đang quan sát để cải
tiến đời sống vật chất hưởng thụ của ngày hôm nay. Các vị hẳn rất khó được như
vậy.
Song thực sự xuất gia không chỉ có như vậy, trong
Giới Luật dạy phải khéo nhẫn chịu mười việc:
1) Thứ nhất, trời lạnh phải chịu đựng được hàn khí
xâm hại, chẳng nề mưa tuyết, gió sương.
2) Thứ hai, trời nóng phải kham nổi nắng thiêu gay
gắt, chẳng quản khí trời oi ả như thiêu như đốt.
3) Thứ ba, phải chịu đựng được các thứ bức hại từ
thiên nhiên, chẳng ngại một thứ nào cả.
4) Thứ tư, phải chịu được sấm sét rung trời, quyết
không vì vậy mà sợ sệt rúc trốn.
5) Thứ năm, khi bụng đói cồn cào vẫn phải chịu đựng
được cơn đói.
6) Thứ sáu, miệng khô, cổ rát vẫn nhẫn được cơn khát.
7) Thứ bảy, nghiêm cách tuân thủ không ăn quá ngọ,
mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng ngọ, hoặc hai bữa sáng và ngọ.
8) Thứ tám, nghiêm cách trì giữ các giới hạnh của Đức
Phật chế ra, cho dẫu lúc bị đe dọa tánh mạng , cũng không được làm trái giới
luật.
9) Thứ chín, nhẫn chịu các ác ngữ khi nghe lời nhục
mạ, chế giễu, nói bóng, nói gió, nói sàm, nói quấy của người khác, phải tảng lờ
như không nghe, quyết không cho đó là điều ngang ngược.
10) Thứ mười, nhẫn chịu độc trùng làm hại. Bởi lẽ, Ấn
Ðộ là xứ nhiệt đới, các vị Tỳ Kheo thường ngồi dưới gốc cây. Trong mười hai hạnh
Ðầu Ðà, có pháp ngồi dưới gốc cây. Muỗi mòng và độc trùng đến bức hại, Đức Phật
chỉ cho phép đuổi loài độc đi, hoặc các vị Tỳ Kheo phải sắp xếp nơi chốn sạch
sẽ, tránh làm chỗ sanh sản cho độc trùng, tuyệt đối cấm Tỳ Kheo không được giết
hại độc trùng.
Như mười điều đã nói ở trên, nghe có vẻ giản đơn,
song biết bao người nhẫn chịu không nổi mười điều này, nên trong Luật, Đức Phật
nói rằng: “Chỉ có đại trượng phu mới nhẫn nổi”. Xuất gia cho đúng pháp,
thực là điều cao quý. Nếu chịu không nổi các sự bức hại của hoàn cảnh, sự đả
kích của tha nhân, sự gây tổn hại của độc trùng, sự đạm bạc của đời sống, thì
không bao giờ trở thành người xuất gia chân chính được. Vì vậy, thật tình mà
nói, xuất gia không phải là chuyện dễ.
Ðức Phật vì hàng tại gia học Phật, chế Cận Trụ Luật
Nghi học tập đời sống xuất gia, phải nói đó là thiện xảo phương tiện, bởi lẽ Đức
Phật hiểu rõ căn lành giải thoát xuất thế không thể gieo trồng trong chốc lát,
phải huân tập lâu dần mới thành tựu. Tuy vẫn có thể học Phật tại nhà, song hiềm
bị quyến thuộc bao quanh, ân ái trói buộc thân tâm, điều này gây trở ngại không
ít cho mặt tu trì, nên Đức Phật phương tiện chế Bát Quan Trai Giới một ngày một
đêm, khiến hàng nhị chúng nam nữ học Phật tuy ở trong gia đình mà vẫn làm được
như trong Kinh Bát Ðại Nhân Giác: “Ngũ dục họa hoạn, không nhiễm thế
duyên” để có thể làm nổi: “Thường niệm ba y, bình bát pháp khí, chí
nguyện xuất gia”. Như vậy mới được nhân duyên thù thắng xả tục xuất gia,
giải thoát ràng buộc. Cho nên Bát Quan Trai Giới chính là một trong những pháp
môn phải tu của người học Phật tại gia muốn tiến lên con đường giải thoát.
Thọ trì Bát Quan Trai Giới đã là sự huấn luyện cho
người tại gia tập đời sống xuất gia nên tôi rất mong trong số các vị thọ giới
hôm nay, do sự huấn luyện này mà chân chánh phát tâm xuất gia. Phật giáo ngày
nay mong mỏi có người, đặc biệt là nam nhân, phát tâm xuất gia. Ðiều này đã trở
thành vấn đề cấp bách. Bởi vì trong nước cũng như hải ngoại, Tăng chúng càng
ngày càng ít. Nếu không có những người mới xuất gia bù vào, chẳng những không
người hoằng dương chánh pháp, mà ngay đến chùa chiền cũng thiếu Tăng trụ trì.
Như thế há bảo vấn đề chưa đến nỗi nghiêm trọng ư? Sự kiện này há không khiến
những người quan tâm đến sự tồn vong huệ mạng Phật giáo lo như lửa đốt sao? Há
không tìm cách lôi kéo thanh niên đến chùa học Phật xuất gia sao? Há không vì
mạng mạch của Tăng già sắp đứt mà tìm cách cứu vớt sao?
Kinh luật dạy chúng ta: “Bất cứ lúc nào, bất cứ ở
đâu, khuyên người xuất gia, khen ngợi kẻ xuất gia, hoặc chính mình xuất gia,
hoặc để người xuất gia, đều có đại công đức”. Như Kinh Hiền
Ngu Nhân Duyên
thuyết: “Cho người xuất gia hoặc tự xuất gia, hoặc già hoặc trẻ, phúc đức vô
cùng”. Nhưng tôi cho rằng: ngày nay Tăng chủng sắp đoạn tuyệt, nếu khéo
khuyên người xuất gia, hoặc huấn luyện người xuất gia, thì được công đức cũng
không thể nghĩ bàn.
Phật giáo sở dĩ có chế độ xuất gia, đức Phật sở dĩ
lập Tăng đoàn, mục đích để cho chánh pháp mà Như Lai cần khổ chứng được được
tiếp nối lâu bền ở thế gian. Cũng bởi lẽ này nên đức Phật đã trịnh trọng giao
phó trụ trì Tam Bảo cho hàng Tăng chúng. Có Tăng chúng hành hóa, một số người
mới biết có Phật, có Pháp. Giả sử nếu không có Tăng chúng, thử hỏi ai biết được
chánh pháp của Như Lai, biết được bậc Ðại Giác? Vì thế, bất cứ ở thời đại nào,
dầu là thời Chánh Pháp, Tượng Pháp hay Mạt Pháp đi nữa, Tăng Già, một trong Tam
Bảo, vẫn không sao thiếu được. Nếu Tăng không có, Phật pháp ắt diệt vong. Phật
Pháp lưu hành được ở thế gian hay không cũng tùy thuận nơi có Tăng Già hay
không. Luật nói: “Tăng có thì Pháp có, Pháp có tức Phật có”. Ðây là nói
rõ ý đó vậy.
Vì Tăng có, để Pháp có là do nơi có người xuất gia.
Như nếu không người xuất gia, thử hỏi Tăng ở đâu mà có? Thế nên, xét đến tột
gốc, việc thứ nhất vẫn là khuyên người xuất gia. Như tự mình không khuyên người
xuất gia, người khác tự đến xuất gia, lý ra khuyến khích và tán thán. Giả như
không làm như vậy, mà ngược lại chế giễu, khinh miệt, cản trở người xuất gia,
khác gì diệt mất hạt giống Tăng Già, cũng đồng với diệt hạt giống Phật, lỗi này
rất lớn vậy. Kinh Xuất Gia Công Ðức nói: “Nếu có người phá hoại nhân
duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đoạt kho báu vô tận phúc thiện, hủy
hoại nhân của 37 phẩm Trợ Ðạo; ở nơi bốn đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh,
nhân), sanh ra thường đui, người này không có ngày giải thoát”. Như vậy, vào
thời buổi Tăng chủng sắp diệt này, chúng ta sao đành nhẫn tâm phản đối người ta
xuất gia.
Xuất gia trong đạo Phật là việc cao thượng, không như
một số người tưởng tượng, không còn cách gì nữa mới xuất gia. Nhưng người Trung
Quốc đối với xuất gia thuở giờ thường hay quan niệm cho rằng xuất gia rồi không
được hoàn tục, làm cho nhiều người muốn xuất gia mà không dám, vì sợ xuất gia mà
trở về thì rất khó coi. Kỳ thật, Phật Pháp không có quy định cứng ngắc “xuất gia
không được hoàn tục”, mà vẫn cho phép trở về. Vào thời không người phát tâm xuất
gia này, điều này càng cần phải nhấn mạnh. Như vậy, bất kể ai, chỉ cần phát tâm
xuất gia, không cần quy định kỳ hạn xuất gia, xuất gia hai ba tuần cũng được,
hai ba tháng cũng được, đôi ba năm cũng tốt, được trường kỳ càng tốt. Ðến lúc
nào đó, muốn trở lại đời sống thế tục, cứ việc tự do rời đạo về thế.
Có điều hoàn tục cần có điều kiện, không được lén lút
mà phải công khai trở về, phải trình bày rõ với một vị cao tăng. Như vậy, tuy
hoàn tục vẫn là đệ tử Tam Bảo, vẫn thường lui tới chùa chiền. Ngày trước, những
người xuất gia muốn hoàn tục phải lén lút trốn về. Tại vậy nên một khi hoàn tục
là bỏ hết mọi quan hệ với Phật pháp, trong Phật pháp không còn thấy bóng dáng
người đó nữa, chẳng những mất đi một vị Tăng, còn mất thêm một tín đồ, thật là
mất mát cho Phật Giáo. Thái Hư Ðại Sư hiểu rõ việc này nên hô hào mọi người nên
“tôn trọng Tăng nhân hoàn tục”. Do đó, chư vị như không thể trọn đời xuất
gia, cũng không nên ngại xuất gia ngắn hạn thử. Ðược tinh thần này, xuất gia cứ
xuất gia, hoàn tục cứ hoàn tục mà trôi chảy chẳng dừng, khiến Tăng chủng không
dứt, chùa chiền trụ trì cũng không thành vấn đề!
Chương 2
Chú Thích Danh Nghĩa
Bát Quan Trai Giới căn cứ theo Kinh luận, bất kể hàng
tại gia đã quy y Tam Bảo hay chưa, bất kể là người học pháp Tiểu Thừa hay Ðại
Thừa, đều có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Ðây là điểm đầu tiên chúng ta nên biết.
Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thọ vào các
ngày lục trai nhật, nhưng căn cứ theo Luật điển thì không cứ phải vào ngày lục
trai (sáu ngày ăn chay). Ngay cả những ngày vía chư Phật, Bồ Tát, những ngày vía
sanh hay kỵ của cha mẹ hay của sư trưởng, hoặc ngày sanh của mình, thường tụng
niệm làm công đức, cũng có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Ðây là điểm thứ hai chúng
ta nên biết.
Bát Quan Trai Giới thông thường cho rằng thích hợp
nhất là phải đến chùa chiền, chốn đạo tràng thanh tịnh, xa lánh trần tục, thỉnh
một vị Tăng truyền thọ, nhưng cũng có thể tự mình thọ giới tại gia, bằng cách
mời một vị Tăng đến nhà truyền giới. Nói đúng hơn, người nam đến chùa thọ giới
thì tốt, còn người nữ thọ giới tại nhà tiện hơn. Ðây là điểm thứ ba nên biết.
Bát Quan Trai Giới tuy là danh từ rất quen thuộc với
chúng ta, nhưng trong Kinh Phật Thuyết Trai, Đức Phật vì phu nhân Duy Da
phân biệt có ba loại:
- Mục Ngưu trai,
- Ni Kiền trai,
- và Phật Pháp trai.
Nhưng không có nghĩa là có tất cả ba loại Bát Quan
Trai Giới khác nhau, mà do cách dụng tâm của người thọ giới mà phân biệt xếp
loại, hợp với tinh thần thọ trai của Phật pháp mới là Bát Quan Trai Giới của
Phật giáo. Ðây là điểm thứ tư nên biết.
Nguyên nhân Phật nói Kinh Phật Thuyết Trai: Do
có một lần Đức Phật trụ ở nhà thừa tướng tại Xá Vệ thành. Sáng sớm hôm đó, mẹ
thừa tướng là bà Duy Da phu nhân dậy sớm, tắm rửa sạch sẽ, dẫn con cháu đồng đến
chỗ Phật lễ lạy. Ðức Phật hỏi: “Sáng sớm đến có việc gì không?” Duy Da phu nhân
thưa: “Chúng con chỉ muốn thọ Trai Giới”. Ðức Phật dạy: “Các vị phát tâm muốn
thọ Trai Giới, điều này rất tốt và rất khó được, nhưng có ba thứ là Mục Ngưu
trai, Ni Kiền trai và Phật pháp trai. Vậy quý vị muốn thọ thứ nào?” Phu nhân Duy
Da không hiểu ba loại này khác nhau chỗ nào, xin Phật chỉ dạy. Ðức Phật vì vậy
giải thích chỗ sai biệt của ba loại.
Thứ nhất, Mục Ngưu Trai, các vị vừa nghe tên này đã
lấy làm ngồ ngộ. Thật ra đây là thí dụ: Như người chăn bò, mỗi ngày ra đồng chăn
bò, đến chạng vạng trở về, trong lòng luôn nghĩ: chỗ nào có cỏ nước nhiều, ngày
mai đến chỗ ấy chăn cho bò được no nê, có vậy mới thấy bớt cực nhọc, và không
thấy chăn bò là khổ. Người chăn bò thường như vậy. Cũng thế, một số người phát
tâm thọ trai theo Phật một ngày một đêm, nhưng sau khi thọ giới, không chịu cố
gắng thành tâm thọ trì các giới, trong lúc thọ trai lòng luôn sinh vọng tưởng:
“Tôi hôm nay thọ Trai Giới, cái gì cũng bị hạn chế không được hưởng thụ, ngày
mai phải hưởng bù chút dục lạc để vớt vát lại ngày hôm nay phải chịu nhịn”. Thọ
giới, không lưu tâm đến các giới thọ, mà chỉ đặt tâm vào sự hưởng lạc ngày mai,
như vậy không phải là chân chánh thọ giới. Tỷ dụ như các vị hôm nay thọ giới,
nghiêm trì giới quá ngọ không ăn. Giả như có người nghĩ chiều nay không ăn cũng
được; ngày mai về nhà ăn bù lại một bữa cho đã. Như thế, dưới con mắt đại trí
của chư Phật, đó là thọ Mục Ngưu trai, không phải đệ tử Phật thọ giới chân
chính.
Thứ hai, Ni Kiền trai: Ni Kiền Tử là một thứ ngoại
đạo ở Ấn, thường gọi là Ly Hệ Ngoại Ðạo (lìa trói buộc). Họ có phương pháp tu
của họ. Hơn nữa, mục đích dụng công tu của họ cũng để ra khỏi sự trói buộc của
sanh tử tam giới. Nhưng, dẫu rất tinh tiến dụng công tu hành, vẫn không kiếm
được con đường chân chánh, kết cuộc chẳng sao tìm được sự giải thoát các thứ
trói buộc. Do họ chuyên tu khổ hạnh, như trời nắng như thiêu, phơi mình dưới sức
nóng bỏng của mặt trời; trời lạnh thì nằm ngoài sương giá chịu rét, hoặc bôi
tro, trét bùn trên người. Nhiều người thấy vậy cho là hy hữu, khó được. Dưới mắt
đức Phật thì chỉ là sự khổ hạnh vô ích, chả có chút lợi ích gì nơi sự giải thoát
sanh tử, cũng không chút công hiệu với việc thể ngộ chân lý. Họ thọ Trai Giới
vào các ngày Rằm mỗi tháng. Khi thọ Trai Giới, nằm xoài ra đất, nói với chư thần
trong mười do tuần rằng: “Tôi hôm nay thọ giới, không còn dám làm các việc không
như pháp, không hợp lý nữa. Tôi nay rời gia đình, đồng với không có nhà. Vợ con,
nô bộc trong nhà nay không là của tôi, tôi cũng không phải là chủ của họ”. Như
vậy, không khác Bát Quan Trai Giới cho lắm, chỉ không kê khai từng điều giới
tướng mà thôi. Họ tuy miệng nói như thế, nhưng không thiết thật thực hành, chỉ
phô bày bên ngoài làm hài lòng tai mắt thiên hạ, thật thì khi người dối mình,
kết quả vẫn đắm chìm trong biển sanh tử. Người phát tâm thọ giới nếu trong ngày
thọ giới không buông bỏ được hết, hay lợi dụng ngày này thực tiễn tu tập pháp,
thì khác gì Ni Kiền Tử thọ giới. Qua hôm nay rồi, ngày mai mọi việc lại vì Ta
(Ngã). Ðâu phải là Trai Giới nên thọ của người học Phật.
Thứ ba, Phật pháp trai: Chính là Bát Quan Trai Giới
chúng ta đang đề cập đến hôm nay, trong Luật điển có nhiều tên gọi khác nhau.
Ðơn giản nhất là Bát Giới, có nơi gọi là Bát Chi Giới, thông dụng nhất là Bát
Quan Trai Giới. Nay lược giảng danh nghĩa như sau:
Bát trong Bát Quan Trai Giới là số mục. Tại sao lại
là tám (bát)? Vì khi thọ giới này, đề phòng và ngăn chận tám việc, nên gọi là
tám nhánh (bát chi) hay tám phần (bát phần), tức là: Tám pháp ngăn che này, có
khi gọi là Giới, có khi gọi là Trai, hoặc gọi là Quan. Vì sao? Trong Phật pháp,
Giới có nghĩa là ngừa quấy ngăn ác (phòng phi chỉ ác). Như hai nghiệp thân,
khẩu: Thân có ba là sát sanh, trộm cướp, dâm dục; khẩu có bốn là hai lưỡi, ác
khẩu, nói điêu, thêu dệt. Tổng cộng bảy chi đều là việc quấy. Các việc quấy ác
này, sau khi thọ Bát Quan Trai Giới, nơi thân tâm sẽ phát sanh sức mạnh hoặc tác
dụng có thể ngăn chặn được tám việc xấu. Như tội sát sanh, nếu không thọ Trai
Giới, ắt sẽ sát sanh thẳng tay, không chút suy nghĩ; nhưng khi thọ giới rồi, khi
sắp sát sanh, Giới nơi tâm sẽ phát sanh một sức mạnh bảo mình rằng: “Không nên
giết, không được giết!” Nhờ vậy mà chặn đứng được việc làm sát sanh hại mạng
kia, phải biết đó chính là sức mạnh và tác dụng của Giới.
Quan, giải theo chữ có nghĩa là “đóng”, hàm nghĩa
người thọ Bát Giới này không còn làm bất cứ việc ác hại nào nên cánh cửa của tam
ác đạo bị đóng chặt lại, không còn có thể vào trong ba đường dữ nữa. Té ra, ba
đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều có cửa để vào. Bình thường, cánh cửa tam
ác đạo luôn khép kín, bất cứ ai muốn tiến vào đều phải mở lấy, nhớ rằng không ai
mở giùm mình ngoài chính mình tự mở. Ðằng sau cánh cửa, rõ ràng toàn là điều
khốn khổ, sao lại tìm đến? Cũng chỉ vì không tự chủ được mình, tạo bao điều ác
nghiệp, cánh cửa tam ác đạo kia tự mở, rồi mình bước vào hồi nào không hay, chịu
bao điều quả báo khó kham. Hiện nay, thọ Bát Quan Trai Giới rồi không tạo các
tội ác nữa, đừng nói cửa tam ác đạo chưa mở, chúng ta quyết không đến mở, mà
ngay đến cửa này có mở rồi, ta cũng đóng nó lại để có muốn vào, vào cũng không
được. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng: Cửa tam ác đạo mở là do tự ta mở bằng cách
gây biết bao tội lỗi. Và cũng do chính chúng ta đóng bằng cách tu các thiện
pháp, tạo bao việc lành. Cho nên tục ngữ có câu: “Họa phúc không cửa, do ta tự
mời” (Họa phúc vô môn, duy nhân tự chiêu). Hay còn nói: “Thiên đường có lối
không ai đến, địa ngục không cửa vẫn tự vào” (Thiên đường hữu lộ nhữ bất tẩu,
địa ngục vô môn nhữ tự khai). Nên đã là đệ tử Phật, chẳng những không nên đi mở
cửa tam ác đạo mà còn phải đi đóng cửa này lại, có vậy mới hợp với ý thú học
Phật.
“Trai”, thường giải thích như sau: Vì tư tưởng con
người từ sáng đến tối tạp loạn không dừng, khi nghĩ đến này, lúc tưởng đến kia,
không bao giờ ngừng nghỉ. Hiện tại, vận dụng một phương pháp khiến các tư tưởng
tạp loạn được chuyên chú vào một cảnh, không còn lăng xăng, rối loạn. “Trai” còn
có nghĩa thanh tịnh, như thế tục thường có Trai Thái Quán (tiệm chay), vừa bước
vào đã thấy thật thanh khiết. Phải biết hoàn cảnh thanh khiết rất quan trọng,
như đến nơi nào sạch sẽ, vẫn thấy thư thái; nếu chỗ dơ dáy, ắt sanh tâm nhờm
gớm. Nội tâm con người thường nhận thức và cảm giác như vậy trước cảnh bên
ngoài. Sở dĩ gọi Trai là “thanh tịnh” bởi vì Trai Giới có thể giúp cho tâm được
thu nhiếp tịch tĩnh, đoạn được hết mọi tội lỗi, phát sanh được sức phòng hộ căn
môn. Căn môn là cửa của sáu căn. Thế gian đầy dẫy tội ác đều do sáu cửa này tạo
ra. Như mắt thấy Sắc, thích thì khởi lòng tham, ghét thì khởi lòng sân, rồi đưa
đến hành động hoặc chiếm hoặc bỏ, gây ra bao tội ác. Nếu muốn không tạo ác, phải
tìm cách thủ hộ, đề phòng căn môn, đừng để cho nó chạy theo cảnh giới bên ngoài.
Có vậy mới dứt trừ hết được các tư tưởng tạp loạn, xa rời các thứ gây đến lỗi
lầm, không còn bị tà dục ở thế gian ô nhiễm. Chính vì Trai có nghĩa là thanh
tịnh, nên hàng kẻ sĩ và thục nữ thích gọi tịnh thất hay thư phòng mình là
“trai”, biểu thị siêu nhiên thoát tục, không bị nhiễm thế.
Như trên đã giảng, chư vị đã hiểu danh từ “Trai Giới”
gốc từ Trung Quốc. Các điển lễ trong sách xưa ghi: “Trai giới để thưa với quỷ
thần” (Trai giới dĩ cáo quỷ thần); cho nên, người xưa trước khi cúng quỷ thần
phải trai giới, tắm rửa cho sạch sẽ. Lúc tu trai tức phải có giới, cho nên gọi
chung là “Trai Giới”. Ðặc tánh của Trai là tẩy sạch nội tâm, không để cho các ý
niệm bất tịnh tồn tại. Năng lực của Giới ở chỗ phòng hoạn, không để cho các hành
vi bất chánh được hoạt động.
Trai theo Ấn có nghĩa Bố Tát hoặc Bao Sà Ðà, bao gồm
hai ý nghĩa “tịnh trụ” và “trưởng dưỡng”. Cư sĩ tại gia vào các ngày lục trai,
thọ Bát Quan Trai Giới để trừ khử dần các ác pháp, đồng thời tu tập thêm các
pháp lành, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng, ác pháp mỗi ngày mỗi giảm, nhờ vậy,
thân tâm mới trụ nơi thanh tịnh, không bị trụ trọn ngày nơi phiền não và tội
nghiệp, vì vậy gọi là “tịnh trụ”. Thứ nữa, hàng tại gia học Phật, nhờ thọ bát
vào các ngày lục trai, thiện pháp mỗi ngày mỗi tăng trưởng, bởi lẽ bất kỳ ai nếu
muốn công đức được trưởng dưỡng, bắt buộc phải tu tập không ngừng. Nếu nay tu
mai nghỉ, ắt không sao trưởng dưỡng. Trong Trí Ðộ Luận, ngài Long Thọ dạy: “Hành
thọ Bát Giới, đó là Bố Tát, Tần gọi Thiện Túc”, ý nói: Bố Tát còn dịch là Thiện
Túc, nghĩa là thọ trì Bát Giới, khéo an trụ nơi pháp thanh tịnh, không còn bị
dục nhiễm trần lao quấy phá, nên gọi là “thiện túc” (khéo trú).
Liên quan đến vấn đề này, trong Trí Ðộ Luận ghi: “Thọ
hành tám giới, tùy học các Phật pháp, gọi là Bố Tát, nguyện giữ phúc đức này,
đời đời không đọa ba ác (1), tám nạn” (2). Ý nói: Người học Phật tại gia phát
tâm thọ trì, phụng hành tám giới, tự nhiên có thể tùy thuận học hết mọi Phật
pháp; tu học và phụng hành Phật pháp như vậy gọi là Bố Tát. Phúc đức Bố Tát này
nguyện hồi hướng đời đời kiếp kiếp không đọa ba ác, tám nạn. Ba ác, tám nạn nói
theo Phật pháp là không mỹ mãn, không lý tưởng. Khổ như ba ác không lý tưởng đã
đành, mà đến những nơi sung sướng tợ thiên đường hay Bắc Câu Lô Châu, dù kiếp
sống rất thỏa thích, nhưng vì không có cơ hội tu học Phật pháp, nên không những
không được cho là chỗ tốt lành, mà ngược lại còn bị coi là nơi hoạn nạn nữa!
Phải biết điều quan trọng nhất của học Phật là có cơ hội tu học, nếu sanh vào
lúc không có Phật pháp, thử hỏi làm sao y pháp tu hành được? Cho nên sau khi thọ
hành tám giới, nên phát nguyện do công đức này, không còn đọa vào ba đường tám
nạn. Do đó chứng minh tám giới của Phật pháp, bất luận ở Luật hay Luận đều gọi
là Bố Tát, còn có thể thêm chữ Hộ gọi là Bố Tát Hộ. Hộ có nghĩa là “thủ hộ”, chỉ
sự gìn giữ tự tâm, ý nói: người phát tâm thọ trì tám giới phải khắc khắc thủ hộ
tự tâm, vì tâm là đầu mối của tội họa, tội ác nào cũng do từ tâm ra. Nếu khéo
hành đúng tinh thần tám giới, luôn luôn phòng giữ tự tâm, ắt không phát triển ác
nghiệp nữa, cho nên gọi là Bố Tát Hộ. Thọ trì Bát Quan Trai Giới dĩ nhiên không
chỉ chuyên phòng hộ nội tâm, mà phòng hộ cả thân khẩu nữa, chính vì vậy các bậc
cổ đức thường bảo: “Nơi tâm gọi Hộ, nơi thân khẩu gọi Giới”.
Còn có Trai của Bát Quan Trai Giới, có người còn bảo
quá ngọ không ăn gọi là “trì trai”. Do nghĩa này làm tự thể của Trai, thậm chí
các giới trước như bất sát… chẳng qua chỉ trợ thành trai thể mà thôi. Lại có
người bảo ăn chay trường là trường trai, ăn chay sáu ngày là hoa trai. Ðâu biết
“trai” của trường trai, hoa trai chẳng ăn nhập gì với “trai” của Bát Quan Trai,
lại cũng chẳng quan hệ gì với giới “ăn ngọ”. Vì không ăn quá ngọ chỉ là duyên
phòng phạm, cùng trai thể vô can.
Trong kinh đức Phật dạy: Căn cứ vào truyền thuyết của
các tôn giáo Ấn, thế giới này khi mới thành lập gọi là Kiếp Sơ, có rất nhiều ác
thần, ác quỷ có nhiều thế lực, thường ở thế gian hút lấy tinh khí của con người
vào các ngày lục trai. Sự tồn vong của sinh mạng dựa vào sự duy trì của tinh
khí, mà hễ tinh khí này bị rút mất, ắt sự sanh tồn phải bị đe dọa. Vì vậy, ai
nấy cũng vì sự sanh tồn mà sanh tâm đề phòng. Bấy giờ, có một vị đại trí huệ
muốn trừ sạch các mối nguy này, nên bảo mọi người rằng: “Ðừng sợ sệt, đã có biện
pháp. Chỉ cần mọi người cứ vào sáu ngày trai, không ăn nguyên ngày cho tâm tịch
tĩnh, thân được tiết chế; nhờ vậy, ác thần, ác quỷ không sao hút được tinh khí.
Tinh khí được bảo toàn, mạng sống không phải lo mất!”
Như thế, thuở giờ bên Ấn đã có lục trai nhật; hơn
nữa, vào lục trai nhật còn không ăn bất cứ gì. Sau này khi Phật xuất thế, ngài
thấy phương pháp lục trai nhật có thể duy trì, song cần phải sửa đổi để thích
hợp với Phật pháp, nên thay vì “không ăn” đổi thành “quá ngọ không ăn”, gọi là
“không ăn phi thời”. “Phi thời” ý chỉ sau 12 giờ, qua giờ đó thì không ăn nữa,
đó là một trong Bát Giới.
“Không ăn phi thời” đã là một trong tám giới, đương
nhiên không phải là trai thể, ai bảo đó là trai thể tức ngộ nhận đó vậy. Nhưng
có thể có người bảo: “Ăn cơm đâu phải là tội ác, không phải giờ mà ăn thì có sao
đâu?” Phải biết rằng ăn uống là duyên tăng thượng trầm luân sanh tử của chúng
sanh, do đó không nên xem thường. Tại sao ăn uống lại là tăng thượng duyên cho
sự trầm luân sanh tử của chúng sanh? Chúng ta thường hay nói: “Ăn no ấm cật sanh
tà vạy”. Ðời sống người nào quá đầy đủ, ăn ngon, hưởng đủ hay sanh chuyện nghĩ
bậy. Ðể giúp ta thanh tịnh, ít dục, đức Phật chế quá ngọ không ăn để tiết chế sự
tham ăn không cho tăng trưởng, ngăn chặn ác pháp không để lan rộng. Cho nên Ðạo
Tuyên Luật Sư bảo là: “Duyên phòng đó vậy” rất đúng. Nếu bảo giới “không ăn phi
thời” là trai thể, các giới khác là trợ thành trai thể thì không hạp với nghĩa
trên. Chúng ta phải hiểu cho rõ điểm này. Nếu không thọ trì Bát Quan Trai Giới,
chỉ mải lo đặt nặng vấn đề “không ăn phi thời” mà xao lãng các giới kia, như vậy
không hợp với tinh thần của Bát Giới.
Bát Quan Trai Giới còn gọi là Cận Trụ Luật Nghi, hay
Trưởng Dưỡng Luật Nghi. Ý nói: Người phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới thiện căn
ban đầu vốn rất nhỏ nhưng lâu ngày sẽ tăng trưởng nhờ thọ tám giới. Hoặc có thể
nói như vầy: Người học Phật tại gia khéo phát tâm thọ trì tám giới, huân tập
công đức này không ngừng, lâu dần căn lành xuất gia càng tăng trưởng. Bởi vì thọ
Bát Quan Trai Giới chủ yếu để tập đời xuất gia, tuy chỉ trong một ngày một đêm;
nếu một tháng thọ một lần hay nhiều lần ắt sẽ huân tập và trưởng dưỡng căn lành
xuất gia. Cho dù vốn không có ý niệm xuất gia, do vì thường thọ Bát Quan Trai
Giới, chịu sống đời xuất gia, lâu ngày sẽ cảm nhận được đời xuất gia rất hợp với
mình. Do vậy, ắt tự nhiên nghĩ rằng tại gia chẳng bằng xuất gia. Ðó chính là
trưởng dưỡng căn lành xuất gia. Bởi vì khéo trưởng dưỡng như vậy, nên đức Phật
còn gọi Bát Quan Trai Giới là Trưởng Dưỡng Luật Nghi.
Còn tại sao gọi là Cận Trụ Luật Nghi? Nói giản lược
là do vì thân cận Tam Bảo, an trụ ở đạo tràng của Tam Bảo, chịu sự huân tập của
tư tưởng Tam Bảo, như chư vị hiện đang trụ ở đạo tràng này vậy. Nói rõ hơn có ba
nghĩa:
1. Thứ nhất, cận thời nhi trụ (ở thời gian ngắn). Ý
nói: Chỉ thọ giới trong một ngày đêm; xét về mặt thời gian, chỉ trụ trong một
thời gian quá ngắn tạm, trong vòng 24 giờ. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi.
2. Thứ hai, cận tận thọ giới trụ. Chúng xuất gia, bất
luận là tỳ kheo hay sa di, không thọ giới thì thôi, như phát tâm thọ giới tất
phải cả đời trì giới. Như hôm nay thọ giới Tỳ Kheo rồi thì phải giữ cho đến khi
thọ mạng hết, giới thể mới lìa thân. Trước lúc chết, chỉ cần đừng phá giới căn
bản, giới thể luôn tại thân tâm, có tác dụng phòng quấy ngăn ác, cho nên hàng tứ
chúng xuất gia phải giữ giới đến chết. Bát Quan Trai Giới tuy chỉ tạm thời một
ngày đêm, nhưng đó là quy tắc xuất gia tạm thời cho hàng nhị chúng tại gia, tuy
chưa xuất gia, song vẫn tạo được thắng nhân cho giới xuất gia tận hình thọ. Bởi
vì từng lần từng lần thọ trì, huân tập, không ngừng tăng trưởng căn lành xuất
gia; dần dà nhận thấy thọ từng lần chẳng bằng một lần xuất gia thọ Ðại Giới đến
trọn mạng sống. Như vậy đủ thấy Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm tợ hồ rất
ngắn, nhưng rất gần với giới xuất gia một đời, nên còn có thể gọi là “phương
tiện ban đầu” cho giới xuất gia trọn đời. Vì vậy gọi là Cận Trụ Luật Nghi.
3. Thứ ba, cận A La Hán trụ. Ý nói: Thọ Bát Quan Trai
Giới học tập đời xuất gia, đó là hành môn của A La Hán, nên thọ giới chính là tu
học A La Hán. Như thường tu học A La Hán pháp, người thọ hành Bát Quan Trai Giới
này, chẳng bao lâu, trong tương lai ắt chứng được A La Hán quả. Tuy hôm nay còn
là một kẻ phàm phu, song nhờ thân cận chỗ A La Hán, cùng A La Hán gần gũi, nên
gọi là Cận Trụ Luật Nghi.
Danh nghĩa của Bát Quan Trai Giới tóm tắt giải nghĩa
như vậy. Chúng ta có thể thấy rõ ràng: tu Bát Quan Trai Giới trong vỏn vẹn có
một ngày một đêm, thanh tịnh thân tâm, phòng hộ giữ mình. Tuy chưa xuất ly tam
giới ngay được, nhưng nhờ nương công đức Trai Giới này, gieo trồng hạt nhân xuất
thế thù thắng; tương lai chắc chắn được giải thoát. Học Phật mục đích quan trọng
và lớn nhất chính là sự giải thoát dứt sanh tử, như nếu chưa đạt được giai đoạn
này thì rồi sẽ lại bị chìm đắm trong biển sanh tử mãi không ngày ra. Chư Phật vì
muốn hóa độ chúng sanh nên đặc biệt chỉ bày pháp môn hy hữu, phương tiện tối
thắng này. Mong chư vị thọ giới không nên xem thường đó vậy!
________________________
(1) Ba ác: tức tam ác đạo gồm súc sanh, ngạ quỷ và
địa ngục.
(2) Tám nạn: Tám sự chướng ngại việc gặp Phật, nghe
Pháp nên gọi là Nạn, gồm: Ðịa ngục; ngạ quỷ; súc sanh; Uất Ðan Việt (còn gọi là
Bắc Câu Lô Châu), nơi đây thọ báo khoái lạc, không còn sự khổ; Trường Thọ Thiên
(chỉ Sắc Giới và Vô Sắc Giới), nơi đó được an ổn trường thọ; đui điếc câm ngọng;
thế trí biện thông: trí thông minh của thế gian; Phật tiền Phật hậu: sanh ra
trước hay sau đời có Phật.
Phẩm Phương Tiện kinh Duy Ma Cật nói: “Khi Bồ Tát
thành Phật, nơi quốc độ không có ba ác và tám nạn”. Tịnh Tâm Giới Quán Pháp nói:
“Gốc sanh 448 thứ bệnh do nơi ăn đêm, gốc sanh ba ác tám nạn do nơi nữ nhân”.
Chương 3
Chế Lập Duyên Khởi
Tất cả Giới Luật trong Phật giáo đều do đức Phật chế,
có hai loại khác nhau: Một loại phải đợi nhân duyên mới chế, một loại không cần.
Loại có nhân duyên rồi chế là Thanh Văn Luật Nghi Giới; loại không cần nhân
duyên là Bồ Tát Tam Tụ Giới. Gọi là “đợi nhân duyên mới chế” là vì phải có một
nhân duyên nào xảy ra, đức Phật mới nhân đó chế giới. Cho nên Sa Di có nhân
duyên chế lập Sa Di Giới, Tỳ Kheo có nhân duyên chế lập Tỳ Kheo Giới. Hiện nay
quý vị thọ Bát Quan Trai Giới là một loại Luật Nghi Giới, tất nhiên phải có
duyên khởi chế lập của nó. Ðại Thừa Bồ Tát Giới không vậy, do Như Lai nhất thời
chế lập, trong một lần Ngài chỉ bày cặn kẽ giới Ðại Thừa Bồ Tát mà chẳng phải
đợi đến một nhân duyên nào xảy ra mới chế giới. Cho nên giới Ðại Thừa, Tiểu Thừa
không chỉ khác nhau ở nội dung mà còn khác ở phương thức chế lập.
Ðức Phật vì chúng ta chế Bát Quan Trai Giới do nhân
duyên nào, đó là điều hôm nay tôi muốn trình bày đến chư vị. Chư vị phát tâm thọ
Bát Quan Trai Giới, điều này thực tốt, song nếu không biết duyên khởi chế lập
Bát Quan Trai Giới thì thực không mỹ mãn.
Cầu thọ Bát Quan Trai Giới, thực mà nói, vốn không
cần hạn định thời gian, như thọ hằng ngày cũng được, một tháng thọ hai mươi
ngày, mười lăm ngày gì cũng được. Thọ càng nhiều ngày càng được lợi ích, song vì
một số người đầu óc rối ren chuyện gia đình, vì để duy trì đời sống gia đình,
đôi khi phải cầu niềm vui thế tục, không thể xả bỏ hết được, cũng không có nhiều
thì giờ để thường đến thọ Bát Quan Trai Giới. Ðức Phật vì muốn thích ứng với
thời gian của mọi người nên chế định thọ bát trong lục nhật trai. Như kinh Ưu Bà
Di Ðọa Xá Ca thuyết minh cho điều này: “Người ta có nhiều nỗi lo chuyện nhà, cho
nên ta dùng cách cho thọ Bát Giới trong lục nhật trai. Nếu có người hiền thiện
nào muốn được quả A La Hán, muốn mau thành Phật, hoặc muốn sanh Thiên, phải tự
đoan nghiêm tâm, nhất ý bất loạn, một tháng mười lăm ngày trai cũng tốt, hai
mươi ngày trai cũng tốt. Người lo nhiều chuyện gia đình chỉ cần một tháng sáu
ngày”. Ðức Phật chế định thọ Bát Quan Trai vào lục trai nhật hoàn toàn vì hàng
tại gia học Phật.
Theo tình hình hiện nay xét, phải nói rằng sự chế
định này của đức Phật quả là sự chọn lựa từ nơi trí huệ của Ngài, bởi vì đến cái
thời đại phát triển máy móc này, đừng nói một tháng thọ bát sáu ngày khó làm, mà
đến một tháng một ngày cũng không phải dễ. Ngày xưa vào thời đại nông nghiệp,
công việc đã không bận bịu như ngày nay, mà đời sống cũng không chật vật như
hiện giờ. Cứ xem tình trạng hiện nay, ai nấy cũng bận cả ngày, bận đến bù đầu bù
cổ, đến chuyện nhà còn lo không xuể. Vì vậy, từ vợ đến chồng cả ngày lo chuyện
gia đình, giờ lại bảo ông hay bà bỏ chuyện nhà đi thọ bát thì quả là chuyện nan
đắc. Bởi thế, quý vị trong trăm thứ lo, bỏ chút thời giờ nghỉ thọ Bát Quan Trai
Giới, thực rất đáng tán thán.
Bậc Ðại Thánh Thích Ca Mâu Ni xuất hiện cách đây hơn
2.500 năm quan sát tình thế lúc ấy, biết thế nhân không dễ thọ giới, nên mới chế
trong lục nhật trai thọ Bát Quan Trai Giới, phải nói đức Phật đã sớm biết thời
kỳ Mạt Pháp càng khó thực hiện. Sự thực quả vậy, đừng nói một tháng sáu ngày,
một tháng một ngày cũng không mấy ai phát tâm.
Lục trai nhật đức Phật chế định là sáu ngày nào? Theo
nông lịch của chúng ta thì vào các ngày 8, 14, 15, 23, 29 và 30 mỗi tháng. Nhưng
vì nông lịch có tháng đủ, tháng thiếu không có ngày 30, phải lấy 28 và 29 thế 29
và 30, như vậy vẫn đủ một tháng sáu ngày.
Hàng cư sĩ tại gia thọ Bát Quan Trai Giới danh xưng
khác với hàng cư sĩ không thọ Bát Giới. Dù thọ Tam Quy Ngũ Giới nhưng không thọ
Bát Quan Trai Giới thì chỉ gọi là Ưu Bà Tắc hoặc Ưu Bà Di. Còn nếu có thọ Bát
Quan Trai Giới thì được gọi là “tịnh hạnh ưu bà tắc” hoặc “tịnh hạnh ưu bà di”.
Tịnh hạnh ở đây có tánh cách rất trọng yếu. Như thọ Ngũ Giới vốn không chủ
trương tuyệt hẳn dâm dục, sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng vẫn được chấp
nhận, cho nên gọi là “tận hình thọ bất tà dâm” (đến chết không tà dâm). Nhưng
trong một ngày đêm thọ Bát Quan Trai Giới, chẳng những không được tà dâm, mà
ngay đến sự quan hệ chính thường giữa vợ chồng cũng bị cấm chỉ, cho nên khi
tuyên giới thường nói: “Nhất nhật nhất dạ bất dâm dục” (một ngày một đêm không
dâm dục) là để hiển thị tinh thần hoàn toàn thoát ly quan hệ nam nữ. Có vậy mới
thành chân chánh thanh tịnh hạnh. Cho nên tịnh hạnh ưu bà tắc, tịnh hạnh ưu bà
di chẳng phải hành Tam Quy Y, thọ Ngũ Giới mà được gọi. Phải thọ Bát Quan Trai
Giới vào lục nhật trai mới có danh xưng là “tịnh hạnh”.
Phật pháp nói chữ “trai” trong lục trai nhật, chủ yếu
chỉ thọ Bát Quan Trai Giới. Ðiều này đã giảng trong phần Danh Nghĩa. Nhưng thuở
giờ nhiều người ngộ hội, cho rằng ăn chay là Trai, cho nên dân gian vẫn thường
hay nói: “Phát tâm tin Phật, ăn chay trường kỳ gọi là trường trai. Còn nếu chỉ
phát tâm ăn chay vào sáu ngày gọi là hoa trai”. Ðúng vậy, chỉ chuyên ăn chay
không còn ăn thịt là điều Phật pháp đề xướng cực lực, hy vọng trong lúc trường
trai, bồi dưỡng tâm đồng tình, tăng trưởng tâm từ bi. Nhưng nói chính xác: Trai
của Phật pháp không phải chỉ ăn chay, còn phải thọ trì giới “không ăn quá ngọ”
và các giới của Bát Giới, mới được là chơn chánh trì trai. Ðiểm này chúng ta cần
phải phân biệt cho rõ, không nên nhập bừa làm một.
Nhân duyên chính đức Phật chế định cho thọ Bát Quan
Trai Giới trong lục nhật trai là để cho hàng tại gia nhị chúng gieo trồng căn
lành giải thoát, thú hướng xuất ly, nên vào những ngày lục trai, nên đến trước
chư Tăng thỉnh truyền tám giới này, nương nhờ thời gian ngắn ngủi này xa rời mọi
sự phiền lụy ở thế gian, chuyên tâm nhất chí tu học Phật pháp để tuy thân còn ở
nhà mà không hề bị bụi trần làm mê, vững bước trên con đường giải thoát. Ðức
Phật đại từ đối với sự hóa độ hàng đệ tử này, một mặt quan sát tìm thời gian cho
họ tu học, một mặt không quên dẫn dắt họ hướng đến giải thoát. Ðây là thiện xảo
phương tiện của Ngài. Ðức Phật luôn vì chúng ta nghĩ bày, chúng ta nên tuân theo
sự chỉ dạy của Ngài thực hành từng bước chắc, để khỏi cô phụ ân đức hóa độ của
Ngài.
Tại sao thọ Bát Quan Trai Giới vào các ngày lục trai?
Căn cứ theo Kinh, Luật, có hai lý do khác nhau, phân biệt như sau:
a. Thứ nhất, theo ngài Long Thọ trong Trí Ðộ Luận: sở
dĩ đức Phật chọn lục trai nhật tu Bát Quan Trai Giới vì theo truyền thuyết của
các tôn giáo cổ bên Ấn, trong sáu ngày này thế gian thường có loài quỷ dữ theo
sau con người, rình đoạt lấy sanh mạng. Nếu không đoạt mạng thì cũng gây cho họ
chuyện nghịch ý. Vì vậy, vào thời kỳ dân trí chưa mở mang, người ta cho rằng sáu
ngày là những ngày cực xấu, và ai cũng sợ hãi khi tới những ngày này. Do vậy,
theo truyền thuyết có một vị thánh nhân đại trí huệ, vì muốn trừ diệt sự khủng
bố này, nên dạy mọi người phải làm phúc, tu thiện vào sáu ngày đó. Nhưng sự trì
trai tu phúc đó không giống sự thọ trì Bát Quan Trai Giới của Phật giáo, chỉ dạy
cả ngày đừng ăn gì cả, vì cho rằng như vậy quỷ dữ không theo được. Theo Phật
giáo thì quỷ phần nhiều là ngạ quỷ, các tôn giáo xưa của Ấn Ðộ cũng đều nhận như
vậy. Bởi vì là ngạ quỷ (quỷ đói) nên khi thấy người ăn uống, phải chịu đựng cơn
đói rất là khổ sở. Nếu may gặp loại quỷ có chút thiện lương, có khổ sở và đói
cũng nhẫn nại chịu đựng. Còn chẳng may gặp quỷ dữ ắt sanh khởi ác tâm, cho rằng
tại sao loài người được no đủ mà mình chịu đói khát nên nghĩ cách làm khổ con
người. Rồi thì loài người vì tránh họa quỷ nên trong ngày đó không dám ăn. Ðó là
truyền thuyết của Ấn Giáo.
Các tôn giáo cổ ở Ấn đã bày ra lục trai nhật, và
truyền đến đời Phật vẫn được thịnh hành. Bấy giờ, đức Phật thấy trì trai tu phúc
là một việc tốt, nhưng Ngài sửa đổi lại thành Bát Quan Trai Giới, dạy mọi người:
trì trai tu thiện làm phúc rất đúng, nhưng đâu phải chỉ trọn ngày không ăn là
đủ, còn phải trì giới mới thực sự trừ tai tránh nạn được. Như Trí Ðộ Luận nói:
“Phải như chư Phật giữ tám giới trong một ngày một đêm, không ăn quá ngọ, công
đức này đem mình đến Niết Bàn”. Ðức Phật coi nặng chuyện không ăn quá ngọ vì
Ngài cho rằng tảo và ngọ phạn, hai bữa này không ảnh hưởng đến sự đói khổ của
ngạ quỷ, còn buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ, nên hễ thấy ai ăn thì ngạ quỷ
phải chịu sự đói khổ dày vò. Vì lẽ ấy, đức Phật thay vì cấm ăn như Ấn Giáo, thì
cấm ăn quá ngọ và thêm các giới khác. Như vậy, không những tu thiện, tăng phúc,
tiêu tai miễn nạn, mà còn nhờ công đức này đến được Niết Bàn. Do đây biết rằng
nghi thức tôn giáo trì trai vào lục trai nhật không phải là của Phật giáo bày
ra, mà có sẵn ở Ấn, đức Phật chỉ sửa đổi thành Bát Quan Trai Giới, để không phải
chỉ trừ tai nạn, mà còn để gây trồng nhân xuất gia giải thoát. Ðó là thiện xảo
phương tiện của Phật.
Phật pháp sửa đổi nhiều lại nhiều nghi thức của Ấn
giáo cổ xưa, như kinh Tạp A Hàm quyển 93 từng đề cập đến việc bà la môn dùng ba
thứ lửa để tế tự. Ðức Phật xem hành động đốt lửa tế trời của bà la môn hoàn toàn
là mê tín. Nhưng khi đi hóa độ bà la môn, Ngài khéo dùng thiện xảo phương tiện,
không trực tiếp chỉ cái sai lầm của họ, mà vẫn khen họ dùng tam hỏa tế trời rất
hay, “nhưng có điều trong giáo pháp của ta, cũng có ba thứ lửa. Nếu được giống
như thứ lửa của ta thì còn đạt được công đức vô kể”. Bà la môn nghe lấy làm kỳ
quái, không biết Ngài thờ lửa gì, nên cầu hỏi Phật. Ngài bèn khai thị: “Ba thứ
lửa của ta là: Cúng dường cha mẹ gọi là lửa căn bản (gốc). Cúng dường vợ con,
quyến thuộc gọi là lửa nhà. Cúng dường sa môn, bà la môn gọi là lửa phúc điền”.
Mục đích thờ lửa của bà la môn không ngoài mong muốn
được chư thiên ban phúc, nhưng đâu biết chỉ như vậy thôi thì thực không sao đạt
được phúc. Ðức Phật nhận rằng cầu Thiên ban phúc chẳng bằng cầu phúc ngay ở thế
gian hiển thật này. Ðó là con đường cầu phúc hợp lý nhất, vì lẽ nơi gia đình
không lỗi nhờ hiếu thuận cúng dường cha mẹ, làm cho tình vợ chồng thêm hòa
thuận; về mặt tôn giáo thì cúng dường sa môn, bà la môn được công đức vô cùng.
Bà la môn nghe đức Phật nói, thấy được cách thờ lửa của Ngài rất hợp lý, nên vứt
bỏ hết khí cụ thờ lửa, theo Ngài học đạo. Nên biết lửa đại biểu cho sự ấm áp.
Quan hệ giữa người với người quan trọng nhất vẫn là đạt được sự ôn noãn. Gia
đình và tôn giáo cũng vậy, phải được sự ôn noãn, nên gọi là tam hỏa (ba thứ
lửa).
Ngoài ra còn có tín đồ thần giáo lễ bái sáu phương.
Ðức Phật cũng dạy lễ bái sáu phương, nhưng đó là nghĩa vụ giữa cha con, thầy
trò, vợ chồng, bạn bè, quyến thuộc, chư Tổ, sư trưởng và tín đồ (Trung A Hàm:
Thiện Sinh Kinh). Qua các sự việc trên, chúng ta đều nhận thấy: để cảm hóa tín
đồ các tôn giáo khác, không nên đả kích, chê bai họ là sai trái, mà nên khéo léo
dùng lý chỉ cái hay cho họ, người có chút lý trí ắt sẽ tiếp nhận mọi điều hợp
lý, trừ ra những kẻ cực kỳ cố chấp. Ðức Phật đã dùng lề lối này sửa đổi lại
nhiều nghi thức của các tôn giáo cổ thành cách thức hợp tình, hợp lý của Phật
giáo có nhiều hiệu quả hơn nữa. Vì vậy, trong Phật pháp có nhiều nghi thức căn
bản không phải của Phật giáo lập ra.
Thứ hai, theo kinh Tứ Thiên Vương: Sở dĩ đức Phật cho
thọ Bát Quan Trai Giới vào lục trai nhật, vào các ngày này, chư Thiên thường đến
nhân gian để xem xét thiện ác. Vì vậy, đức Phật dạy đồ chúng: Mỗi ngày trai, các
người phải chú ý tâm mình, xem hướng thiện hay hướng ác? Nếu là hướng thiện thì
phải gìn giữ luôn luôn. Nếu là hướng ác thì phải lập tức dừng ngay lại. Chẳng
những quan sát tâm như vậy mà ngay đến thân và khẩu cũng phải cẩn thận, không
thể lơ đãng. Ðức Phật dựa vào truyền thuyết của Ấn giáo: Ðế Thích Thiên của Dục
Giới đầy đủ phúc đức, bên dưới có Tứ Thiên Vương. Vào các ngày trai, Ðế Thích
sai sứ giả đi tuần tra nhân gian, xem thiên hạ làm thiện nhiều hay ác nhiều. Nếu
ác nhiều thì trừng phạt, gây cho nhân loại nhiều điều nghịch ý. Nếu thiện nhiều
thì ủng hộ bằng cách cho nhân loại nhiều việc tốt lành. Ðó là trách nhiệm của Tứ
Thiên Vương. Theo trong kinh: Ngày 8 mỗi tháng, Tứ Thiên Vương phái sứ giả đi
tuần tra nhân gian, xem hoạt động của nhân loại, bất luận thiện hay ác đều phải
báo cáo, như ông Táo của Trung Quốc có bức liễn đề: “Trên trời tâu chuyện tốt,
dưới đất được bình an”. Ngày 14 của mỗi tháng, sai Thái Tử của Tứ Thiên Vương đi
tuần tra. Ngày 15, Tứ Thiên Vương đích thân đi. Ngày 23 lại sai sứ giả tuần xét.
Ngày 29 đến Thái Tử tuần tra. Ngày 30 Tứ Thiên Vương đi xem xét. Luận Tỳ Bà Sa
quyển 41 nói: “Vào các ngày trăng sáng, tối, thường ngày 8 hoặc 14, hoặc 15, chư
thiên 33 từng trời tập họp ở Thiện Pháp Ðường, luận kể thế gian bao nhiêu thiện
ác, thấy người làm thiện thì ủng hộ, thấy người làm ác thì hủy đi”. Ðế Thích cân
nhắc việc thiện ác ở thế gian, hoàn toàn theo lời báo cáo của Tứ Thiên Vương.
Trong kinh nói: Chư thiên đi tuần nhân gian, nếu thấy nhân loại trì giới như
pháp, cần hành bố thí, hiếu thuận cha mẹ, liền báo với Thiên Ðế Thích. Ðế Thích
hoan hỷ ban phúc cho nhân loại, khiến thế gian mưa thuận gió hòa, quốc thái dân
an. Nếu ngược lại, nhân loại hẳn không thể sống bình yên. Ðế Thích có kệ: "Tháng
sáu ngày thần du, thọ trì thanh tịnh giới, người này mạng chung rồi, công đức
chẳng khác tôi”. Ðức Phật nghe Ðế Thích nói kệ rồi, liền bảo các tỳ kheo: “Ðế
Thích nói kệ tuy không phải cứu cánh, nhưng không phải là sai, các ông nên tin
vậy”.
Như vậy, chúng ta biết rằng: Bất cứ nơi đâu, chỉ cần
có người thọ trì Bát Quan Trai Giới thì ác quỷ nào cũng phải lánh xa, nơi đó
được tốt lành, nên nơi sáu ngày đó thọ trì Bát Quan Trai Giới được công đức
nhiều hơn các ngày khác. Có điều ở đây xin mọi người lưu ý để tránh hiểu lầm,
đừng cho rằng trong sáu ngày có chư Thiên lai vãng nên quy quy củ củ, không dám
làm bậy, qua trai nhật rồi đâu lại vào đó. Nên biết rằng làm người ở thế gian
này, bất cứ lúc nào, ba nghiệp thân, khẩu, ý đều phải như pháp thanh tịnh, hành
vi phải hợp đạo lý.
Theo Thành Thật Luận: “Tháng Giêng, tháng Năm, tháng
Chín gọi là ba tháng lành, là tháng Tỳ Sa Môn thiên vương phân trấn Nam Châu”,
tại gia nhị chúng nên thọ trai phúc, tại sao trong kinh chưa nói đến? Thọ trai
vào ba tháng lành đối với Phật đương nhiên là chuyện tốt vô cùng, nhưng đối với
tục nhân thực khó mà thi hành nên phải tùy thuận sức và khả năng họ, không bó
buộc cứng ngắc ép họ phải thực hành. Còn lục trai nhật vì thời gian ngắn, thực
hành tương đối dễ, không đến nỗi cảm thấy bất tiện, nên đức Phật chọn thọ Bát
Quan Trai Giới vào lục trai nhật.
Chương 4
Công ích thù thắng
Thọ giới, bất cứ giới nào cũng có công đức của nó.
Thọ Ngũ Giới có công đức của Ngũ Giới. Thọ Bát Giới có công đức của Bát Giới.
Chư vị hiện thọ Bát Giới, công đức như thế nào? Trước hết, phải so sánh với công
đức của Ngũ Giới thì mới rõ được công đức thù thắng của sự thọ trì Bát Quan Trai
Giới và mới có thể kiên quyết tín nguyện, thọ trì.
Trong kinh nói: “Giả sử có người nào phát tâm dùng y
phục, ẩm thực, thuốc men, giường nằm cúng dường cho chúng sanh trong khắp bốn
phương, như vậy cho đến cả trăm năm trường kỳ cúng dường, công đức người này tất
nhiên không thể nghĩ bàn. Nhưng cho dù công đức có nhiều đến đâu đi nữa, cũng
không bằng công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới trong vỏn vẹn một ngày đêm”. Giới
đức cao tột, thù thắng, điều này ở đây có thể chứng minh.
Thọ trì Ngũ Giới, tuy có công đức lớn, nhưng so với
công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới còn kém xa. Trong Trí Ðộ Luận, ngài Long Thọ
thí dụ rất hay: “Thí dụ như vị tướng đem quân đi đánh trận. Nếu khiếp nhược nhát
gan thì dầu có nhiều năm tác chiến cũng không thể tạo công lao phá địch. Còn nếu
là viên dũng tướng uy mãnh, mau lẹ phá tan cường địch, chỉ trong một ngày lập
nên công lớn trong thiên hạ. Phải hiểu công đức của Ngũ Giới và Bát Giới không
đồng, cũng giống như vậy”. Bởi Ngũ Giới chỉ có thể lìa tà dâm, chưa thể trừ tận
căn của Dục. Bát Giới đoạn trừ hết dâm, không còn bị dục nhiễm làm loạn, sự
tướng đồng với vô lậu. Thời gian tuy chỉ một ngày một đêm, song được rất nhiều
giới hạnh, cho nên công đức vượt xa Ngũ Giới.
Tuy nhiên, cũng có điểm phải cần nói rõ. Bất luận thọ
trì Ngũ Giới hay Bát Giới, theo Ðại Trí Ðộ Luận, điều quan trọng nhất là phải
phát tâm rộng lớn. Có phát tâm rộng lớn thì tuy giữ giới một ngày đêm vẫn đạt
được phúc đức thù thắng, nếu không phát tâm rộng lớn dầu giữ Ngũ Giới đến trọn
đời, cũng chỉ được phúc đức hữu lậu. Thế nên các vị phát tâm thọ Bát Quan Trai
Giới, không nên vì giải thoát hay công đức riêng mình, mà nên vì tất cả chúng
sanh thọ giới hạnh này, nghĩa là không xem công đức thọ giới là của riêng mình,
mà coi như của chúng sanh chung có, nguyện cùng chúng sanh đồng hướng đến quả vô
thượng Phật đạo. Như vậy mới có thể đạt được công đức tối thắng. Ðại Thừa Phật
Giáo rất đặc sắc ở chỗ muốn mỗi người đệ tử bất luận làm việc công đức lành nào,
cũng vì nghĩ tưởng đến hết thảy chúng sanh, không bao giờ vì lợi ích riêng tư
của mình.
Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Ngũ Giới, Bát Giới đều thuộc
về Tiểu Thừa, thế nhưng muốn thọ Giới Phẩm phải phát Ðại Bồ Ðề tâm. Chưa thể
riêng tu thiện cho mình, thiên cầu tịch diệt, tuy vẫn Khai, Giá, Trì, Phạm, song
không khác Thanh Văn. Phải nên đồng như bậc Ðại Sĩ mà phát tâm hành thọ, như
hằng tin trong sạch, nỗ lực tu tiến”. Luật Sư lại nói: “Bát Giới thông cả Ðại
Thừa lẫn Tiểu Thừa. Tiểu Thừa như các luận Thành Thật. Ðại Thừa tức Bồ Tát Bát
Giới, như các kinh Văn Thù Vấn hoặc Bát Chủng Trưởng Dưỡng Công Ðức đều nói rõ.
Chúng ta đã thọ Bồ Tát Giới, nay thọ Bát Giới tức là Ðại Thừa Bát Giới vậy”.
Cho nên đã thọ Bồ Tát giới, cũng có thể thọ Bát Quan
Trai Giới. Ai bảo thọ Bồ Tát giới rồi, khỏi cần thọ Bát Quan Trai Giới thực là
lầm. Cứ như lời Hoằng Nhất Ðại Sư thọ Bồ Tát giới và thọ Bát Quan Trai Giới đã
không lập lại, cũng không trở ngại nhau.
Công đức thọ Bát Quan Trai Giới thuộc vô lậu, và còn
là Ðại Thừa nên công đức hữu lậu thế gian không thể so được. Vì vậy, đức Phật đã
từng trách mắng Ðế Thích. Một hôm, Ðế Thích nghe đức Phật nói các công đức thù
thắng của Bát Quan Trai Giới, liền vui mừng tán thán: “Tháng Sáu ngày thần du,
phụng hành tám Trai Giới, công đức thù thắng này, đồng với tôi không khác”. Một
số người nghe tu Bát Quan Trai được công đức đồng như Ðế Thích rất hoan hỷ, song
đức Phật quở Ðế Thích: “Ông nói không đúng đạo lý. Ông cũng không đủ tư cách để
nói lời này. Chỉ có bậc A La Hán mới nói như vậy được! Vì sao vậy? Ðế Thích ông
nên biết: Ông đã không xa rời các phiền não tham, sân, si, cũng không giải thoát
được khổ lớn sanh, lão, bệnh, tử, biết bao ưu sầu khổ não còn vây chặt thân tâm
ông. Sao lại dám bảo thọ trì Bát Quan Trai Giới được công đức như ông? Thực ra,
công đức của ông chỉ có thể cảm thọ được quả báo Ðế Thích, còn công đức của
người thọ trì Bát Quan Trai Giới đủ chứng được quả Bồ Ðề xuất thế của tam thừa
thánh. Như bậc A La Hán xả gánh nặng sanh tử mới có thể bảo công đức của người
thọ Bát Quan Trai Giới đồng với ta không khác”. Như vậy, chúng ta thấy rõ: phúc
đức của Ðế Thích so với công đức vô lậu của Bát Quan Trai Giới thật là một trời,
một vực.
Hơn nữa, công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới chẳng
những tương đồng với các công đức A La Hán, mà còn là Bồ Tát ở thế gian. Trong
Văn Thù Vấn Kinh nói: “Bồ Tát thế gian chính là tám giới” (Thế gian Bồ Tát, Bát
Giới giả thị). Vậy đủ thấy muốn làm vị Bồ Tát ở thế gian cũng chả khó mấy. Chỉ
cần phát đại Bồ Ðề tâm thọ trì Bát Giới liền thành thế gian Bồ Tát. Công đức thọ
trì Bát Giới còn hơn nữa. Như trong kinh Xử Thai nói: “Bát Quan Trai Giới là cha
mẹ chư Phật”. Có thể nói công đức này đồng với chư Phật, thậm chí chư Phật đều
do Bát Quan Trai Giới mà sanh. Kinh Kim Cương nói: “Tất cả chư Phật và pháp A
Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề đều từ kinh này mà ra”. Dựa theo câu này, có thể
bảo rằng: “Hết thảy chư Phật và các pháp Tam Miệu Tam Bồ Ðề đều do từ Bát Quan
Trai Giới mà ra”. Như thế, công đức thù thắng của Bát Quan Trai Giới thực là
không thể nghĩ bàn.
Luận Bồ Tát Bổn Sinh Man cũng nói rõ công đức Bát
Giới như sau: “Nếu có người có thể trì pháp Bát Trai Giới, tuy họ không mặc y
phục hoa lệ, nhưng họ có y phục tàm quý (3). Phải biết y phục tàm quý trang
nghiêm hơn hết mọi y phục. Người thọ trì Bát Giới trai pháp, tuy không có bức
tường ngăn chặn trộm cướp bên ngoài lẻn vào trộm của báu, nhưng họ có thành trì
vô hình, chế ngự oán tặc lục căn cướp đoạt công đức nội tâm”. Nói theo Phật
pháp, của cải có mất cũng không đáng tiếc. Pháp Bảo mất mới đáng tiếc. Muốn Pháp
Bảo không bị trộm mất, phải xây tường Trai Giới. Thọ Bát Quan Trai Giới dù là
chủng tộc thấp hèn như Chiên Ðà La, nhờ thọ Bát Giới cũng ở địa vị của thánh,
trải qua một thời gian chứng thành Thánh Quả. Nhờ vậy, Bát Giới thật cao quý.
Ngày xưa, Ấn Ðộ cho anh lạc là món trang sức cao quý. Người thọ Bát Quan Trai
Giới tuy không có anh lạc, châu bảo, nhưng nhờ có Bát Giới Trai Pháp trên thân
nên được đủ các thiện pháp công đức trang nghiêm thân. Hơn nữa, loại trang
nghiêm này không một bảo vật nào ở thế gian có thể bì được. Kinh Ưu Bà Tắc Giới,
phẩm Bát Giới Trai nói: “Bát Giới Trai tức chính là anh lạc trang nghiêm vô
thượng Bồ Ðề”. Như vậy, người thọ trì Bát Giới Trai Pháp tuy không có thất bảo,
kim, ngân, nhưng chứa đủ bảy pháp tài (4) của nhân thiên, không cần cầu bè cũng
băng qua được hiểm đạo.
Công đức thọ trì Bát Giới thù thắng như vậy, cho nên
trong kinh cũng nói: “Dùng tất cả trân bảo của mười sáu nước lớn cúng dường các
tỳ kheo tăng không bằng công đức trì giới một ngày đêm”. Tát Bà Ða Luận cũng
nói: “Nếu có vị vua Diêm Phù Ðề hành hạnh bố thí rộng lớn, khiến cho hết thảy
nhân dân được đủ các bảo vật, công đức này rất lớn, nhưng so với công đức thọ
trì Bát Giới Trai Pháp, công đức vua Diêm Phù Ðề chưa bằng một phần mười sáu”.
Các kinh, luận sở dĩ tán thán công đức Bát Giới như vậy vì đây là căn bản của
xuất gia lìa tục, là hạt giống đắc tam thừa Bồ Ðề, cho đến thành Phật cũng do
một niệm thọ trì Bát Giới Trai Pháp.
Thọ trì Bát Giới công đức thù thắng như vậy, ắt tự
nhiên có thể trừ diệt các tội. Ðiều này trong kinh Thiện Sanh nói rất rõ: “Thọ
trì Bát Giới có thể trừ được các tội nặng Ngũ Nghịch”. Kỳ dư, các tội khác dĩ
nhiên không thành vấn đề. Ngũ Nghịch gồm các tội: giết cha, giết mẹ, giết A La
Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu. Các tội nặng này tương lai phải
chịu quả khổ Vô Gián. Nhưng hiện tại nhờ thọ trì Bát Giới, tội nặng Ngũ Nghịch
liền được tiêu trừ, công đức thù thắng của Bát Trai Giới quả khó nghĩ bàn. Trong
Trung A Hàm Kinh cũng nói: “Hàng thánh đệ tử đa văn, khi trì tám giới này, ghi
nhớ mười hiệu của Như Lai, nếu có các điều bất thiện nghĩ ác đều được trừ diệt”.
Hàng đa văn thánh đệ tử còn phải nương công đức này để diệt trừ tội khiên, tu
thiện tiến đức, vậy những ai muốn trừ tội tăng phúc nên nhân cơ hội này thọ trì
Bát Trai Giới.
Thọ trì Bát Trai Giới được công đức thù thắng như
vậy, không phải là vấn đề, vấn đề ở chỗ trong thời gian ngắn ngủi một ngày một
đêm làm sao cho tịnh niệm tương tục, để gìn giữ cho thân tâm thanh tịnh, nhờ vậy
mới đạt được công đức như nói ở trên. Nếu không, do vì tâm không nhất niệm,
tưởng Ðông nghĩ Tây, không chú tâm vào Trai Giới, nên công đức không sao thành
tựu! Cho nên trong một ngày đêm thọ Trai Giới, phải buông bỏ hết mọi việc thế
tục, đem trọn thân tâm tắm gội trong Phật pháp, chịu sự thấm nhuần của Phật pháp
và tương ưng với pháp Phật. Nếu chỉ làm hùa theo người, thọ giới thì thọ giới,
nhưng chưa hề chuyển theo giới, kết quả một ngày trôi qua luống không, thực là
đáng tiếc.
Tịnh niệm cũng tương tục, cố nhiên là phương pháp rất
tốt để bảo trì cho Bát Giới thanh tịnh. Ngoài đây ra, trong Thành Thật Luận nói:
“Có năm pháp có thể khiến cho giới hạnh được thanh tịnh. Thứ nhất, trong thời
gian thọ giới có thể đúng pháp hành Thập Thiện. Thứ hai, trong thời gian thọ
giới, đoạn trừ hết các điều gây não hại cho chúng sanh từ trước hay sau này,
không còn làm chúng sanh chịu khổ nữa. Thứ ba, trong thời gian thọ giới, không
để cho ác tâm làm não loạn nội tâm, tức không để cho các niệm không chánh đáng
khởi lên, để khỏi trở ngại cho sự thanh tịnh của giới hạnh. Thứ tư, trong khi
thọ giới luôn luôn nhớ tưởng Phật, Pháp, Tăng, Giới, Xả, Thiên để thủ hộ cho
giới hạnh. Dựa vào công đức của sáu niệm này, bảo trì cho giới hạnh thanh tịnh.
Thứ năm, trong khi thọ giới, nguyện đem công đức trì giới này hồi hướng đến Cứu
Cánh Niết Bàn, quyết không dùng công đức này cầu phước báo nhân thiên. Thọ Trai
Giới như vậy giới hạnh ắt thanh tịnh”.
Tỳ Bà Sa Luận phân biệt công đức thọ trì Bát Giới có
được đại quả hay không bằng năm câu:
- Thứ nhất, như có người tự tại thọ Trai Giới này,
biết nhà bếp sắp sát sanh để nấu cho mình ăn, người ấy bảo đầu bếp: “Hôm nay tôi
thọ Trai Giới nên không sát sanh, hãy cất đi, để mai làm chưa muộn”. Ðó là quan
niệm chung của mọi người. Lại có người lính chiến, bắt địch quân giải đến thượng
quan, xin xử tội kẻ địch. Thượng quan bảo: “Hôm nay tôi thọ Trai Giới không thể
sát sanh, nhốt lại mai giết cũng được”. Thọ Bát Trai Giới kiểu này, căn bổn
nghiệp đạo tuy thanh tịnh, song cận phận thì không thanh tịnh. Ðức Phật bảo tuy
là thắng nghiệp, song không đủ để chứng đại quả.
- Thứ hai, lại có người thọ Bát Trai Giới, chẳng
những căn bổn nghiệp đạo rất thanh tịnh mà cận phận cũng rất thanh tịnh. Nhưng
bị dục tầm tư (5), khuể tầm tư và hại tầm tư gây tổn hại. Thọ Trai Giới như thế
vẫn chưa phải là lý tưởng. Phải biết ba loại tầm tư: dục, khuể và hại, là một
thứ ác phân biệt. Có chứa sự phân biệt bất chánh này nội tâm không sao thanh
tịnh được, và dĩ nhiên ảnh hưởng đến sự thủ trì giới hạnh. Chính do cái ác tầm
tư nhiễu loạn tâm linh này mà đức Phật nói người phát tâm thọ giới và giới họ
thọ tuy là thắng nghiệp, nhưng không thể nhờ đó mà đạt được đại quả.
- Thứ ba, còn có người thọ Trai Giới này chẳng những
căn bổn nghiệp đạo và cận phận rất thanh tịnh, hơn nữa, cũng không bị ác tầm tư
gây tổn hại, tất nhiên rất khó được. Nhưng vẫn không lý tưởng vì họ chưa khởi
được chánh niệm, không nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm
Xả, niệm Thiên, và vẫn còn hiện khởi các niệm bất chánh đáng. Do vì vọng niệm
không ngừng hiện hành nên tâm không sao an trụ được nơi tịnh giới, do đó, không
thể cầu thanh tịnh giới hạnh được. Chính vì vậy, đức Phật nói người phát tâm thọ
giới này và giới họ thọ tuy là thắng nghiệp, song không chứng được đại quả.
- Thứ tư, lại có người thọ trì Bát Trai Giới, căn bổn
nghiệp đạo cũng như cận phận đều thanh tịnh, cũng không bị ác tầm tư làm tổn
hại, lại hay đề khởi chánh niệm, thực là nan đắc, nhưng vẫn không mỹ mãn. Vì họ
vẫn không thể đem công đức thọ trì Bát Giới hồi hướng về quả xuất thế giải
thoát, chỉ mong cầu sanh thiên hưởng lạc. Do vậy, đức Phật nói người thọ giới
này và giới họ thọ tuy là thắng nghiệp, song không chứng được đại quả.
- Thứ năm, lại có người thọ giới này, nghiệp đạo căn
bổn và cận phận đều thanh tịnh, cũng không bị ác tầm tư tổn hại, nhiếp thọ chánh
niệm, hồi hướng giải thoát. Ðức Phật bảo người này và giới họ thọ chẳng những là
tu thắng nghiệp mà còn chứng được đại quả. Theo Tiểu Thừa là giải thoát Niết
Bàn, theo Ðại Thừa là Phật Quả Bồ Ðề.
Thọ trì Bát Giới xác thực có công đức thù thắng, nên
phải thường phát tâm phụng hành Bát Giới. Có điều trong xã hội máy móc này, nếu
cứ vào lục trai nhật thì ít có người thọ được. Vì vậy, tối thiểu mỗi tháng một
lần. Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Nếu thấy một tháng sáu ngày hơi nhiều, có thể giảm
xuống một hay hai ngày. Bởi chỉ cần một ngày còn có công đức lớn, huống là cả
sáu ngày”. Tuy nhiên khi phát tâm thọ giới, bất luận là trước hay sau, hoặc
trong khi thọ giới, phải nghiêm túc dùng tám giới rửa sạch thân tâm khiến thân
tâm tương ưng với giới. Như vậy mới được thanh tịnh và đủ công đức thù thắng.
_______________________
(3) Tàm quý: là hai thiện pháp đứng đầu trong mười
một thiện pháp của tâm sở. Tàm có nghĩa là tự thẹn mình, quý có nghĩa hổ thẹn
với người.
(4) Thất pháp tài: Gồm bảy tài bảo dùng làm pháp xuất
thế, còn gọi là Thất Thánh Tài.
1. Tín tài: Tín mới thọ trì chánh pháp được, nên Tín
chính là tư lương (tài) để đến quả Phật.
2. Tiến tài: Chưa thấy lý Chân Ðế, song nhất tâm tinh
tiến cầu đạo xuất thế, nên là tư lương để thành Phật.
3. Giới tài: Giới là căn bản của đạo giải thoát, có
công năng ngăn chận và phòng hộ các lỗi quấy nơi thân khẩu ý nên là tư lương để
thành đạo.
4. Tàm Quý tài: Do tàm quý nên không tạo ác nghiệp,
nên là tư lương để đến quả Phật.
5. Văn tài: Văn đứng đầu trong Tam Huệ, nhờ Văn nên
Tư, có Tư mới có Tu, nếu được nghe Phật thuyết pháp, ắt khai phát diệu giải, tu
hành đúng Pháp, nên là tư lương để thành đạo quả.
6. Xả tài: Xả tức là xả thí, nếu vận dụng được tâm
bình đẳng, không tác ý thương ghét, tùy sự cầu xin mà ban cấp tài vật hay thân
mạng không chút luyến tiếc, nên là tư lương để thành đạo.
7. Ðịnh Huệ tài: Ðịnh Huệ là Chỉ Quán, Ðịnh nên nhiếp
tâm không loạn, đình chỉ vọng niệm. Huệ nên quán chiếu các pháp, phá tan tà
kiến, nên là tư lương để thành Phật Quả.
(5) Tầm tư: Cựu dịch là Giác Quán. Thô tư gọi là
Giác, tế tư gọi là Quán. Hai thứ này phương hại đến định tâm nên tùy theo có tầm
tư hay không mà xét đoán định tâm sâu hay không.
Chương 5
Thọ Giả Phân Biệt
Phần trên đã cùng chư vị hai lần bàn về giới đức thù
thắng. Giới đức đã thù thắng như vậy, lẽ ra mọi người đều nên thọ Bát Quan Trai
Giới để được công đức thù thắng. Song tuy nói vậy, nhưng không phải ai cũng có
thể thọ Bát Quan Trai Giới. Muốn thọ phải đủ tư chất, nếu không, dù có phát tâm
đến đâu đi nữa, cũng không được phép thọ giới. Như vậy, ai là người được thọ, ai
là người không được thọ; do đâu phân biệt được điều này? Việc này trước khi thọ
giới, phải tra xét kỹ càng xem họ có phải là pháp khí thọ giới hay không, rồi
sau mới quyết định truyền giới. Trong Giới Luật, sự khảo xét trước khi truyền
giới là “vấn già nạn”. Truyền Giới Sư phải hỏi tường tận người phát tâm xem có
làm các điều gây nạn (“nạn”) hay ngăn che (“già”) việc thọ giới không? Nếu có
thì gây trở ngại không ít cho việc thọ giới nên không thể cho thọ giới. Chú Yết
Ma nói: “Trước khi thọ giới nên hỏi Già Nạn”, ý chỉ việc này.
Những việc gì chướng ngại cho sự thọ giới? Theo kinh
Thiện Sanh, kể ra bảy điều ngăn che như sau:
1) Có từng trộm vật của hiện tiền Tăng không?
2) Có từng hành dâm với nam nữ trong lục thân không?
3) Có từng phá thanh tịnh hạnh của Tăng, Ni không?
4) Có từng bỏ mặc khi cha đang bệnh không?
5) Có từng bỏ mặc khi mẹ đang bệnh không?
6) Có từng bỏ mặc khi sư trưởng đang bệnh không?
7) Có từng giết hại người phát Bồ Ðề tâm không?
“Tăng vật” là những đồ cúng dường chư Tăng, hoặc tài
vật thuộc về Thường Trụ. Vật thường trụ theo Luật có bốn loại:
- Thứ nhất, Thường Trụ Thường Trụ, như phòng ở của
chư Tăng, đồ dùng, hoa quả hay cây cối của chư Tăng trồng, vườn tược, đất đai
của chư Tăng. Ở đâu thuộc về nơi đó, không được di chuyển đi nơi khác; cho nên
gọi là “thường trụ”. Chư Tăng trụ trong phạm vi thường trụ này chỉ có thể thọ
dụng, nhưng không được chia hay bán, phải để của này tồn tại vĩnh viễn nên lại
gọi là “thường trụ”.
- Thứ hai, Thập Phương Thường Trụ, tức các đồ cúng
dường cùng phẩm vật ăn uống cung cấp cho chư Tăng trong chùa chiền, chẳng những
chư Tăng hiện tiền trong chùa được quyền thọ dụng mà ngay các khách Tăng từ nơi
khác đến cũng được quyền dùng, cho nên gọi là “thập phương”. Các đồ dùng ẩm thực
này thuộc về chùa, tuyệt đối không được đem đi nơi khác, nên gọi là “thường
trụ”.
- Thứ ba, Hiện Tiền Thường Trụ, như có tín đồ nào
phát tâm cúng dường tài vật, nói rõ là cúng cho chư Tăng trụ trong chùa này,
hoặc cúng đích danh cho vị Tăng nào trong chùa, gọi là “hiện tiền”. Người phát
tâm cúng thí như vậy nay đem vật cúng đó chia cho các người được cúng, không để
lại chút nào, nên lại gọi là “hiện tiền”.
- Thứ tư, Thập Phương Hiện Tiền, như hàng ngũ chúng
xuất gia sau khi chết, các di vật có thể phân chia, nên cử hành phép Yết Ma phân
chia. Trước khi hành Yết Ma, các di vật của người mất thuộc về Thập Phương Tăng,
bất luận ông Tăng khách từ đâu đến cũng được một phần. Còn nếu đã làm Yết Ma,
hiện tiền Tăng chúng tự chia, bấy giờ có khách Tăng nào lại cũng không được dự
phần, gọi là “hiện tiền”.
Tăng vật có bốn loại bất đồng, nhưng chúng ta không
có quyền trộm bất cứ loại nào. Nếu trộm Tăng vật, lỗi này rất nặng. Theo Phật
pháp thì vật của Tam Bảo thứ nào cũng nặng, nhưng Tăng vật là nặng nhất. Trong
kinh Phương Ðẳng, Hoa Tụ Bồ Tát nói: “Năm tội nghịch, bốn tội trọng, tôi còn có
thể cứu, trộm cắp Tăng vật, tôi không cứu được”. Kinh Ðại Tập nói: “Người trộm
Tăng vật, tội đồng Ngũ Nghịch”. Kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Người dùng Tăng Kỳ
vật, tội còn hơn giết tám vạn bốn ngàn cha mẹ”.
Ở đây hoặc có người hỏi: “Trộm Tăng vật tại sao tội
lại nặng như vậy?” Phải biết đàn na tín thí cúng dường cho chư Tăng dầu một hạt
gạo, cũng vốn muốn cúng cho mười phương các phàm thánh Tăng. Cho nên mỗi lần
trong chùa nổi chuông, bất luận xa gần đều nghe, hoặc phàm hoặc thánh đều có thể
thọ dùng. Như vậy, vừa trợ thành đạo nghiệp cho Tăng chúng, vừa được các phúc
đức sâu kín. Vì vậy, trộm Tăng vật không kể nhiều ít, tội này không thể tha thứ.
Trong hàng đệ tử Phật có tỳ kheo Ngưu Thí, tuy tu
chứng A La Hán quả, nhưng vẫn có tướng ăn như trâu nhai cỏ. Có người hỏi Phật do
nhân duyên gì mà có tướng như vậy? Phật bảo các vị tỳ kheo: “Quá khứ Ngưu Thí
từng ăn trộm năm sáu hạt gạo cho vào miệng nhai, vì vậy bị đọa làm bò năm trăm
đời. Bò thường nhai cỏ như vậy, nên trải qua năm trăm đời đã thành tập quán. Vì
thế, tuy tu chứng A La Hán mà tướng ăn vẫn vậy”.
Trộm dùng Tăng vật dĩ nhiên phần đông là người xuất
gia. Hàng tục nhân, nhất là các tín chúng, rất ít phạm tội này, song không phải
không có. Như hiện nay ở các nơi, hạng tự xưng là đại biểu tín đồ, đổi khách làm
chủ, là hạng chuyên xâm tổn của Thường Trụ, đem Tăng vật chiếm cứ làm sở hữu của
mình. Tín đồ Phật giáo như vậy chẳng những không đủ tư cách thọ Bát Quan Trai
Giới mà còn không đủ tư cách để gọi là chánh tín Phật tử.
Ðừng nói đến trộm dùng Tăng vật có lỗi lớn, ngay đến
hàng chánh tín ưu bà tắc, ưu bà di cho đến các bậc chánh nhân quân tử cũng đều
biết Tăng vật không dễ có, của này thọ dùng khó tiêu hóa, nên Tăng chúng có
không chiêu đãi, cũng chẳng những không nên hài lòng mà còn nên sanh hoan hỷ,
cho rằng đó là quy luật của Phật pháp. Thế nên, tín chúng đến chùa phải có quan
niệm chánh xác: “Ðến vì Pháp, không đến vì ăn!”
Hiện nay là thời Mạt Pháp, ở khắp nơi đều thấy có
người vì Pháp mà đến thì ít, mà đến để ăn thì đông. Không tin xin xem: Bất luận
nơi nào, hễ là pháp hội giảng kinh, thính chúng lác đác dăm người. Trong số
thính chúng lác đác này, số người thật lòng nghe Pháp lại càng lơ thơ. Ấy nhưng
nếu pháp hội có đãi ăn thì luôn luôn đông đảo. Ðó là chưa kể, đại đa số đều chờ
đến gần giờ ăn mới tới. Ðã không dự tụng kinh, lễ sám, lại ăn xong là đi. Chẳng
những ở các đạo tràng không có thuyết pháp cũng vậy, mà ngay đến các đạo tràng
thuyết pháp, có pháp để nghe cũng thế. Vậy mà có người cho rằng đó là điềm Phật
pháp hưng thịnh, nhưng dưới mắt người hiểu Phật pháp thì điều đó khác gì những
nơi nhiệt náo ở thế gian, thật là điềm suy thoái của Phật pháp.
Thế nên làm đệ tử Phật, bất luận Tăng hay tục, phải
thương tiếc vật của chư Tăng như thương quý con mắt, đã không dám dùng bừa, lại
không dám lấy trộm. Quá khứ không biết tội này là nặng nên đã từng vi phạm, hiện
tại phát tâm thọ giới, ắt phải sám hối cho thanh tịnh. Nếu không, tuyệt đối
không được thọ giới. Cho dù vì không biết mà truyền giới cho bạn, bạn cũng không
thể được giới thanh tịnh. Cho nên có từng trộm Tăng vật hiện tiền hay không, khi
hỏi Già Nạn, phải đáp thành thật. Có nói có, không nói không, không được đáp hàm
hồ.
Lục thân nam nữ là những người có quan hệ mật thiết
với mình, bất kể là thế pháp hay Phật pháp, đều không nên có các hành vi bất
chánh. Giả như có, là kẻ địch chướng đạo, không thể thọ giới. Tỳ kheo, tỳ kheo
ni là những người tu phạm hạnh, là bậc thượng sĩ cầu xuất trần giải thoát, là
phước điền vô thượng của nhơn thiên, là khuôn mẫu cho chúng sanh, thật như các
bậc thánh thần và cấm chỉ dâm dục. Nếu có người nam nữ nào làm các việc ô phá
tịnh hạnh của Tăng, Ni, là tội ác vô cùng. Phải biết dâm dục tuy không phải là
căn bản của sanh tử, song nó làm chướng ngại đạo pháp, không những chướng ngại
việc hiện thế đắc Niết Bàn, mà còn chướng ngại cho việc chứng Bồ Ðề của đời sau.
Thậm chí ngăn ngại cả việc sanh Thiên. Bởi vì từ trời Sắc Giới trở lên đều không
có dục của nam nữ như ở trời Dục Giới và nhân gian. Ðừng nói người thường đắm
sắc còn bị nguy hại, ngay đến Ðộc Giác tiên nhân bay trên trời, vừa mới nhiễm
sắc liền bị dâm nữ cưỡi trên cổ bay vào nhân gian; từ đó mất hết thần thông,
không còn bay được nữa! Còn chúng ta là bậc nào mà có thể coi thường dục nhiễm
được? Cho nên khi chưa học Phật có phạm các điều này cũng phải thành thật mà bộc
bạch.
Cha mẹ, sư trưởng nếu không phải là người ân đã nuôi
nấng chúng ta thì cũng là người ân dạy dỗ chúng ta nên người. Không có cha mẹ
thì ngay cái mạng sống này cũng không có, mà dẫu có cũng chưa chắc đã trưởng
thành như ngày nay. Không có sư trưởng thì sự hiểu biết tối thiểu cũng không có,
nói chi đến kiến thức cao sâu.
Cha mẹ đối với con cái từ ái vô hạn, không có giấy
mực nào đủ để diễn tả tâm từ ái đó. Chỉ cần thấy con cái đau ốm, tuy rõ ràng
người con bệnh rên khổ thống, vậy mà cha mẹ trong lòng còn đau hơn là chính mình
bệnh, nên cả ngày quanh quẩn bên giường bệnh, chốc lại sờ xem con bớt nóng chưa,
lát lại ép con ăn, xem chừng đến giờ uống thuốc là đưa thuốc đến tận miệng con.
Chăm sóc chu đáo hơn hết những vị y sĩ tận tâm nhất, cha mẹ chăm sóc con đến
quên hết mọi việc khác. Ðến lúc cha mẹ bệnh, phận làm con lẽ ra phải lo phụng
dưỡng thuốc men, một giây cũng không rời cha mẹ. Vậy mới biểu lộ được phần nào
hiếu tâm. Giả sử hiện giờ có một người con, bình thường đã không biết làm vui
lòng cha mẹ, đến lúc cha mẹ đau ốm lại chẳng ngó ngàng, để mặc cha mẹ hoặc bệnh
hoặc chết, thử hỏi như vậy có đáng làm con người không? Người như vậy quả đã mất
hết nhân tánh.
Sư trưởng là một vị thần thánh. Vì muốn giáo dục đời
sau, họ đem hết mọi điều hiểu biết cùng đạo lý làm sao để nên người, tận tình
tận lực dạy bảo cho chúng ta. Thấy chúng ta học vấn mỗi ngày mỗi tiến, vị thầy
rất vui. Thấy chúng ta không tiến, vị thầy bất an như vì chính mình không hết
lòng dạy dỗ. Sư trưởng ngoài sự truyền thọ kiến thức cho ta, còn khích lệ và ái
hộ chúng ta nữa. Vì một vị thầy tận tâm luôn luôn mong muốn học trò mình thành
sự nghiệp, và còn mong cho học trò mình có được phẩm cách thanh cao nữa. Sư
trưởng không chỉ dạy cho chúng ta chữ nghĩa và kiến thức bằng trí thức của
người, mà còn lấy đời sống tự thân mình ra dạy ta nữa. Nói chung, dạy từ lý
thuyết đến hành động. Lại khéo khuyến dụ, sửa sai mỗi khi học trò có chỗ sai
lầm, có lúc đánh mắng để cho học trò nên người. Vì vậy, bổn phận người học trò
bất luận nơi đâu thấy sư trưởng đều phải kính lễ. Khi sư trưởng không còn cũng
thường ghi nhớ những điều người dạy, chân thành tha thiết như hiếu tử nhớ cha
mẹ, như người đói nhớ ăn. Khi thầy có bệnh phải gần gũi chăm lo thuốc men, coi
sóc mọi việc cho thầy. Không được bỏ mặc, chẳng màng thầy sống hay chết, học trò
như vậy sao đáng gọi là người có học?
Theo Phật pháp thì cha mẹ sanh dưỡng sắc thân này của
ta, còn sư trưởng sanh dưỡng Pháp Thân ta. Thực khó mà nói hết được ân đức lớn
này đối với chúng ta, đến đức Phật cũng không sao diễn bày hết được. Trong kinh
Tâm Ðịa Quán, đức Phật bày tỏ: “Ta có ở đời nói một kiếp, cũng không thể nói
hết”. Trong kinh, đức Phật cũng dạy khi cha mẹ hay sư trưởng có bệnh phải cung
cấp mọi thứ, chăm sóc, thuốc men, nhất nhất không được thiếu sót. Giả sử hạng
làm con hay học trò chẳng lo nuôi bệnh cha mẹ hay sư trưởng, chỉ lo hưởng thụ,
như vậy tư cách làm người chưa đủ, làm sao lãnh thọ giới của chư Phật được? Vậy
trước khi thọ giới phải hạch hỏi xem có phạm lỗi này không, phải thành thật
trình bày, nếu có thì sám hối, sau đó mới được thọ Bát Giới.
Những người phát Bồ Ðề tâm tuy hãy còn là phàm phu,
nhưng công đức của họ đủ vượt quá Nhị Thừa; vì vậy, chúng ta đối với họ nên tôn
kính thương mến, vì sao? Bởi Bồ Tát phát tâm Bồ Ðề, đầy đủ tinh thần quên mình,
tất cả đều vì chúng sanh, bất kể tiền tài hay tri thức của mình, hoặc sức mạnh
hay khả năng của mình đều cung cấp cho chúng sanh, bất kể xa gần hay thân sơ, Bồ
Tát bố thí như vậy cho tất cả chúng sanh mà chẳng cầu báo đáp, cũng chẳng cầu
danh văn, lợi dưỡng, chỉ một lòng chân chính cứu độ hết thảy chúng sanh, nhiếp
thủ nhiêu ích chúng sanh mới làm được như vậy. Vì Bồ Tát chỉ một niệm thương xót
chúng sanh, thấy chúng sanh đắm chìm trong chốn đau khổ vô hạn, tự hỏi mình có
đủ năng lực cứu vớt hay không, ngoài ra, chẳng còn niệm nào khác. Do vì niệm
thương xót, nên phát tâm rộng thí, cứu giúp chúng sanh không điều kiện, cho dù
không đủ sức, Bồ Tát cũng không nhẫn tâm nói: “Tôi chả có gì để giúp bạn!”
Phát tâm Bồ Tát quên mình vì người như vậy, chúng ta
phải nên giúp họ đủ mặt, để họ có thể rộng làm chuyện lợi người. Nếu không làm
nổi như vậy, cũng đủ làm cô phụ Bồ Tát sơ phát tâm, huống chi còn sát hại những
người phát tâm Bồ Tát như vậy, khiến cho vô số người không được Bồ Tát cứu giúp.
Thử hỏi như thế tội lớn đến dường nào? Cho nên nếu đã phạm tội này, tất không
thể là bậc pháp khí thọ giới. Vậy khi hỏi Già Nạn, nếu có, phải chân thành sám
hối, mới được thọ Bát Giới.
Già Nạn như trên đã nói. Ba giới Sát, Ðạo, Dâm trong
bốn loại tánh tội (6), giết người phát Bồ Ðề tâm, trộm của Tăng hiện tiền, hành
dâm với lục thân là các trọng tội trong các tánh tội. Cư sĩ tại gia nếu phạm
phải ắt chướng ngại giới thể vô tác, do vậy giới thể không thể phát khởi. Ở đây,
hoặc có người hỏi: “Tội vọng ngữ trong bốn loại tánh tội, tại sao không bị liệt
vào Già, Nạn?” Ðó là bởi vì “chưa chứng Thánh Quả nói chứng, chưa đắc đạo nói
đắc”, đại vọng ngữ này đa phần là người xuất gia phạm, hàng tại gia khó phạm
phải giới này, cho nên trong Già, Nạn không đề cập đến.
Yết Ma Sớ theo Thành Thuật Luận nói: “Chẳng những chỉ
có bảy điều Già, Nạn trên không được thọ giới mà còn có tội Ngũ Nghịch, gã tặc
trụ, làm ô tỳ kheo ni đều không được xuất gia”. Bởi vì các tội này của họ làm
chướng ngại thánh đạo vô cùng, chẳng phải sám hối mà thanh tịnh lại được, nên dù
có cho người đó xuất gia, họ cũng không sao chứng được Thánh Quả thanh tịnh,
nhất định phải chịu quả báo nặng. Tuy nhiên, Bát Quan Trai Giới chỉ để luyện tập
xuất gia, không phải chánh thức xuất gia, nên chỉ cần nhận chân sám hối, và
chứng tỏ rằng sau khi sám hối không còn dám tái phạm thì vẫn được thọ Bát Quan
Trai Giới, và có thể y đó tu hành bố thí, tạo dựng sự nghiệp từ thiện, lợi ích
cho nhân quần chúng sanh.
Gọi là “tặc trụ” là người chưa thọ Cụ Túc Giới, lén
lút xâm nhập vào hàng ngũ Tăng để được lợi dưỡng, hoặc nghe lén Yết Ma trong
Tăng đoàn, điều này cũng làm trở ngại vô cùng cho sự xuất gia. Bởi lẽ bọn họ sau
khi xem và nghe Luật, sanh khởi tâm kiêu mạn đối với Pháp và Tăng, đó là điều tệ
hại nhất. Nhưng nếu là tặc trụ, cũng có thể thọ Bát Giới nếu sám hối chân thật.
Cho nên, người chân chánh phát tâm thọ Bát Giới chắc chắn là người pháp khí thân
tâm an lạc.
________________________
(6) Tánh tội: Bốn giới trọng Sát, Ðạo, Dâm, Vọng tự
tánh vốn ác, không cần phải đợi Phật chế. Hễ phạm phải chịu quả báo, nên gọi là
Tánh tội. Còn giới ẩm tửu tự tánh chẳng phải ác, đức Phật vì bảo hộ các giới kia
nên cấm không cho phạm. Nếu uống là phạm tội do Phật chế, nên gọi là Già tội.
Chương 6
Sám Hối Tất Yếu
Các pháp sự trong Phật giáo phần đông đều bắt đầu
bằng lễ Sám Hối, đặc biệt là Quy Y và Thọ Giới lại càng không thể thiếu phần Sám
Hối. Người sơ phát tâm quy y Tam Bảo, nếu thực tâm muốn trở thành một người mới
mẻ tu Phật, mà không chịu đúng pháp sám hối, vẫn mang đầy thói hư tật xấu cũ vào
cửa Phật, thì không sao thấm nhuần được đạo pháp, để trở thành một người theo
Phật hoàn toàn mới. Vì cho dù trên hình thức đã theo Phật, song tội lỗi chất
chứa nơi thân chướng ngại cho sự huân tu Phật pháp, cho nên trước tiên phải
thành khẩn thiết tha sám hối, sau đó mới quy y hay thọ giới.
Chẳng những bó buộc phải sám hối trước khi quy y hay
thọ giới, mà sám hối vẫn có tánh cách quan trọng ngay sau khi quy y và thọ giới
rồi, bởi vì hạng phàm phu chúng ta dù có cẩn thận đến đâu đi nữa, hay vô cùng
tôn trọng các giới đã thọ, song có mấy ai dám bảo đảm rằng mình không hề phạm
các giới đã thọ. Phàm phu vẫn là phàm phu, đôi khi không tránh được phiền não
vọng khởi, rồi không chế ngự được mình mà phạm giới, khiến thân tâm ô nhiễm. Nếu
muốn khôi phục sự thanh tịnh, còn cách nào hơn sự sám hối. Vì vậy, Phật pháp rất
coi trọng pháp Sám Hối. Bất cứ ai muốn vào đạo Phật hay đã vào rồi, đều phải
hành pháp Sám Hối, để duy trì sự thanh tịnh của thân tâm, và khỏi bị chướng ngại
khi tu học Phật.
Tánh chất quan trọng của Sám Hối chúng ta đã rõ rồi,
nhưng Sám Hối nghĩa là gì? Phạm ngữ là Sám Ma Tỳ, gọi tắt là Sám Ma. Trung Quốc
dịch là Yểm Ly (chán bỏ), hoặc Cải Hối. Có người giải thích Sám là đầu, Hối là
cúi xuống, có nghĩa là “cúi đầu chịu tội”. Trong Phật pháp cũng vậy, những người
vi phạm giới luật, chỉ còn biết thuận theo đạo pháp, cúi mình dưới chân Tam Bảo,
chân thành thiết tha sám hối, biểu lộ từ nay về sau không dám làm các chuyện như
vậy nữa. Có vậy mới là thành tâm sám hối.
Lại có người giảng như vầy: Sám là chỉ cho bạch pháp,
còn Hối là hắc pháp. Hắc pháp là các tội ác, nên hối cải không được tái phạm.
Bạch pháp là các thiện pháp, nên cần cầu và đúng pháp thực hành. Còn có nghĩa
như sau: Sám là sự tu học kể từ nay, trước kia bỏ bê không tu học các thiện
pháp, từ nay trở đi thệ nguyện tinh tiến dõng mãnh tu học không ngừng. Hối là sự
sửa đổi về sau, trước kia từng làm biết bao việc bất thiện, từ nay về sau thệ
nguyện tha thiết, thực lòng sửa đổi. Theo hai cách giảng trên, chúng ta có thể
thấy rằng: Sám Hối đủ cả hai phương diện tiêu cực và tích cực. Bỏ ác là mặt tiêu
cực, hưng thiện là mặt tích cực. Phải bỏ ác hưng thiện như vậy mới là ý nghĩa cụ
thể của Sám Hối.
Còn có một điểm rất quan trọng của sám hối, đó là
phơi bầy các lỗi của mình, bộc bạch các tội đã gây, không dám che đậy chút nào.
Như vậy rồi còn phải đoạn trừ tâm tương tục, ăn năn chán ghét các tội lỗi tự
gây, tuyệt đối xả bỏ không bao giờ tái phạm. Ấn Thuận Luật Sư nói: “Quy chế sám
hối của Phật pháp phải bày tỏ trước đại chúng hết mọi lỗi lầm, chịu sự xử phạt
của Tăng đoàn. Trải qua một phen chân thành thống thiết sám hối, thanh tịnh mới
phục hồi. Như trong bình có độc, phải đổ hết chất độc, súc bình cho sạch, mới có
thể đựng vị quý được. Như vải dơ, trước tiên dùng tro hoặc xà bông tẩy cho sạch,
sau đó mới có thể nhuộm. Cho nên phải như pháp sám hối mới có thể trì luật thanh
tịnh và khiến các động cơ không thuần dần dà hợp với Luật”. Vì vậy, phát tâm sám
hối phải thẳng thừng bày tỏ hết mọi tội lỗi.
Chính do như vậy mà có người nói: Phạn ngữ vốn gọi là
A Bát Ðể Ðề Xá Na. A Bát Ðể dịch là “tội”, Ðề Xá Na dịch là “nói”; có nghĩa là
“nói tội”. Ý chỉ người học đạo nếu vi phạm giới luật không nên che giấu, mà phải
thành thật bày tỏ với đại chúng, cầu xin đại chúng chuẩn hứa cho mình được sửa
đổi. Bao giờ được đại chúng chấp thuận thì tội lỗi đó được tiêu trừ. Hơn nữa,
nhờ oai đức của đại chúng khiến họ đối với tội lỗi sanh tâm sợ sệt không còn dám
phạm nữa. Ngài Luật Sư Ấn Thuận nói: “Quy tắc của giới luật không ở nơi một
người, ở nơi đại chúng… Người học đạo nên theo chân tinh thần của cổ thánh, phát
lồ tội lỗi, không dám che giấu, không dám tái phạm, để thân tâm được thanh tịnh,
thừa thọ vô thượng pháp vị”.
Công khai bộc bạch hết mọi tội lỗi, điều này không
phải dễ làm. Bởi tâm lý chung của mọi người không muốn người khác biết được lỗi
mình. Hoặc giả nếu tội nhỏ có thể thố lộ riêng cho những người thân, còn nếu tội
nặng cho đến vợ chồng, cha mẹ cũng không dám nói. Cũng bởi họ biết tội lỗi là
chuyện mất thể diện, hại danh dự. Vì vậy mà kẻ phạm tội nhiều, người nhận tội ít
do tại nguyên nhân này. Họ nào biết chính vì vậy mà cứ đắm mãi trong hố sâu tội
lỗi không có ngày ra.
Ðại Sư Linh Phong Ngẫu Ích rất khẩn thiết bảo với
những người không dám phát lồ tội lỗi: “Người ta khi tạo tội thực đang làm ác mà
không biết xấu hổ. Nay phát lồ trước mọi người, đó là điều thiện, lại cho là xấu
hổ. Cam lòng giữ ác mà tránh điều thiện, dần dà thành ác trong ác, vĩnh viễn
không có ngày ra, điên đảo ngu si, còn có gì hơn đây nữa?” Không làm chuyện ác
thì muốn mọi người biết. Nhưng khi làm ác, do vì phiền não xung động, chẳng còn
biết xấu hổ, có can đảm làm quấy. Ðợi đến lúc chuyện ác đã rồi, biết rõ đó không
phải là việc đúng, nhưng vì thể diện, nên che giấu không chịu tiết lộ với ai.
Nào hay, vì không dám phơi bày tội ác nên cội gốc tội ác không sao thanh tịnh
được! Như vậy, chẳng phải là điên đảo hay ngu si sao?
Sám Hối lấy gì làm thể? Lấy tàm quý làm thể, vì vậy
có thuyết cho Sám gọi là tàm, Hối gọi là quý. Người ta sở dĩ tạo ác, do bởi
không đủ tâm tự giác đạo đức, lại bị tâm vô tàm vô quý sai sử, nên vô tình tạo
tội tày trời, song con người vẫn có nhân tính, nên sau khi làm điều lầm lẫn, đôi
khi tự vấn lương tâm và cảm thấy bất an trong lòng, hoặc cảm thấy mình không
phải đối với cha mẹ, sư trưởng, hoặc tự trách mình vì sao lại gây ra những
chuyện quấy như vậy? Phải biết lúc đó, nhờ tâm tàm quý dõng hiện tự nhiên sanh
tâm cầu sám hối, cho rằng nếu không tha thiết cầu sám hối, từ rày về sau khó mà
làm người. Người ta ở thế giới đầy tội ác này đôi khi có thể chiến thắng được
tội ác đều do sức mạnh trọng thiện khinh ác của tàm quý.
Tàm quý có nhiều đối tượng khác nhau, nên sức phát
sanh tàm quý cũng có sai biệt. Giả sử bạn có tâm tàm quý đối với thầy bạn, biết
việc này là quấy, đối với thầy bạn thực không phải, nên khi thấy thầy bạn, bạn
tự dưng không dám làm các chuyện quấy, nhưng vẫn có thể làm quấy khi không thấy
thầy bạn. Như vậy là sức tàm quý còn yếu. Giả sử bạn đối với Trời Phật phát tâm
tàm quý, cho rằng nếu mình làm việc ác, tuy người khác không biết, nhưng Trời
Phật đều thấy rõ, làm sao bạn dám làm chuyện không phải đối với trời Phật. Như
vậy, cứ nghĩ đến trời Phật thì không dám làm ác. Nhưng hễ quên đi hay không nghĩ
đến thì vẫn làm ác. Như vậy, sức tàm quý của bạn vẫn chưa đủ mạnh.
Tàm quý thực sự mạnh và đủ sức chính là tâm tàm quý
đối với tự thân, vì thường cho rằng ta với Phật vốn đồng một giác tánh, mà giác
tánh của chư Phật đã từ trong muôn lớp phiền não trùng điệp bủa vây, chiếu phá
hiển hiện ra, thành vị Thánh giác cao tột ở thế gian; vậy mà ta giờ vẫn là một
gã phàm phu chịu sanh tử, chẳng những chưa thể tịnh hóa được giác tánh, mà còn
điên đảo tạo bao ác nghiệp, đối trước chư Phật, xét lại tự thân sao khỏi thẹn
thùng? Một niệm tàm quý tâm này hiện khởi, liền lập chí sửa đổi con người, không
chỉ sửa sai mọi lỗi lầm trong quá khứ, còn quyết tâm không tái tạo mọi ác
nghiệp; nhờ vậy, dần dà khai mở giác tánh sẵn có nơi mình mà đạt được quả Chánh
Giác. Như vậy, người nào tự biết nhân cách tôn nghiêm thì có thể khiến tâm tàm
quý lìa ác hướng thiện kia hoạt động hữu hiệu, sửa các điều quấy, tu các pháp
lành.
Tàm quý sám hối là sự tu trì quan trọng của người học
Phật, nó quan hệ vô cùng đến sự thanh tịnh thân tâm. Cho nên người học Phật phải
coi trọng pháp này. Nếu chúng ta niệm niệm tàm quý, tức chính là niệm niệm tu
trì trang nghiêm thanh tịnh, đâu đến nỗi phạm giới hay tạo ác, và căn lành công
đức của ta cũng được tăng trưởng trong niệm niệm. Ðồng thời phải biết, các tội
ác ẩn giấu trong tâm, nếu không do tâm tàm quý khởi sức sám hối, ắt nội tâm
không bao giờ được an lạc. Nên trong Giới Kinh nói: “Có tội nên sám hối, sám hối
ắt thanh tịnh”, hoặc nói: “Có tội nên sám hối, sám hối ắt an lạc”. Từ tâm tàm
quý sanh sám hối, hiệu lực vô cùng như chúng ta đã thấy.
Chúng ta phát tâm học Phật, không phải để cầu tiêu
khiển, mà để mong cầu Thánh Quả, song Thánh Quả không phải chỉ mong cầu là được,
phải cầu bằng sự thực tiễn thực hành. Sự thực hành không ngoài hai phương diện
là đoạn ác và hành thiện. Nếu ác pháp không đoạn trừ, thiện pháp ắt khó tiến tu.
Song phương tiện hay nhất để đoạn trừ ác pháp không gì hơn sám hối. Kinh Lục Môn
Ðà Ra Ni nói: “Các ma nghiệp ở nơi ta nếu không sám hối trước, ắt không sao phát
tâm duyên Vô Thượng Giác, cho nên mọi tội lỗi cần phải sám hối trước”. Một số
người không chịu công phu sám hối, vì mắc bệnh cho rằng tội mình nhẹ không cần
sám hối, hoặc đối với tội ác không chút bố úy. Thực ra đến tội nhẹ cũng không
nên coi thường. Hôm nay làm một chút, mai làm thêm chút nữa, tích thiểu thành
đa, lâu dần ác nhuộm đầy tâm, sao lại không sợ? Há lại không cần đến sám hối hay
sao?
Do đó, tất cả các hạnh bất thiện do ta tạo từ quá
khứ, bất kể hiện phát sanh, hay chưa sanh, giờ đây phát tâm thọ Bát Giới, phải
tận tình phát lồ tội ác của mình, khóc mà khẩn cầu pháp diệt tội. Kinh Tăng Nhất
A Hàm nói: “Nếu thọ Bát Quan Trai, trước tiên phải sám hối các tội tạo từ trước,
sau đó mới thỉnh thọ giới pháp”. Chỉ có pháp sám hối như vậy mới có thể đạt được
lợi ích của sự cầu giới. Bởi vì giới pháp vốn thanh tịnh, nếu tâm địa mình bất
tịnh làm sao lãnh thọ được giới pháp thanh tịnh này? Có điều khi cử hành pháp
sám hối, phải chí thành tận đáy lòng quyết cải đổi các lỗi xưa, triệt để tịnh
hóa thân tâm mới tiêu trừ được mọi nghiệp chướng từ vô thỉ. Nếu chỉ bằng hình
thức bề ngoài sám hối thì không sao tiêu trừ được tội nghiệp. Ðiều này cần phải
chú ý.
Chư vị đến đây thọ Bát Trai Giới, mỗi lần truyền
giới, mở đầu tôi luôn luôn dạy chư vị sám hối: “Con tên… nếu thân nghiệp bất
thiện, nếu khẩu nghiệp bất thiện, nếu ý nghiệp bất thiện, bởi do tham dục, sân
khuể và ngu si. Nếu đời nay, nếu đời trước có tội như vậy, hôm nay thành tâm sám
hối, thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, tâm thanh tịnh thọ hành Bát Giới”. Tuyên
đọc lời sám hối này, chúng ta có thể hiểu rõ: tất cả tội nghiệp của chúng sanh
đều do ba nghiệp thân, ngữ, ý tạo thành, như sát sanh, trộm cắp là động tác của
thân tạo thành tội ác, còn nói dối, nói lời hai chiều… là do lời nói tạo thành
nghiệp tội. Các hoạt động nội tâm hướng ác là do nơi ý nghiệp phát sanh. Lìa các
hoạt động của ba nghiệp thân, khẩu, ý, còn tội ác nào đáng kể nữa.
Ðã rõ mọi tội ác đều do nhân duyên ba nghiệp sanh ra,
hiện tại muốn sám hối thanh tịnh, đương nhiên phải từ nhân duyên ba nghiệp khởi
sám mới có thể khiến tội nghiệp tiêu trừ thanh tịnh, nên phải cần dùng ba nghiệp
cầu sám hối. Trước khi sám hối phải đủ tàm quý, tàm quý từ tâm sanh, lấy ý
nghiệp làm nhân, lễ bái là thân, xưng tán là miệng, hai nghiệp thân khẩu làm
duyên. Dùng nhân duyên ba nghiệp như vậy, chí thành cầu diệt hết thảy tội
chướng, ắt được tâm thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, thân thanh tịnh. Sau đó mới thọ
Bát Giới, như vậy, thân tâm mới lãnh thọ được giới pháp. Hết thảy tội chướng như
ngôi nhà tối ngàn năm, tàm quý sám hối như ngọn đèn chiếu phá bóng tối ngàn năm.
Cho nên quý vị thọ giới nếu sanh đại tàm quý, chân thật sám hối, chí thành lễ
Phật, chẳng những mọi sự đều thành tựu mà ba nghiệp đều được thanh tịnh.
Quy chế sám hối của Phật giáo chẳng những phải chân
thành sám hối khi thọ giới mà thường nhật cũng phải tùy thời sám hối. Nên người
học Phật tốt nhất phải lập khóa sám hối hằng ngày, hoặc khi nhận thấy mình có
lỗi là phải làm lễ sám hối chí thành, quyết không để cho chút tội ác nào tồn
tại, làm nhiễm ô thân tâm. Có người không biết tầm quan trọng của sự tự mình sám
hối, muốn thỉnh người khác sám hối cho mình. Ðiều này không thể được! Người khác
sám hối giùm tuy cũng có công đức, nhưng như trong kinh nói: “Chỉ được một trong
bảy phần. Nếu như tự mình sám hối, bao nhiêu công đức mình đều được cả”. Hơn
nữa, sám hối không hạn chế thời gian nên lấy thành Phật làm kỳ hạn mà như pháp
sám hối. Như vậy bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan.
Vua xứ Ma Kiệt Ðà là Tần Bà Ta La, một người Phật tử
thuần thành, vì túc nghiệp đời trước nên bị con là vua A Xà Thế bắt nhốt trong
ngục tối, tự biết mình nghiệp nặng, nhà vua chí thành sám hối, hướng về phía đức
Phật thưa: “Ðại Mục Kiền Liên là bạn con, xin thưa Phật từ bi cho Ngài đến
truyền Bát Giới cho con”. Mục Liên tuân lời Phật, liền đến truyền giới cho vua
mỗi ngày. Sau cùng, đức Phật từ nơi miệng phóng hào quang năm màu chiếu đến đảnh
của vua. Nhà vua tuy bị giam cầm trong ngục, song vẫn thấy được đức Phật, đầu
diện đảnh lễ, chứng quả A Na Hàm. Do tàm quý sám hối thọ Bát Quan Trai Giới,
được công đức thù thắng khó nghĩ bàn. Phương pháp sám hối có rất nhiều cách. Nay
chỉ nói công đức sám hối mà thôi.
Chương 7
Tác Pháp Lược Thuyết
Người tại gia học Phật phát tâm thọ giới, dù là Ngũ
Giới hay Bát Giới, trước khi chính thức thọ giới, vị Giới Sư truyền giới cần nói
rõ ý nghĩa thọ giới và giảng rõ duyên cảnh rộng hẹp cho giới tử để khai mở trí
huệ cho họ, khiến họ hiểu rõ tầm quan trọng của giới hạnh, khích lệ họ phát khởi
tâm chí duyên với cảnh tướng rộng lớn, vừa khiến họ lập thệ thực hành như vậy
trong thời gian đã quy định, vừa khiến họ khởi tâm từ bi đối với cảnh giới vô
biên của tình và phi tình. Có như thế, giới mới tăng trưởng. Nhận thức được cảnh
giới, tâm trí được khai phát. Vì sao lại coi quan trọng như vậy? Vì đó là điều
chủ yếu để nạp thọ giới thể. Nếu người thọ giới không nhận thức được cảnh giới
vô biên này, không mở tâm chí xa rộng thì không sao nạp thọ được giới thể. Vậy
mà hành lễ thọ giới, thực có khác gì làm trò chơi trẻ con? Như thế làm sao không
thuyết pháp khai đạo cho người thọ giới hiểu điều đó được!
Nói gì đến thời Mạt Pháp này, các vị Truyền Giới Sư
hành sự hàm hồ, mà trước đây cả ngàn năm, cũng từng sơ sót rất nhiều trong việc
truyền giới, đến độ Nguyên Chiếu Linh Chi Luật Sư của Nam Sơn Nhất Tông đời nhà
Nguyên phải than thở: “Nhiều vị Truyền Giới Sư không rành nguyên lý giới pháp
nên không thể giải thích được cho người thọ giới hiểu tầm trọng yếu của giới,
chỉ như kẻ thuộc lòng y theo sách vở mà tuyên đọc các giới. Nào biết làm như
vậy, không những thọ giới tử bị tội, mà người truyền giới cũng có lỗi lớn. Nếu
cứ như vậy mà truyền giới mãi thì giới pháp của Như Lai chẳng những không được
nâng cao mà ngược lại còn bị hạ thấp”. Quá khứ đã vậy, hiện tại còn muốn tiếp
diễn nữa sao? Quý vị mỗi lần thọ Bát Giới lại được nghe thêm ý nghĩa của Giới,
mong sao các vị hiểu rõ về giới mà biết được cảnh tướng vô biên của giới.
Các vị hôm nay tuy chỉ thọ Bát Giới, nhưng rất liên
hệ đến tiền đồ học Phật mai sau, nên khi phát tâm thọ giới, trước hết cần có sự
hiểu biết đại lược đối với các giới đang thọ. Chúng ta đã biết kinh điển của
Phật giáo không phải chỉ do Phật nói, mà có cả thảy năm hạng người nói, nhưng
giới luật của Phật giáo chỉ duy có Phật chế định, không ai có quyền chế. Ðức
Phật vì Phật tử chế đủ các giới pháp. Giới nào cũng là chế ước của mọi hành vi,
tư tưởng của chúng ta. Chẳng hạn: nơi thân không được có những hành vi bất
chính, nơi khẩu không được có những lời lẽ bất hợp lý, nơi ý không được có những
ý niệm tà vạy. Ðó là những điều cho người mới phát tâm nên đúng pháp học tập và
ngay đến chư Phật, Hiền Thánh cũng nhờ tu tập giới pháp này mà thành tựu. Vì vậy
nên gọi là Thánh Pháp. Hiện tại, phát tâm thọ giới pháp, cần nên biết cụ thể nội
dung của giới pháp để tự mình có được nhận thức chính xác.
Ðã là người chân thành phát tâm thọ giới, tất nhiên
sẽ được giới thể, có sức mạng kháng lại các hành vi phạm giới sau này. Nhưng
giới thể này làm cách nào phát được? Dựa theo khuôn khổ của Ngũ Giới và Bát
Giới, sở dĩ phát được là nhờ nương vào sự duyên nơi các cảnh y báo, chánh báo
của pháp giới chúng sanh. Như duyên nơi mười phương ba đời tứ thánh lục phàm ở
pháp giới chúng sanh thì phát được giới thể của cảnh hữu tình. Còn như duyên nơi
hết thảy vi trần quốc độ, sơn hà đại địa thì phát được giới thể của cảnh phi
tình. Ðối với những điều này, người truyền giới pháp phải giảng giải rõ cho
người thọ giới, để họ biết đối tượng phát được giới thể là gì? Ðối tượng gìn giữ
giới hạnh là gì? Nếu không, khi đã thọ giới đã không thể đắc giới thể, mà sau
khi thọ giới rồi, vẫn không biết phải trì giới thế nào. Ngẫm coi, điều này quan
hệ vô cùng đối với người thọ giới nên người truyền giới bắt buộc phải giảng rõ,
và người thọ giới phải học hỏi điều này.
Giới Sư khi khai đạo cho giới tử, phải xem trình độ
tiếp thọ của họ đến đâu. Nếu cao thì phân tích cặn kẽ, nếu thấp thì chỉ bày tổng
quát. Nhưng điều quan trọng nhất phải cho họ biết cảnh tượng của giới mà họ phải
phát sanh là gì. Nếu họ không biết chút nào về điều này, ắt có thọ giới cũng vô
ích. Ðiều đáng buồn nhất là hiện nay người truyền cũng như người thọ thực sự
hiểu rõ được các điều trên, có được mấy người? Từ xưa cho đến nay đều vậy, chả
trách Linh Chi Luật Sư than thở, cho đó là bằng chứng không may của Phật pháp.
Hoặc giả có người nói: “Thọ giới thì cứ thọ là đủ
rồi, cần gì phải nói giới cảnh của nó nữa, chỉ làm cho người thọ thêm rối rắm?”
Trong Tư Trì Ký, Linh Chi Luật Sư giải thích: “Sở dĩ chúng sanh tạo tác đủ các
ác nghiệp chính vì không hiểu biết chính xác về tình và phi tình. Giả như có
nhận thức chính xác đâu đến nỗi tạo nghiệp vô cùng như vậy. Tất cả ác nghiệp đều
sanh khởi từ cảnh giới tình và phi tình, hiện tại phát tâm thọ Luật Nghi Giới,
dĩ nhiên vẫn từ cảnh giới này mà sanh, nghĩa là cũng phải duyên nơi cảnh tượng
bao la của tình và phi tình, mới có thể phát được giới thể. Ðức Phật y cứ theo
đó mà chế lập giới pháp. Người phát tâm thọ giới nếu không hiểu rõ giới cảnh, ắt
khi thọ giới không thể dụng tâm lãnh thọ. Như vậy, đương nhiên sự khai thị giới
cảnh là điều tất yếu, không thể xem thường được”.
Ðã có nhận thức chính xác về cảnh sở duyên của sự
phát sanh được giới thể rồi, làm thế nào khai đạo người thọ giới nương cảnh phát
tâm? Phát tâm thọ giới thì dễ, nhưng phát tâm mạnh hay kém có ảnh hưởng đến sự
đắc giới thể có thù thắng hay không? Nếu phát tâm kém, ắt được giới thể không
thù thắng. Ngược lại, phát tâm mạnh, ắt giới thể thù thắng, dĩ nhiên, vì phát
tâm và đắc giới thuận chiều. Vì vậy, Giới Sư khi khai thị cho giới tử luôn luôn
khích lệ: “Nên phát tâm thượng phẩm, cầu được giới thượng phẩm”. Có tâm thượng
phẩm, ắt có trung và hạ phẩm, nhưng trong Luật không nói rõ ba phẩm tâm này khác
biệt thế nào. Có lẽ trung và hạ không thù thắng nên không đề cập tới.
Muốn cho người thọ giới niệm niệm liên tục phát tâm
thượng phẩm, điều quan trọng nhất là trước khi thọ giới phải được một vị Giới Sư
hiểu biết chính xác về Giới Luật chỉ bày thêm những điều tất yếu để có sẵn một
khái niệm rành rẽ về những điều sẽ gặp khi thọ giới. Có vậy, khi chính thức thọ
giới mới đạt được sự thanh tịnh của giới thượng phẩm. Nếu không trải qua sự khai
thọ trước như vậy, đến khi thọ giới, mới bảo họ phát tâm thượng phẩm thì chẳng
có hiệu quả gì, bởi lẽ, lúc đó nói sơ qua danh từ thượng phẩm, người thọ làm sao
hiểu được tính chất trọng yếu của giới pháp, chỉ hàm hồ làm theo nghi thức
truyền giới, mà thậm chí nhiều khi ngay nghi thức truyền giới đã không làm nên
sự, nói gì đến chuyện đắc giới thượng phẩm, chỉ e đắc giới cũng đủ là vấn đề
rồi.
Người thọ giới sau khi trải qua sự khai đạo của Giới
Sư, chân thành phát khởi tâm thượng phẩm, hợp cùng phép Yết Ma đúng pháp, thành
sự cảnh tương ưng nên được giới thể. Song lúc lãnh thọ điều hệ yếu của giới thể,
người thọ phải lưu ý: cần phải chuyên tâm nhất ý vận dụng tư tưởng duyên khắp
cảnh giới tình và phi tình. Do nhờ cảnh giới được quán rộng lớn vô biên, nên tâm
lượng năng duyên cũng theo đó mà rộng lớn vô hạn. Lại quán tưởng tự thân đồng
như hư không, biến khắp pháp giới, còn phải giữ cho quán tưởng niệm niệm phân
minh, không để cho mảy may vọng tưởng xen tạp, và không được để cho tưởng duyên
nơi cảnh giới vô quan này. Có vậy mới nạp thọ được giới thể. Giả như để vọng
niệm xen tạp, cho dù trên hình thức đang thọ giới, song thực tế vẫn không đắc
được giới thể.
Chỗ này hoặc có người hỏi: “Thể của mạng sống người
thọ giới là cái thân cao sáu thước này đây, tại sao phải quán tưởng thành như hư
không rộng lớn?” Phải biết giới pháp mà ta muốn lãnh thọ nào phải chỉ có chút
đỉnh, mà nhiều như cát bụi, làm thế nào cái sanh mạng thể chút xíu này dung chứa
được các giới pháp nhiều như vậy? Cho nên cần phải vận dụng quán tưởng, quán tự
thân biến khắp pháp giới, mới dung nạp hết mọi thiện pháp của vô biên pháp giới.
Ðủ thấy sắc thân ngũ uẩn hiện tiền này, tuy quá khứ là chỗ chiêu cảm các hoặc
nghiệp hữu lậu, nhưng nhờ tác pháp mà sanh khởi giới pháp nhiều như cát bụi,
trôi chảy trong thân tâm của sắc thân. Do vậy, nhờ sắc thân này đắc được giới
pháp. Khi chúng ta chánh thức tác pháp thọ giới phải vận dụng công phu quán
tưởng, để đưa giới pháp quy nhập thân tâm.
Ðiều quan trọng của thọ giới là phải được giới thể,
nếu không được giới thể thì thọ cũng như không thọ. Vấn đề là người thọ giới
được giới thể vào lúc nào? Có người cho rằng sau khi thọ Tam Quy, lúc thuyết
giới tướng, mới là chân chánh thọ giới và cũng mới có thể được giới thể. Nhưng
thực tế chưa hẳn vậy, khi thọ xong Tam Quy là đắc được giới thể. Trong Ngũ Giới
Chính Phạm nói: “Thọ Tam Quy rồi liền đắc giới thể”. Thọ Ngũ Giới, tiếp theo là
tuyên thuyết về Ngũ Giới tướng, thọ Bát Giới tiếp theo là tuyên thuyết Bát Giới
tướng. Yết Ma Chú nói: “Truyền Tam Quy rồi nói: Hướng về Tam Quy chính là giới
thể, nay lại tam kết (7) là chỗ quy hướng của Giới”. Ðủ thấy vừa nói dứt Tam
Quy, lập tức đắc giới thể.
Quá trình Tam Quy đắc giới như thế nào? Hoằng Nhất
Luật Sư căn cứ theo Tam Pháp Thứ Ðệ trong Tư Trì Ký giải thích: “Bất luận thọ
Ngũ Giới hay Bát Giới, khi nói ba lần thệ nguyện quy y là đã đem giới thể quy
nạp nơi tâm. Quá trình của nó như sau: Khi nói thệ quy y biến thứ nhất, do sức
quan hệ của tâm, vô biên thiện pháp ở pháp giới có thể khiến tâm niệm chuyển
động hoàn toàn, biến đổi ác pháp thành ra thiện pháp. Khi nói thệ quy y biến thứ
hai, vô biên thiện pháp hoàn toàn tụ lại trên không như mây che, khiến thân tâm
được thanh lương. Khi thệ quy y biến thứ ba, vô biên pháp giới thiện pháp bỗng
từ không trung rơi xuống, rót vào thân tâm, tràn đầy trong sanh mạng thể. Vô
biên thiện pháp như vậy chứa trong thân tâm, từ đó nương theo giới pháp này, tu
tập định huệ vô lậu, lâu dần vượt được dòng sanh tử, đến thành Niết Bàn, được
đại giải thoát”.
Giới thể đã đắc được ngay khi thuyết Tam Quy, trước
khi truyền giới đương nhiên phải nói Tam Quy và tình cảnh lúc đó như sau: Người
phát tâm thọ Bát Trai Giới, quỳ chắp tay trước Phật và Truyền Giới Sư, nói theo
Giới Sư: “Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng một ngày một đêm làm
tịnh hạnh Ưu Bà Tắc (Di)”. Nói như vậy ba lần, tiếp theo nói: “Con tên là… quy y
Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, một ngày một đêm làm tịnh hạnh Ưu Bà
Tắc (Di)”. Cũng nói ba lần như vậy. Ðó là theo Trí Ðộ Luận. Còn chỗ khác thêm
câu là: “Như Lai cho đến bậc Chánh Giác, là Thế Tôn của con”. Sở dĩ Trí Ðộ Luận
không ghi câu này vì đa số người thọ Bát Trai Giới đều đã thọ Ngũ Giới, nên đã
từng nói như vậy khi thọ Ngũ Giới, nên hiện tại lược đi không nói.
Trong Văn Quy Y dùng hai chữ “tịnh hạnh” như trên để
phân biệt với “bất tà dâm” của Ngũ Giới, biểu thị con người thọ Bát Trai Giới đã
không tà dâm mà còn tuyệt dâm. Một ngày một đêm là kỳ hạn thọ giới, khác với Ngũ
Giới là giới suốt đời. Phật, Pháp, Tăng là đối tượng quy y cho đệ tử Phật, nhưng
danh từ Tam Bảo vào thời kỳ đó ở Ấn không riêng Phật tử dùng mà có đến 96 ngoại
đạo cũng dùng từ ngữ Tam Bảo, nên để khỏi lầm lẫn giữa Tam Bảo của Phật giáo với
ngoại đạo, phải xưng đủ là quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng để chỉ rõ tôn hiệu
của Phật, Pháp, Tăng mà trong các ngoại đạo, không ngoại đạo nào đủ tư cách để
xưng như vậy. “Con tên là” là xưng pháp danh của mình, bày tỏ chính mình quy y,
không phải quy y giùm ai.
Sau khi dùng Tam Quy, Tam Kết rồi, chẳng những đã đắc
giới thể, lại còn có chỗ quy hướng, lại thuyết thêm giới tướng để người thọ đúng
pháp hộ trì. Giả như không biết giới tướng ra làm sao thì có phạm cũng không
hay, điều này thực tệ và rất nguy hại. Giới tướng nên nói thế nào? Theo Trí Ðộ
Luận: “Như chư Phật cả đời không sát sanh, cũng vậy con trọn một ngày đêm không
sát sanh. Như chư Phật cả đời không trộm cắp, cũng vậy con nay trọn một ngày đêm
không trộm cắp. Như chư Phật cả đời không dâm dục, cũng vậy con nay trọn một
ngày đêm không dâm dục. Như chư Phật cả đời không nói dối, cũng vậy con nay trọn
một ngày đêm không nói dối. Cho đến không uống rượu, không ngồi nằm giường cao
rộng, không trang sức anh lạc, hoa man, không thoa, ướp phấn hương nơi thân,
không tự ca múa hát và cố ý xem nghe cũng giống vậy. Ðã thọ tám giới, như chư
Phật cả đời không ăn quá ngọ, con cũng vậy trọn một đêm không ăn quá ngọ. Con
thọ hành Bát Giới, tùy học các pháp Phật, gọi là Bố Tát”.
Y theo văn tựa hồ có đến chín giới, nhưng thực chỉ có
tám vì sao? Xin dành lại cho phần “chi số biện biệt” sẽ giải thích. Ðối với giới
tướng này, trong Yết Ma Sớ từng giải thích: “Như chư Phật không sát sanh” là đem
cảnh giới thù thắng của chư Phật cùng các việc nên làm đề ra trước. Từ chỗ “con
tên là” trở xuống hiển thị giới tử nên làm như Phật. Nói cách khác, lấy đức Phật
làm chuẩn, đức Phật làm sao, ta làm vậy. Trí Ðộ Luận giản lược, nhưng trong các
kinh luận khác, phải qua phần vấn đáp mới tuyên thuyết giới tướng. Như hỏi có
thể giữ được không, được hay không không nhất định bó buộc, tùy sức mà hành.
Trước tiên thọ Tam Quy, rồi cảm phát giới thể của Bát
Giới, sau đó truyền giới tướng để hiểu rõ sự thọ trì từng giới. Tuy vậy, vẫn
chưa kể là tác pháp viên mãn, còn cần người thọ giới phải phát nguyện nữa. Nếu
thọ giới mà không phát nguyện, tuy có công đức, nhưng rất ít. Phải biết Bát Giới
thuộc về hạnh, phát nguyện thuộc về nguyện. Hạnh nguyện tương ưng phối hợp mới
thành phúc huệ thắng nghiệp. Nếu chỉ có giới hạnh, không có ngu
Chương 8
Chi Số Biện Biệt
Các giới của hàng đệ tử Phật thọ, phần đông có số mục
nhất định như Ngũ Giới của tại gia, Thập Giới của Sa Di… Ngay Bát Quan Trai Giới
mà quý vị thọ hiển nhiên là Bát Chi Giới, chẳng có gì đáng nói; nhưng từ các số
mục được liệt kê trong kinh, luận, lại có sai khác. Ngay đến thứ tự của các giới
điều cũng có sự khác biệt về trước sau. Sâu hơn nữa, còn khác về khai và hợp. Có
kinh khai giới điều này, kinh khác ngược lại. Sự kiện này không khỏi khiến chúng
ta cảm thấy Bát Quan Trai Giới có phần nào phức tạp.
Tuy bề ngoài có nhiều sai khác, nhưng xét về thể
nghĩa thì tánh chất của nó vẫn không thay đổi, đã chẳng tăng, cũng chẳng giảm
bớt, vẫn là Bát Quan Trai Giới mà chúng ta muốn nói đến. Vấn đề ở chỗ chúng ta
phải xử lý thế nào sự sai khác đó. Luận Tỳ Bà Sa nói: “Do vì Cận Trụ Luật Nghi
có đủ tám chi, nơi năm tăng ba, nơi mười giảm một, hợp hai làm một, khai một làm
hai”. Ðó là so sánh giữa Ngũ Giới, Bát Giới và Thập Giới; nói rõ: Bát Giới sở dĩ
thành Bát Giới là do ngoài Ngũ Giới tăng thêm ba giới, hoặc tại Thập Giới giảm
bớt đi một. Ðủ thấy Ngũ Giới, Bát Giới và Thập Giới có tánh chất tương thông với
nhau. Nói đúng hơn, lìa Ngũ Giới và Thập Giới ắt không có Bát Giới.
Trong Luận gọi là “nơi năm tăng ba”, ý chỉ Bát Giới
không phải là cái gì riêng khác, mà chính là Ngũ Giới thêm ba thành ra Bát Giới.
“Ba giới tăng thêm” như trong Luận đã chỉ rõ: “Không thoa hương thơm, đeo hoa,
múa ca xem nghe” là giới thứ sáu trong Bát Giới, lấy “không nằm ngồi giường cao
rộng” làm giới thứ bảy trong Bát Giới, lấy “không ăn phi thời” làm giới thứ tám.
Bát Giới theo thứ lớp như vậy, rõ ràng hợp “không thoa hương hoa” với “ca múa
xem nghe” làm một. Lại “ba giới tăng thêm” chính là bốn giới sau của Sa Di Giới.
Do hợp hai giới sáu và bảy làm một nên chỉ còn Bát Giới. So với mười giới của Sa
Di, Cận Trụ Luật Nghi chỉ thiếu một giới “không cất giữ kim, ngân, bảo vật”.
Trong Luận gọi là “nơi mười giảm một”. Ý nói: Hai
chúng tại gia thọ Bát Quan Trai Giới so với mười giới của Sa Di chỉ bỏ bớt một
là đủ. Phải biết mười giới sở dĩ được gọi là mười giới do vì phân khai “trang
sức huơng hoa” với “ca múa xem nghe” làm hai giới. Ðó là điều trong Luận gọi là
“khai một làm hai” và thêm giới “không cất kim, ngân, bảo vật” thành mười giới
Sa Di. Luận theo ngũ trần thì “ca múa xem nghe” chỉ hai trần Sắc và Thanh; “bôi
thoa trang sức hương hoa” chỉ cho hai trần Hương và Xúc. Bốn trần này nhiễm ô,
không dễ gây tán loạn hay trạo cử, mà dễ gây kiêu xa, phóng dật, tạo chướng ngại
cho việc tu học. Cho nên bất luận đã sống hay đang tập đời sống xuất gia đều bó
buộc phải xa rời những thứ này. Giả sử không xả hẳn thứ đó, tất khó sống an
trong cảnh xuất gia.
Bốn trần Sắc, Thanh, Hương, Xúc đã là nhân duyên
chướng đạo, vì sao “thoa xức hương hoa” và “ca múa xem nghe” lại khai hợp bất
định như vậy? Trong Luận nói như sau: “Vì trang nghiêm thay đổi tùy chỗ nên hợp
lại thành một chi”. “Trang nghiêm” ở đây có nghĩa là trang điểm, ăn mặc. Thói
thường người đời, bất luận là nam hay nữ, ở Ðông hay Tây, đều có thiên tánh
thích đẹp. Cứ bắt đầu đến tuổi, dù không ai dạy, cũng tự biết trang điểm, chẳng
những khảo cứu giỏi về y phục, lại rành rẽ về các món trang sức. Chưa đủ, còn
thêm các mùi nước hoa, phấn son đủ cả bôi trên thân thể để tăng vẻ diễm lệ cho
mình, sao cho kẻ qua đường cũng phải liếc ngó. Nhưng do vì phong tục mỗi nơi mỗi
khác nên các món trang sức không giống nhau.
Một số người cho rằng đó là “trang nghiêm”, hay gọi
theo thế tục là đẹp xinh. Nào dè đó là căn nguyên của tội ác, tội ác tày trời
nào cũng do đây sanh. Ðức Phật biết họa này không phải là nhỏ nên chẳng những
bắt người xuất gia phải mặc áo hoại sắc mà đến hàng tại gia đến chùa tu học cũng
phải ăn mặc chỉnh tề, đơn giản, tuyệt đối không được ăn mặc hoa hòe, diêm dúa.
Nước hoa, phấn sáp thoa thân, đức Phật chẳng những không cho người xuất gia
dùng, mà cả những người phát tâm tu học đời xuất gia cũng không được dùng, bởi
vì những thứ này là những ngoại duyên có sức xúc phạm đến giới pháp.
Ca múa xem nghe thuộc về cảnh giới mắt thấy tai nghe
của hai trần Sắc và Thanh. Ca múa có tánh cách bảo thủ của ngày xưa mà đức Phật
còn cấm, huống hồ loại ca múa có tánh chất đồi trụy của ngày nay. Những thứ làm
vui tai, vui mắt này, thoạt nhìn thì không thấy nguy hại, nhưng nếu thường tiếp
xúc chẳng những đạo nghiệp của ta phải hủy phế, còn từ từ phát sanh dục niệm,
khiến bao chí hướng trong sáng không còn an trụ nơi Phật pháp nữa, lâu dần bị
chuyển, lìa xa Phật pháp đến chốn sa đọa, đắm trong ca múa không thoát ra được.
Cho nên bất luận xuất gia rồi hay đang tập xuất gia tự mình không được ca múa,
và không được cố ý đến ca lâu, vũ sảnh xem nghe.
Giới tướng của Bát Giới chẳng phải chỉ có “thoa hương
trang sức” với “ca múa xem nghe” hoặc khai hoặc hợp bất đồng, cũng khi hợp “ca
múa xem nghe” với “nằm ngồi giường cao to” làm một chi. Như Tứ Phần Luật Yết Ma
và Bát Thức Chính Phạm đều hợp như vậy. Cho dù trong kinh luận có nhiều cách
giải sai biệt, nhưng người thọ Bát Quan Trai Giới vẫn nên chấp hành nghiêm chỉnh
các giới điều của đức Phật quy định, như vậy thì vẫn không có gì khác biệt.
Chẳng qua khi thuyết giới tướng, có khi đem điều này thuyết vào giới điều này,
khi thuyết vào giới điều kia, người không biết cho là có sai khác. Kỳ thật, chỉ
bảo chúng ta, những người thọ giới pháp, không nên làm cái này, cái nọ là được
rồi, còn chuyện nên theo cách hợp nào không phải là vấn đề quan trọng. Cho nên
chúng ta chỉ coi trọng tinh thuần giới luật, bất tất coi trọng thái quá đến sự
khai hợp trong văn tự.
Còn vấn đề “giường cao rộng lớn”, thiên hạ bận rộn cả
ngày, đến chiều tối ắt muốn ngủ nghỉ để khôi phục lại sức khỏe sau một ngày mỏi
mệt, nếu không cái thân mong manh này ắt không chịu đựng nổi. Giấc ngủ chỉ để
khôi phục sức khỏe nên chỉ cần ngủ sao cho ngon giấc, còn giường chiếu chỉ là
phương tiện phụ thuộc. Như thế nhân chú trọng giường nằm: nệm dầy, trướng rủ,
mềm mại thư thích đã ngược lại khiến họ điên đảo mộng tưởng, không thể được giấc
ngủ ngon lành. Như vậy đâu còn đúng như ý nghĩa chính yếu của giấc ngủ nữa. Ðức
Phật biết điều này có ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe của thân thể nên đặc biệt chế
giới “không nằm ngồi giường cao rộng” để khiến hành giả ngay đến lúc ngủ nghỉ
cũng niệm chánh đạo, tránh không để thời giờ luống không.
Giường cao rộng không được dùng, như vậy giường theo
Phật chế như thế nào? Phật chế sàng tòa cao không quá tám gang tay Như Lai (Như
Lai toàn thân cao trượng sáu thước, gang rộng hai tấc), theo thước Tàu là một
thước sáu tấc; rộng ba khủy tay Như Lai (khủy tay Như Lai dài một thước tám
tấc), theo thước Tàu là năm thước bốn tấc. Trong kinh A Hàm nói rõ: “Chiều cao
thước sáu chẳng cao, chiều rộng bốn thước chẳng rộng, chiều dài tám thước chẳng
to”. Theo kích thước này là thủ trì giới cấm của Như Lai. Nếu vượt qua kích
thước này ắt phạm giới. Người xuất gia luôn sống đơn giản, tránh kiêu xỉ mới
tương ưng với Thánh Ðạo, nên các vị tỳ kheo thời đức Phật có nhiều vị thường ngủ
dưới cội cây, có vị lại qua đêm tại gò mả, chẳng khi nào nghĩ chuyện giường nằm
có thư thích hay không. Còn như các vị ở đây chỗ nằm đơn giản, đó là tuân theo
luật chế đó vậy.
Giường nằm cao thấp to nhỏ, chẳng phải chỉ về mặt đo
lường mà cả về mặt chất liệu nữa. Như các nhà giàu có ngày xưa ở Trung Quốc,
giường nằm cũng được điêu khắc chạm trổ tinh chí, còn đính ngọc lát vàng, cho
đến các ngọa cụ như màn, mền, đều toàn bằng gấm vóc tế nhuyễn, hoa lệ cực kỳ.
Như thế, tuy về mặt đo lường không quá sự quy định của đức Phật, nhưng về mặt
chất liệu lại cao xa, hoa lệ thái quá, nên cũng không phải là chỗ dùng của Phật
tử. Nếu thọ dụng những thứ trân quý như vậy, không những thành thói quen mê
nhiễm những món xa xỉ, quên cả tu Thánh Ðạo, mà còn tăng trưởng tính kiêu mạn,
cao ngạo, thành thử đức Phật không cho hàng đệ tử hưởng thụ như vậy. Chư vị ngày
nay học tập đời xuất gia nên tập các thói quen như vậy.
Sau cùng là vấn đề “không ăn phi thời”. Có người cho
rằng giới này là giới quan trọng nhất trong Bát Giới, thật thì Bát Giới, giới
nào cũng quan trọng, khó mà phân biệt giới nào quan trọng nhất. Có điều đối với
người xuất gia, nên nghiêm cách đời sống không ăn phi thời. Tăng đoàn thời đức
Phật rất coi trọng giới này, ngay đến hiện nay, tỳ kheo của các xứ Nam Tông đều
như pháp nghiêm thủ giới này. Giả sử có vị tỳ kheo nào ăn quá ngọ, chẳng những
Tăng đoàn không chấp nhận, mà ngay đến tín chúng cũng không bỏ qua điều này.
Nhưng ở Trung Quốc, giới này đã không được xem trọng. Ðừng nói người xuất gia
không ăn quá ngọ đã không bị xã hội phê bình, mà dẫu có vị Tăng nào ăn quá ngọ
cũng thường không bị mọi người khuyên bỏ. Chư Tăng Trung Quốc chưa từng nghiêm
trì giới này, phải nói là do tại hoàn cảnh mà ra cả.
Ăn uống vốn dĩ là động lực chủ yếu để duy trì sanh
mạng, dù là sanh mạng của ai. Nếu không ăn uống tuyệt đối không thể tồn tại. Nên
trong kinh Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều nương vào ăn uống mà còn”. Quan sát
hiện thực ở thế gian cũng thấy chưa từng có ai không nhờ ăn uống mà được tồn tại
lâu dài. Thế gian sở dĩ phát sanh đủ chuyện chỉ do vì vấn đề sinh tồn. Sinh tồn
tất cần sinh hoạt. Sinh hoạt tuy có nhiều mặt, nhưng ăn uống vẫn là mặt quan
trọng nhất. Cho nên thế nhân đối với ẩm thực luôn luôn là nhu cầu, mong sao cho
mỗi bữa đều phong phú món ăn. Chính vì mọi người đều có nhu cầu như thế nên một
mai cầu không toại ý, bấy giờ các hành vi bất thiện sẽ bắt đầu hiện khởi, đưa
đến nhiều vấn đề nghiêm trọng cho xã hội, thậm chí gây ra bạo động đấu tranh.
Tuy chúng ta học Phật, nhưng vẫn là người phàm, nên
vẫn phải dựa vào ăn uống để sống hầu tu học Phật pháp. Ăn uống đã là mục đích
nuôi thân học đạo, nên chỉ cần đủ nuôi sống cho thân mạng này, sao cho sắc thân
đủ sức khỏe, là đã đạt được mục đích của sự ăn uống. Không cần phải chọn lựa hay
phân biệt ngon dở, càng không như tục nhân quen thói không thịt ăn không no! Ðối
với điều này, trong kinh Di Giáo, đức Phật chỉ bày cho các vị tỳ kheo thật hay:
“Các vị tỳ kheo coi chuyện ăn uống như là uống thuốc, dù ngon, dù dở, cũng không
tăng giảm, chỉ để nuôi thân, cốt trừ đói khát, như ong hút nhụy chỉ lấy vị hoa,
không làm tổn sắc. Tỳ kheo cũng vậy, thọ người cúng dường để trừ tự não, không
được cầu nhiều, hoại mất thiện tâm. Thí như người trí phải lượng sức bò chịu
được nhiều ít, không nên quá phần làm kiệt sức nó!” Dưới mắt đức Phật, ăn uống
chỉ là thứ thuốc trị bệnh đói khát, dù ngon dù dở, ăn uống xong hễ thấy no đủ là
được, tuyệt đối không như người tại gia ăn uống không ngại chế biến mất công,
hay thấy ngon thì ăn thêm chút nữa, nếu dở thì ít đi, mà quên cả Thánh Ðạo mình
đang tu. Ðức Phật chế tỳ kheo thác bát xin ăn, tín chúng cúng gì ăn nấy, có đâu
mà chọn lựa ngon dở! Nhưng khi Phật pháp truyền đến Trung Quốc, do vì chế độ
thác bát chưa thể thực hành, Tăng Ni tại chùa chiền tự lo ăn uống nên không
tránh khỏi chuyện lo chọn ngon dở; thậm chí tại các chùa miếu, làm món chay ngon
hơn cả món mặn nên cả ngày bỏ hết thời gian vào nhà bếp, dĩ nhiên vì vậy phải xa
lìa Phật pháp.
Ðức Phật quy định các vị tỳ kheo đối với việc ăn uống
không được để tâm đến chuyện ngon dở, cùng chế định giới “không ăn phi thời” cho
Tăng chúng. Sở dĩ gọi là “không ăn phi thời” là vì thời gian ăn đã được quy định
rõ ràng, ngoài giờ quy định này nhất quyết không ăn. Vậy thời gian nào quy định
cho ăn? Kinh Tỳ La Tam Muội nói: “Sáng sớm giờ chư Thiên ăn, giữa trưa giờ chư
Phật ăn, buổi chiều giờ súc sanh ăn, buổi tối giờ ngạ quỷ ăn. Như Lai muốn
(chúng sanh) dứt trừ lục thú (8) khiến được nhập đạo, nên chế định (thọ trai)
giờ (ăn) của chư Phật”. Ðiều này không khác gì bảo chúng ta: Tỳ kheo chỉ được ăn
một bữa giữa trưa như chư Phật, ngoài ra đều không phải là giờ ăn. Trong kinh
tuy nói vậy, nhưng vẫn có giải thích về “thời thực” và “phi thời thực” như sau:
Từ sáng sớm mặt trời mọc cho đến giữa trưa là giờ ăn được. Bóng mặt trời quá
giữa trưa một sợi tóc cho đến sáng sớm ngày hôm sau là giờ không được ăn, và gọi
đó là giữ giới ăn ngọ hay “quá ngọ không ăn”. Ăn uống là sự ham muốn lớn của
nhân sanh, không có loài nào thích thú ăn uống cho bằng loài người, đức Phật vì
sao nghiêm cách hạn chế sự ăn uống của người xuất gia? Phải biết ăn uống dù là
chuyện cần cho mỗi ngày, song có vẻ là chuyện không quan trọng, nhưng nó liên
quan rất nhiều đến đạo nghiệp của chúng ta. Tục ngữ có câu: “Ăn no sanh dâm dục”
đủ biết ăn uống là duyên tăng thượng cho dục của nam nữ. Trong Luật, sở dĩ đức
Phật hạn chế nhiều về vấn đề ăn uống, mục đích lớn nhất và cũng quan trọng nhất
là để chữa trị dục vọng cho nhân sanh. Vì dục là kẻ địch đối đầu làm chướng ngại
cho sự giải thoát, người cầu tìm giải thoát nếu muốn đối trị kẻ địch này, phương
tiện hay nhất chính là sự giảm nhẹ vấn đề ăn uống.
Giới “không ăn phi thời” chẳng riêng tỳ kheo nên giữ
mà là giới chung cho hàng ngũ chúng xuất gia, và ngay đến hàng tại gia thọ Bát
Quan Trai Giới, đức Phật cũng chế định phải giữ giới này. Như vậy, giới này rất
quan trọng đối với Phật Giáo. Nói ra thật tàm quý, các vị thọ Bát Trai Giới,
đúng theo luật chế quy định, phải đối trước chư Tăng trọn đời không ăn phi thời
mà thọ giới, nhưng chư Tăng ngày nay thì thực ít người giữ giới này. Lại phần
đông những vị Tăng phát tâm giữ giới “không ăn phi thời” này, lúc giữ, lúc bỏ,
khó mà giữ được suốt đời. Ngay đến tôi cũng chưa thể làm được, cho nên tuy vì
các vị truyền thọ Bát Quan Trai Giới, nhưng trong lòng không khỏi hổ thẹn vô
cùng. Có điều vì chư vị truyền giới rồi, các vị trong một ngày đêm có thể như
pháp thủ trì thanh tịnh, vẫn là điều tốt vô cùng.
Biện biệt phân tách chi số của Bát Giới, chủ yếu biện
biệt sự khai hợp của tam chi sau, còn năm giới đầu cùng Cận Sự Luật Nghi không
khác, bình thời giảng cũng đã nhiều. Ba chi sau đã có sự khai hợp và thứ lớp
khác nhau. Sau khi đã phân tách rõ, sẵn lược giải ba chi để quý vị hiểu biết
chính xác về Bát Giới. Song tôi muốn nhắc quý vị giới “bất tà dâm” của Ngũ Giới
trong Bát Giới phải đổi lại là “bất dâm dục”. Trong Xuất Gia Luật Nghi quy định
hoàn toàn đoạn dâm, các vị nay học đời sống xuất gia, nên phải giữ giới cả đời
không dâm của chư Phật. Nếu không trừ sạch được dâm dục, không những khó sống
đời xuất gia, mà còn ngăn trở chuyện giải thoát. Ðó là điều chúng ta phải lưu ý.
Theo sự phân biệt của chi số, Cận Trụ Luật Nghi của
chúng ta vừa đúng tám giới, đã không tăng thành chín chi được, cũng không giảm
thành bảy chi. Nhưng vì sao chỉ có tám chi? Câu Xá Luận nói: “Bốn giới chi đầu
thuộc về tánh tội, để phòng tánh tội phát sanh nên phải chế giới này. Giới ‘uống
rượu’ thứ năm thuộc về phóng dật, vì sợ thất niệm rồi vọng tạo bốn tánh tội nên
phải chế chi thứ năm ‘không uống rượu’. Ba giới sau cùng để phòng sự kiêu dật
nên Phật chế ba chi sau”. Do đó, giản lược bằng bài tụng:
Giới bất dật, cấm ngăn
Tứ, nhất, tam gồm tám
Ðể phòng các tánh tội
Thất niệm và kiêu dật
(Giới, bất dật, cấm chi
Tứ, nhất, tam như thứ
Vị phòng chư tánh tội
Thất niệm cập kiêu dật)
Chẳng những Câu Xá Luận giảng như vậy, Thành Thật
Luận cũng nói: “Trong đó, bốn giới đầu là thật ác. Uống rượu là cửa các ác, còn
ba giới sau là nhân duyên phóng dật. Người nào lìa năm món ác là nhân duyên
phúc, lìa ba món sau là nhân duyên đạo. Cư sĩ dầu yếu kém thiện pháp, nhưng có
thể khởi nhân duyên đạo nên thành tựu ngũ thừa bằng tám giới này”. Ba giới sau
của Bát Giới có thể xả lìa nhân duyên, không còn bị trần cảnh bên ngoài lay
chuyển nữa, cho nên (có thể) làm nhân duyên thù thắng cho chánh đạo, cơ sở (căn
bản) cho tam thừa thánh đạo hoàn toàn xây dựng trên các giới này. Bởi vậy, phát
tâm thọ Bát Quan Trai Giới rồi không nên coi thường các giới. Vì sao? Ba giới
sau ngỡ là bình thường, nếu không nghiêm chỉnh thọ trì thì chắc chắn ta không có
phần trong xuất thế tam thừa thánh đạo. Như vậy sao dám coi thường? Nói chung,
Bát Giới tuy là giới cho hàng tại gia thọ, nhưng thành Phật phải do nhân duyên
này mà thành tựu. Như kinh nói: “Ta nay thành Phật đạo, vốn từ Bát Giới mà ra”.
Bát Quan Trai Giới tu học Thánh Ðạo quan trọng như vậy, nên tôi hằng mong mỏi
quý vị phát tâm thọ trì.
_______________________
(8) Lục thú: còn gọi là lục đạo, gồm Thiên, Nhân, A
Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỷ và Ðịa Ngục.
Chương 9
Vấn Ðề Liệu Giản
Hôm nay là lần thứ chín quý vị thọ Bát Giới, trong
các lần trước tôi đã trình bày nhiều vấn đề liên quan đến Bát Trai Giới, hiện
tại muốn cùng các vị liệu giản một số vấn đề, để các vị trong lòng không còn mối
thắc mắc nào nữa về Bát Giới, an tâm phụng trì hàng tháng, không còn thối tâm.
Nhờ vậy, các vị có thể dựa vào công đức này băng qua khổ hải, không còn đắm chìm
trong sanh tử nữa.
Thuở giờ đệ tử Phật được chia làm bảy chúng có giới
pháp khác nhau, như hai chúng tại gia có Ngũ Giới: tỳ kheo và tỳ kheo ni có Cụ
Túc Giới, sa di và sa di ni có thập giới, thức xoa ma na có sáu pháp giới. Còn
các vị thọ Bát Giới thuộc về chúng nào? Trước hết, phải biết Bát Giới là giới
một ngày một đêm còn Ngũ Giới thuộc giới tận hình thọ (giới suốt đời). Nếu nói
Bát Giới thuộc về hai chúng tại gia thì Bát Giới không phải là giới tận hình thọ
nên tợ hồ không thuộc về hai chúng tại gia. Như thế phải quyết định thế nào?
Bát Giới không phải là giới tận hình thọ nên nếu bảo
người thọ giới này thuộc ưu bà tắc (di) ắt không khỏi có vấn đề xảy ra. Bởi
thông thường có giới tận hình thọ mới gọi là ưu bà tắc/di. Song người thọ Bát
Giới trên thân mang giới trọn ngày đêm, lại không có tên nào để chỉ, nhưng trong
học phái Phật giáo có khi gọi hạng người này là Trung Gian Nhân (người ở giữa).
Như Tát Bà Ða Luận nói: “Người thọ Bát Giới trong thất chúng, thuộc về chúng
nào? Tuy không có giới chung thân nhưng có giới một ngày một đêm nên gọi là ưu
bà tắc. Nếu gọi như vậy lại không có giới chung thân; nếu không gọi như vậy lại
có giới một ngày một đêm, nên chỉ gọi là Trung Gian Nhân, tức ngoài thất chúng
còn có Mộc Xoa Bát Giới”. Sự thật, người thọ Bát Giới cũng có thể gọi là ưu bà
tắc, song phải thêm hai chữ “tịnh hạnh”, nên khi thọ giới pháp, danh xưng thích
hợp nhất là “tịnh hạnh ưu bà tắc/di”.
Phần trên đã nói người thọ Bát Giới nằm ngoài thất
chúng là do nơi sự phân biệt của các học giả Hữu Bộ về giới tận hình thọ và giới
nhật dạ; nhưng từ các kinh Hữu Bộ thành lập một phái riêng gọi là Thành Thật
Luận Chủ, nói trong Thành Thật Luận, người hành Bát Giới không ngoài thất chúng,
bởi vì Bát Giới thông suốt và thu nhiếp hai chúng tại gia. Lại xét lý do Phật
chế Bát Giới thì chính vì tại gia chúng. Gần đây, Hoằng Nhất Luật Sư trong Phổ
Khuyến Xuất Gia Nhân Thường Ưng Thọ Bát Giới Văn, tuy dựa theo kinh Dược Sư
chứng minh người xuất gia cũng nên thường thọ Bát Trai Giới, nhưng người phát
tâm thọ Bát Trai Giới dĩ nhiên đa số vẫn là người tại gia. Ðồng thời, người thọ
Bát Trai Giới đa số đã thọ Ngũ Giới (không thọ Ngũ Giới vẫn có thể thọ Bát
Giới). Hiện tại, tuy chỉ thọ giới một ngày đêm, nhưng nhờ sự tuyệt dâm nên thắng
hơn Ngũ Giới không tà dâm, do vậy gọi là tịnh hạnh ưu bà tắc/di. Các vị đều đã
rõ, nếu thọ trì được đủ năm giới thì thật lý tưởng. Nhưng nếu cảm thấy không thể
giữ nổi các giới tôn nghiêm này, đức Phật cũng từ bi phương tiện cho. Hơn nữa,
cũng không quy định cứng ngắc, do người phát tâm tùy sức muốn thọ trì bao nhiêu
giới thì thọ bấy nhiêu nên có bán phần, mãn phần, đa phần, thiểu phần, nhất phần
ưu bà tắc/di khác nhau. Vấn đề hiện tại các vị thọ Bát Trai Giới có phải thọ
toàn bộ hay không? Căn cứ theo phẩm Bát Giới của Thành Thật Luận: “Ðiều này cũng
không nhất định, tự lượng sức mình thọ được bao nhiêu thì thọ bấy nhiêu, tuyệt
đối không nên miễn cưỡng. Nếu cứng ngắc quy định phải thọ hết, giả như không thể
nghiêm trì, há chẳng gây thêm tội sao?” Cho nên chúng ta thường nói: Ðức Phật
chế giới rất linh động, mục đích để giúp người giải thoát, không phải để làm khó
người.
Khi thọ Bát Quan Trai Giới phải thọ từ sáng sớm trong
ngày là đúng pháp nhất, nếu để sau ngọ mới thọ thì không đắc giới. Nhưng trong
Bà Sa Luận lại phương tiện nói: “Người phát tâm thọ giới giả sử nghĩ rằng ngày
mai mình phải thọ giới, nhưng đến lúc đó, tự nhiên gặp chuyện phải lo, quên béng
mất Bát Quan Trai, cho đến khi xong việc về nhà dùng bữa mới chực nhớ lại, vội
đến thọ Bát Quan Trai Giới cũng có thể được. Nhưng điều này không những không
thể coi là đương nhiên mà phải sanh tâm tàm quý, cho rằng mình quá lơ là, từ nay
về sau không được làm thành lệ”. Nếu một lần như vậy, rồi từ đó trở đi cứ vậy mà
làm thì thực trái với pháp. Mong các vị lưu ý điều này cho.
Người thọ Bát Giới phải thọ nơi Truyền Giới Sư, dĩ
nhiên Giới Sư phải là người xuất gia. Trong ngũ chúng xuất gia, chúng nào cũng
làm Bát Giới Sư được, chỉ cần vị này thủ trì giới “không ăn quá ngọ”. Nhưng hiện
tại lại phát sanh vấn đề, vạn nhất không có Tăng thì ta phải làm sao để thọ
giới? Có phương tiện nào đặc biệt cho chúng ta thọ giới không? Có thể đối trước
Phật, tự nguyện thọ hành Bát Giới, vẫn đắc giới như thường. Lỡ tượng Phật không
có thì phải làm sao? Vẫn có thể thọ giới, nhất tâm hướng về không trung, trong
tâm tưởng và miệng nói như vầy: “Con nay thọ trì Bát Quan Trai Giới”. Như vậy
cũng vẫn đắc giới. Bởi vì Pháp Thân chư Phật biến khắp hư không, hành giả cứ
dụng tâm chí thành, tâm cung kính, tâm ân trọng, tâm thanh tịnh mà cầu tất sẽ
cảm ứng và được đắc giới.
Thọ hành Bát Giới là chuyện đại công đức. Nhiều người
phát tâm thọ giới này, đó là điềm lành. Vì như thế chẳng những chứng tỏ tâm
người hướng nhiều về thiện, còn cho thấy Phật pháp được phổ cập hơn. Nhưng thêm
một vấn đề là phát tâm thọ một lúc nhiều người hay chỉ riêng một người thọ thôi?
Hành Sự Sao trích dẫn kinh Thiện Sanh: “Thọ Bát Giới không được đông, chỉ riêng
mình thọ”. Sở dĩ trong kinh nói “chỉ riêng một người thọ” vì để hành giả chuyên
tâm nhất ý đến giới hạnh mình thọ, không để cho tâm niệm thuần khiết này bị các
hỗn loạn khác làm động. Hiện tại, các vị thọ Bát Quan Trai Giới, trên tình lý
thì không có gì hại, nhưng đối với Giới Luật thì không mỹ mãn, nhưng đó là biện
pháp bất đắc dĩ, chỉ mong các vị bảo trì nghiêm túc, không nên gây ồn náo.
Thọ hành Bát Giới dĩ nhiên là nhiều công đức, song
hiện tại nếu có người trước kia làm việc cho chánh quyền, rồi vì nhiệm vụ mà
từng giết hay đánh đập người khác, nay phát tâm học Phật, muốn đến cầu thọ Bát
Trai Giới, thì có đắc giới hay không? Ðối với vấn đề này có thể nói: “Bất kể quá
khứ họ ác như thế nào, tạo tội đến đâu đi nữa, nay phát tâm cầu thọ Bát Trai
Giới, chỉ cần chí thành khẩn thiết sám hối các nghiệp tội quá khứ thì vẫn thành
tựu giới pháp. Nếu không chịu sự sám hối thì do các nghiệp tội sâu dày kia cản
trở, nên có thọ giới cũng không thành tựu giới pháp”.
Ngay bản thân người thọ giới cũng vậy, giả sử xưa nay
thọ trì rất thanh tịnh, chưa từng động niệm phạm giới, nhưng gặp phải ác duyên
đặc biệt bức phải bỏ giới, thử hỏi nên phương tiện xả như thế nào? Biện pháp lý
tưởng và hay nhất đương nhiên là dùng vô số các phương tiện thiện xảo, trang
nghiêm hộ trì, thà mất sanh mạng này quyết không bỏ các giới đã thọ. Còn như
trong tình cảnh bất đắc dĩ, không xả giới không xong, muốn hy sinh tính mạng
cũng không được, lúc đó đành phải phương tiện xả giới pháp. Khi xả giới pháp,
chỉ cần một người chứng, nói rõ nhân duyên bất đắc dĩ phải xả giới là xong,
không cứ phải xả giới trước chư Tăng, vì đó là bị ác duyên phải xả giới, đâu
phải là ý mình muốn.
Bị ác duyên bức phải xả hoặc hủy giới tuy vẫn là
nghiệp tội, song không nặng vì không phải ý muốn của chính mình, nên khi thoát
được ác duyên rồi, chí thành sám hối để trừ diệt tội lỗi, sao cho đến khi sám
hối cảm được điềm lành. Lúc đó mới thỉnh cầu thọ lại giới, như vậy vẫn thành tựu
giới pháp. Trường hợp có người không do ác duyên mà do tự phiền não nơi mình
xung động khiến tâm ô nhiễm, hủy phạm giới pháp của Như Lai, tội người này nặng
hơn người trước, khó lòng mà sám hối để được thọ giới lại. Vì vậy, phải trang
nghiêm hộ trì các giới đã thọ.
Người thọ giới phải thọ thọ trì giới thanh tịnh không
được hàm hồ. Nhưng ở thế gian này, chuyện gì nói cũng dễ, làm mới khó, nhất là
tịnh giới của Phật pháp lại càng không đơn giản như ta tưởng tượng nên Ấn Thuận
Luật Sư nói: “Thọ giới thì dễ, giữ mới khó”. Như thọ Bát Trai Giới, chẳng những
không được giết mà ngay đến đánh đập chúng sanh cũng không được. Có nhiều người
quen thói đánh mắng người, nghĩ rằng hôm nay thọ giới nên tạm thời không đánh
mắng, mai xả giới rồi thì ta tha hồ đánh mắng. Lối suy nghĩ này tuy hôm nay
không gây tội, nhưng không thể bảo là trì giới thanh tịnh. Hoặc gặp chuyện gì
xúc phạm đến ý mình, liền nổi lôi đình, hoặc có chuyện phiền não gì của mình mà
gây thương hại đến tâm ý người khác. Như vậy bề ngoài xem có vẻ không phạm giới,
nhưng trì giới kiểu này thật bất tịnh.
Do vậy, đủ biết muốn được giới hạnh trang nghiêm
thanh tịnh phải luôn luôn kiểm điểm ba nghiệp, thân khẩu không được làm mất oai
nghi, ý không được vọng khởi tham, sân, si. Như vậy mới được gọi là trì giới
thanh tịnh, cho nên tôi thiết tha mong các vị hộ trì tịnh giới như giữ tròng con
mắt, để tránh được mọi tội ác. Người thọ Bát Trai Giới nếu có điều vi phạm giới
pháp, không những không tăng tiến các giới khác, cũng không thể sanh trưởng các
thiện pháp. Vì vậy, phải luôn cẩn thận như pháp trì giới.
Giảng đến đây, tôi muốn kể một câu chuyện để chứng
minh chuyện được mất của trì và không trì giới.
Thuở Phật tại thế, một lần Ngài thuyết pháp tại Kỳ
Viên tinh xá, có đông đủ chư Bồ Tát và Thanh Văn chúng, xế chiều có hai vị tiên
nhân đến trước Phật. Hai vị này do quá khứ từng thọ Bát Quan Trai Giới, nhờ công
đức này được sanh cõi trời, thân phóng hào quang, nên khi họ tới, Kỳ Viên được
hào quang chiếu sáng như ban ngày, khiến toàn tinh xá chiếu ánh sáng vàng như
bảo quang. Ðức Phật biết rõ lai lịch của họ, đợi họ phóng hào quang xong, Ngài
tùy theo căn cơ mà thuyết pháp cho họ. Hai người này nghe diệu pháp của chư Phật
như uống nước cam lồ, tâm khai ý giải, đốn ngộ được đạo huyền, siêu xuất tam
giới, nên đảnh lễ đức Phật, trở về cõi trời. Ngày hôm sau, A Nan bạch Phật: “Hai
vị tiên nhân hôm qua đến cầu pháp Thế Tôn, oai tướng kỳ đặc, tịnh quang diệu mục
hơn các ánh sáng thường thấy, không biết họ nhờ công đức gì mà được phúc báo thù
thắng như vậy? Cúi mong Thế Tôn từ bi khai thị”.
Ðức Phật liền kể cho A Nan nghe: “Cách đây không lâu,
vào thời kỳ Mạt Pháp của đức Phật Ca Diếp, có hai vị đạo sĩ tu cầu sanh Phạm
Thiên, không những sanh cùng ngày, ở cùng nơi, lại là bạn cùng chí hướng. Nghe
được sự lợi ích của Phật pháp, nhất là sự dễ tu tập của Bát Quan Trai Giới và
công đức thù thắng của pháp tu đó nên hai vị tu sĩ tịnh hạnh này, vốn là dòng Bà
La Môn, nhưng vì phát tâm cầu Bát Trai Giới, nên chẳng ngần ngại tìm đến chư
Tăng cầu thọ giới pháp. Chư Tăng thấy hai người chí thành cầu giới nên như pháp
truyền Bát Quan Trai Giới cho họ. Hai người tuy chí tâm cầu Bát Trai Giới, song
tâm niệm mỗi người mỗi khác. Bà La Môn lớn muốn nương nhờ công đức Bát Trai Giới
để được sanh thiên hưởng phúc báo. Bà La Môn trẻ lại muốn nhờ công đức Bát Trai
Giới để kiếp sau trở lại thân người, làm vua ở thế gian.
Sau khi thọ giới, ai trở về nhà nấy, nghiêm túc trì
giới, nhất là giới “quá ngọ không ăn”. Nhờ công đức trì giới không phạm, anh Bà
La Môn trẻ sau khi mạng chung, được như nguyện thác sanh về nhân gian làm vua
một nước. Còn vị Bà La Môn lớn bị người vợ bức bách quấy rầy, nên phải chiều vợ
ăn phi thời, phá hỏng giới “không ăn quá ngọ”. Do ác duyên này, không những
không thành tựu ý nguyện sanh thiên mà đọa lạc vào đường súc sanh làm rồng. Từ
đó, người và thú cách biệt, mỗi người chịu quả sướng khổ của riêng mình, không
nhận ra nhau nữa. Một hôm, từ suối trôi vào một quả xoài. Người làm vườn vớt
được, đem dâng cho người chủ vườn. Chủ vườn lại dâng cho người khác, rồi đến tay
vua. Nhà vua thuở giờ chưa ăn xoài, nay thấy ngon miệng nên muốn ăn mỗi ngày,
liền ra lệnh cho chủ vườn phải dâng xoài mỗi ngày. Nếu trái lệnh sẽ bị tội hình.
Chủ vườn về nhà sợ hãi ngồi khóc, tiếng khóc vang đến tai rồng ở con suối này.
Rồng liền hóa thành một ông lão đến hỏi chủ vườn vì sao lại khóc thảm như vậy?
Chủ vườn kể rõ câu chuyện. Ông lão an ủi: “Nhà ngươi đừng buồn, lão sẽ giúp nhà
ngươi có xoài mỗi ngày, có điều khi dâng xoài lên vua, bảo nhà vua rằng: Lão với
nhà vua vốn xưa là bạn thân đồng tu Bát Quan Trai Giới. Nhà vua nhờ giữ giới
thanh tịnh, lại cầu làm vua nên được như nguyện. Còn lão vì giữ giới không trọn,
nên phải chịu thân rồng. Nay muốn thoát thân này, chỉ có cách tu trì Bát Trai
Giới nên xin nhà vua vì lão mà tìm giúp pháp Bát Trai Giới để lão sớm thoát thân
này”. Chủ vườn hôm sau dâng xoài và chuyển lời ông lão đến vua. Nhà vua nghe
xong kinh sợ, ngặt nỗi thuở ấy Tam Bảo đã không còn ở thế gian, hà huống Bát
Quan Trai Pháp! Nhà vua vấn kế trí thần, trí thần tuy nhiều mưu trí song cũng bó
tay. Người cha ông ta thấy con có điều suy nghĩ mới hỏi lý do. Trí thần bày tỏ
mọi sự, người cha bèn bảo đổi cột nhà xem có không. Quả nhiên trong cột có kinh
Thập Nhị Nhân Duyên và kinh Bát Quan Trai. Trí thần mừng rỡ đem kinh dâng vua.
Vua đem kinh đựng trong hộp vàng, đích thân đem giao cho rồng. Từ đó, rồng tại
Long cung phụng hành Bát Giới, chuyên tu không nghỉ. Vua tại cung điện cũng nỗ
lực tu Bát Giới, đến khi quả trổ, cả đôi bạn này đều sanh thiên hưởng phúc báo.
Hai vị này trượng thừa công đức Bát Giới tối qua đến Kỳ Viên tinh xá, thỉnh ta
thuyết pháp. Nghe pháp xong, chứng được Thánh Quả, từ nay không còn chịu sanh tử
trong tam giới nữa”.
Câu chuyện trên đây cho ta thấy công đức của Bát
Giới, cũng như quả báo của sự trì giới không hoàn hảo, nhất nhất đều có quả báo.
Các vị thọ Bát Giới nay đã hiểu rõ, ắt chuyện sanh thiên hưởng phúc hay giải
thoát thoát sanh tử không còn là vấn đề nữa. Nên hãy chuyên tâm phụng hành như
pháp, “không một sát na khởi tục niệm hay giải đãi thân tâm, cần tu lục niệm, hộ
trì bát chi, nghiệp phiền não tận, tự nhiên thiện nghiệp khai phát. Nhân xuất
thế do đây thành tựu”.
Chương 10
Lục Niệm Tu Pháp
Phần này nói về pháp tu Bát Quan Trai Giới. Thông
thường thọ bất cứ giới gì, mọi người cũng chỉ tiêu cực không làm điều này, tránh
gây điều kia là đủ, nhưng đệ tử Phật còn có cách tu trì các giới. Bát Trai Giới
của chư Phật chỉ vỏn vẹn một ngày một đêm, nên ngoài thời gian tác pháp thọ giới
nên lợi dụng tối đa thời gian còn lại vào việc tu trì giới pháp, không để một
sát na nào trôi qua luống không. Có vậy mới không uổng một ngày thọ giới, gieo
duyên trọn vẹn với Phật pháp, mới chơn chánh thọ dụng được Phật pháp.
Trong Bát Quan Trai Giới hội này, chúng ta đã có nghi
quỹ tu trì, ngoài hai thời công phu sớm chiều, còn tụng niệm kinh Kim Cang, xưng
niệm hồng danh đức Phật. Tôi cùng các vị bàn luận các vấn đề về Bát Quan Trai
Giới để mong sao các vị đạt đến trình độ hành giải tương ưng. Trong kinh, đức
Phật dạy trong ngày thọ Bát Trai Giới phải nên tu tập nghĩ niệm, đó là niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên. Kinh A Hàm thêm niệm Thí,
thành ra sáu niệm, có ý nghĩa như sau:
- Thứ nhất niệm Phật: Phật là bậc Thánh ở thế gian,
bậc Chánh Giác viên mãn, rõ được Thật Tướng của chúng sanh. “Chánh Giác của Thế
Tôn từ mình lan đến người, rồi trải khắp thế gian, triệt ngộ tự thân và cho
người, Trung Ðạo giữa tâm và vật. Do trí huệ quán chiếu khởi tâm từ bi đến mọi
loài”. Cho nên bậc Chánh Giác chẳng những đạt được cứu cánh giải thoát ngay tại
thế gian này, còn cứu vớt được hết thảy chúng sanh khiến đều được Chánh Giác như
Ngài không khác. Như vậy, đủ thấy đức Phật có công đức thanh tịnh bất khả tư
nghì. Niệm Phật không như người ta hay nghĩ là dùng miệng xưng niệm thánh hiệu
mà phải tư niệm công đức vô tận của đức Phật, như niệm tướng hảo của Phật trừ
được tánh nóng giận, niệm Thật Tướng của chư Phật chứng được diệt được mọi ác
niệm, niệm các pháp môn của Phật trừ được sự ngu si, niệm mười danh hiệu Phật
vừa tăng tiến công đức cho mình, vừa giúp người nghe diệt được tâm khinh mạn,
sanh tâm kính ngưỡng chư Phật, không dám khởi niệm ác. Lại phải biết đức Phật là
bậc đầy đủ trí huệ, chúng ta nếu thành tâm niệm Phật, ắt dẫn khởi được trí huệ
sẵn có của ta, lúc đó tự nhiên sẽ khuynh hướng về chân lý mà chư Phật đã thể
hiện. Trí huệ không những là điều cần thiết để thể ngộ chân lý, còn là búa sắc
để chặt mọi dây rợ phiền não. Niệm Phật có thể khai mở trí huệ, dễ như vậy sao?
Niệm Phật là một pháp môn trọng yếu, chẳng những các vị chuyên tông như Tịnh Ðộ
khuyên người niệm Phật, ngay đến bên Nguyên Thủy cũng có pháp Niệm Phật. Song
đức Phật ban đầu chỉ bày cho người niệm Phật là muốn họ niệm công đức thanh tịnh
của chư Phật, không phải chỉ xưng danh xuông.
- Thứ hai, niệm Pháp: Pháp là những lời dạy của chư
Phật, Pháp của Phật không nói bằng trí tưởng tượng mà nói theo sự thật chứng.
Pháp thật chứng này không gì khác hơn chân lý vũ trụ nhân sanh, cũng là quy luật
của đạo. Phải tuân theo quy luật của đạo, thể ngộ được chân lý của vũ trụ nhân
sanh mới thành Phật được. Ðức Phật giác ngộ được chân lý, không như thế hay giấu
diếm mà lập tức chỉ bày cho đại chúng, giúp mọi người hiểu đâu là lẽ thật của
các pháp, đâu là quy luật của đạo, tiến đến cung điện của chân lý. Pháp trên lập
trường tu học vô cùng trọng yếu, đừng nói chúng ta không y Pháp, không sao thể
ngộ được chân lý, đến chư Phật nếu không có Pháp cũng không thể thành Chánh
Giác. Vậy đạo cứu cánh là gì? Ý chỉ đức hạnh Trung Ðạo, sự thực tiễn hành trì
của thân tâm, đó là hướng thượng, hướng thiện, hướng giải thoát, nói đúng hơn đó
chính là Bát Chánh Ðạo mà mọi người đều biết. Người hướng thượng khéo hành Bát
Chánh Ðạo, ắt “có tri kiến chính xác, tất đạt được mục đích”. Song trong thực
tiễn, hành Bát Chánh Ðạo chính là chánh hạnh, không tà, không lệch. Như vậy
“chánh hạnh hướng thượng, hướng giải thoát, đạt được cứu cánh vô thượng”, thực
hiện được mục đích cứu cánh này cũng gọi là Pháp. Trong kinh gọi là Vô Thượng
Pháp, Cứu Cánh Pháp, cũng gọi là Thắng Nghĩa Pháp. Nói theo chỗ chứng là Duyên
Khởi Chánh Pháp. Duyên Khởi Chánh Pháp thấu suốt trong ngoài, biến khắp mọi nơi
không đâu không có, người nào chứng được nó, ắt thể ngộ được chân lý, thành bậc
Tự Giác, tự chứng giải thoát tự tại. Vì vậy, đức Phật muốn chúng ta thường tư
niệm Pháp, để thân tâm thường hành theo chân lý của Pháp, ngõ hầu sớm được tự
tại giải thoát.
- Thứ ba, niệm Tăng: Tăng là một trong Tam Bảo, cũng
là nhân vật chủ yếu của Trụ Trì Tam Bảo, có địa vị đặc thù trong Phật pháp.
Trong Luật tuy nói nhiều thứ Tăng khác nhau, nhưng niệm Tăng ở đây có nghĩa niệm
Chơn Thật Tăng, hay niệm Thanh Tịnh Tăng. Sao gọi là Thanh Tịnh Tăng? Ý chỉ các
vị Thánh Tăng hoặc các phàm phu Tăng trì giới. Các vị Tăng này ở thế gian thực
khó kiếm, nơi thân tâm họ có đầy đủ các món công đức, có thể nhiếp hóa thế gian,
làm phúc điền cho chúng sanh. Chúng ta nếu thường tư duy quán sát theo các vị
này, hoặc lễ bái cúng dường, ắt được đủ phúc đức. Sao gọi là Chơn Thật Tăng? Ðó
là các vị Thánh Tăng chứng được Tứ Hướng, Tứ Quả (9). Họ đầy đủ Trí Ðức và Ðoạn
Ðức (10), đủ tư cách để gọi là “đại trượng phu” như xưa nay vẫn nói. Tứ Hướng và
ba quả đầu đã phần nào chứng Ngũ Phần Pháp Thân. Ngũ Phần Pháp Thân là Giới,
Ðịnh, Huệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến. Ðến địa vị quả Thánh, bất luận
tánh giới (11) hay già giới (12), những giới họ đã thủ đều thọ đều thủ trì rất
thanh tịnh, giới thể của họ không sao hoại được, nên thành tựu được Giới Thân.
Ðồng thời không còn hoặc loạn khi tu học Bát Giải Thoát hoặc (13) Cửu Thứ Ðệ
Ðịnh (14), nên thành tựu Ðịnh Thân. Do trí huệ vô lậu thấy suốt được chân lý Tứ
Ðế nên thành tựu Huệ Thân. Ðạt được sự giải thoát nơi cách hành hữu vi nên thành
tựu Giải Thoát Thân. Lại đối với sự phân biệt nhân quả, giải thoát, không còn
mảy may thác ngộ nên thành tựu Giải Thoát Tri Kiến Thân. Chơn Thật Tăng thành
tựu công đức Ngũ Phần Pháp Thân này, nếu chúng ta vận dụng tam nghiệp tinh cần
lễ bái, cúng dường, tự niệm các món công đức của họ ắt cũng sẽ tăng trưởng công
đức của mình. Ðó là niệm Tăng đúng pháp.
- Thứ tư, niệm Giới: Giới là quy luật của đạo đức. Là
đệ tử Phật, tất phải hành động, suy nghĩ đều trong khuôn khổ của đạo đức. Hễ
thấy hợp với quy luật đạo đức thì mới làm. Có vậy thân tâm mới thanh tịnh. Ðệ tử
Phật do thân phận bất đồng nên giới thọ cũng khác. Như hai chúng tại gia thọ năm
giới, xuất gia tăng ni thọ Cụ Túc Giới, sa di, sa di ni thọ mười giới. Thức xoa
ma na thọ sáu pháp giới. Các giới tuy thọ có khác, nhưng thọ trì theo pháp thì
không khác. Thọ trì cấm giới của Như Lai đã được công đức thù thắng, lại thêm
hành động được quy củ. Theo Tỳ Ni Nghĩa Sao: Tại gia nhị chúng Tam Quy, Ngũ
Giới, nghe Phật thuyết pháp có thể chứng được tam và tứ quả. Các vị hiện tại thọ
Bát Trai Giới tuy chỉ có một ngày đêm, nhưng công đức rất ư thù thắng. Ngẫu Ích
Ðại Sư từng nói: “Chỉ cần nhân duyên một ngày đêm Bát Quan Trai tất được đầy đủ
kho báu hết thảy hằng hà sa số vô lượng công đức của Phật Pháp. Trai Giới là
pháp giới, nhất thiết pháp đều hướng đến Trai Giới ắt hướng đến sự không tạo lỗi
lầm, đó gọi là Niệm Giới”. Trai Giới chỉ một ngày đêm còn được công đức thù
thắng như vậy, huống hồ là các giới như Ngũ Giới, Thập Giới, Cụ Túc Giới thọ
suốt đời. Hay như Tam Tụ Tịnh Giới đến tận vị lai các kiếp thì công đức không
sao tính kể được. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Thọ trì đầy đủ các oai nghi giới pháp,
khiến hạt giống Tam Bảo không bao giờ dứt”. Tịnh hạnh liên quan đến sự tồn tại
của Tam Bảo nên chớ coi thường Giới Luật. Như thường tư niệm công đức của Giới
Hạnh, ắt không sao vi phạm tịnh giới.
- Thứ năm là niệm Thiên: Ðệ tử Phật tư duy công đức
của Tam Bảo, đó là lẽ tự nhiên, nhưng vì sao lại phải niệm Thiên? Thông thường
đối với Phật pháp, không nên cầu sanh Thiên. Sanh Thiên không phải là cứu cánh
của Phật tử, vậy niệm Thiên còn có ý nghĩa nào khác? Quả thực, chư Thiên không
phải là cứu cánh, đức Phật vẫn căn dặn: Sanh Thiên không phải mục đích của học
Phật. Nhưng khi chưa giải thoát, hãy còn trôi lăn trong lục thú thì phúc lạc ở
cõi trời vẫn hơn xa cõi người, nên vẫn là chỗ mong cầu của con người. Song không
phải cứ muốn sanh Thiên là sanh, cũng phải có đủ nhân duyên sanh thiên, hoặc
công đức sanh thiên. Nói đúng hơn, niệm Thiên không có nghĩa cầu phúc lạc ở cõi
Thiên, mà chính là niệm công đức của chư Thiên, rồi so sánh tự thân xem mình có
đủ các công đức này không? Trải qua sự tư niệm như vậy, mới thấy mình có công
đức tin Tam Bảo, công đức trì tịnh giới, công đức nghe Phật pháp, công đức thí
cho kẻ nghèo, công đức có trí huệ phân biệt, chính nhờ mình có đủ các món công
đức như vậy, mà tin rằng không những mình có đủ công đức sanh Thiên hưởng phúc
lạc, mà từ từ sẽ đến được thành Niết Bàn. Có được sức tự tin như vậy, càng dõng
mãnh hành thiện pháp, không còn có thể đọa lạc được nữa. Ðó là niệm Thiên của
Phật pháp. Lại nữa, pháp môn niệm Thiên này trong A Hàm và Trai Kinh nói là niệm
Lục Thiên ở Dục Giới vì niệm giới được sanh Thiên. Hoa Nghiêm kinh nói niệm
Thiên là công đức của hàng Ðại Sĩ Nhất Sanh Bổ Xứ ở cung trời Ðâu Suất. Niết Bàn
kinh nói niệm Thiên là niệm Ðệ Nhất Nghĩa Thiên, đó là nói sâu hơn. Còn niệm
Thiên theo chúng ta ở đây là niệm công đức Lục Thiên như kinh A Hàm.
- Thứ sáu, niệm Thí: Trong kinh Phật Thuyết Trai
không đề cập đến niệm Thí. Song các kinh khác đều nói đến Lục Niệm, niệm cuối
cùng là Niệm Thí. Ngẫu Ích Ðại Sư nói Niệm Thí có thể được nhiếp trong Niệm
Thiên bởi lẽ Thí là một điều kiện để sanh Thiên. Trong Lục Niệm pháp môn có nói
đến Niệm Thí. Bố Thí là pháp thiện lợi tha, vì tại thế giới này, nhất là Ấn Ðộ
từ xưa đến nay, người bần cùng luôn luôn đa số. Ðức Phật xuất hiện tại Ấn, cũng
có thể bảo là do vì muốn cứu tế kẻ bần cùng, cho nên trong kinh điển, đều luôn
nhấn mạnh đến công đức bố thí. Vì thế, các đệ tử tại gia giàu có của Phật thường
hay bố thí rộng lớn; như trưởng giả Lê Tư Ðạt Ða được đức Phật cảm hóa, nên
thường làm: “Từ nay về sau, cửa không khép chặt, cũng không xua đuổi chống lại
các tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di cho đến người lỡ đường”. Lại còn có
thể: “Bố thí khắp bốn cửa thành, bố thí cho người nghèo khổ ở thành lớn”. Cứu tế
người bần cùng, xả thí vật sở hữu, công đức này rất lớn. Mỗi người nên tùy khả
năng mà bố thí, không những giúp người thiếu ăn thiếu mặc được no đủ, còn giúp
cho mình vun trồng thêm công đức thù thắng. Ðệ tử Phật, nhất là hàng tại gia,
nên dùng tiền của có dư vào việc trợ giúp cho người nghèo khổ được cùng hưởng
phúc lợi, như vậy tất được quả báo thù thắng. Người ta sở dĩ không chịu bố thí,
vì không biết bố thí có công đức lớn, nếu thường niệm Thí ắt thích hành thí.
Lục Niệm pháp môn theo kinh A Hàm, chủ yếu nói cho
hàng học Phật tại gia. “Ðó là bởi vì lý trí của tín chúng bạc nhược, không thể
dùng trí chế ngự tình cảm, bị các cảnh sanh tử biệt ly, cô quạnh lạnh lẽo não
loạn cho nên dạy họ niệm - quán tưởng - công đức Tam Bảo, niệm công đức trì giới
và bố thí, niệm tất sẽ sanh Thiên và được an lạc”. Trong Trai Kinh cũng nói:
“Phụng trì Bát Giới, tập ngũ tư niệm, đó là Phật Pháp Trai, quán công đức Thiên,
diệt trừ ác nghiệp, hưng khởi thiện pháp, sau được sanh Thiên, cuối cùng được
Niết Bàn”. Như thế, lục niệm pháp môn tuy nói cho tín chúng tại gia và cho người
phát tâm thọ Bát Giới tu trì, nhưng thật ra người học Phật nào cũng cần tu sáu
pháp này, nhất là pháp môn Niệm Phật, nhờ Niệm Phật nhiếp tâm mà được nhất tâm
bất loạn.
Các vị phát tâm thọ Bát Trai Giới lại khéo tu trì lục
niệm pháp môn, phải biết chỗ thọ dụng không thể hạn lượng. Bởi vì Trai Giới và
lục niệm như ngọc Như Ý thường sanh ra các món bảo khác, y phục, ẩm thực, kim,
ngân, thất bảo tùy ý mà được. Nên nếu thường tập niệm, chẳng những sanh Thiên
không thành vấn đề, cho đến thiện căn xuất thế của tam thừa cũng dư sức tăng
tiến. Chỉ có điều y theo Phật pháp, dù thọ giới hay tu pháp môn nào đi nữa, căn
bản vẫn là thanh tịnh nội tâm. Nội tâm có thanh tịnh thì tu pháp môn nào cũng
thành tựu, nếu nội tâm bất tịnh có tu cũng thành ma nghiệp. Chúng ta cần phải
lưu ý điều này. Muốn nội tâm thanh tịnh, phải kiểm thúc thân tâm bằng giới hạnh,
tam nghiệp thanh tịnh đương nhiên sẽ được tự tại giải thoát.
Kết Luận
Thọ Giới là bước đầu nhập đạo, phàm là đệ tử Phật tức
phải thọ giới, và hễ thọ thì phải chuyên tâm nhất ý phụng trì, dù trong hoàn
cảnh nào hay ở đâu đi nữa, cũng phải thường ghi nhớ giới đã thọ. Thậm chí ngay
đến các việc thường nhật như ăn cơm, mặc áo, đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng, động
tĩnh cũng không một giây xao lãng thủ trì giới pháp. Nếu không ức niệm ắt lúc
nào cũng có thể phạm giới. Như vậy thọ giới mà không cố giữ thì vừa không có lợi
ích, lại còn thêm nhiều tội. Ðiều này trong kinh, luật vẫn thường nhắc nhở chúng
ta. Bất luận thọ Ngũ Giới hay Bát Giới, đều phải thủ trì đến độ có thể hy sinh
mạng sống để bảo vệ giới thanh tịnh. Trong Niết Bàn kinh kể: “Quá khứ có vị Bồ
Tát dùng chiếc ván trôi qua biển. Trôi đến giữa biển xuất hiện một La Sát đòi
chiếc ván của Bồ Tát. Bồ Tát bảo La Sát: ‘Nhà ngươi muốn gì cũng được, trừ tấm
ván này, đừng nói cả tấm, một miếng nhỏ cũng không được!”. Tấm ván này như Giới
của chúng ta, nếu thiếu một mảnh cũng đủ hại mất huệ mạng. Vì vậy, các vị nên cố
giữ gìn giới hạnh như giữ mạng sống.
Dịch xong tháng Giêng năm Kỷ Tỵ.
_________________
(9) Tứ hướng tứ quả:
a. Tu Ðà Hoàn dịch là Nhập Lưu, có nghĩa vào dòng
Thánh Nhân. Vị này cần phải đoạn hết 88 món sử kiến hoặc ở Tam Giới mới đắc
được. Khi chưa đoạn được hết gọi là Hướng, đoạn hết gọi là Quả.
b. Tư Ðà Hàm dịch là Nhất Lai, còn phải sanh vào Dục
Giới một lần nữa. Vị này cần trừ hết kiến hoặc ở Tam Giới, và đoạn sáu phẩm đầu
của Tư Hoặc ở Dục Giới mới đắc được. Khi đoạn được từ một đến năm phẩm Tư Hoặc
gọi là Tư Ðà Hàm Hướng, đoạn hết sáu phẩm gọi là Tư Ðà Hàm Quả.
c. A Na Hàm dịch là Bất Lai, không còn sanh tử ở Dục
Giới nữa. Vị này đoạn hết Kiến Hoặc ở Tam Giới, còn phải đoạn cửu phẩm Tư Hoặc ở
Dục Giới nữa mới đắc được. Khi đoạn được từ bảy đến tám phẩm Tư Hoặc gọi là
Hướng, đoạn hết chín phẩm gọi là Quả.
d. A La Hán dịch là Vô Sanh, vĩnh nhập Niết Bàn,
không còn chịu phần đoạn sanh tử. Vị này ngoài các kiết sử ở tam giới, Tư Hoặc ở
Dục Giới, còn phải đoạn Bát Ðịa 72 phẩm Tư Hoặc ở Sắc và Vô Sắc Giới mới đắc
được. Chưa đoạn được hết 72 phẩm của Sắc và Vô Sắc Giới gọi là Hướng, đoạn hết
gọi là Quả.
(10) Nhị đức: Chúng sanh vốn sẵn đủ hai đức:
a. Trí đức: Soi chiếu hết thảy sự lý (liễu nhân)
b. Ðoạn đức: đoạn sạch hết mọi vọng hoặc (duyên
nhân).
Trí đức tức Bồ Ðề, Ðoạn đức tức Niết Bàn.
(11) Tánh giới: Bốn giới trọng Sát, Ðạo, Dâm, Vọng tự
tánh đã là giới, không đợi Phật chế, hễ giữ được ắt có phúc, hễ phạm tất chịu
họa, nên gọi là tánh giới.
(12) Già giới: các giới như Ẩm Tửu gọi là già giới.
Bởi lẽ nếu phạm các giới này tất có thể phát sanh hủy phạm các giới khác, nên
đức Phật ngăn cấm không cho ẩm tửu. Ẩm tửu tự nó vốn chẳng phải tội vậy.
(13) Bát Giải Thoát: Còn gọi là Bát Bối Xả, tám loại
Thiền Ðịnh diệt trừ hết mọi trói buộc của phiền não ở tam giới.
a. Nội hữu sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát: Có
nghĩa nếu nội tâm nghĩ tưởng đến Sắc (vật chất) (nội hữu sắc tướng) tất sẽ dẫn
khởi tham tâm. Vì vậy, quán tưởng các pháp bên ngoài đầy dẫy bất tịnh, để tham
tâm không thể phát sanh, nên gọi là giải thoát (quán ngoại sắc giải thoát). Giải
thoát này nương định Sơ Thiền phát khởi, duyên với Sắc của Dục Giới.
b. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát: Tức
tuy nội tâm không nghĩ tưởng đến Sắc (nội vô sắc tưởng), song muốn cho tâm không
tham thêm kiên cố nên vẫn hằng quán tưởng các ngoại pháp đầy bất tịnh, để tham
tâm vĩnh viễn không sanh khởi, nên gọi là giải thoát (quán ngoại sắc giải
thoát). Nương Nhị Thiền phát khởi, duyên với Sắc của Sơ Thiền.
c. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Nhất
tâm quán tưởng các sắc quang minh, thanh tịnh, kỳ diệu gọi là tịnh giải thoát.
Khi quán tưởng tịnh sắc này, khiến tham tâm không thể sanh khởi, chứng minh tâm
tánh này đã giải thoát nơi thân nên gọi là Thân Tác Chứng. Lại sức quán tưởng
này đã hoàn toàn viên mãn, đủ an trụ nơi định này nên gọi là Cụ Túc Trụ. Giải
thoát này nương Tứ Thiền sanh khởi, duyên với Sắc của Dục Giới.
d. Không vô biên xứ giải thoát
e. Thức vô biên xứ giải thoát.
f. Vô sở hữu xứ giải thoát.
g. Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát: Bốn thứ
giải thoát (từ không vô biên đến phi phi tưởng) này nương vô sắc định sinh khởi,
nơi định đắc được quán tưởng Khổ, Không, Vô Thường, Vô Ngã, khiến tâm xả bỏ hết
thảy, nên gọi là Giải Thoát.
h. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ giải
thoát: Diệt thọ tưởng định còn gọi là Diệt Tận định. Ðã có năm căn: nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, tất phải lãnh thọ năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Do vậy,
phát sanh đủ mọi vọng tưởng. Nếu đủ sức định diệt trừ được thọ tưởng, tất sẽ
diệt trừ được hết mọi vọng tưởng, cho nên là Diệt Tận định.
Cửu thứ đệ định: từ Sơ Thiền Thứ Ðệ Ðịnh cho đến Tứ
Thiền Thứ Ðệ Ðịnh (trở lên gọi là Sắc Giới Tứ Thiền Thiên Căn Bản Ðịnh). Không
Xứ, Thức Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Thứ Ðệ Ðịnh (trở lên là
Vô Sắc Giới Căn Bản Ðịnh Cư Tứ Xứ) cùng Diệt Thọ Tưởng Ðịnh, tất cả gọi chung là
Cửu Thứ Ðệ Ðịnh. Trí Ðộ Luận giải: “Thế nào là Cửu Thứ Ðệ Ðịnh? Ðáp: Người tu
thứ lớp vào Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Ðịnh,
Thức Vô Biên Xứ Ðịnh, Vô Sở Hữu Xứ Ðịnh, Phi Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Ðịnh dẫn đến
Diệt Thọ Tưởng Ðịnh mà không để cho các tạp tâm xâm nhiễm. Tu lớp lang như vậy
gọi là Cửu Thứ Ðệ Ðịnh.
Phụng
khuyến Tăng Tục Nam Nữ Phổ Trì Bát Quan Trai Giới Văn
Từ Hàng lão pháp sư duyệt cải
Hưng Từ lão pháp sư giám định
Việt dịch: Thượng Tọa Thích Thiện Huệ
A. Thuyết minh ý nghĩa và mục thứ khuyến trì Trai
Giới.
Bát Quan Trai Giới là cầu qua bờ sanh tử, là đèn soi
sáng bóng đêm vô minh. Trong kinh Bồ Tát Xử Thai xưng tán Bát Quan Trai Giới là
“mẹ sanh chư Phật”. Vì vậy, bất luận Tăng, tục, nam, nữ đều nên thọ trì, ưu bà
tắc, ưu bà di tại gia cùng các thiện nam, tín nữ đều nên thọ trì giới này để làm
bậc thang xuất thế. Năm chúng xuất gia cũng nên thọ trì, bởi lẽ giới tướng của
Bát Quan Trai Giới tuy sẵn đủ trong Sa Di và Cụ Túc Giới, song vì để tăng trưởng
công đức (lý do tăng trưởng công đức xem câu vấn đáp thứ năm ở phần sau), chẳng
ngại gì tái thọ giới này.
Bản văn này trước hết hiển bày công ích thọ trì Bát
Giới, theo thứ tự phân làm mười hai điều, mỗi điều đều trích dẫn kinh để chứng
minh về nhân quả trì giới, mục đích giúp người đọc phát khởi tín tâm và vui
thích hành theo. Sau đó, chú thích danh nghĩa, trì bày thọ pháp, phân tích các
điểm dị đồng trong phép Khai – Già. Lập ra sáu cân vấn đáp để thuyết minh những
điều dễ hoài nghi nơi sự thọ trì Bát Giới, hầu giúp mọi người đều như pháp thọ
trì, để hiểu được giới quan hệ thế nào đến bản thân, và có thể hành trì theo
đúng sự hiểu biết, hầu không còn thối tâm nữa! Sau cùng trích lời Phật dạy về
mối họa hoạn của người xuất gia do vì không trì Bát Giới để cảnh sách họ. Chỉ
thẹn học thức thiển lậu, giới luật chưa được thấu đáo, không khỏi sai lầm, nhiều
điều chưa biết, ngưỡng mong Ðại Ðức các nơi chỉ dạy thêm cho, thực là bỏ đá thêm
ngọc, được nhiều thực lợi, còn mong gì hơn.
B. Công ích dẫn chứng
Công ích thọ trì Trai Giới chỉ Phật trí mới biết rõ,
do lời Phật mới tin nổi. Nay phân làm mười hai việc, dẫn kinh Phật minh chứng.
1. Thoát ly bệnh khổ:
Phàm muốn giữ gìn thân thể luôn được mạnh khỏe, hoặc
chán sợ bệnh khổ, muốn cầu mau thoát không thể không trì.
Theo kinh Cửu Hoạnh, Phật dạy chín nguyên nhân đưa
đến hoạnh tử. Bốn thứ đầu đều do ăn uống bừa bãi, thứ năm do đường tiêu hóa
không tốt, đủ thấy vấn đề ăn uống liên quan mật thiết đến sức khỏe. Nếu y theo
Phật dạy, sau ngọ không ăn, tất trong không túc thực (gây bội thực), ngoài không
hạ phong, thân được an ổn không tật bệnh, tâm được dễ định lại ít hôn trầm (Kinh
nói: “Sau ngọ không ăn được năm phúc: Ít dâm, ít ngủ, được nhất tâm, không hạ
phong, thân được an ổn, hoặc giả không họa túc thực”). Kinh Dược Sư nói: “Nếu có
người bệnh muốn thoát bệnh khổ hãy vì người này mà thọ trì Bát Trai Giới trong
bảy ngày đêm”.
2. Tiêu diệt tội chướng:
Phàm muốn sám hối tội chướng, không thể không trì.
Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói: “Thọ trì Bát Giới ngoài năm tội nghịch, tất cả các tội
khác đều được tiêu trừ”. Kinh Niết Bàn nói: “Phật dạy xứ Ba La Nại có đồ tể tên
Quảng Ngạch, mỗi ngày sát hại rất nhiều dê. Gặp được Xá Lợi Phất, thọ Bát Giới
một ngày đêm, do nhân duyên này, mạng chung sanh làm thiên vương Tỳ Sa Môn ở Bắc
phương”. Nghiệp sát nặng như đồ phu còn trượng thừa công đức thọ trì Trai Giới
một ngày một đêm mà diệt trừ được, huống chi các tội khác nhẹ hơn.
3. Miễn trừ hoạnh họa:
Nếu muốn gia đình và thân thể được yên ổn, không bị
các thứ tai họa bất ngờ, không thể không trì. Kinh Tứ Thiên Vương nói: “Chỗ nào
mà có người trì giới này quỷ dữ phải lánh xa, trụ xứ ở đó nhờ vậy yên lành. Vì
vậy, trong sáu ngày trai thọ trì Trai Giới được phúc rất nhiều”. Lại kinh Pháp
Cú Thí Như nói: “Phu nhân vua Ưu Ðiền vào ngày thọ trai, vua vời không đến, gọi
đến ba lần, vì đang trì trai nên không tới. Vua liền nổi giận, sai người lôi ra,
khiến bắn cho chết, nhưng tên bay ngược lại vua, lần nào cũng vậy, khiến vua đâm
sợ, hỏi phu nhân có pháp thuật gì mà khiến được như vậy? Phu nhân đáp rằng: ‘Do
nơi phụng kính Như Lai, quy mạng Tam Tôn, phụng trì trai pháp, quá ngọ chẳng ăn,
cùng hành tám giới, tất được Thế Tôn hộ trì như vậy’. Vua liền nghe theo phu
nhân, đến Phật nghe pháp, tâm được tỏ ngộ”.
4. Viễn ly ác thú:
Nếu có người hạnh kiểm không tốt, sợ bị đọa ác đạo,
không thể không trì.
Kinh Thập Thiện Giới nói: “Người trì Bát Quan Trai,
thứ nhất không đọa địa ngục; thứ hai không đọa súc sanh; thứ ba không đọa ngạ
quỷ; thứ tư không đọa a tu la nên Bát Giới được gọi là Bát Thắng Pháp”.
5. Phúc báo ưu hậu:
Nếu có người sợ đời loạn lạc khan hiếm gạo thóc, chịu
khổ đói khát, không thể không trì.
Phật thuyết Hộ Tịnh kinh nói: “Một ngày trì trai được
sáu mươi vạn đời dư ăn”. Luận Tát Bà Ða dẫn kinh nói: “Vua cõi Diêm phù Ðề được
làm chủ hết thảy báu vật không bằng một phần mười sáu công đức Bát Trai Giới”.
Kinh còn nói: “Phật dạy vua Ba Tư Nặc: - Phước của Trai Giới tỏa rộng lan xa,
thí như các món trân bảo đầy cả mười sáu nước, đem bố thí không bằng một ngày
đêm thọ trì Phật trai pháp. Nếu so sánh phúc đức hai việc này khác nào Tu Di với
hạt đậu”.
6. Mau chóng thành tựu
Như người tuổi cao sức kém, sợ không còn ở thế bao
lâu, hoặc thân bị giam nơi lao ngục, tánh mạng khó toàn, muốn thành tựu hạnh thù
thắng trong một thời gian cực ngắn, không thể không trì.
Bát Quan Trai trì pháp kỳ hạn trong một ngày một đêm,
thời gian cực ngắn song công đức rất thù thắng. Kinh kể: “Phu nhân vua Ưu Ðà Tư,
tử tướng hiện bày, mạng sống chỉ trong bảy ngày, nên muốn cầu xuất gia. Vua vì
nặng tình mãi đến ngày thứ sáu mới thuận. Phu nhân liền xuất gia thọ Bát Trai
Giới, đến ngày thứ bảy mạng chung được sanh cõi Thiên”. Hay như trong kinh Phật
Thuyết Quán Vô Lượng Thọ nói: “Vua Tần Bà Sa La bị thái tử A Xà Thế giam trong
bảy lớp ngục thất, từ xa hướng về Thế Tôn, lễ lạy cầu được Mục Kiền Liên truyền
cho Bát Giới”. Phàm lúc sanh tử nguy cấp, thọ trì Bát Giới, do nhờ công đức của
giới này dễ được thành tựu.
7. Ðời sau được tôn quý
Nếu muốn cầu đời sau làm vua trong thiên hạ, không
thể không trì.
Phật thuyết Phổ Ðạt Vương kinh nói: “Khi tiên vương
tại thế, có đứa trẻ để chỏm, trai giới theo tiên vương một ngày đêm, phụng hành
chánh pháp, giữ ý thanh tịnh, sau này mạng chung, thác sanh làm vương tử, nay
được tôn quý, đều do nhân đời trước thọ trì Trai Giới”. Kiền Ðà Quốc Vương kinh
nói: “Phật dạy: - Thời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, vua và Ngưu là hai anh em, cùng
làm ưu bà tắc trì Trai Giới một ngày một đêm, vua do tinh tiến giữ pháp, không
dám lười mỏi, nay sanh làm quốc vương”. Bách Dụ kinh nói: “Phật dạy: - Thời Ca
Diếp Phật, có hai bà la môn cùng thọ trai pháp, một người cầu sanh thiên, một
người cầu làm vua. Thọ lãnh giới xong trở về trụ xứ, các bà la môn nài mời cùng
ăn. Người cầu sanh thiên, do phá trai, không thành ước nguyện. Người kia không
ăn, được thành quốc vương”.
8. Ðược sanh thiên thượng
Nếu muốn cầu đời sau sanh Thiên, không thể không trì.
Kinh kể có một thiên nữ, dung mạo đoan nghi, vượt hơn
mọi kẻ khác, chư Thiên hễ thấy đều sanh tâm hy hữu. Thích Ðề Hoàn Nhân hỏi do
tạo nghiệp gì đời trước mà được phúc báo như vậy. Thiên nữ dùng kệ đáp: “Xưa nơi
Ca Diếp Phật, thọ trì Bát Trai Giới, nay được sanh thiên thượng, được phúc báo
đoan chánh”. Phật tại Xá Vệ quốc, có năm trăm thiên tử, quang minh biến chiếu Kỳ
Hoàn Lâm, cùng đến lễ Phật. A Nan thưa hỏi nhân duyên của chư thiên tử. Phật kể
xưa có năm trăm long tử, phụng tu trai pháp, sau khi mạng chung sanh Ðao Lợi
thiên. Năm trăm long tử nay là năm trăm thiên tử.
9. Trợ duyên vãng sanh
Như muốn cầu sanh Tịnh Ðộ, không thể không trì.
Kinh nói: “Trung phẩm thượng sanh là nếu có chúng
sanh, thọ trì năm giới hoặc Bát Trai Giới, tu các thiện giới, không tạo Ngũ
Nghịch, không làm các lỗi, dùng thiện căn này hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây
Phương Cực Lạc thế giới”. Lại nói: “Trung phẩm trung sanh là nếu có chúng sanh
hoặc một ngày đêm trì Bát Trai Giới hoặc một ngày đêm trì Sa Di Giới, hoặc một
ngày đêm trì Cụ Túc Giới, oai nghi không khuyết, do công đức này hồi hướng,
nguyện sanh Cực Lạc thế giới”. Như kinh dẫn chứng, đủ biết muốn cầu vãng sanh
Cực Lạc thế giới không thể không trì Trai Giới. Nên Viên Trung Lang nói: “Ðiều
cấp bách phải phát sanh Giới, khuyên người niệm Phật cùng tôi ghi nhớ lời này”.
10. Lâm chung hoan lạc
Nếu công phu niệm Phật chưa đạt mức nhất tâm bất loạn
sợ sau khi mạng chung không chắc được vãng sanh, không thể không trì.
Kinh Dược Sư: “Nếu có thể thọ trì bát phần Trai Giới,
hoặc một năm, hoặc ba tháng, do thiện căn này, cầu sanh Tịnh Ðộ, nhưng chưa nắm
chắc được, nếu nghe thấy danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, lúc mạng chung,
có tám vị Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Chí Bồ
Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát
và Di Lặc Bồ Tát, dùng thần thông đến, hướng dẫn chỉ bày, được hóa sanh nơi thế
giới Vô Lượng Tạp Sắc Chúng Bảo Hoa”. Vì vậy, người thường hay nghiêm trì Trai
Giới, dù công phu niệm Phật hãy còn khiếm khuyết, khi mạng chung chưa thấy được
Phật A Di Ðà tiếp đón, song nhờ công đức trì trai, có tám vị Ðại Bồ Tát dẫn đạo
vãng sanh Cực Lạc. Phật không luống dối, quyết chẳng gạt người. Hành giả tín
nhiệm vững chắc lời này, ắt không bối rối, không sợ sệt lúc quỷ vô thường hiện
đến. Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mở bày phương tiện này, không ngoài mục đích
giúp người niệm Phật vào giờ phút nguy biến của sanh tử, được bảo đảm vãng sanh.
Nên Pháp Hải Quán Lan nói: “Nếu khi mạng chung gân cốt đau nhức, bao nhiêu quyến
thuộc sắp phải chia lìa. Hãy nhớ rằng ta có thanh tịnh giới, giúp cho thân tâm
an lạc không còn sợ lo”. Nguyện người niệm Phật cùng tôi nghiêm tịnh Trai Giới,
để nắm chắc được hoan lạc trong giây phút cuối cùng.
11. Ðược thân đủ tướng hảo
Nếu thấy Phật tướng hảo, tâm sanh hoan hỷ, muốn trong
đời sau tu được thân này, không thể không trì.
Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn nói: “Có bà la
môn hỏi Phật tạo nghiệp gì đời trước được thân đủ mọi tướng hảo. Phật mỗi mỗi
đáp do nghiệp lực gì đời trước, được quả như vậy”. Lược kể như sau:
Hỏi: Làm sao được thân Kim Cang bất hoại?
Ðáp: Do đời trước xa lìa nghiệp sát hại hữu tình.
Hỏi: Làm sao được tướng có màng mỏng giữa các ngón
tay?
Ðáp: Do đời trước xa lìa nghiệp trộm cắp của người.
Hỏi: Làm sao đạt được đầy đủ sắc lực, các căn viên
mãn?
Ðáp: Do đời trước xa lìa dục nhiễm nam nữ.
Hỏi: Làm sao đạt được tướng lưỡi dài rộng che hết
mặt?
Ðáp: Do đời trước xa lìa lời dối trá gạt người.
Hỏi: Làm sao được tướng oai nghi từ tường như sư tử
đi?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các chỗ rượu chè buông lung.
Hỏi: Làm sao đạt được vi diệu tướng hảo trang nghiêm
thân này?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các thứ ca múa phô sắc.
Hỏi: Làm sao đạt được hương thơm thượng diệu tỏa nơi
thân?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các món trang sức, hương,
hoa, anh lạc.
Hỏi: Làm sao đạt được tòa kim cang thắng diệu?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các thứ giường kiêu xa, cao
rộng.
Hỏi: Làm sao đạt được tướng bốn mươi răng trắng sạch
đều đặn?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các bữa ăn phi thời.
Hỏi: Làm sao đạt được nhục kế viên mãn trên đỉnh?
Ðáp: Do đời trước nơi chốn đáng cung kính, năm vóc
sát đất, không chút mạn tâm, chí thành đỉnh lễ.
Bấy giờ, bà la môn thấy Phật nói nhân quả không sai
dối, liền bạch rằng: “Phúc này gọi là gì? Làm sao để thọ trì?” Phật đáp: “Ðây
gọi là bát chi tịnh giới. Nếu có thể một ngày một đêm hoặc thường theo chư Tăng
thọ trì, được quả như vậy”.
12. Duyên thành Phật đạo
Nếu muốn mau thành Phật đạo, không thể không trì.
Kinh A Hàm nói: “Trì Bát Trai được hết lậu hoặc, vào
thành Niết Bàn”. Lại nói: “Muốn thành Thanh Văn, Duyên Giác, Phật thừa đều được
như nguyện”. Long Vương Kệ Duyên trong kinh Tạp Bảo Tạng nói: “Phật tại Vương Xá
thành, Ðề Bà Ðạt Ða đến chỗ Phật, dùng lời ác hủy báng. A Nan nghe thấy, sanh
tâm giận dữ, đuổi Ðề Bà Ðạt Ða đi. Phật kể lại nhân duyên đời trước: - Xưa tại
Ca Thi Quốc, có hai anh em long vương, tên Ðại Ðạt và Ưu Bà Ðại Ðạt thường thọ
trì Bát Trai Giới vào các ngày trai, do quốc vương hay phạm giới sát, khuyên mãi
không thay đổi, nên bỏ đi nơi khác, gặp ác tiểu long. Tiểu long biết mình không
bằng, sanh lòng ghen ghét, mắng nhiếc. Ưu Bà Ðạt Ðại muốn diệt tiểu long, Ðại
Ðạt khuyên ngăn, trở về chốn cũ. Tam long đó chính là Như Lai, A Nan và Ðề Bà
Ðạt Ða”.
C. Lược thích danh nghĩa
Bát Quan Trai Giới trong các kinh hoặc gọi là Bát
Phần Trai Giới, hoặc Bát Giới Trai, hoặc Bát Chi Tịnh Giới, hoặc Bát Chi Trai
Pháp, hoặc gọi tắt Bát Giới. Tên tuy có khác, nhưng thực đồng là một. Theo Câu
Xá Luận, một là sát sanh; hai không cho mà lấy; ba phi phạm hạnh (khác với tà
dâm trong Ngũ Giới); bốn là hư dối; năm là uống rượu; sáu là trang sức hương
hoa, đờn ca, múa hát, cố ý xem nghe; bảy là nằm ngồi giường cao rộng kiêu xỉ;
tám là ăn phi thời. Lìa tám phi pháp này gọi là Bát Giới. Giới thứ tám “phi thời
thực” là trai pháp nên gọi chung là Bát Trai Pháp. Theo Tát Bà Ða, Thành Thật
Luận, Trí Ðộ Luận phân “thoa xức hương hoa” và “múa hát xem nghe” làm hai giới,
tổng cộng chín giới. Tám thứ đầu là giới, thứ cuối là trai, gọi chung là Bát
Trai Giới. Nếu phân giải nghĩa của Trai và Giới thì trong sạch tâm ô nhiễm là
Trai (Trai là “ngay ngắn”, ngay lại tâm này, hoặc nói là “trong sạch”, tĩnh
nhiếp ý nghĩ. Nhàn thất ở ngoài đời cũng gọi là Trai). Cấm ngăn các lỗi của thân
là Giới. Quan có nghĩa do phụng trì Trai Giới này đóng được cửa tam ác đạo.
Thực (ăn) trong Luật chia làm Thời và Phi Thời. Từ
minh tướng xuất hiện cho đến nhật trung (đúng ngọ, mặt trời đứng bóng) là Thời.
Từ nhật trung cho đến minh tướng (bình minh) xuất hiện là Phi Thời. Thời nên ăn,
Phi Thời không nên ăn. Trai chỉ cho thời thực. Thời và Phi Thời nghĩa như thế
nào? Luận Tát Bà Ða nói: “Từ sáng sớm đến nhật trung, thế nhân làm việc buôn
bán, ăn uống, nên gọi là Thời. Từ ngọ đến giữa đêm, tiệc tùng vui chơi, tìm thú
hưởng lạc, tỳ kheo du hành ắt có chỗ phạm, nên gọi Phi Thời”. Lại vì Phật muốn
chúng sanh đoạn trừ nhân lục thú, nên dạy chúng sanh ăn như chư Phật. Sáng sớm
là giờ chư Phật ăn, mặt trời hướng Tây là giờ súc sanh ăn, mặt trời lặn là giờ
quỷ thần ăn. Tỳ kheo học Phật, ăn lúc nhật trung, đó là nghĩa của Thời.
D. Phương pháp thọ trì:
Nếu thọ từ chư Tăng, ắt có nghi quỹ, nên văn này lược
bớt (nghi đó). Như trước mắt không có Tăng, trong Luật Nam Sơn cho phép được tự
thệ thọ giới trước Phật. Còn như thọ dài hay ngắn, hoặc một ngày đêm, hoặc mỗi
tháng sáu ngày trai, hoặc mỗi năm ba tháng, hoặc một năm, hoặc tận hình thọ, tùy
theo chí nguyện hoặc sức mỗi người mà tự quyết định. Thời gian thọ giới nên vào
sáng sớm hoặc vào mỗi ngày trai nhật, thọ trước Phật tượng, cho dù tận hình thọ
cũng chỉ cần thọ một lần, tùy theo ý mình. Một ngày một đêm là do vì trì pháp
của giới này từ nhật trung đến sáng sớm minh tướng xuất hiện là viên mãn (Nguyên
văn: “Tự nhật trung chí lập thần minh tướng xuất hiện, tức vi viên mãn”). Nếu
trời chưa sáng, đốt đuốc lên ăn, kể như phá trai, phải chú ý điều này. Mỗi tháng
sáu ngày trai, Trí Ðộ Luận nói: “Ngày tám thiên vương sứ giả hạ thế, mười bốn
thái tử hạ thế, mười lăm thiên vương tự hạ, quan sát thiện ác chúng sanh. Hai
mươi ba, hai mươi chín, ba mươi cũng vậy. Tháng thiếu thì vào ngày hai mươi tám,
hai mươi chín”. Ba tháng trai là tháng Giêng, tháng Năm và tháng Chín, gương
nghiệp ở minh giới quay chiếu Nam Châu. Mọi việc thiện ác đều hiện nơi gương, vì
vậy cần phải tu thiện. Theo Dược Sư Kinh, thọ trì một năm cho đến tận hình thọ
là bổn phận của người xuất gia nên làm.
E. Khai Già Dị Ðồng
Ðồng một sự việc, hoặc Khai hoặc Già, hoặc khoan,
hoặc nghiêm tùy theo mỗi luật. Về vấn đề “thực” trong luật văn sao trích sau
đây, phân làm ba loại. Thứ nhất trì pháp tối nghiêm, thứ hai ít nghiêm hơn, thứ
ba ít nghiêm hơn nữa để giúp người trì trai ai cũng có thể hành theo sức kham
năng của mình. Còn như bảy giới kia, pháp Khai Già nên nghiên cứu theo Luật, nơi
văn này lược bớt không đề cập đến.
1) Khai già thứ nhất:
Tăng Kỳ Luật: “Nơi chánh trung (chánh ngọ) gọi là
thời phi thời, nếu ăn cũng bị tội nhẹ. Thời quá trong một nháy mắt, một cọng
tóc, ăn là chánh phạm”. Chánh trung còn phạm, vì vậy phải ăn trước nhật trung.
Thực thời trong kinh thường là Thìn - Tỵ. Cổ đức giữ Mão trai. Giữ trai như vậy
là điều cấp bách, đó gọi là “thời thực”. Như Sự Sao đối với các thứ đậu, cốc,
lạc (bơ), bánh, quả, cơm, rau, hay nước gạo (cơm), nước bột, Thánh Giáo cho phép
dùng nên gọi là “thời thực”, vào phi thời không được dùng bừa. Còn như nước
trong của hoa trái cùng mật, và các vị thuốc mặn, đắng, cay, ngọt không phải
thức ăn, như hồ thục, hoàng kỳ, ba loại này không phải thời thực. Nếu có bệnh
hòa với nước, phi thời phải tác pháp mới được dùng. Nội Pháp Truyện nói: “Trong
răng còn dính đồ ăn, nơi lưỡi còn vị nồng, không dùng nước trong súc miệng, nếu
nước bọt tiết ra phải nhổ đi, để quá thời là phạm phi thời”.
2) Khai già thứ nhì:
Tỳ Ni Quan Yếu nói: “Nếu có người bệnh nôn thuốc trở
ra, khi cháo nấu chín đã quá nhật trung, nên nấu lúa tẻ không cho vỡ vỏ, lấy
nước mà uống. Nếu ợ ra nơi cổ, nuốt lại không phạm”. Sự Sao nói: “Tăng Kỳ cho
dùng nước các thứ cốc, đậu, gạo, không được cho vỡ đầu”. Tư Trì Thích giải: “Các
loại đậu đầu không vỡ. Nếu vỡ, phi thời không được uống”.
3) Khai già thứ ba:
Ngũ Phần ghi: “Khi làm thạch mật giã gạo bỏ vỏ. Bản
Thảo nói xứ Tây Qua dùng nước sữa bò, bột gạo hòa với đường rang luyện làm thành
thạch mật. Phật dạy thạch mật được phép dùng phi thời, tác pháp nên vậy”. Căn
Bản Yết Ma nói: “Tây Quốc làm đường đều để mạt gạo, như làm thạch mật để sữa và
dầu. Phật cho phép phi thời được nhai ăn, song phải phòng thô tướng để trưởng
đạo tư thân”. Lời tựa Tỳ Ni ghi: “Bệnh dùng thuốc, sau giờ Ngọ tâm muộn, Phật
khiến uống nước bông lúa rang, song vẫn không bớt. Phật cho dùng nước măng, bệnh
vẫn không dứt. Bệnh nếu không khỏi, Phật cho đến chỗ kín đáo dùng cháo”. Căn Bản
Ni Ðà Na dạy: “Bí Sô có bệnh được dùng nước hòa bột ăn phi thời để trị bệnh”.
Lại Phật dạy: Người bệnh cho uống bột hoặc đặc hoặc viên, tùy ý mà uống, nhưng
cần phải tác pháp.
4) Khai già kết luận:
Phật ngôn: “Phàm có việc cần, ta cho bệnh nhân được
phép phi thời. Nếu bệnh khỏi rồi, không được dùng nữa” (xem Căn Bản Ni Ðà Na).
Như Thích ghi: “Những việc này đều do Phật đại bi, thương xót đệ tử bệnh nặng,
tùy bệnh cho thuốc, cho phép được dùng, nên nếu chẳng phải bệnh chí mạng, quyết
không nên nhân chút bệnh hoạn, lợi thánh ý, như vậy không khỏi đã phạm lỗi phi
thời, lại thêm tội dối Phật trái phép”. Xem như Ðông Lâm Huệ Viễn Ðại Sư ở Lô
Sơn, bệnh ngủ mới dậy, đệ tử dâng bát mật lên, Ngài cản lại, bảo xem Luật có cho
phép không? Bởi ngoại trừ bệnh ra, đều không được phép dùng. Ngài quả là mô phạm
cho hàng hậu nhân trì giới.
F. Giải đáp nghi vấn:
Việc thọ trì Bát Quan Trai Giới như trên đã thuật,
còn như lý do tất yếu phải thọ trì, nếu không hiểu biết rõ ràng, vẫn dễ bị ngoại
duyên lôi kéo, nên sau khi thọ trì khó giữ được tâm không lui sụt. Vì vậy, nơi
các điểm dễ sanh hoài nghi, phương tiện lập nên sáu điều vấn đáp để giải thích
cho rõ.
1. Nghi vấn một:
Hỏi: Tất cả luật văn đều do Phật dạy, vậy sao đồng
một sự việc, hoặc Khai hoặc Già, mỗi luật có khác? Chỉ e trải qua nhiều đời, sự
truyền thọ từ người này qua người khác, chư Tăng khó tránh được thiên ý nên chưa
chắc đã hoàn toàn phù hợp Phật ý!
Ðáp: Từ kim khẩu tuyên thuyết, Ưu Ba Ly tụng lời dạy
của Như Lai vừa đủ 80 lời, gọi là Bát Thập Tụng Luật, từ Ca Diếp đảnh thọ truyền
đến Ưu Bà Quật Ða khoảng hơn trăm mười năm, chưa từng khác nghĩa. Ðến vua A Dục
hội Tăng kiết tập, người nào cũng dẫn lời thầy của họ, có khác, có đồng, nên
phân làm hai bộ Tăng Kỳ và Thượng Tọa. Sau đó, khoảng hai trăm năm, lại chia ra
làm mười tám bộ, nhưng chỉ có bốn bộ truyền vào xứ Chấn Ðán (Trung Quốc). Trong
đó, khinh, trọng, khai, già tuy có bất đồng, nhưng đều từ Phật nói ra. Phật cũng
từng tuyên đoán bằng bài kệ: “Mười tám cùng nhị bổn, tất từ Ðại Thừa ra, không
thị cũng không phi, nơi vị lai phát sanh”. Kệ này làm chứng không còn hoài nghi
gì nữa. Do căn tánh chúng sanh thích dục, mỗi người mỗi khác, Như Lai tùy nghi
thuyết pháp, phổ ứng quần cơ, giúp cho ai cũng thọ trì được, và thấm nhuần pháp
ích. Như thầy thuốc theo bệnh cho thuốc, há lại có thể chỉ dùng một phương thôi
sao? Người sau ai theo thầy nấy do thấy biết không rộng. Mỗi người chấp theo một
lời, song chắc chắn vô nghi đều do từ kim khẩu Phật tuyên thuyết.
2. Nghi vấn hai:
Hỏi: Công đức trì trai chắc chắn như vậy, song chỉ
một ngày một đêm mà đạt được đủ mọi sự phúc báo như trên đã nói, thật ngoài sức
tưởng tượng của tâm lượng kẻ phàm phu, nên thật khó sanh tín tâm.
Ðáp: Kinh nói: “Chúng sanh nghiệp lực không thể nghĩ
bàn, quả báo cũng không thể nghĩ bàn”. Chúng ta đương nhiên chỉ có thể từ tín
mới vào được thâm nghĩa này. Trí phần của chúng ta không thể hiểu được, nhưng
theo công dụng giới mà nói, khi thọ giới đem thiện pháp này nạp vào thân tâm, do
tâm nghiệp lực kết thành giới thể, khởi đại công dụng dẫn thành hậu tập. Nơi các
điều lỗi có thể nhớ giới, có thể trì nên có thể phòng được. Tâm vô biên nên giới
cũng vô biên. Tâm vô tận nên giới cũng vô tận. Như thọ một giới bất dâm, liền
nơi tận hư không, biến pháp giới, hiện tại, vị lai, hết thảy nam nữ sanh tâm
không xâm phạm cùng sanh công đức giới. Thọ giới bất sát liền nơi tận hư không,
biến pháp giới, quá hiện vị lai hết thảy thánh phàm, sanh tâm không não hại cùng
sanh công đức giới. Các giới khác cũng vậy. Mỗi một giới lượng như pháp giới,
nên trì một giới phúc đồng hư không. Kinh nói: “Trì giới một ngày đêm công đức
không cùng tận”. Do nhân như vậy được quả như vậy. Sự đã phải đến vậy, lý tất
đương nhiên, suy rộng ra, một ngày đêm rồi lại một ngày đêm, ắt một tức một của
nhiều. Vậy trí giả phải cố gắng.
3. Nghi vấn ba:
Hỏi: Bảy giới đầu trong Bát Giới không có gì để thắc
mắc, chỉ có giới thứ tám “không ăn quá ngọ”. Ngày nay sắc lực chúng sanh không
như cổ nhân, nếu không suy xét cẩn thận, vội vã hành động, chỉ e chưa kịp được
phúc, thân đã bị hại. Hơn nữa, Phật quở ngoại đạo nhịn ăn, sao riêng giới này
lại không bị chê?
Ðáp: Kinh Bảo Tích nói: “Bồ Tát nếu tư duy như vầy:
pháp này sâu xa, pháp kia không sâu, pháp này là tịnh, pháp kia không tịnh, pháp
này nên làm, pháp kia không nên, gọi đó là Tăng Thượng Mạn”. Chúng sanh do ăn mà
sống, bị ăn uống làm phiền, không sao rời được, nên đến lui trong lục đạo. Ngã
Phật thương xót người si mê, dạy họ huân tu bằng trai pháp, dần dà thú hướng đến
giải thoát, ước định quá ngọ không ăn. Ðó chính là Phật xử Trung Ðạo, không rơi
vào Nhị Biên, chẳng giống phàm phu chịu khổ bởi lòng tham ăn uống vô độ, cũng
khác ngoại đạo do mê muội chịu đói vô ích. Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Ăn uống
không tiết chế gây nhiều khổ hoạn, ăn uống thiếu kém không đủ khí lực suy. Nay
dùng pháp ăn thời thực, như cán cân không cao thấp”. Phúc duyên nào chúng ta gặp
được thắng pháp này, nên phải khởi tâm khó được mà phấn chấn hành trì, sao lại
khởi tâm cao ngạo, phát sanh tà kiến, phạm vào điều chê trách của Bảo Tích Kinh,
gây mối tự hại tự nghi như vậy!
Lại từng thấy nhiều Phật tử mỗi khi được người khác
khuyên tu trì Bát Trai Giới là tự cho mình sức khỏe yếu kém, sợ giảm ăn uống,
dinh dưỡng không đủ, lại sợ nửa đêm bụng đói khó chịu đựng nổi, đủ thứ suy
tưởng, tự gây nhân duyên chướng đạo! Nào hay ăn chiều chỉ là một thói quen, cứ
đến giờ là muốn ăn, chẳng phải đói thật. Nếu đói thật, ắt nửa đêm phải đói gắt
gao hơn vào lúc ăn chiều, cho đến sáng hôm sau ắt phải chịu hết nổi. Nhưng sự
thật lại chẳng phải vậy. Ban sơ mới tập ăn ngọ, thói quen bụng đói vào giờ ăn
chiều vẫn xảy ra. Sau đó, cho đến sáng không còn thấy đói. Ðủ thấy cái đói chiều
qua chỉ là tác dụng của tâm ý, thử tập vài lần sẽ thấy quả đúng như vậy. Còn sợ
dinh dưỡng không đủ, là vì bảo trọng thân này quá đáng mà tưởng như vậy. Phải
biết tham ăn không chán là lý do chính yếu đưa tới bệnh hoạn. Nếu bảo do không
ăn chiều mà bệnh, nhất định không phải. Phật là bậc Nhất Thiết Trí, giáo pháp
của Ngài để bảo hộ chúng sanh, lìa khổ được vui và còn hơn nữa, tuyệt đối có
lợi, vô hại. Phật là bậc đại từ đại bi, coi chúng sanh như con cái, nên thương
xót, chăm lo không hở mảy may. Hễ có bệnh đều khai mở cho phép như đã trình bày,
há lại không chu đáo bằng chúng ta đang lo sao? Nếu thường nghĩ như vậy là tăng
thượng mạn như trong kinh Bảo Tích đã chê trách. Nguyện cùng mọi người, nơi lời
Phật sanh tín, không còn hoài nghi!
4. Nghi vấn bốn:
Hỏi: Bát Giới vốn chế cho người tại gia, chẳng qua
thông với giới của Tăng chúng xuất gia, đâu phải hết thảy mọi người đều phải thọ
trì. Nay chư Tăng phần đông không thọ giới này, lại khuyên người phổ trì, nghĩa
đó thế nào?
Ðáp: Kiên Lao La Hán có bài kệ: “Sanh tử không đoạn
tuyệt, do ưa nếm các vị, nuôi oán vào mộ phần, phải chịu bao tân khổ”. Ðủ thấy
ăn uống, kiêu xỉ, phóng dật là nhân trói buộc sanh tử. Phật chế trì trai pháp có
công năng “tiềm di mặc hóa” (đổi ngầm thay dần), tự lìa được khổ tham thực dục
hồi nào không hay. Chúng sanh vốn đồng một bệnh nên cần cùng uống thuốc này. Ðó
là ý khuyên nên phụng trì giới này. Còn như hiện thời chư Tăng hoặc cũng có
người không để tâm đến điều này, đó chỉ là do nơi mỗi người hoặc xét về nhân,
hoặc xét về trí mà đặt nặng các pháp khác nhau. Ngã Phật khi còn tại thế, hàng
đại đệ tử đã chứng A La Hán, mỗi người còn có riêng mỗi túc tập, huống hồ phàm
phu Tăng ngày nay làm sao hành trì nhất chí được. Trì trai là pháp của ba đời
chư Phật cùng hành. Nguyện người trí giả giữ lời giáo huấn, y pháp bất y nhân,
mà nỗ lực phụng hành.
5. Nghi vấn năm:
Hỏi: Người xuất gia trì Sa Di Giới và Cụ Túc Giới tất
bao quát Bát Giới bên trong, lẽ ra đã được hết mọi công đức có được của Bát Trai
Giới, cớ sao lại phải tái thọ, há chẳng phải là làm chuyện “giường nặng thêm
ván” sao? Nay lại bảo tái thọ để công đức tăng trưởng, nghĩa đó thế nào?
Ðáp: Ðiều này phân làm ba bậc:
- Thứ nhất: Theo nghĩa tác pháp thọ giới, khi nạp
thiện pháp này vào trong Tạng Thức người thọ, khiến kết thành giới thể, song mỗi
người tâm có sáng tỏ, mê mờ, học có tinh, thô, chưa hẳn một lần có thể thâm nhập
được trọn vẹn. Vì vậy, Phật cho phép tái thọ. Tư Trì nói: “Thọ lại có ý giúp
hành giả thẩm xét lại giới đã thọ, để cầu tăng trưởng và thù thắng”. Ðó là ý
nghĩa tái thọ.
Người xuất gia tuy đã hành trì giới tướng của Bát
Giới nhưng trước kia nếu chưa chính thọ thì không ngại gì tái thọ để được thêm
một phen cảnh sách, chuyển thành thượng phẩm (Kinh nói: “Giới là duyên cảnh ý”).
Chi Phạm nói: “Thọ lần đầu chỉ phát trung hay hạ phẩm, Phật cho phép thọ lại để
tăng trưởng, chuyển thành thượng phẩm”. Ðó là ý nghĩa tăng thượng công đức.
- Thứ hai: Người xuất gia nếu tái thọ Bát Giới theo
kinh Dược Sư dạy, chỉ cần một năm hoặc ba tháng, trong khoảng thời gian ngắn này
được đại lợi ích. Ðó là nghĩa tăng thượng công đức.
- Thứ ba: Nếu không đúng pháp thọ Bát Giới, quyết
không được các công ích của Bát Trai Giới như trong kinh nói, cho dẫu trì Cụ Túc
Giới, luận theo công đức trì giới cũng chỉ đủ đời sau sanh Thiên. Nếu y pháp tái
thọ, ắt được lợi ích có đại Bồ Tát tiếp dẫn vãng sanh. Ðây là ý nghĩa tăng
trưởng công đức.
6. Nghi vấn sáu:
Hỏi: Ba giới sau cùng của Bát Giới chỉ là việc nhỏ,
không làm hại người, cần gì Phật phải răn cấm? Cho dù không phạm các điều đó,
cũng chỉ là thiện nhỏ nhặt, đâu thể xếp cùng giới Sát, Ðạo, Dâm?
Ðáp: Ba giới sau có thể nhiếp năm trần (Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc), sự tuy nhỏ nhưng đủ ngũ dục. Cái hại của ngũ dục ban đầu nhỏ
sau thành to, như chỉ đốm lửa nhỏ đốt sạch cánh đồng, nước từng giọt không ngừng
đủ thành sông lớn. Lửa sân khuể và nước tham ái cũng vậy, trị chúng phải ngay từ
lúc ban sơ còn yếu, ắt dụng công ít mà dễ được hiệu quả. Nếu đợi lửa, nước đã
thịnh, tất không còn kịp. Cổ đức nói: “Không làm cái nhỏ, ắt tổn sức
lớn”. Phật vì phòng trừ cái nhỏ, ngăn cái dần dà (“phòng vi đỗ tiệm”), nên xếp
những thứ này vào Giới. Thế nên người chân thật biện đạo ngay những việc nhỏ
trong đời sống hằng ngày đều dụng công khắc trị. Tuy phạm ác nhỏ cũng vẫn sợ
sệt, phải chặn đứng nguồn ác thô trọng. Nếu ngay đến ác nhỏ còn không chặn được,
nói gì đến sự lớn lao. Nếu nói suông chỉ là hý luận, lượm lặt cái thừa của
người. Phải biết trì hay phạm, công hay lỗi đều do nơi tự tâm, nào phải do sự
tướng lớn nhỏ mà luận được sao? Phật dạy: “Một chút thiện nhỏ, tuy là hữu vi,
song trợ Bồ Ðề, cho đến thành Phật không dám hủy hoại”. Lại Bảo Vũ Kinh
nói: “Uống nhiều độc dược, uống ít độc dược, cả hai cũng đều làm người chết. Nếu
hay phạm tội, hoặc phạm tội nhỏ cũng đều sinh ác thú”. Thế Nho cũng có câu:
“Ðừng cho thiện nhỏ mà không làm, đừng ngỡ ác nhỏ mà cứ làm”. Phật chế ba giới
này, vì chê trách ngũ dục, để chặn nguồn ác. Ý chỉ thâm sâu, không ngờ gì nữa!
G. Phật chỉ bày nỗi họa hoạn của người xuất gia không
trì Bát Giới
Kinh Xá Lợi Phất Vấn nói: “Phật dạy: - Người
ăn phi thời là người phá giới, là kẻ phạm
trộm cắp. Cho phi thời cũng là phá giới, cũng phạm trộm cắp. Trộm của đàn việt,
chẳng phải ý thí chủ, ắt thí chủ vô phúc vì giống như mất của vậy”.
Lại nói: “Trộm và nhận của trộm, dù một nắm, một
bó, hột muối, chút dầu, chết đọa tiêu trường địa ngục (đốt ruột), nuốt hòn sắt
nóng, từ địa ngục ra, sinh làm heo chó, ăn toàn đồ dơ, lại sinh ác điểu, bị
người chán ghét tiếng kêu của chúng, sau sinh ngạ quỷ lai vãng nơi chốn già lam,
ẩn nơi nhà xí, ăn toàn phẩn uế đến cả ngàn vạn năm, sinh trở lại làm người,
nghèo nàn hạ tiện, có nói điều gì cũng chẳng ai tin. Trộm của một người tội hãy
còn nhẹ, tội cắt đoạt phúc điền của nhiều người phải chịu quả đoạn xuất thế
đạo”.
Tiểu sử Ðại Lão
Pháp Sư Thích Diễn Bồi
(theo Huệ Quang Từ Ðiển)
Lão Pháp Sư người Giang Ðô, tỉnh Giang Tô, họ Lý,
hiệu Ðế Quán. Ngài sinh năm 1912. Năm 12 tuổi xuất gia với Hòa Thượng Thường
Thiên ở am Phúc Ðiền, Lâm Trạch, Cao Bưu. Năm 18 tuổi, Sư thọ Cụ Túc Giới tại
viện Phúc Thọ ở Bảo Ứng.
Lúc đầu, Sư đến Quán Tông Giảng Tự học Thiên Thai
Giáo Quán, kế đến các viện Mân Nam, Giác Tân, Hán Tạng nghiên cứu ý chỉ hai tông
Tánh, Tướng và học Trung Quán truyền từ Tây Tạng. Sư đã từng thân cận các cao
tăng đương thời như Ðế Nhàn, Thái Hư, Từ Hàng, Ấn Thuận, cũng từng giảng dạy tại
Hoa Tây Phật Học Viện, Liên Tông Học Viện, Hạ Môn Ðại Giác Giảng Xá v.v…
Năm 1949, Pháp Sư đến Hương Cảng, hợp sức biên tập và
ấn hành bộ Thái Hư Ðại Sư Toàn Tập. Sau đó, qua Ðài Loan làm công tác trứ thuật
hoằng pháp, học Nhật ngữ và các học thuyết của các học giả Nhật Bản. Sư từng
sang hoằng pháp ở Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên, Lào, Tân Gia Ba, Mã Lai, Phi
Luật Tân và các nước vùng Bắc Mỹ.
Sư lần lượt giữ các chức vụ Chủ Tịch Hội Phật Giáo
Trung Quốc, trụ trì các chùa Thiện Ðạo, Huyền Trang, Linh Phong Bát Nhã Ðường ở
Tân Gia Ba, Diệu Pháp Tinh Xá ở Việt Nam… và viện trưởng viện Thái Hư Phật Học,
xử lý thường vụ Từ Hàng Trung Học. Sư có trứ tác và dịch thuật rất nhiều, trong
đó phần trứ tác được đăng rải rác trong các đặc san Phật Giáo, phần dịch thuật
được gom góp thành Ðế Quán Toàn Tập…
Lược Truyện
Từ Hàng Trưởng Lão (1895-1954)
(theo Huệ Quang Từ Ðiển)
Ðại Lão Luật Sư Từ Hàng người huyện Kiến Ninh, tỉnh
Phúc Kiến, Trung Quốc, họ Ngải, tự Ngạn Tài, hiệu Kế Vinh.
Ngài mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Năm 17 tuổi, xuất gia
với Hòa Thượng Tự Trung, năm sau thọ giới Cụ Túc tại chùa Năng Nhân ở Cửu Giang.
Sư từng tham lễ khắp các đạo tràng như Cửu Hoa, Thiên Thai, Phổ Ðà… Sư học Thiền
tại chùa Thiên Ninh ở Thường Châu, chùa Cao Mân ở Dương Châu, theo học với Pháp
Sư Ðế Nhàn, lại học Tịnh Ðộ với Pháp Sư Ðộ Ách. Năm 1927, Sư đến Phật Học Viện
Mân Nam, gần gũi Thái Hư Ðại Sư, được Ngài hun đúc, từ có có chí cách tân Phật
Giáo. Ngoài ra, Sư còn gần gũi Pháp Sư Viên Anh. Sư từng 2 lần nhập thất để đọc
Ðại Tạng trong sáu năm. Năm 1929, Sư chủ trì chùa Nghinh Giang ở An Khánh, hết
lòng với sự nghiệp hoằng pháp, đề xướng cải cách Tăng Già, chỉnh đốn Phật Giáo.
Sư cũng từng sáng lập hội Phật Học Trung Quốc tại thủ
đô Rangoon của Miến Ðiện (Myanmar). Năm 1940, Sư theo Ðại Sư Thái Hư thăm viếng
các quốc gia Phật Giáo vùng Ðông Nam Á, kế đó lưu lại ở Mã Lai Á, sáng lập các
cơ sở như học viện Bồ Ðề ở Tinh Châu (Tân Gia Ba), hội Phật Học Tinh Châu, hội
Phật Học Di Bảo, hội Phật Học Tân Thành, đồng thời phát hành nguyệt san Nhân
Gian, ra sức đẩy mạnh việc Phật học xã hội hóa, nhờ đó, Phật Giáo Nam Dương được
hưng thịnh. Năm 1948, Sư đến Trung Lịch ở Ðài Loan chủ trì Phật Học Viện Ðài
Loan do Pháp Sư Diên Quả sáng lập. Sau đó, Sư thành lập Di Lặc Nội Viện ở Tịch
Chỉ để tiếp nhận các thanh niên Tăng từ Hoa Lục đến. Ðồng thời khai giảng các
kinh luận Ðại Thừa như Nhân Minh, Duy Thức, Lăng Nghiêm… tận tâm tận lực trong
việc giáo dục, hoằng hóa.
Sư thị tịch vào tháng 5 năm 1954, thọ 60 tuổi, 42
tăng lạp. Di thể Sư ngồi kiết già trong một cái chum lớn, được an trí tại viện
Tĩnh Tu sau núi. Ba năm sau, mở chum ra, nhục thân Sư vẫn không hư hoại, các nơi
đều kính ngưỡng. Sau đó, đồ chúng xây dựng Từ Hàng Ðường để kỷ niệm đức nghiệp
của Sư và tôn phụng nhục thân. Người đời sau gom góp tác phẩm của Sư thành Từ
Hàng Pháp Sư Toàn Tập lưu hành ở đời.
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày 01-1
-2007