Những Nét Văn Hóa Của Ðạo
Phật
Trung Tâm Văn Hóa – Chùa Việt Nam
TT. Thích Phụng Sơn
---o0o---
Phần
1
3. Ðức Phật Và Giáo Lý Giải Thoát
Ðức Phật đản sinh vào 566 năm trước Tây Lịch và nhập
Niết Bàn vào năm 468 trước Tây Lịch. Nước Ấn Ðộ lúc bây giờ theo Bà La Môn
Giáo (Brahmanism) chủ trương Thần Phạm Thiên (Brahman, còn dược gọi là Ðại
Ngã hay Thượng Ðế) là ngưồn gốc của mọi sự vật. Mỗi sinh thể, như con
người, đều có một Tiểu Ngã (Atman). Ðại Ngã và Tiểu Ngã là cùng bản tánh.
Tiểu Ngã tu tập để trở thành trong sạch hầu trở về với Ðại Ngã (Brahnan),
tùy theo mức độ tâm linh mà mỗi người khi sinh ra thuộc vào các giai cấp
khác nhau: giai cấp Bà La Môn, quý tộc hay võ tướng, thương gia hay cùng
đinh. Trên nguyên tắc, xã hội Ấn Ðộ chia con người ra thành bốn giai cấp.
Trên thực tế, mỗi giai cấp lại phân chia thành hàng chục giai cấp nhỏ hơn.
Sự liên hệ mật thiết của những người khác giai cấp với nhau, tạo nên sự
ích kỷ, áp bức, kỳ thị của các nhóm giai cấp trên đối với các giai cấp bị
xem là thấp kém. Sự ác độc của sự kỳ thị sai lầm này tại Ấn Ðộ được chính
thức ghi thành luật lệ sau này như nếu một người thuộc giai cấp hạ tiện
tình cờ nghe lời tụng đọc các thánh thư Bà La Môn giáo thì người đó bị đổ
chì nóng chảy vào tai để trừng phạt.
Trong hoàn
cảnh bế tắc của hệ thống tư tưởng và tổ chức xã hội cứng ngắc ấy, có nhiều
chủ trương phải tìm lối thoát khỏi sự nhàm chán của đời sống bằng cách tận
hưởng các dục lạc. Có kẻ khác lại cho cuộc sống trên thế gian này thật là
vô vọng, ghê tởm đời sống của cả thân xác mình, tìm cách tu khổ hạnh, ép
xác hay hành hạ thân xác để mong sau khi chết có thể được sinh về chốn
thiên đàng an vui. Ðó là hai chủ trương cực đoan trong nhiều chủ trương
khác nhau lúc bấy giờ.
I.Trí Tuệ
Hay Sự Thấy Biết Chân Thật
Ðức Phật thấy
rõ hoàn cảnh xã hội và tâm linh bế tắc đó. Ngài muốn tìm lời giải đáp chân
thật không dựa trên sự suy luận, cảm xúc hay niềm tin không căn cứ. Do đó,
sau sáu năm tu tập trong rừng và bốn mươi chín ngày thiền định dưới cội bồ
đề, Ngài đã đại ngộ, nhìn thấu rõ mọi sự vật (vạn pháp) trong vũ trụ như
sau:
_
Sự thấy biết mọi sự kiện trong vũ trụ và đời sống con người
một cách chân thật (như thực tri kiến) xuất hiện tự nhiên khi ta không còn
dính mắc với các ý tưởng đối nghịch, mâu thuẩn làm khơi dậy lòng ham muốn,
giận dữ, thù hận, v.v.. đưa đến xáo trộn và khổ đau.
_
Chủ trương tận hưởng dục lạc hay sống đời khổ hạnh, hành hạ
thân xác mình, chỉ là hai cực đoan của sự trốn chạy cuộc sống. Sống là
sống hạnh phúc vì hạnh phúc vốn là tánh tự nhiên, chân thật hay là Phật
tánh có sẵn nơi mỗi chúng ta. Khi ta sống tỉnh thức với sự chú tâm tự
nhiên, với sự thấy biết trực tiếp không lựa chọn (trực thức vô trạch) mọi
sự kiện, thì mọi sự vật đều hiện ra một cách chân thật, trong sáng, tràn
đầỵ Các sự xáo trộn, mâu thuẩn, xung đột do sự thấy biết sai lầm tan biến.
Tâm ta quay về với sự trong sáng tự nhiên của nó, với niềm hạnh phúc bao
la tràn đầy.
Thực hành lối
sống an lành và hạnh phúc đó là sống Trung Ðạo, đi ở giữa, tránh hai cái
cực đoan sai lầm nói trên. Ðó cũng chính là sống đời giải thoát hay giác
ngộ.
_
Do đó, con người không cần phải hy sinh cho một ước mơ được
sung sướng trong thiên đàng mai sau mà quên đi cuộc sống hiện tại, nhưng
cũng không đắm mình vào khoái lạc vật chất để tìm kiếm sự thỏa mãn dục lạc
mãi không ngừng. Sự khổ hạnh, ép xác để mong lên thiên đàng cùng sự hưởng
thụ vật chất theo chủ nghĩa khoái lạc đều làm cho tâm trí mê mờ và thân
xác mệt mõi. Người thực hành đạo giác ngộ sống hạnh phúc nơi Trung Ðạo,
tức là ở giữa hai cái cực đoan sai lầm của chủ trương khổ hạnh hoặc hưởng
lạc nói trên và sống an vui thoải mái với sự hiểu biết chân thật trong đời
sống hàng ngàỵ
_
Sự hiểu biết chân thật đó không qua lý luận viễn vông mà qua
kinh nghiệm tâm linh: tánh tự nhiên của mỗi chúng ta là chân tâm hay Phật
tánh. Tánh ấy vốn không có bắt đầu và tận cùng (bất sanh bất diệt), rộng
lớn bao la, trong sáng an vui, tràn đầy tình thương yêu (từ bi) và sự hiểu
biết chân thật (trí huệ). Chân tâm hay Phật tánh nơi mỗi chúng ta luôn
luôn rỗng lặng, tinh sạch, trong sáng, linh động, tràn đầy đồng thời rộng
lớn bao la nên không có một cái gì gọi là Tiểu Ngã (Atman), một cái tôi
nhỏ bé cần phải thanh lọc dần dần trở về với Ðại Ngã (Brahman hay là
Thượng Ðế)
_
Sống đời an vui giác ngộ ngay trong cuộc đời này là chúng ta
sống với tâm hiểu biết chân thật: thấy biết rõ ràng mọi thứ, mọi hiện
tượng nhưng tâm buông xả, không dính mắc vào các ý tưởng phân biệt như hay
dở, tốt xấu, làm khơi dậy các tình cảm như vui buồn, thương ghét, thân thù
thì tâm luôn luôn tĩnh lặng. Cái tôi (ngã) mà lâu nay ta luôn luôn bảo vệ,
đề cao chẳng qua là sự tiếp nối không ngừng của các ý tưởng và cảm xúc đó.
Các ý tưởng và cảm xúc giờ đây lắng dịu thì cái tôi nhỏ bé (ngã) cũng tan
biến nên ta trực nhận cái tôi ấy (ngã) vốn rỗng lặng (không) hay vô ngã.
Các ý tưởng và cảm xúc thường là các đám mây che mờ chân tâm, Phật tánh
luôn luôn tỏa sáng nơi ta. Mây tan đi thì mặt trời chiếu sáng, sự mê mờ
(vô minh) tan đi thì chân tâm, Phật tánh, niềm hạnh phúc trong sáng bao la
tràn đầy nơi ta.
_
Tánh cách vô ngã hiện hữu nơi mọi sự vật. Mọi sự vật hiện
hữu do nhiều thứ họp lại. Chúng ta có thể lấy ví dụ như một chiếc xe hơi
do sự kết hợp của sườn, mui, máy, bình xăng, dây điện, cảng xe, việc làm
người thợ, dự án của kỹ sư, quyết định sản xuất của các chủ hảng, các vật
liệu do các hảng khác cung cấp, v.v… Chiếc xe có mặt là do nhiều thứ trên
hợp lại mà thành. Nó không tự có mặt và không có cá tánh riêng biệt. Nếu
các yếu tố hợp lại thành chiếc xe thay đổi thì nó thay đổi theo. Như mỗi
năm hảng sản xuất thay đổi hình dáng, máy móc, mầu sơn để hấp dẫn khách
hàng thì mỗi năm xe (cùng một hiệu) đổi mới liên tục. Cùng một hiệu xe như
Mercedes, Ford hay Toyota Celica nhưng tùy theo các yếu tố hợp lại thành
chiếc xe theo năm sản xuất, chúng hoàn toàn khác nhau về màu sắc, hình
dáng, máy móc, sự bền bĩ. Cùng một tên gọi nhưng chúng hoàn toàn khác nhau
về phẫm chất cũng như hình dáng. Tuy nhiên, chúng ta có thói quen thường
gán cho (hay yên chí) là mọi sự vật có tánh riêng biệt và không thay đổi
trong khi mọi sự vật đều thay đổi. Sự thay đổi không ngừng đó gọi là vô
thường.
_
Sự thay đổi đó xảy ra từng giây phút một. Lấy lại ví dụ
chiếc xe, như khi nói đến chiếc xe của ta thì ta có một hình ảnh cố định
về chiếc xe ấỵ Kể từ khi mua xe cho đến nay, ta đã thay các bánh xe mới,
bộ thắng mới, bình điện mới, bình lọc dầu mới, ống lọc xăng mới, nước sơn
không còn bóng như trước và khung xe đã bắt đầu có chỗ rỉ sét.
Các bộ phận
kết hợp thành chiếc xe (sinh), chiếc xe tồn tại một thời gian (trụ), chiếc
xe biến đổi, hư hao (dị), và cuối cùng nó bị tan rã (diệt). Chiếc xe phế
thải được kéo vào nghĩa địa xe, người cần các bộ phận đến mua xe về ráp
lại vào xe khác. Cuối cùng người ta ép dẹp phần còn lại, chuyển đến các
nhà nấu thép, đúc thành các bộ phận xe mới và ráp thành chiếc xe khác.
_
Tính cách sinh diệt, diệt sinh đó là tính cách vô thường của
mọi sự vật. Vô thường là các sự vật không tồn tại mãi mãi và luôn luôn
biến đổi. Chiếc xe đạp tồn tại độ 10 năm, xe hơi trên 20 chục năm, con
người dưới 100 năm, mặt trời độ 10 tỷ năm. Từ một vật thật nhỏ như tế bào
trong cơ thể đến một vật lớn như mặt trời luôn luôn chuyển biến qua bốn
giai đoạn nhiều vật kết hợp lại thành (sinh), tồn tại một thời gian (trụ),
biến đổi và hư hao (dị) cuối cùng là tan rã (diệt), và rồi lại kết hợp để
thành các sự vật khác mãi mãi không ngừng. Tính cách vô thường ấy diễn ra
mọi nơi mọi chốn, bên trong và bên ngoài chúng ta.
_
Khi đã hiểu rõ tính cách vô thường, vô ngã của các sự vật,
chúng ta không còn sợ hãi trước các sự thay đổi, chuyển biến và lòng chúng
ta trở nên thoải mái, tâm chúng ta trở nên tỉnh thức hơn trong mối tương
quan với người và vật. Ta không nhìn sự vật hay con người theo thói quen
máy móc mà ta đã có sẵn ý nghĩ hay hình ảnh về người hay vật đó. Thói quen
ấy ngăn cản ta tiếp xúc với thực tại, những gì đang thực sự có mặt trong
đời sống.
Trong mỗi
giây phút, mỗi cành lá, đám mây, chiếc hoa, cánh bướm, giòng sông, điệu
nhạc, người đàn ông, đàn bà, trẻ em, cục đá, chiếc xe đều hiện hữu hoàn
toàn, như thế ấỵ Tất cả đều không dính dáng gì đến các ý tưởng khen chê,
phê phán cùng các cảm xúc dấy lên từ sự phê phán ấy làm ta vui, buồn,
thương, ghét. Nếu có dịp nhìn sâu vào lòng mình (quán chiếu nội tâm) thì
chúng ta sẽ thấy các ý tưởng và các tâm tư lập đi lập lại mãi theo thói
quen như sau: điều gì ta nghĩ là hay, tốt thì ta ưa thích, ca ngợi, điều
gì ta cho là dở, xấu thì ta ghét bỏ, thù hận hay phỉ báng. Có điều, cái mà
ta cho là tốt hay xấu ấy lại thay đổi không ngừng. Hôm nay ta nghĩ nó là
tốt thì ngày mai ta có thể chê là xấu, hôm nay ta cho là đúng ngày mai
thành ra sai. Do đó mà các vui, buồn, thương, ghét, thân, thù luôn luôn
chỗi dậy như các luồn sống mãi mãi nối tiếp trên mặt biển, làm ta chịu
nhiều áp lực do sự xung đột bên trong và sự đụng chạm bên ngoài.
“Thể
mọi pháp đều không.
Không
sanh cũng không diệt.”
Mỗi
sự vật đều có mặt tròn đầy
trong
sự rỗng lặng trong ánh sáng của nó.
_
Nếu ta thực hành sự tỉnh thức, sự thấy biết chân thật thì
tâm tự buông xả, không để mình dính mắc vào các ý tưởng đối nghịch, các
phê phán, các phân biệt luôn luôn kéo đến thì tâm ta an dịu dần như biển
không còn gió thổi thì trở nên yên tĩnh. Ðó là sự tỉnh thức đã có mặt nơi
ta. Với tâm tỉnh thức ấy ta nhìn mọi sự vật thì chúng đều hiện rõ tánh
chân thật của mình: trong sáng, rỗng lặng, tươi mát tràn đầy. Ðó là tánh
chân thật tự nhiên, tánh rỗng lặng hay là tánh không của vạn pháp. Thấy
biết như thế gọi là sự thấy biết chân thật hay trí tuệ. Như thế, khi tâm
ta thanh tịnh thì mọi sự vật (vạn pháp) trở nên thanh tịnh. Khi ta khởi
lên sự phân biệt ưa ghét thì lập tức ta phân chia mọi thứ thành hai phía
đối ngịch: thân thù, cao thấp, quý tiện, sang hèn, thân sơ, từ đó nổi lên
các cảm xúc thương yêu - thù hận, thích thú - sợ hải, thân tình - xa lạ,
sung sướng - khổ đau, ưa muốn - ghét bỏ …
_
Sự phân biệt ấy là một thói quen do ta bị điều kiện hóa
(conditioned) từ lúc chúng ta sinh ra cho đến nay, làm chúng ta phản ứng
như một người máy, một máy đìện toán (computer) đã được qui định cách giải
quyết các vấn đề (program) theo một lề lối nhất định. Sự lập đi lập lại
các thương ghét, vui buồn ấy dần dần trở thành một thói quen mà ta nhầm
tưởng đó là con người thật sự của mình. Sự tỉnh thức, sự chú tâm thoải mái
tự nhiên đưa tâm ta trở về với sự tươi mát, linh động, rỗng lặng, tinh
sạch, rộng lớn tự nhiên của nó. Từ đó ta nhìn thấy rõ ràng mọi sự vật,
thoát ra khỏi mọi sự lôi kéo, ràng buộc, mê hoặc của các ý tưởng, cảm xúc
nơi ta hay những người quanh ta. Chúng ta thoát ra được thói quen phản ứng
theo điều kiện quy định như cái máy điện tử nói trên.
_
Sống tỉnh thức như thế thì sự hiểu biết chân thật (trí tuệ)
tự hiển bày, tự biểu lộ (manifest). Tâm ta tự nó quay về với sự an ổn,
thoải mái, trong sáng, rộng lớn, và rỗng lặng của chính nó. Từ chốn ấy,
tình thương yêu bao la, nồng ấm (từ bi) bừng dậy. Mọi sự vật trở thành
linh động, tươi sáng, yên ổn, tươi mát, khi ta nhìn chúng với con mắt
thương yêu: hoa lá rực rỡ, cảnh vật vui tươi, mây trời trong sáng, người
vật nhộn nhịp.
Khi tình
thưong yêu bừng dậy thì nguồn hạnh phúc chảy tụ lại thành biển lớn, đưa ta
đến chốn an lạc vô cùng.
Từ đó ta kinh
nghiệm được, hiểu biết được một cách cụ thể và trực tiếp là sự hiểu biết
chân thật (trí tuệ), tình thương yêu rộng lớn (từ bi) và nguồn hạnh phúc
trong sáng, bao la là ba khía cạnh của chân tâm, Phật tánh. Hể một thứ
xuất hiện thì hai thứ kia cũng xuất hiện như một bó đuốc lớn cháy rực rỡ
không thể tách lìa thành ba ngọn lửa khác nhau.
Như mặt trời
tỏa ra ánh sáng cùng khắp, ánh sáng ấy cũng là năng lượng có sự ấm áp. Ta
không thể tách rời ánh sáng và sự ấm áp đó được. Cũng như thế, tình thương
yêu bao la, sự hiểu biết chân thật và nguồn hạnh phúc nồng ấm vốn là một,
không thể tách lìa. Một thứ có mặt thì hai thứ kia cũng có mặt.
_
Khi tâm quay về với tánh tự nhiên rộng lớn an lạc của nó thì
ta trực nhận, thấy biết một cách rõ ràng, cụ thể và chân thật: khổ đau
không có thật. Khổ đau là một xa xí phẩm không cần thiết cho đời ta. Khổ
đau chẳng khác gì các cay đắng ta thêm vào đời sống ta mà vì mê mờ (vô
minh) ta thấy quá buồn chán và tẻ nhạt.
_
Tình thương yêu nồng ấm, trong sáng, bao la (Từ Bi) luôn
luôn tỏa sáng rực rỡ nơi ta. Do đó, ta làm các điều tốt đẹp cho đời: giúp
đỡ người bị nạn, đói khổ, chăm sóc những kẻ không may. Ðó cũng là sự hiểu
biết chân thật (Trí Tuệ), hay biết rõ ràng mọi sự vật vốn vô thường, vô
ngã, nên thấy rõ mỗi sự vật đều hiện hữu một cách chân thật tràn đầy,
trong sáng và rỗng lặng. Từ bi và trí tuệ cũng chính là suối nguồn hạnh
phúc nồng ấm bao la (chân lạc) luôn luôn tỏa đầy, chiếu sáng và có mặt nơi
ta.
_
Tình thương yêu rộng lớn, sự thấy biết chân thật và nguồn
hạnh phúc trong sáng tràn đầy là tánh tự nhiên có sẳn nơi chúng ta, đó là
tánh chân thật tự nó hiện hữu, đó là chân tâm, là Phật tánh, mãi mãi có
mặt (chân thường), không chút đổi thay từ giây phút này qua giây phút khác
(chân ngã) không có gì làm cho nó trở thành nhơ bẩn, sức mẻ hay mê mờ
(chân tánh). Tánh chân thật tự nhiên đó là nguồn an vui kỳ diệu, thâm sâu,
tươi mát, linh động, tràn đầy, bất tận (chân lạc). Vì ta vô tình lãng quên
nên không nhận biết, không sống với niềm an lạc kỳ diệu có sẳn nơi ta mà
thôi.
4. Thiền Và
Hoa Ðạo
Hoa đã xuất
hiện hàng triệu năm trước khi có loài người, tô điểm cho cảnh vật với muôn
màu sắc. Và cũng từ lâu hoa có mặt trong cuộc sống loài người: hoa ngoài
đồng nội, hoa chưng trên bàn, hoa dâng cúng nơi bàn thờ, hoa ngoài nghĩa
trang khi ta thăm viếng người quá cố … Khi vui lúc buồn, khi yêu lúc giận,
ăn uống tiệc tùng, lễ lạc tiếp đón, lúc sống cũng như khi qua đời, chúng
ta lúc nào cũng thấy mình gắn liền với các đóa hoa tươi thắm.
Tuy vậy, đã
biết bao lần chúng ta hững hờ quên lãng, không nhìn thấy vẻ rực rỡ hay sự
tinh khiết của đóa hoa chưng trong nhà hay vừa hé nở ở ngoài vườn. Cuộc
sống quanh ta chứa rất nhiều sự kỳ diệu: một đoá hoa hồng trong ánh sáng
ban mai rực rỡ, bãi lau sậy im lặng soi mình trên mặt nước hồ thu, những
bong tuyết trắng xoá nhẹ nhàng phủ lên cảnh vật. Và nếu chúng ta có tí thì
giờ ngắm nhìn thì ta có thể hạ bút viết bài thơ Hài Cú như một vị thiền sư
trong ngày tuyết đổ ngập trời:
“Hàng vạn hạt tuyết rơi
Nhưng mỗi hạt tuyết
Ðều có nơi an trú.”
(Trúc Thiên dịch)
Hàng muôn
triệu cánh hoa với dáng vóc, màu sắc, hương thơm, thời gian hiện hữu khác
nhau đã xuất hiện nơi chốn đồng bằng, trong rừng rậm, ven sông, trên những
cành cây cao hay nơi mặt ao hồ. Mỗi cành hoa hiện hữu tự nó đầy đủ, thoải
mái, an nhiên, tự tại, tỏa ánh sáng những màu sắc kỳ diệu. Ðó là Pháp
Giới, thế giới chân thật mà kinh Hoa Nghiêm đã mô tả: hàng muôn triệu thứ
hiện hữu trong vũ trụ bao la mà mỗi loại, dù nhỏ như hạt nguyên tử hay lớn
hơn như giải Ngân Hà gồm triệu triệu ngôi sao đều sinh động, chuyển biến
qua các giai đoạn sinh (nhiều thứ hợp lại thành ra một vật), trụ (tồn tại
và phát triển), dị, (chuyển biến, hư hoại), rồi cuối cùng đi đến diệt (tan
rả) để rồi kết hợp lại mà thành vật khác, mãi mãi không ngừng. Muôn triệu
thứ cùng hiện hữu bên nhau như một chiếc lưới vĩ đại mà mỗi thứ là một
viên ngọc chói sáng lấp lánh, phản chiếu ánh sáng và hình ảnh của tất cả
viên ngọc khác. Muôn triệu thứ trong vũ trụ luôn luôn ảnh hưởng lẫn nhau,
tác động lẫn nhau, phản chiếu lẫn nhau, trộn lẫn vào nhau mà đồng thời vẫn
riêng biệt, vẫn an nhiên tự tại, vẫn hiện hữu tràn đầy riêng biệt giữa
muôn sự ồn ào, náo nhiệt, chuyển biến, đổi thay mà kinh Hoa Nghiêm gọi là
sự vô ngại Pháp Giới.
I.
Lịch Sử Chưng Hoa
Nhân loại từ
lâu đã dùng hoa trong các cuộc lễ lạc để tăng phần long trọng. Trong Phật
Giáo, lịch sử chưng hoa khởi đầu bởi các vị Thánh Tăng. Những bậc đệ tử
của Ðức Phật, khi nhìn thấy những cánh hoa rơi rụng trong cơn bão tố, động
lòng trắc ẩn, đi góp nhặt chúng lại và bỏ vào chậu nước để hoa sống được
lâu hơn. Sau đó, các vị tăng sĩ thường dâng hoa cúng Phật vào các lễ tiết
vì hoa vốn tinh khiết, đẹp đẽ, trong sáng, tự tại, rực rỡ như tâm của
những người giác ngộ.
“Ðạo
vốn không nhan sắc
Mà
ngày thêm gấm hoa
Trong
ba ngàn cõi ấy
Ðâu
chẳng phải là nhà”
Thiền Sư Viên Chiếu
(Thiền Sư Nhất Hạnh dịch)
Đóa hoa tâm mầu nhiệm của mỗi chúng ta |
Thật ra, dâng
hoa cúng dường đã xảy ra ngay khi Ðức Phật còn tại thế. Ðức Phật nhận một
cánh hoa dâng cho ngài và đưa lên trước mặt đại chúng. Mọi người đều im
lặng duy chỉ có Ngài Ca Diếp, vị đại đệ tử của Ðức Phật mỉm cười. Ðức Phật
thấy rõ tâm Ngài Ca Diếp chỉ tràn đầy niềm thanh tịnh, an vui, đầy tình
thương yêu và sự hiểu biết chân thật, nên Ngài xác nhận cái thấy biết của
Ngài Ca Diếp: “Ta có pháp môn vi diệu không thể dùng lời mà diễn tả được.
Nay ta trao cho ông Ca Diếp”. Cái vi diệu mà Ðức Phật trao cho Ngài Ca
Diếp vốn đã sẵn có nơi ông và nơi mỗi chúng ta và sự tích nói trên được
gọi là “Niêm hoa vi tiếu”: Ðức Phật đưa một cành hoa lên và ông Ca Diếp
mỉm cười.
Các chùa
chiền ở Việt Nam, Trung Hoa, Ðại Hàn, Nhật Bản… đã có tập quán chưng hoa
trên bàn Phật cả ngàn năm nay. Nghệ thuật chưng hoa và chế tạo các bình
hoa phát triển cao độ vào thời kỳ nhà Ðường và nhà Tống ở Trung Hoa. Sau
đó, người Mông Cổ chiếm nước này và lập nên nhà Nguyên. Nhiều hoa trái của
nền văn minh Trung Hoa bị tiêu diệt tại nước này nhưng được bảo tồn và
phát triển tại Nhật Bản.
Chùa Hokkakudo, chốn
xuất phát Hoa Đạo |
Vào thế kỷ
thứ bảy, Thánh Ðức Thái Tử, nhiếp chánh cho Suy Cổ Thiên Hoàng, cử một
phái bộ ngoại giao Nhật Bản sang Trung Hoa. Trưởng phái bộ ngoại giao này
là Ono-no Komoto đến Trung Hoa học được rất nhiều kiến thức về đồ sành, đồ
sứ, đồ đồng và các bộ môn nghệ thuật cùng Thiền (Zen) Phật Giáo. Thiền
Phật giáo sau này được người dân Nhật đón tiếp nồng hậu và phát triển
nhanh chóng nhờ các vị đại sư Thiền Tông Trung Hoa đến Nhật bản giảng dạy
và tổ chức tu tập, sau đó được nhiều thiền sư Nhật Bản đã tô điểm thêm cho
hợp với truyền thống địa phương.
Người dân
Nhật vốn ưa thích thiên nhiên, đắm mình trong sự hòa hợp giữa con người và
vũ trụ. Phật Giáo, qua giáo lý về sự đồng nhất giữa bản thể vũ trụ và tự
tánh con người (Phật tánh), nhất là kinh nghiệm từ sự tu tập của Thiền
Tông giúp họ trực tiếp sống với sự mầu nhiệm của Phật tánh, của tâm giải
thoát với niềm an vui trong sáng bao la vốn có sẵn nơi mỗi chúng ta.
II. Ðoá Hoa Mầu Nhiệm
Mổi con người
là một đóa hoa có hương thơm, màu sắc, dáng vóc, tâm tư, ước muốn, nhận
biết riêng biệt nhưng luôn hòa mình với hàng triệu triệu đời sống khác
trên quả đất nàỵ Thế giới rộng lớn chuyển động như một bản hòa tấu với
những vận chuyển, sản xuất, tiêu thụ qua muôn ngàn hình thái như xe cộ,
nhà cửa, ăn uống, nghỉ ngơi, du lịch, chiến tranh, xây dựng, tàn phá,
thương yêu, giết chóc … Không một lúc nào trên quả đất này không có hàng
triệu người đang làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi, đọc sách, phá hoại hay xây
dựng. Nếu nhìn quả đất từ xa khi nửa phần quả đất từ từ chìm vào bóng tối
thì ánh đèn trong nhà và ngoài đường tỏa sáng hết lớp này đến lớp khác
theo sự vần xoay của mặt địa cầu hướng về phương đông, cảnh vật lại tràn
ngập trong ánh sáng ban mai, sự sống chổi dậy ồn ào náo nhiệt. Và cùng với
muôn loài đón mừng bình minh, hàng triệu triệu đóa hoa đón nhận nguồn sống
từ ánh thái dương.
Chúng ta
thích ngắm đóa hoa vì nó tỏa ra sự mầu nhiệu của dòng sống: Mọi đóa hoa tự
nó vốn thanh tịnh, rỗng lặng, tỏa chiếu, trong sáng và tươi mát. Dù đóa
hoa ấy mọc riêng rẽ trên cánh đồng cỏ xanh, trong một khu rừng rậm rạp hay
trên một cánh đồng hoa rực rỡ. Trong đám nhân loại hàng tỷ người hiện nay,
đời sống của mỗi chúng ta cũng vậy: tự nó là trong sáng, an vui, rộng lớn,
thoải mái, tươi mát, tràn đầy tình thương yêu và sự hiểu biết chân thật,
tràn đầy nguồn hạnh phúc trong lành. Niềm an vui đó tự nó hiện hữu, không
có bắt đầu và tận cùng như vũ trụ bao la quanh ta. Như một đóa tươi thắm
trong một khóm hoa dày đặc, mỗi người chúng ta hiện hữu tràn đầy, riêng
biệt, tự tại dù đang hòa lẫn với muôn ngàn đời sống khác trong một xã hội
luôn luôn biến đổi.
Chưng một
bình hoa với tâm tĩnh lặng, với lòng an vui giúp cho chúng ta tiếp xúc
được, sống với sự mầu nhiệm của cuộc đời. Sự mầu nhiệm của cuộc đời chính
là sự mầu nhiệm nơi tâm ta: Một thế giới rộng lớn, an vui, trong sáng, rực
rỡ kỳ diệu, nồng ấm và hạnh phúc vô cùng:
“Một
đóa hoa mai vừa nở
Cả
thế giới bừng dậy
Một
tiếng nhạc ngân lên
Rung
chuyển cõi ba ngàn
Một
cánh hạc vỗ nhẹ
Kết
hợp không thời gian
Nơi
khuôn mặt nghìn đời
Nụ
cười thoáng hiện
Một
thân thể nhỏ bé
Tràn
ngập không thời gian.”
Sự mầu nhiệm
an vui, rộng lớn, trong sáng vốn luôn luôn hiện hữu nơi mỗi chúng ta, đã
giúp cho ta buông xả cái tôi nhỏ bé để trở thành một với vũ trụ bao la,
trầm lặng, bất biến, nhưng đồng thời luôn luôn chuyển động, muôn màu muôn
sắc, linh động và thay đổi. Phật Giáo chú trọng đến niềm an vui nội tâm.
Khi tâm an bình thì tự nó thành trong sáng như tấm gương rộng lớn phản
chiếu mọi hoa lá, cỏ cây, người và vật. Tâm trong sáng, an vui đó được gọi
là đất sạch (Tịnh Ðộ). Chốn tịnh độ ấy được mô tả đầy cả hương hoa rực rỡ,
chim thú kỳ diệu, cảnh vật trang nghiêm. Các bộ kinh lớn của Phật Giáo như
Diệu Pháp Liên hoa, Hoa Nghiêm cũng lấy tên loài hoa quý như hoa sen (Liên
Hoa) và Tràng Hoa Ðẹp (Hoa Nghiêm) để chỉ cho cái tâm mầu nhiệm, an vui,
rộng lớn, thanh tịnh có sẳn nơi mỗi chúng ta.
III. Dâng Hoa Cúng Phật
Phật Giáo ảnh
hưởng rất nhiều đến đời sống của dân Nhật Bản. Nhiều chùa chiền được xây
dựng và trở thành các trung tâm tôn giáo và nghệ thuật. Những cuộc chiến
tranh và nội loạn làm mai một các ngành nghệ thuật ở Trung Hoa. Các ngành
nghệ thuật ấy được tiếp đón, nuôi dưỡng và phát triển ở Nhật Bản, trong đó
có nghệ thuật chưng hoa.
Trong các
cuộc lễ ở chùa, người ta thường dâng hoa cúng Phật. Ban đầu bình hoa được
cắm theo nguyên tắc cân xứng: Nhiều cành hoa có độ dài bằng nhau, cùng màu
sắc và ở vị trí đối xứng nhau … Một nhánh hoa màu vàng bên phải thì có một
nhánh hoa màu vàng bên trái, một nhánh hoa màu đỏ phía trước thì có một
nhánh hoa màu đỏ phía sau. Cách cắm hoa này hiện vẫn còn thông dụng tại
nhiều nơi.
Sau đó, các
vị thầy chưng hoa nhận thấy lối chưng hoa đối xứng như thế không phản ảnh
vẽ đẹp tự nhiên. Nét đẹp của vạn vật biểu lộ một cách tự nhiên và không
theo một sự cân xứng giả tạo. Từ đó nghệ thuật chưng hoa tiến một bước dài
để trở thành Hoa Ðạo cùng với Thiền Phật Giáo, Trà Ðạo, Võ Ðạo tạo thành
nền tảng vững chắc của nền văn hoá Nhật Bản.
Từ các cuộc
lễ theo truyền thống dâng hoa cúng Phật, nghệ thuật chưng hoa dần dần phát
triển và trở thành một bộ môn nghệ thuật của giới qưý tộc rồi lan truyền
đến dân gian. Cuộc triển lãm các bình hoa để công chúng thưởng ngoạn được
tổ chức đầu tiên vào năm 1425. Từ năm 1445, các cuộc chưng bày được tổ
chức có quy củ hơn để những người trong nghành chuyên môn này có thể học
hỏi lẫn nhau.
Vào lúc bấy
giờ, cách dạy chưng hoa có tính cách cha truyền con nối, mỗi dòng họ giữ
bí mật về nguyên tắc và kinh nghiệm trong ngành, cách giữ hoa lâu tàn, sự
phối hợp màu sắc. Họ chỉ được truyền lại cho con cái và một số học trò
thân tín. Sự thay đổi nói trên, tổ chức triển lãm quy mô các bình hoa
thuộc nhiều trường phái khác nhau, đã đem lại sinh khí cho Hoa Ðạo. Từ đó
thêm nhiều trường phái chưng hoa được khai sinh và tiếp tục phát triển.
Vào giữa thế kỷ 17, đã có đến hơn một trăm trường phái chưng hoa. Ðến nay
con số này lên đến cả ngàn. Tuy vậy, tất cả trường phái trên đều quy về
một trong hai phái chính: Trường phái Hình Thức và trường phái Tự Nhiên.
Trường phái
Hình Thức chú trọng nhiều đến vẻ đẹp của các đường nét sáng tạo. Họ chú
trọng đến các nguyên tắc về sự phối hợp lý tưởng các đường nét như trong
các bức tranh cổ vẽ núi đồi, cây cảnh, dòng sông, đường mòn lên dốc núi,
ao hồ cùng các đám mây lơ lững. Trường phái tự nhiên thì ngược lại, cắm
một bình hoa theo hình ảnh của những cành hoa mọc ngoài thiên nhiên, nghệ
thuật sẽ làm gia tăng vẻ đẹp và sự hòa hợp của hoa lá. Trên thực tế, hầu
như mọi trường phái đều xử dụng hai nguyên tắc chính trên trong các lối
chưng khác nhau.
IV. Bức Tranh
Xưa Và Bình Hoa Ðẹp
Khi nhìn vào
một bức cổ họa, chúng ta thường thấy ở giữa là một hòn núi lớn, mây che mờ
ảo (tượng trưng cho Ðạo hay cho Chân Tâm, Phật Tánh luôn luôn hiện hữu),
hai bên là hai ngọn núi đông và tây. Dưới đó là một ngọn núi nhỏ hơn với
đường nét rõ rệt. Bên sườn núi là một ngọn thác đổ xuống. Dưới đó là đồi,
thung lũng, khu rừng nhỏ trong đó thấp thoáng là ngôi chùa của vị thiền sư
hay căn lều của vị ẩn sĩ. Vùng gần nhất (cận ảnh) thường vẽ các cành lá
hay các bụi hoa mọc trên phiến đá cùng các ngôi nhà rải rác phía xa và một
dòng sông uốn khúc. Trường phái hình thức đã phối hợp chín nét chính nơi
bức cổ họa đó như sau:
|
|
Bức cổ họa
Nếu nhìn bức tranh xưa và hình bình hoa này
chúng ta thấy:
1. Ngọn núi lớn nhất
2. Hai ngọn núi đông và tây.
3. Ngọn núi gần nhất trong
4. Dòng thác chảy
5. Ngọn đồi
6. Khu rừng trong đó thấp thoáng một thiền
thất hay ngôi chùa
7. Một con sông
8. Một con đường đất
9. Vùng
gần nhất (cận ảnh) của bức tranh có các tảng đá cùng hình ảnh các
căn nhà rải rác |
Bình hoa
1. Một
cành cây, lá hay hoa, đẹp và lớn nhất
2. Hai
nhánh cây, bên phải và trái
3. Một
đóa hoa thật đẹp
4. Các
chiếc lá, một cành cong
6. Một
chùm hoa nhỏ hay lá có màu sắc
7. Một
cành dài uyển chuyển
8.Chùm
hoa nhỏ, hay lá hướng về phía trước |
Cách chưng
hoa trên rất trang trọng và nặng về hình thức, thích hợp cho các trang thờ
và các buổi lễ lạc. Chưng một bình hoa như thế đòi hỏi rất nhiều công phu
cũng như khả năng của người chưng hoa.
Nhiều trường
dạy chưng hoa chú trọng nhiều đến sự giản dị, tự nhiên và tính cách sáng
tạo của nghệ thuật nàỵ Các hoa lá chưng trong bình phô bày nét đẹp thiên
nhiên biểu lộ trong dòng sống trôi chảy. Ðó là nét đẹp của sát na hiện
hữu, của bây giờ và nơi đây trong dòng thời gian vô tận và không gian vô
cùng.
Nét đẹp của
bình hoa do sự phối hợp các đường nét của cành lá, các đoá hoa, dáng dấp
và màu sắc của mọi cánh hoa dù nhỏ hay lớn, “quý” hay “tiện”, với những ý
nghĩa mà con người gắn cho mỗi loại, cùng với sự hòa hợp màu sắc và hình
dáng của bình hoa. Sự quân bình của toàn thể các yếu tố ấy cộng với nơi
bình hoa được chưng bày tạo nên một cảm tưởng có sự chuyển động, có sự
biến chuyển của hai cực âm dương sinh động, đổi thay đồng thời vẫn im lìm
và bất động. Nét đẹp ấy tạo nên một ấn tượng và đưa đến một cảm xúc riêng
biệt trong lòng người thưởng ngoạn, chẳng khác gì khi mỗi người chúng ta
đọc bài thơ Hài Cú chỉ gồm vài chữ mà thấy được sự mênh mang của vũ trụ:
“Một cành cây trụi lá
Một con quạ đậu trên cành
Chiều thu sang.
Ba Tiêu
(Tuệ Sỹ dịch)
V. Ba Cành Chính Của Bình Hoa
Khi chưng một
bình hoa, chúng ta lựa ba cành chính và những cành phụ. Khi lựa những loại
hoa hợp với sở thích, chúng ta xem độ cong của nhánh hoa diễn tả phương
hướng, sức mạnh của cành, các chiếc lá và màu sắc của mỗi đóa hoa.
Một bình sanh hoa |
Một bình hoa
có đưọc sự thăng bằng và sinh động nhờ các yếu tố hòa hợp. Trong thế giới
mê vọng mọi thứ đều phân chia thành hai trạng thái đối nghịch như mạnh
yếu, cao thấp, già trẻ, sống chết, … mà Ðông Phương đã dùng hai điễm Âm
Dương trong hình thái cực để tượng trưng cho hai sức mạnh đối nghịch ấỵ Âm
và Dương là hai sức mạnh chống đối nhau nhưng lại thu hút, hấp dẩn lẫn
nhau tạo nên một trong các sức mạnh làm chuyển động bộ máy vũ trụ.
Trong nghệ
thuật chưng hoa khái niệm âm dương được chú trọng đến nhiều. Khi chưng một
bình hoa con người đã thuận theo sự chuyển biến của âm (Ðất) và Dương
(Trời) để bày tỏ niềm hy vọng, sự sống hướng về tương lai.
Trong một
bình hoa thường có ba cành chính là Thiên (Dương), Ðịa (Âm) và Nhân (con
người), thuận theo âm Dương mà trở về với niềm an vui tự nhiên. Mỗi cành
hoa có chiều cao, độ lớn, sức mạnh và hướng mọc khác nhau, luôn luôn diễn
tả sự hòa hợp trong sự chuyển biến không ngừng.
Nguyên tắc ba
điểm chính ấy bắt nguồn từ giáo lý Phật Giáo nói về Tam Thân: Ba thân là
Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Thân của chư Phật tuy ba nhưng lại là một. Pháp
Thân là thân rộng lớn khắp giáp vũ trụ, không bị ngăn ngại. Báo thân là
thân tướng đẹp đẽ, cực kỳ an vui. Ứng thân là thân hóa hiện thành con
người sống nơi cõi thế gian nàỵ Ba Thân này vốn là một, luôn luôn hòa hợp
và cùng hiện hữu nơi một vị Phật. Còn mỗi chúng sanh như chúng ta khi sống
tỉnh thức thì kinh nghiệm được chúng ta vừa là con người nhỏ bé, vừa là vũ
trụ bao la, vừa đang sống nơi chốn trần ai đầy não loạn mà lại vừa có thể
hưởng được nguồn hạnh phúc trong sáng vô biên ngay chính trong cuộc đời
nàỵ
Nói một cách
giản dị hơn, khi tâm ta ở trạng thái buông xả, thoải mái thì các ý tưởng,
các cảm xúc vui buồn dần dần lắng dịu. Cái tôi (ngã) chỉ là sự tiếp nối
liên tục của các ý tưởng và tâm tư cũng dần dần lắng dịu và tan biến. Khi
bức tường tự ngã (cái tôi) tan biến thì ta và vũ trụ không còn bị chia
cách mà trở thành cái Một bao la. Lúc đó ta trực tiếp có kinh nghiệm về
Pháp Thân rộng lớn vô cùng của chính mình: tỏa chiếu trong yên tĩnh và bao
trùm mọi chốn. Trong chốn không gian rộng lớn ấy tình thương yêu tràn dâng
và sự hiểu biết chân thật hiển bày, đưa ta về vói nguồn hạnh phúc tràn đầỵ
Nguồn an vui hạnh phúc ấy không nương tựa, không lệ thuộc vào gì cả, nó
chính là con suối trong mát hiện hữu ngay từ đầu nguồn. Ðó chính là Báo
Thân tự hiển lộ noi ta. Nhưng chúng ta vẫn dẫm chân trên mặt đất đầy bụi
bặm này mà làm các công việc hàng ngày: nấu cơm, rửa chén, chùi nhà, làm
việc, học hành, chăm sóc gia đình, phát triển nghề nghiệp. Chúng ta hiện
hữu trong cuộc sống rất bình thường và giản dị này dưới nhiều hình thái
khác nhau: con cái, cha mẹ, anh em, bạn bè, đàn ông, đàn bà, công tư chức
… Nhưng dù trong hình tướng nào, trong Ứng Thân nào ta cũng có thể kinh
nghiệm trực tiếp tánh rỗng lặng rộng lớn vô biên và niềm an lạc vô cùng.
Nói một cách khác, Phật tính có trong mỗi người chúng ta. Phật tính ấy
biểu lộ, bày bỏ trong trạng thái tâm linh cao vút tuyệt vời, an vui sâu
thẳm qua mọi sinh hoạt tôn nghiêm hay thế tục. Ba cành hoa Thiên, Ðịa và
Nhân biễu lộ sự hòa hợp tuyệt đối đó. Và khi chúng ta quay về với sự tĩnh
lặng bên trong khi chưng một bình hoa thì điều kỳ diệu có cơ duyên xuất
hiện.
Ba cành hoa
cắm không cân xứng nơi bình hoa biểu lộ sự hợp nhất của mọi sự đối nghịch
trong vũ trụ và nơi mỗi chúng ta: vừa là rỗng rang tuyệt đối mà lại vừa
tràn đầy vô cùng, vừa là đầy sức sống vừa là buông xả không dính mắc, vừa
là chuyển động mà lại là yên tĩnh, hay nói theo tinh thần Bát Nhã, màu sắc
hòa hợp, hình dáng xinh tươi của mỗi đóa hoa, mỗi cành lá, hiện hữu rực rỡ
trong cái vắng lặng bao la.
Khi chưng một
bình hoa, chúng ta tham dự vào sự sáng tạo tuyệt đối và sự hũy diệt tuyệt
đối. Các cánh hoa, cành lá, bình hoa, nước nuôi hoa được sắp xếp, phối hợp
để tạo thành một vẻ đẹp toàn thể, bày tỏ nguồn sống của vũ trụ nơi hoa lá
mong manh. Nét đẹp của Ba Ngàn Thế Giới ngưng đọng nơi một bình hoa bé
nhỏ. Một bình hoa nhỏ bé ấy là vũ trụ mênh mông. Ðồng thời khi để tâm vào
sự sáng tạo ấy, ta chỉ thuận theo những nguyên tắc tự nhiên của vũ trụ
chuyển biến mà sắp xếp cây cành, không còn để ý đến cái tôi (ngã) nhỏ bé
của mình nữa. Các ý tưởng khen chê, ưa ghét, phê phán quấy nhiễu tâm ta
hàng ngày cũng tự chúng tan biến đi. Khi ta hoàn toàn chú tâm vào việc
chưng bình hoa thì cái tôi nhỏ bé với những mâu thuẩn, xung đột, khổ đau
hàng ngày của nó bỗng nhiên tan biến, để ta nhập vào vũ trụ mênh mông của
thể tánh, cái rỗng lặng nồng ấm bao la của dòng suối trong mát đầu nguồn.
Ðó là sự hũy diệt toàn diện của tâm mê mờ để niềm an vui vô cùng (Phật
Tánh) tự nó xuất hiện.
5. Thiền Và
Trà Ðạo
Khi nghe nói
đến Trà Ðạo, có lẽ chúng ta muốn biết ngay Trà Ðạo là gì. Lợi Hưu (Rikyu,
1522 – 1591), người đã đưa nghệ thuật uống trà trở thành Trà Ðạo, trả lời
rất giản dị: “Trà Ðạo là cách làm cho ta hết khát”.
Chúng ta khát
nước khi uống nước không đủ, và chúng ta thường khao khát niềm an vui và
muốn hòa nhập với sự sâu thẳm của tánh tự nhiên sẵn có nơi mình. Tánh đó
vốn rộng lớn bao la, trong sạch vô cùng, an vui vô hạn và tĩnh lặng nhiệm
mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là tánh chân thật, tâm chân thật (chân tánh hay
chân tâm) hay Phật tánh.
Trà Ðạo là
nghệ thuật pha và uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn tâm linh
ấỵ Nguyên tắc của Trà Ðạo nằm sẳn trong nguyên tắc sống thiền: hoà hợp,
trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng. Thiền cũng chỉ là một tông phái của
Phật giáo nên các nguyên tắc trên vốn là sự bất khả phân giữa hiện tượng
bên ngoài và thế giới bên trong. Sự hoà hợp, trang trọng, tinh sạch và
tĩnh lặng của trà thất, của trà chủ (người mời) và trà khách (người được
mời) vốn là sự hợp nhất của tâm và cảnh, của thế giới bên ngoài và thế
giới bên trong nơi mỗi chúng ta.
Tô Ðông Pha,
một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một chất tinh khiết và giống như một người
có đức hạnh cao quý, trà không sợ bị hư hỏng. Các vị tăng sĩ Trung Hoa
trước đây đã thực hành nghi thức uống trà trước tượng của vị tổ Bồ Ðề Ðạt
Ma theo những cung cách trang trọng, biểu lộ trạng thái an bình, rỗng lặng
nhưng linh động của tâm uyên nguyên, tâm ban đầu nơi mỗi chúng ta vốn luôn
luôn tinh sạch và tỏa chiếu sự thấy biết chân thật. Nghi thức nào cùng với
nền văn minh đời nhà Tống bị hũy hoại nặng nề khi nguời Mông Cổ xâm chiếm
và cai trị Trung Hoa. Nhiều hoa trái của nền văn minh đó đã đuợc chuyển
sang Nhật Bản, được nuôi dưỡng và đơm hoa.
Ở các thiền
viện Lâm Tế (Rinzai), thiền trà được diễn ra một cách nhanh chóng và lặng
lẽ. Buổi sáng sớm, các thiền sinh thức dậy vào lúc 3 giờ sáng, vệ sinh cá
nhân rồi vào thiền đường. Thiền sinh phụ trách pha trà (trà giả) đã sẵn
sàng với các chén trà đã lau sạch bóng cùng ấm trà nóng. Thiền sinh bưng
khay trà đến trước mỗi hai thiền sinh cúi đầu chào. Hai thiền sinh chắp
tay xá đáp lễ và mỗi người lấy cái chén nhỏ, tách trà để trước mặt mình.
Sau khi mọi người đều có chén, thiền sinh phụ trách mời trà đem bình trà
đến giữa mỗi hai người, trịnh trọng cúi chào và châm trà. Khi mọi người đã
có trà trong chén, một tiếng báo hiệu vang lên, mọi người để tâm vào hơi
thở nhẹ nhàng thoải mái, nâng chén trà lên và uống trà hoàn toàn trong
tĩnh lặng.
Các thiền
đưòng Tào Ðộng (Soto) không uống trà vào mỗi buổi sáng như trên mà chỉ vào
các dịp đặc biệt trong tháng. Vị thiền sư mời tất cả thiền sinh uống một
tách trà quý do một cư sĩ biếu ngài. Trong những dịp ấy, vị thầy thường ân
cần nhắc nhở môn sinh nổ lực tu hành tinh tấn để xâm nhập vào cái kỳ diệu
của tâm giải thoát. Ðiều này làm chúng ta nhớ lại truyện các vị vua Nhật
Bản ban trà cho quý vị tăng sĩ như vào năm 729, Thánh Vũ Thiên Hoàng ban
trà cho một trăm vị tăng tại cung Nại Lương. Ðời sống tu hành của các vị
tăng ni và trà liên hệ với nhau rất mật thiết về lượng cũng như về phẩm
vậỵ
Thiền trà nói
trên là cách uống trà trong thiền đường, cùng phát triển theo dòng thiền
đốn ngộ do ngài Huệ Năng chủ xướng. Ðến thế kỷ thứ mười lăm, người Nhật đã
tạo ra một nghi thức uống trà đặc biệt ở bên ngoài thiền viện mà chúng ta
thấy còn tồn tại cho đến nay. Tuy cách thức có khác nhau, nhưng cũng phản
ảnh sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của Trà Ðạo.
I. Vài Nét Lịch Sử
Trà đã được
dùng ở Việt Nam và Trung Hoa từ lâu. Ðến thế kỷ thứ bảy, vói nền văn minh
hưng thịnh của nhà đường, uống trà trở thành một nghệ thuật như đánh đàn
(cầm), chơi cờ (kỳ), làm thơ (thi) và vẽ tranh (họa). Vào thời kỳ này,
nguời ta xử dụng 24 trà cụ, các đồ dùng để pha trà. Sau này Lục Vũ, tác
giả quyên Trà Kinh đã mô tả các trà cụ đó, và người ta thấy tương tự như
những thứ được xử dụng trong trà đạo của Nhật Bản hiện naỵ
Trà Kinh nói
rất rõ về lịch sử của trà, các trà cụ, cách pha và uống trà. Ngày nay các
thứ sau đây được dùng cho việc pha trà: một lò đun nước, ấm nấu nước bằng
kim loại, chum đựng nước tinh khiết, bình đựng nước thừa, chén trà, muỗng
tre, bót tre đánh bột trà hay trà tiển, khăn lụa để lau bình trà, khăn
trắng lau chén trà cùng một số các trà cụ khác.
Trà thất,
phòng uống trà, được xây cất theo đường nét lý tưởng truyền lại từ thế kỷ
thứ 16 là một gian nhà tranh đơn giản. Ðúng hơn, đó là một túp lều với một
cửa vào rất thấp. Các trà khách thường phải để tất cả các áo giáp, cung
kiếm bên ngoài và cúi mình lết vào trong trà thất. Tất cả mọi người trong
trà thất đều bình đẳng như nhau. Trà chủ - dù là một nhà quý tộc hay một
lãnh chúa – khiêm tốn làm công việc pha trà đãi khách. Cung cách vái chào
tân khách, lau chùi các trà cụ, cách đưa tay mở vại nước, múc nước đổ vào
bình, cầm chiếc muỗng tre có cán dài múc nước sôi chế vào chén trà, đánh
bột trà cho tan vào nước, bưng chén mời khách, v.v… sẽ phơi bày trạng thái
tâm thức của trà chủ.
Trà Ðạo không
phải chỉ là cách pha trà và uống trà. Trà Ðạo là sống trọn vẹn với sự tỉnh
thức, trọn vẹn với thế giới hiện tại: Bây giờ và nơi đây. Chủ và khách cúi
chào nhau, bưng chén trà hay trà cụ với các ngón tay không được tách rời,
lúc uống trà phải từ tốn và chú tâm. Mỗi động tác là một hành vi tuyệt
đối, không thiếu không thừa, chính xác nhưng khả ái, có chủ đích rõ rệt
nhưng tự do tuyệt đối. Khi múc nước lạnh, trà chủ múc nước ở phía giữa lu
vì chất cặn nằm phía đáy lu. Trái lại, khi múc nước sôi, phải múc ở phía
dưới nồi vì chất không tinh khiết nổi lên trên. Mỗi trà cụ là một cái
tuyệt đối, vượt lên giá cả, tánh chất tốt xấu của các vật liệu làm ra
chúng.
Trà đạo bắt
nguồn từ thiền, cho nên khách và chủ đều biểu lộ tâm trong sáng và linh
động, không vướng mắc vào các ý tưởng hay tâm tư thường ngày (tạp niệm).
Ðó là trạng thái thân và tâm tỉnh thức và buông xả, là ở trong trạng thái
tự do tuyệt đối, với các hoạt động thoải mái, đúng mức một cách tự nhiên,
là từng nét đẹp tiếp tục xuất hiện ngưng đọng trong giây phút vĩnh cửu của
thời gian trôi chảy không ngừng. Sự hoà hợp giữa chủ và khách, tâm và vật,
không gian và thời gian, vũ trụ bao la và chén trà nhỏ bé, thời gian vô
tận và thoáng chốc trôi nhanh, giữa tĩnh và động, màu sắc và sự rỗng lặng
mênh mông đã được sự cảm nhận đầy đủ nơi đây. Ðể gia tăng sự hòa hợp và
chuẩn bị tâm thức cho người uống trà, các ngành nghệ thuật về vườn cảnh,
kiến trúc, hội họa, chưng hoa, ẩm thực, đồ sứ cùng cung cách (quy định cho
chủ và khách) được phối hợp tối đa.
II. Trà Chủ Chuẩn Bị
Người chủ
buổi thưởng trà có thể chọn chủ đề như đầu thu và chọn các trà cụ cho
thích hợp với khách mời. Ông ta chọn một bức tranh thủy mạc là vật trang
hoàng chính để tạo phong vị cho trà thất. Bình hoa chưng thường diễn tả
mùa nhưng không được có màu sắc rực rỡ hay thơm nồng vì như thế sẽ làm mất
đi sự tĩnh mịch và hòa hợp cần thiết.
Nói đến hoa
trong Trà Ðạo chúng ta không thể nào quên câu chuyện khán hoa Triêu Nhan.
Thái Cáp (Taiko) là vị tướng quân thuộc dòng họ Tú Cát, kẻ vừa mới lên cầm
quyền, thay mặt Thiên Hoàng trị vì trăm họ, một hôm nghe vườn của Lợi Hưu
đang nở rộ những đóa hoa Triêu Nhan nên muốn đến xem hoa. Ðây là loại hoa
màu trắng, dáng như chiếc chuông nhỏ, sớm nở tối tàn, đẹp và mong manh.
Lợi Hưu mời vị tướng quân này đến dùng trà buổi sáng. Ðó là điều ông ta
mong muốn vì ông thích ngắm vườn hoa nổi tiếng nàỵ Khi đi quanh vườn ông
chỉ thấy toàn là lá xanh, chẳng có một đóa hoa nào cả. Ông ta bước đến trà
thất với lòng bực bội vì không được toại nguyện. Khi vừa vào trà thất,
nhìn lên, ông ta thấy một đóa Triệu Nhan duy nhất trong một chiếc bình quý
bằng đồng đời nhà Tống.
Hãy thấy mọi
vật là vật duy nhất trên đời. Ðó là thông điệp của thiền. Vì trà nhân đã
giúp cho vị tướng quân bắt gặp điều: “Trên trời, dưới trời, chỉ mình ta là
tôn quý” ấy, hay nói theo nhà thơ William Blake trong bài Auguries Of
Innocence:
“Thấy
vũ trụ trong một hạt cát
Và
thiên đường nơi một đóa hoa dại
Cầm
vô biên nơi lòng bàn tay
Và
vĩnh cữu trong một giờ ngắn ngủi.”
Trước khi
vào trà thất, khách sẽ đi qua khu vườn được quét dọn sạch sẽ. Ðó là một
loại “vườn thiền”: hoa lá có màu sắc trang nhã, các tảng đá được phối trí
hòa diện với những hòn đá nhỏ mà phần lớn chôn dưới đất theo nhóm ba, năm,
bảy, hay chín viên đá nằm rất vững vàng (Vì những tảng đá này được chôn
hai phần ba phía dưới mặt đất, một phần ba lộ thiên), hàng rào tre cùng
chiếc cổng cổ kính. Tất cả đều tỏa ra nét khiêm cung, trang nhã và an
bình. Tất cả đều có một sự tự nhiên, hòa hợp, chẳng chút phô trương vì đó
là tinh thần của Trà Ðạo.
Chúng ta
thường nghe kể vị trà sư Lợi Hưu sai con mình quét vườn cho thật sạch để
đón khách uống trà. Mỗi lần nghe con trình vườn đã quét dọn xong, ông ta
ra nhìn rồi lắc đầu bảo chưa được. Sau nhiều lần quét dọn đến lúc vườn
sạch bóng mà cha mình vẫn chưa chịu, người con hỏi ông ta chưa vừa ý chỗ
nào, vị trà sư lặng lẽ đến dưới một cành cây với lá đang chuyển vàng, đưa
tay lay nhẹ và các chiếc lá vàng rơi xuống trên mảnh vườn rêu xanh.
“Vài
chiếc lá vàng lặng lẽ
Trên
thảm rêu xanh
Mùa
thu đến.”
Các vị khách
tinh tế nhìn thấy rõ lòng hiếu khách, niềm kính trọng của người chủ và
nhất là bắt gặp được cái tâm rỗng lặng phổ vào mọi sự vật hiện hữu quanh
đâỵ Họ thưởng thức nét đẹp tự nhiên của vườn thiền, nét đơn giản nhưng hàm
xúc của bức tranh vẽ bằng mực tàu trên giấy bồi, bình hoa đơn sơ, giản dị
và trang nhã và các trà cụ xử dụng được lau chùi tinh sạch.
Khi chủ và
khách đã an vị, tâm họ lắng đọng trong chốn an bình tĩnh lặng. Các giác
quan của họ trở nên bén nhậy trong sự thoải mái và nhận biết rõ ràng những
dáng dấp, màu sắc, âm thanh, mùi vị và xúc chạm. Ngũ quan họ hợp nhất
trong cái tâm rỗng lặng bao la: tiếng nước sôi reo nhẹ như tiếng gió rì
rào qua kẻ lá, bình hoa đơn sơ hiện dần nét đẹp kỳ diệu, khói trầm thơm
phảng phất cái mơ hồ, vị trà đắng chuyển dần thành cái ngọt ngào sâu đậm.
Trong trà thất đơn sơ, tâm của chủ và khách cùng tiếp xúc với cái bình dị
tinh sạch tỏa ra từ các vật nhỏ bé ở trước mặt họ. Mọi thứ đều giản dị,
chân thật và cùng biểu lộ cái vô cùng.
Uống trà như
thế chẳng khác gì tham dự một lễ nghe trang trọng tại một thiền viện. Ðó
là một kinh nghiệm tâm linh phong phú trong khung cảnh đơn giản gần như
nghèo nàn. Trên thực tế, người ta đã nhận rõ viên ngọc quý báu nơi mình
chiếu sáng trong tịch lặng, viên ngọc quý mà Ðức Phật Thích Ca trong kinh
Pháp Hoa nhắc nhỏ chúng ta đừng bao giờ quên xử dụng để luôn luôn sống với
nguồn hạnh phúc tỏa rộng đến vô biên.
Ðó là điều mà
vị trà sư người Hoa Kỳ đã tìm được Ông Gary Charles Calwallader đến Nhật
Bổn vào năm 1975 trong chương trình trao đổi sinh viên ngành lịch sử nghệ
thuật sau khi tốt nghiệp cao học ngôn ngữ và văn hóa Nhật tại đại học
Austin, Texas. Sau đó ông học Trà Ðạo năm năm tại trung tâm Trà Ðạo
Urasenke Chanoyou. Trường phái chính tại Nhật truyền thừa qua 15 vị tổ kể
từ ngày các vị tu sĩ Nhật Bản sang Trung Hoa học ngành này và truyền bá
lại cho những người trong nước vào thế kỷ thứ 15. Ông Cawallader bày tỏ lý
do ông ưa thích như sau: “Triết lý của Trà Ðạo hấp dẫn tôi trước khi tôi
biết về sự thực hành trà đạo. Rồi tôi lại thấy sự thực hành thật là thích
thú vì Trà Ðạo đặt nền tảng trên bốn nguyên tắc của Thiền: Hòa, Kính, Tịnh
và An: Hòa Hợp, Kính Trọng, Thanh Tịnh và An Bình. Sống với tâm hòa hợp,
kính trọng, trong sáng và an bình là sống với chân tâm hay tâm giải thoát
vậỵ
III. Sức
Mạnh Của Chén Trà
Các trường
phái chưng hoa hiện nay cố gắng phát triển các kỹ thuật chưng hoa hướng
đến sự giản dị vì đời sống con nguời càng lúc càng bận bịu ở sở cũng như ở
nhà. Các trường phái Trà Ðạo cũng nhận thấy điều ấỵ Nếu muốn cho Trà Ðạo
tồn tại và phổ biến ở nhiều quốc gia, người ta cố gắng chú trọng những
điều chính, bỏ bớt những thứ không cần thiết khác. Do đó, khi Trà Ðạo đến
với các nước Tây Phương, chúng ta thấy họ giảm thiểu các nghi lễ, bỏ bớt
bữa ăn kéo dài cùng các lời nói xã giao, chú trọng đến sự pha trà, uống
trà và dùng bánh ngọt và nói chuyện thân mật.
Trong nhiều
thế kỷ qua ở Nhật Bản Trà Ðạo ảnh hưởng đến mọi ngành sinh hoạt. Người Tây
Phương thường nói “bão tố trong một chén trà” khi phẩm bình về những lời
bàn luận, những cuộc đàm luận sôi nổi nhưng phù phiếm quanh những ly cà
phê hay những chén trà vào những lúc trà dư tửu hậu. Cách uống trà trang
trọng, thoải mái quả thật đã tạo nên những cơn bão tố không phải trong
chén trà mà trong đời sống người dân Trung Hoa và Nhật Bản. Nói khác đi,
trà nhân là những người đã tạo ra những cơn bão ngầm cố sức mạnh làm thay
đổi toàn diện những sinh hoạt của giới quý tộc cũng như bình dân thời
trước.
Trà thất, túp
liều tranh đon giản, phát xuất từ ý của kinh Duy Ma (Vimalakirti Sutra).
Ngài Duy Ma đón tiếp Ngài Xá Lợi Phất trong một căn nhà nhỏ bé. Ngài Xá
Lợi Phất lo ngại căn nhà nhỏ bé này không đủ chỗ ngồi cho các Bồ tát và
hàng Ðại đệ tử đến viếng ngài Duy Ma. Ngài Duy Ma thi triển thần thông và
trong chớp mắt nơi nhỏ bé ấy biến thành chốn rộng lớn vô biên: Khi tâm quay về với tánh rỗng
lặng tự nhiên thì ta thấy trong mọi sự vật dù nhỏ như hạt bụi, đều chứa
đựng cái vô cùng. Ðó là chủ ý của những buổi uống trà trong tĩnh lặng.
Thuật chưng
hoa, cách làm đồ gốm, cách nấu và dọn những thức ăn, cách ăn mặt trang
nhã, cách chào hỏi và biểu lộ sự kính trọng lẫn nhau, nghệ thuật kiến
trúc, trang trí trong nhà và tạo lập vườn cảnh, cách tiếp xúc với đời sống
tâm linh, và ngay cả trong lãnh vực chính trị, cách làm cho nền hoà bình
kéo dài qua sự quân bình giữa quân sự và hành chánh, đâu đâu người ta cũng
thấy ảnh hưởng của trà nhân.
IV.
Thay Ðổi Trong Cái Không Thay Ðổi.
Thế giới hôm
nay đã thay đổi rất nhiều so với thời trước nhưng nhiều người Âu Mỹ đã
thích thú uống trà theo cung cách Trà Ðạo. Muốn cho nghệ thuật thưởng trà
này được phổ biến rộng rải, có lẽ chúng ta cần bước thêm một bước nữa.
Trong những
năm qua, một sự cập nhật hoá mạnh nhất về uống trà trong tỉnh thức là do
một thiền sư Việt Nam chủ xướng trong các khoá tu thiền: thiền sư Nhất
Hạnh. Trong các khóa tu, các thiền sinh thường tổ chức thiền trà theo một
số nghi thức giản dị và dễ dàng: chuẩn bị pha trà, dâng trà lên bàn tổ,
uống trà trong tĩnh lặng, sau đó sinh hoạt văn nghệ trong thoải mái. Khi
uống trà trong tỉnh thức thì trà có hương vị thiền hay hương vị giải
thoát. Giải thoát là tâm ta ở trong trạng thái ung dung, nhàn hạ, tươi
mát, linh động, bén nhạy và thấy biết tất cả nhưng không bị bất cứ một thứ
gì trói buộc. Như thế, tu tập siêng năng để uống một tách trà cho có hương
vị thiền, hay nói khác đi, để sống một cuộc đời đầy an vui hạnh phúc vì
đạo Phật chú trọng vào cuộc sống hiện tại, đến sự thoải mái của mỗi hơi
thở ra và vào, đến sự cảm nhận, thấy biết tất cả những gì đang xảy ra
quanh ta một cách chân thật và đầy đủ.
Vị thiền sư
Việt Nam dạy cách uống trà này cho hàng ngàn môn sinh khắp Mỹ Châu, Á
Châu, Âu Châu và Úc Châu. Hương trà của ngài đã theo gió bay qua biển Thái
Bình Dương đến với xứ Phù Tang Tam Ðảo, làm cho một người Hoa Kỳ tu tập
trên mười hai năm tại thiền viện Tào Ðộng Nhật Bản, nữ thiền sư Ðại Viên
Bennage đã quyết định sang Làng Hồng tu tập một thời gian trước khi mở
thiền viện thu nhận môn sinh ở Hoa Kỳ vì: “Cách hay đẹp mà thiền sư Nhất
Hạnh dạy Ðạo cho những người Tây Phương bằng tiếng Anh”. Thêm một hạt
giống trà đã biến thành cây trà quý tỏa hương thơm dịu.
Thiền sư Nhất
Hạnh khuyến khích áp dụng thiền trà ở nhà để vợ chồng, cha mẹ, con cái,
anh em có thể hưởng những phút giây thân mật, đầm ấm của hạnh phúc gia
đình trong niềm vui an lành, thoải mái và cởi mở. Tu tập để đoá hoa hạnh
phúc nở tươi mát dưới mái ấm gia đình.
Với Thiền Trà
như trên, Trà Ðạo đã bước một bước khá mạnh mẽ vậỵ
.Tài Liệu
Tham Khảo
_
Le Livre du Thé, Okakura Kakuzo, Paul Derain, Lyon, 1958
_
Urasenke Newsletter, Konnichian, Kyoto, 1988 & 1989.
_
Trà Kinh, Vũ Thế Ngọc
_
Các lời giải thích và thực hành thuật pha và uống trà tại
các buổi trình bày Trà Ðạo. Những bài Pháp Thoại trong những khóa tu
thiền.
6. Thiền Và
Vườn Cảnh
Thiền là nghệ
thuật sống với niềm an vui sâu thẳm của tánh trong sáng rộng lớn, tự nhiên
vốn sẳn có nơi mỗi chúng ta. Vườn thiền là khung cảnh tạo dựng lên bằng
cây, cỏ, đá, rêu phối hợp với cảnh trí thiên nhiên để giúp chúng ta tiếp
xúc với sự sâu thẳm nội tâm ấy. Vườn đó cũng được gọi là vườn đông
phương.
Vườn đông
phương và vườn tây phương khác nhau rõ rệt: Một bên trồng thật nhiều bông
hoa rực rỡ, một bên chú trọng đến nét trầm lặng, cô liêu, trống vắng, sâu
thẳm và an bình. Sự khác nhau căn bản đó bắt nguồn từ hai nền văn hóa khác
biệt. Ðông phương xem đời sống là một toàn thể, con người sống hòa hợp và
thoải mái với thiên nhiên.. Tây phương chú trọng đến việc chinh phục và
chế ngự thiên nhiên. Ðông phương qua ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là
Thiền tông thấy rõ nét thiên thu trong những giây phút ngắn ngủi nối tiếp
bất tận, thấy rõ chính nơi thế giới thường ngày chúng ta đang sống vốn là
Thực Tại, vốn là sự Chân Thật, vốn là Chốn Thiên Ðàng, là Cảnh Thiên Thu
Bất Biến trong sự biến chuyển không ngừng. Vườn đông phương đưa ta vào thế
giới trầm lặng, sâu thẳm, bí mật của những gì ở phía bên kia thuộc vùng vô
thức, vườn tây phương khích động thị giác chúng ta với những nét rực rỡ
muôn màu muôn sắc của chốn bên này, của vùng ý thức. Vườn đông phương
vương vấn nơi tâm thức chúng ta, theo chúng ta về đến tận nhà sau khi
chúng ta rời khỏi chốn ấy từ lâu. Ngược lại, vườn tây phương biến mất khi
chúng ta bước ra khỏi cổng, khi mắt ta không còn đối diện với hoa lá muôn
màu muôn vẽ.
I. Hoa Chưa Nở, Bụi Chưa Dấy
Trong bài tựa
của thiền thư Bích Nham Lục, thiền sư Viên Ngộ đã viết: “Một mảy bụi dấy
lên là đại địa trọn thâu. Một đóa hoa nở là thế giới lừng dậy. Thế nhưng
khi bụi chưa lên, hoa chưa nở thì mắt dính vào đâu?”
Khi hoa chưa
nở thì chúng ta thấy cái gì? Ðó chính là điểm ách yếu của Thiền Tông và
cũng của các vườn đông phương. Những khu vườn xanh thẳm hun hút và trầm
lặng: Khi hoa chưa nở thì mắt dính vào đâu?
Tâm là cái mà
chúng ta nghe, thấy, biết, phân biệt hay dỡ, đúng sai, là cái mà chúng ta
cảm nhận sự vui, buồn, thương ghét khi đối diện với cái chúng ta ưa hay
ghét. Vào một vườn tây phương chúng ta thích thú với những đóa hồng trắng,
tím, vàng, hoàng phấn to và tươi mát, với những đoá uất kim hương xuất
hiện cùng với mùa xuân tô đậm nền cỏ xanh với những khối mầu vàng hay đỏ
rực rỡ. Chúng ta thấy bông hoa tràn đầy màu sắc, chúng ta nhìn bầu trời
cao rộng, chúng ta nghe tiếng chim hót líu lo. Qua cái thấy, nghe, biết mà
chúng ta tiếp xúc với ngoại cảnh và những nét đẹp của hoa lá trong khu
vườn giúp chúng ta quên đi giây phút hiện tại trên quả đất này, giúp chúng
ta vui sướng qua những rung cảm của giác quan, giúp chúng ta biết được
phần nào chốn thiên đàng mà chúng ta mong mỏi, hy vọng hay ước ao sẽ đến
khi rời bỏ quả đất đầy phiền não và đấu tranh nàỵ
Vườn đông
phương thì ngược lại, không trồng nhiều hoa, không có những cảnh rực rỡ
thu hút chúng ta để chúng ta quên mình đi, đánh mất mình đi trong nét đẹp
của dáng dấp và màu sắc bao quanh. Vườn đông phương có một chiều sâu thăm
thẳm, đó là một thế giới rộng lớn bao la trong một khu vực bé nhỏ. Vào một
khu vườn tây phương, chúng ta quên mất sự có mặt của mình. Ở trong một khu vườn đông phương,
chúng ta thấy rõ, biết rõ sự hiện hữu của mình trong vũ trụ trống vắng,
tinh sạch, bình an và bao la. Sự thấy biết đó, ý thức về sự có mặt của
mình đó không phải do mình đối diện với cảnh bên ngoài, đối diện với những
hình dáng, mầu sắc, âm thanh mà do sự hòa tan của mình vào ngoại giới và
trở thành một với cái vô cùng như thiền sư Tuệ Trung diễn tả:
“Di Ðà vốn thật pháp thân ta
Nam Bắc Ðông Tây khắp chói lòa
Trăng thu ngự giữa trời cao rộng
Ðêm lặng trùng dương rạng chiếu xa.”
(Nhất
Hạnh dịch)
Thiền cho ta
thấy rõ, sống một cách chân thật với vũ trụ bao la của tâm linh, nhìn thấy
tính cách rỗng lặng, tràn đầy, tỏa chiếu của mọi sự vật, nhìn thấy cái vô
biên trong một hạt cát và sống trong thời gian vĩnh cữu của những giây
phút lăn trôi không ngưng nghỉ. Ðiều ấy được diễn tả trong kinh Hoa
Nghiêm:
“Phật tử trụ ở đây
Trong một hạt bụi nhỏ
Thấy vô lượng quốc độ đạo tràng
Chúng sinh và các kiếp.
Trong một hạt bụi như thế
Trong hết thảy hạt bụi cũng thế
Tất cả đều chứa đủ
Thảy đều không ngại nhau.
Trong mỗi hạt bụi
Thấy đủ đại dương quốc độ
Chúng sinh, kiếp như vi trần
Lẫn lộn mà không ngại nhau.
Phật tử trụ ở nơi đây
Quán hết thảy các pháp
Chúng sinh, quốc độ và thời gian
Không sinh khởi và không thực hữu.
Quán sát lý bình đẳng
Nơi chúng sanh nơi pháp
Như Lai, quốc độ và nguyện
Và thời gian thảy đều bình đẳng.”
(Tuệ
Sỹ dịch)
II. Cái Có Là Cái Không
Lời Kinh Bát
Nhã nói về sự thấy biết rõ ràng chân thật khi chúng ta buông xả mọi thứ
ràng buộc, mọi sự bám vúi vào những ý tưởng so đo, những cảm xúc vốn cứ
cột chặt lòng mình. Khi lòng mình thoãi mái, tâm mình an bình, trí mình
tươi mát, linh động, bén nhạy thì vạn vật hiện ra một cách chân thật:
Chúng hiện hữu, có mặt tràn đầy với những hình dáng và màu sắc nhưng rỗng
lặng, yên tĩnh và riêng biệt tuyệt đối. Khi đi vào một khu vườn tây phương
chúng ta chỉ thấy cái đó, cái hữu bao quanh mình bốn phía. Khi đi vào khu
vườn đông phương cái không hiển bày làm ta tiếp xúc được với không gian
không bờ mé và thời gian vĩnh cữu:
“Có
thì có tự mảy may
Không
thì cả thế gian này cũng không
Kìa
xem bóng nguyệt dòng sông
Ai
hay không có, có không là gì.
(Nhất
Hạnh dịch)
Dĩ nhiên, khu
vườn đông phương không phải chỉ là cái trống rỗng không có gì cả. Trong đó
cũng có cây cỏ, hoa lá, những tảng đá, những ao hồ hay những con suối,
những mô đất cao cùng những bãi cát trắng hay vàng có những đường chạy
song song như những đợt sóng biển nối tiếp chạy đến những hoang đảo cô
liêu.
Kim Các Tự cô tịch vào mùa đông
Theo quyển
Vườn Nhật Bản, người ta phân ra làm bốn loại vườn chúng ta thường thấy ở
các chùa chiền, nơi thiền viện hay những tư gia: Vườn có ao đồi, vườn đá
cát và vườn có các bậc đá xếp thành lối đi và vườn ngoạn cảnh.
Vườn ao đồi
là những khu vườn rộng người ta đắp những đồi đất tượng trưng cho núi và
đào những chiếc ao hay hồ tượng trưng cho biển. Những cây cối trồng nơi
đây được tỉa cắt cẩn thận để chúng đừng lớn quá và luôn luôn hòa hợp với
khung cảnh xung quanh, tạo thành một cảnh đồi núi hùng vĩ với những cây
tùng, cây bách ghi dấu thời gian đang lặng lẽ trôi qua. Khu vườn là một vũ
trụ mênh mông trong một khu đất giới hạn về không gian lẫn thời gian.
Vưòn đá cát
là những vườn khô, không cây cỏ, chỉ có cát và đá. Vườn mà không có cây
cối, hoa lá, chỉ những tảng đá rêu phong cùng bãi cát trắng cùng bức tường
tạo thành một vũ trụ riêng biệt. Ở nhiều thiền viện, những vườn đá cát
được tạo nên để giúp chúng ta nhìn thấy cái trống vắng của thế giới bên
trong cũng như bên ngoài, cái bao la trên một vùng nhỏ bé. Trên khu đất
hình chữ nhật, người ta trãi cát. Các hòn đá được sắp xếp theo quy luật
tương xứng và liên hệ hỗ tương để biểu lộ sự hòa hợp tự nhiên. Các hòn đá
này rải rác nhiều nơi trên thảm cát. Những tảng đá lớn là chính, những hòn
nhỏ hơn được thêm vào theo các con số 1, 3, 5, 7, 9, 11, 13, 15. Các hòn
đá được sắp xếp gần nhau theo số lẻ để tạo nét hòa hợp tự nhiên. Có lúc
hai tảng đá nằm kế cận thì một lớn (Chủ) và một nhỏ (Bạn) đối xứng và hỗ
trợ cho nhau.
Những vườn đá
thường do các vị tu sĩ Phật giáo thực hiện vào các thế kỹ trước đây và
những vườn này bày tỏ chất thiền một cách cụ thể nhất qua hình thù và màu
sắc. Những tảng đá tuy được sắp xếp theo một quy luật nào đó, với những
hình thù và khối lượng khác nhau để tạo ra sự hòa hợp và cân đối nhưng đó
không phải là mục đích chính của tác giả. Các ngôi chùa và các thiền viện
đều tụng bài Bát Nhã Tâm Kinh nói về sự rốt ráo của tâm giải thoát:
“…sắc
tức là không
Không
tức là sắc …”
Các hình thù,
màu sắc, khối lượng là không. Không ở đây không phải là cái trống vắng của
một cái gì đã có trước rồi nay lại biến đi. Không cũng không là ngược lại
với có hay là sự trống rỗng. Không ở đây là tính chân thật của vạn pháp,
của mọi sự vật: Là cái rỗng lặng trong cái tràn đầy, là cái tĩnh lặng của
cái sống động, là cái bất động trong sự chuyển động náo nhiệt, là cái
thiên thu bất biến trong cái chuyển biến liên tục, là cái thường hằng vĩnh
cữu trong cái vô thường của dòng thời gian lăn trôi.
Nếu chúng ta
đứng yên nhìn vườn đá, chúng ta sẽ thấy đá cát tự chúng biểu lộ tánh chân
thật tự nhiên của mình, không liên quan gì đến những điều ta gán thêm cho
chúng về ý nghĩa của cách sắp xếp, về giá trị thẩm mỹ, về những lời trầm
trồ khen ngợi hay chê bai:
“Thể
các pháp đều không
Không
sanh cũng không diệt
Không
nhơ cũng không sạch
Không
thêm cũng không bớt
Cho
nên trong tánh không
Không
có sắc…”
Bát Nhã Tâm Kinh
Tánh không
hay tánh chân thật, còn được gọi là Phật tánh, đều có ở mọi thứ. Khi tâm
trong sáng và tỉnh thức thì ta thấy rõ điều kỳ diệu ấỵ Cái biết về tánh
không đó không nằm nơi chữ nghĩa mà phát xuất từ trực giác. Không do lời
giảng giải hay so sánh mà do sự hay biết trực tiếp khi nhìn thấy sự vật
trước mắt. Và đó là sức hấp dẩn của loại vườn đá cát.
Tuy thế, xin
đừng bận tâm về cái sắc sắc không không (Có có không không) nói trên vì
chúng ta đến đây để mà ngắm nhìn một khu vườn tức là một sự vật hiện rõ
ràng trước mắt. Chúng ta hãy thưởng ngoạn những nét đặc thù của các viên
đá lớn nhỏ rải rác trên thảm cát trắng. Thật ra, đó không phải là cát mà
là những hạt sỏi nhỏ màu vàng nhạt dưới ánh mặt trời chuyển thành màu
trắng mà ở xa ta thấy như là thảm cát. “Thảm cát” là biển lớn trên đó
thiền sinh thường dùng cào tre để kéo những đường cong hay thẳng tượng
trưng cho sóng biển chạy mãi đến vô biên. Có nhiều loại sóng biển khác
nhau tùy theo biển bình lặng hay bảo tố, các nét vạch lên cát có đường nét
khác nhau để diển tả thời tiết khác nhau trên vùng biển lớn. Chúng ta
không đi vào những vườn đá cát mà chỉ đứng hay ngồi ở bên ngoài mà ngắm
nhìn ở những góc độ khác nhau. Và như nhìn vào vũ trụ, mỗi lần nhìn vườn
đá cát là mỗi lần chúng ta thấy điều mới mẻ xuất hiện. Tại sao thế? À! Ðó
là sự kỳ diệu của chân tâm, Phật tánh nơi mỗi chúng ta và cũng là tài hoa
của nhà nghệ sĩ tạo dựng khung cảnh nàỵ Chúng ta hãy nghe vị Tam Tổ Tăng
Xán của Thiền tông giải thích về điều ấy:
“Tâm
là tâm của cảnh
Cảnh
là cảnh của tâm
Ví
biết hai chẳng dứt
Rồi
cũng chỉ một không
Một
không, hai mà một
Bao
gồm hết muôn sai
Chẳng
thấy trong thấy đục
Lấy
gì mà lệch sai”
(Trúc
Thiên dịch)
Loại vưòn thứ
ba là khu vườn với những bậc đá đưa đến trà thất. Trà thất là căn lều nhỏ
bé chỉ đủ chổ cho hai hoặc ba người ngồi uống trà trong tỉnh thức mà chúng
ta thường gọi là trà đạo. Ðến trà thất như vượt qua những ngọn đồi để đến
vùng yên tĩnh. Con đường lên đồi thường có những bậc cấp quanh co. Những
phiến đá bằng, không đều cạnh thường được sắp xếp để tạo nên ấn tượng của
cuộc hành trình đặc biệt ấy. Khi chúng ta bước qua cổng, chân đặt trên
những phiến đá trên vùng rêu xanh mà cây cỏ đều tỏa nét u tịch, an bình và
hòa hợp tự nhiên lòng mình bỗng dịu lại trong niềm an bình trống vắng như
một chiếc lá vàng đang êm đềm yên nghỉ trên phiến rêu xanh.
Loại vườn thứ
tư là vườn mà chúng ta đi vào để ngoạn cảnh. Các loại vườn trước đây người
ta chú tâm đến nét tĩnh, loại vườn này lại chú trọng tính cách động: chúng
ta dạo quanh vườn, khi ở cạnh hồ, lúc ở dốc núi, khi dưới tàng cây, lúc
trên chiếc cầu. Mỗi nơi ta nhìn đều bày tỏ, biểu lộ cái Riêng Biệt trong
cái Toàn Thể cũng như biểu lộ cái Toàn Thể trong cái Riêng Biệt. Ðiều kỳ
diệu nhất là chúng ta không tách lìa, không ở ngoài những thứ ấy: Chúng ta
vừa là cái Riêng Biệt chuyển động trong cái Toàn Thể bao la bất động.
Ðạo là cái
rộng lớn bao la, yên tĩnh tuyệt vời, an vui kỳ diệu. Sống đạo là trở
thành, là biết rõ, là an trú trong niềm hạnh phúc bao la sâu thẳm của kiếp
nhân sinh tuy ngắn ngủi trong thời gian và nhỏ bé trong không gian nhưng
vốn rộng lớn vô biên và mãi mãi không cùng. Ðó chính là niềm bí mật luôn
luôn mời gọi, luôn luôn thì thầm, luôn luôn thúc bách chúng ta hãy khám
phá những gì mình đang có mà chưa biết đến.
Chúng ta chỉ
có một cuộc đời để sống, chúng ta đang có niềm an vui rộng lớn vô cùng để
an hưởng. Xin hãy tặng cho mình điều quý báu ấy. Xin hãy khoan thai bước
đến vườn thiền, hãy để lòng an bình và trí buông xả, bước những bước đi
trong tỉnh thức để cảm nhận được gió mát đang chổi dậy, để nhận ra những
đóa hoa sen đang nở ra trong chốn bình thản và rộng lớn vô biên:
“Ý
về muôn vạn nẻo
Thiền
lộ tâm an nhiên
Từng
bước gió mát dạy
Từng
bước hoa sen nở.”
(Thiền
Sư Nhất Hạnh)
Tài Liệu
Tham Khảo
_
Thiền Luận của D.T. Suzuki do Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch.
_
Japanese Garden, Brooklyn Botanic Garden Record, third
printing: 1988.
_
Các bài thi kệ của thiền sư Nhất Hạnh.
_
Các tài liệu về vườn thiền của Trung Hoa và Nhật Bổn cùng
các cuộc ngắm cảnh các vườn tại Hoa Kỳ và Nhật Bản.
_
Tín Tâm Minh do Trúc Thiên dịch cùng với các bài thơ thiền.
--- o0o ---
Mục Lục
| Phần 1
|
Phần 2
|
Phần 3
Phần 4
|
Phần 5
|
Phần 6
|
Phần 7
--- o0o ---
Vi tính:
Chân Diệu Lan
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật ngày:
01-05-2004