THIỀN ĐỊNH
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Thích Chơn Thiện
Như
chúng ta đã biết, con đường giải thoát sinh tử khổ đau là con đường Giới,
Định, Tuệ. Nói gọn là con đường Thiền định với "Ba mươi bảy phẩm trợ đạo"
là tiêu biểu.
Thế Tôn dạy: "Này các Tỷ kheo,
khi nào các Thầy có giới khéo thanh tịnh và Chánh tri kiến, các Thầy hãy y
cứ trên giới, tu tập Tứ Niệm Xứ theo ba cách: Nhiệt tâm, Chánh niệm tỉnh
giác và nhiếp phục tham ưu ở đời" (Tương Ưng Bộ Kinh V, tr. 148).
Chúng ta có thể phát biểu rằng:
Phật giáo qua quá độ tiến triển đã có nhiều bộ phái ra đời có những hình
thức sinh hoạt tu tập khác nhau; tuy nhiên, tất cả nội dung tu tập vẫn
hướng về một điểm là làm thanh tịnh ba nghiệp thân, lời và ý, loại trừ
tham, sân, si. Chúng ta cũng có thể nói rằng: bất cứ một phương thức tu
tập nào đưa vào giải thoát cũng chứa đựng một nội dung Thiền định (giới,
định, tuệ), hay bất cứ bước đi giải thoát nào cũng là bước đi của Thiền,
như chính lời Thế Tôn đã dạy "Tứ niệm xứ là con đường độc nhất đưa đến
giải thoát" (Trung Bộ Kinh I, tr. 57). Từ nhận định này, ta đi vào khảo
sát sắc thái của Thiền định Phật giáo Việt Nam.
Về lịch sử Phật giáo du nhập
Việt Nam, có nhiều tài liệu trình bày khác nhau của các nhà nghiên cứu
lịch sử.
Trước kia, người ta nghĩ rằng
Phật giáo Việt Nam là chính Phật giáo từ Trung Quốc truyền qua. Gần đây
các sử gia, học giả đã chứng minh rằng Phật giáo đã có mặt tại Việt Nam
trước khi du nhập Trung Quốc. Hẳn dòng Phật giáo này phải từ Ấn Độ qua
theo đường biển.
Theo các tài liệu đã được nêu
dẫn, trung tâm Phật giáo Việt Nam xưa nhất được tìm thấy là trung tâm Luy
Lâu có mặt vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch, trước cả trung tâm Phật giáo Lạc
Dương và Bành Thành của Trung Quốc. Dù Phật giáo đến Việt Nam bằng con
đường nào thì thời gian du nhập vẫn được các nhà nghiên cứu sử đồng ý là
vào thế kỷ thứ nhất, thứ hai Tây lịch, và nội dung Phật giáo gây ảnh hưởng
ở Giao Chỉ vẫn chỉ là hai nguồn Phật giáo giao nhau: một nguồn Phật giáo
từ Trung Hoa và nguồn kia từ Ấn Độ.
Nguồn từ Ấn Độ qua theo đường
biển do các thương nhân Ấn đem tín ngưỡng dân gian Ấn và tín ngưỡng Phật
giáo của cư sĩ Ấn đến. Đại để là các giáo lý nhập môn như Bố thí và Năm
giới (năm giới của Phật tử tại gia), kính ngưỡng ngôi Tam Bảo. Phật giáo
qua ảnh hưởng của các thương nhân Ấn thì nặng sắc màu tín ngưỡng hơn là
sắc thái định và tuệ. Ảnh hưởng này đã lan rộng vào quần chúng bình dân
Việt Nam, như chính danh từ Bụt (Buddh hay Buddha) đã có mặt trong văn học
dân gian Việt Nam (tiêu biểu là danh từ Bụt có mặt trong câu chuyện Tấm
Cám, cổ tích Việt Nam).
Các tu sĩ Ấn cũng theo thương
thuyền đến Giao Chỉ và lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Có lẽ nội dung
dòng Phật giáo này là Bắc tông, đến từ trung tâm Bắc tông của Ấn phát
triển ở miền Duyên hải Đông Nam Ấn.
Nguồn gốc Phật giáo từ Trung
Quốc sang cũng là Bắc tông, giới thiệu hầu hết là các kinh điển Bắc tông,
đặc biệt là Thiền Tổ sư Đạt ma truyền bá.
Kết quả của các ảnh hưởng giáo
lý Bắc tông đã để lại tại Việt Nam các Thiền phái Tỳ ni đa lưu chi, Vô
Ngôn Thông và Thảo Đường qua nhiều thế kỷ.
Thể cách tu tập nổi bật là
Thiền Công án hay Thiền Tổ sư. Giáo lý mở tông nổi bật là giáo lý Bát-nhã,
trực tiếp là Kim Cương Bát-nhã. Đây là giáo lý nền tảng của các bộ phái
thuộc Bắc tông.
Tôn chỉ của Thiền Công án là
"Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh
thành Phật" (truyền riêng ngoài giáo, không lập văn tự, chỉ thẳng tâm
người, thấy tánh thành Phật) nên việc truyền bá bị giới hạn ở đối tượng
tiếp thu và ở mặt phổ biến văn hóa giáo dục Phật giáo trong quần chúng.
Thiền này chỉ đặc biệt thích ứng với các căn cơ thông lợi, trí tuệ --
thường là tầng lớp thượng lưu trí thức của xã hội. Do đó, Phật giáo bấy
giờ phát triển rất giới hạn và có một chỗ đứng rất khiêm tốn trong lòng
dân tộc Việt.
Mãi cho đến triều đại Lý, Trần,
khi mà các vua, tôi trong triều có đủ nhân duyên nghiên cứu sâu rộng giáo
lý đức Phật, quy hướng đức Phật và phát tâm dấn thân tu tập giải thoát
thực sự, thì Phật giáo mới tìm thấy một chỗ đứng ảnh hưởng tương đối thích
đáng trong xã hội ta, và hưng khởi theo với triều hưng thịnh của dân tộc
trong suốt bốn trăm năm lịch sử.
Phật giáo dưới triều Lý, Trần
có thể được xem là tiêu biểu cho Phật giáo Việt Nam. Chúng ta có thể khảo
sát và tìm hiểu giai đoạn Phật giáo này là sắc thái đặc biệt của Phật giáo
Việt Nam mà dòng Thiền Trúc Lâm là tụ điểm.
Năm 971, Thiền sư Ngô Chân Lưu,
Thiền phái Vô Ngôn Thông, được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Tăng thống
với hiệu Khuông Việt Thái sư, cố vấn một số chính sự cho nhà vua. Phật
giáo bấy giờ đã được chấp nhận như là vai trò hướng dẫn và chỉ đạo quốc
sự. Tiếp đến, vua Lê Đại Hành lại mời sư Pháp Thuận và sư Vạn Hạnh làm cố
vấn các quốc sự. Thiền sư Vạn Hạnh tiếp tục cố vấn cho vua Lý Thái Tổ, đầu
triều Lý. Các Thiền sư chỉ đóng góp vào chính sự mà không tham dự chính
quyền, vẫn giữ nguyên cương vị tu sĩ Phật giáo và sống ở chùa riêng của
mình.
Cứ thử đi vào một số thi ca của
các Thiền sư, ta có thể nhìn được nguồn giáo lý mà quý vị đã hấp thụ và
dung hóa.
Chẳng hạn về Thiền sư Vạn Hạnh
trong vần thi cảm sau đây:
Thân như điện
ảnh hữu toàn vô
Vạn mộc xuân
vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh
suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ
thảo đầu phô.
Tạm dịch:
Thân như ánh
chớp "hữu" rồi "vô"
Cây cỏ xuân
tươi, thu lại khô
Theo vận thịnh
suy lòng chẳng sợ
Thịnh suy đầu cỏ
hạt sương phô.
Thấy cuộc đời (hay các pháp) là
mỏng manh, vô thường, nhưng Thiền sư Vạn Hạnh vẫn thanh thản, nhẹ nhàng,
an tỉnh nhìn dòng đời vô thường đi qua. Nói theo ngôn ngữ của Thiền, Thiền
sư đã "chánh niệm tỉnh giác" nhìn đời. Do có cái nhìn đầy hương đạo giải
thoát đó, Thiền sư mới tự tại ra phò vua giúp nước, giúp dân.
Cái nhìn ấy phản ảnh rất trung
thực với cái nhìn các pháp được trình bày trong năm bộ kinh Nikàya và
trong bốn bộ A-hàm. Nó cũng là cái nhìn chính thống của Kim Cang Bát-nhã,
như những gì được nói lên ở bài kệ cuối của kinh Kim Cang:
Nhứt thiết hữu
vi pháp
Như mộng huyễn
bào ảnh
Như lộ diệc như
điển
Ưng tác như thị
quán
(Hết thảy các
pháp được tác thành
Như mộng, như
huyễn, như bọt nước
Như sương mai,
như ánh chớp
Nên khởi lên cái
nhìn như thế)
Kinh Pháp Cú, kệ số 170 (Tiểu
Bộ Kinh) chép:
Hãy nhìn như bọt
nước
Hãy nhìn như ảo
ảnh
Nên nhìn đời như
vậy
Sẽ không thấy
thần chết.
Đây là cái nhìn sự vật mang
tính truyền thống Phật giáo.
Sư Pháp Thuận, chỉ với hai câu
thơ, họa tiếp hai vần thơ Lý Giác cũng nói lên sự hấp thụ và dung hóa cùng
một giáo lý truyền thống ấy. Sư Pháp Thuận tiếp:
Bạch mao phô lục
thủy
Hồng trảo bãi
thanh ba
Hình ảnh ngỗng trắng trên dòng
nước là hình ảnh của con người giữa dòng sinh tử. Đôi chân hồng bơi, đây
là "Chánh niệm tỉnh giác" của các Thiền sư vào đời, giúp đời mà không
vướng trần bụi. "Chánh niệm tỉnh giác" đi qua vùng sinh tử như đôi chân
hồng qua bên kia bờ không vướng mắc dòng nước mà để lại dòng nước sau
lưng.
Đấy cũng là những biểu hiện nét
Thiền rất là truyền thống. Chịu ảnh hưởng tinh thần Phật giáo của các danh
tăng kể trên, triều Lý đã là một thời vàng son của lịch sử: Bắc thắng
Tống, Nam bình Chiêm, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ thuật và quốc
phòng tốt. Bấy giờ Ỷ Lan Thái Phi đã thay vua Nhân Tông nhiếp chính thành
công, biểu hiện tinh thần dân chủ rất cao (thế giới phương Tây cho đến
ngày nay mới có các nhà nữ lãnh đạo ở chức vụ đầu nhà nước).
Đến đời Trần, Phật giáo còn
được phát triển mạnh hơn. Các Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông
và Thảo Đường đã được thống nhất vào Thiền phái Trúc Lâm (xem Phật Giáo
Việt Nam Sử Luận, Nguyễn Lang, 1973, Sài Gòn).
Thường các nhà nghiên cứu sử cứ
gọi chung các nhà Thiền sư khai nguồn Trúc Lâm là Trúc Lâm Tam Tổ: Điều
Ngự Giác Hoàng -- Trần Nhân Tông (đệ nhất tổ), Pháp Loa (đệ nhị tổ) và
Huyền Quang (đệ tam tổ). Thực ra phải kể từ Hiện Quang Thiền Sư, đến Trúc
Lâm Quốc Sư (Thiền sư Viên Chứng, thầy của vua Trần Thái Tông) đến vua
Thái Tông, rồi đến vua Trần Nhân Tông (Điều Ngự Giác Hoàng), Pháp Loa và
Huyền Quang.
Biểu hiệu tiêu biểu nhất cho
sắc thái Thiều Trúc Lâm Yên Tử là biểu hiệu qua tư tưởng và hành động của
Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ. Bài tựa của Thiền
Tông Chỉ Nam ghi vua Thái Tông bỏ ngôi báu vào Yên Tử xuất gia. Trúc Lâm
Quốc Sư bảo "Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm ta
lắng lại và trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật..." Quốc Sư đã khuyên
vua trở về ngôi vị: "Đã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng
mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy lòng
dân làm lòng của mình. Nay đã muốn vua trở về thì vua không về làm sao
được". Quốc Sư cho rằng vua có thể vừa trị dân vừa tu học.
Qua các lời khuyên ngắn ngủi
trên, Quốc Sư đã nói lên tiếng nói vừa tích cực nhập thế hộ đời, vị tha
của Phật giáo Việt Nam, vừa "chánh niệm tỉnh giác" rời khỏi chấp thủ ngã.
Trần Thái Tông đã thực hiện
đúng theo lời khuyên của Quốc Sư.
Nay, Thiền Tông Chỉ Nam và Kim
Cương Tam-Muội kinh, sáng tác của nhà vua, đã bị thất lạc, ta chỉ có thể
đi vào tìm hiểu sắc thái con đường tu tập của nhà vua qua Khóa Hư Lục.
Thái Tông giới thiệu Tứ đại và
Ngũ uẩn là vô ngã. Cảnh tỉnh người đời thấy vô thường, khổ và vô ngã của
thân sắc và đời sống để thúc liễm thân tâm. Tiếp theo, nhà vua giới thiệu
về Giới, Định và Tuệ. Nội dung rất phù hợp với giáo lý Nguyên thủy. Trên
đường tu tập Giới, Định và Tuệ ấy, vua đề bạt một phương thức sám hối lục
căn rất thiết thực: vừa giúp hành giả xóa tan các mặc cảm tội lỗi, vừa xua
tan các dao động tâm lý, vừa đánh tan tham, sân, si ở các địa bàn hoạt
động chính của chúng. Phương thức sám hối lục căn ấy, một mặt nói lên tính
sáng tạo riêng của Phật giáo Việt Nam trong sinh hoạt Thiền định, vừa thể
đúng giáo lý truyền thống, mặt khác đưa vào việc tu tập thêm một hình thức
sinh hoạt tôn giáo để quân bình tâm lý rất là thiết thực và đầy trí tuệ.
Nhà vua hoàn toàn không giới thiệu các nghi lễ phiền phức, các tế đàn tốn
kém, cũng không đi vào các thần chú của Mật tông. Sắc thái của nếp sống
đạo của nhà vua là thế. Vua vận dụng khả năng và nỗ lực của chính mình để
chuyển đổi các tâm lý tham, sân, si thành không tham, không sân, không si
để vào sâu định và tuệ giải thoát. Vận dụng tu tập ngay trong đời sống xã
hội, ngay giữa trách nhiệm xây dựng và phát triển xứ sở và bảo vệ đất
nước.
Tinh thần sống đời và đạo ấy
được nuôi dưỡng tốt cho đến cuối đời Trần. Đấy là dòng Thiền rất Việt Nam
mà rất phù hợp với giáo lý truyền thống, dù hướng phát triển còn giới hạn
và còn ít nhiều chịu ảnh hưởng Thiền Công án của Trung Hoa.
Đến đời vua Trần Nhân Tông thì
sắc thái Phật giáo Việt Nam, nói rõ sắc thái Trúc Lâm Yên Tử biểu hiện rõ
ràng. Sinh tiền, nhà vua là một hoàng tử có sắc thân đẹp, uy nghi. Tâm tuệ
thông minh lại chuộng đời sống xuất gia. Lúc tại ngôi, vua đã cùng với
Hưng Đạo Đại Vương và các tướng nhà Trần hai lần đánh ta hai đạo quân Mông
Cổ, đại quân đã từng đánh bại cả châu Âu. Ở ngôi vua 20 năm, đến năm 41
tuổi thì nhường ngôi cho Anh Tông và xuất gia ở Yên Tử.
Tinh thần của Điều Ngự Giác
Hoàng (vua Nhân Tông) thì rất siêu thoát, mà sự tướng biểu hiện bên ngoài
thì rất cung cách oai nghi. Chính đây mới là sự biểu hiện cả hình thức lẫn
nội dung rất Việt Nam, tách ra khỏi nét quá phóng khoáng tự do của các
Thiền sư Trung Quốc, nhưng lại đến gần với phong cách của chư đại đệ tử
của Thế Tôn dưới thời Thế Tôn còn tại thế. Cũng chính đây mới là phong
cách của vị Tăng Thống lãnh đạo Phật giáo đưa sự phát triển Phật giáo lên
cao điểm.
Trong thời gian xuất gia, Điều
Ngự thường đi chu du hoằng hóa và thường quan tâm đến một số vấn đề quốc
sự, đặc biệt là mối bang giao Việt - Chiêm.
Nhà vua là một mẫu người Việt
thông sáng rất tích cực phục vụ đời vừa thiết tha kêu giải thoát, đã đóng
góp vào đời, những thành quả lẫy lừng trong lịch sử, mà cũng đã xây dựng
đạo rực rỡ hơn lúc nào.
Lịch sử Việt Nam đòi hỏi cao độ
sự đóng góp xây dựng của toàn dân và đoàn kết keo sơn của dân tộc để tồn
tại độc lập và phát triển hùng cường. Trong hướng phát triển với yêu cầu
đó của lịch sử, Phật giáo Việt Nam hẳn phải có hướng đi thích đáng như
hướng đi của Thiền phái Trúc Lâm. Do đó, đòi hỏi phát triển mạnh Thiền học
và tu tập Thiền định theo truyền thống vừa Phật giáo Việt Nam vừa Phật
giáo Nguyên thủy.
Sinh thời, Điều Ngự đã thực
hiện đoàn kết triều đình, thống nhất Tam giáo (Phật, Lão, Nho), và kết hợp
toàn dân qua Hội nghị Diên Hồng. Tất cả đều sống đạo đức và hết lòng bảo
vệ xây dựng xứ sở. Điều Ngự đi đến đâu cũng khuyên dân chúng tu tập Thập
thiện giới (có nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân-khẩu-ý tốt đẹp theo giáo lý
Phật giáo).
Nhận thức của Điều Ngự về đạo
giải thoát rất là cơ bản và chính xác. Thái độ sống đạo thì rất là tự
nhiên và thông lợi như mấy vần thơ sau đây của Điều Ngự đã nói rõ:
Cư trần lạc đạo
thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề,
thốn tắc miên
Gia trung hữu
bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm
mạc vấn Thiền.
Tạm dịch:
Sống đời vui đạo
hãy tùy duyên
Hễ đói thì ăn,
mệt nghỉ liền
Trong nhà có
ngọc đừng tìm kiếm
Đối cảnh tâm
không, hỏi chi Thiền.
Hai câu thơ đầu nói lên thái độ
sống rất tự nhiên, thích ứng hoàn toàn với hoàn cảnh xã hội mình đang
sống, chấp nhận hiện tại với tinh thần không chấp thủ.
Hai câu thơ cuối chỉ hướng sống
quay trở về chính mình, nương tựa chính mình, chính trí tuệ của mình (giác
tính) bằng nỗ lực của mình trở về với tính giác (ngọc báu cất giữ trong
mình) mà không cầu xin, vọng ngoại. Đấy là biểu hiện tinh thần tự độ của
Phật giáo, vừa biểu hiện tinh thần tự chủ, độc lập, tự cường của dân tộc.
Giải thoát, an lạc, hạnh phúc nằm ở nơi mình, nơi thái độ sống nhìn đời mà
không dấy khởi tham, sân, si của mình (vô tâm ở đây có nghĩa là không có
phản ứng tâm lý tham, sân, si đối với ngoại cảnh). Nhìn cảnh mà không
tham, không sân, có nghĩa là giải thoát khỏi tham, sân. Tham, sân là nhân
chính dẫn vào khổ đau sinh tử. Giải thoát khỏi tham, sân là ý nghĩa và là
nội dung của giải thoát khổ đau. Sống là đi từng bước giải thoát như thế,
từng bước làm chủ tâm lý mình ra khỏi tham, sân. Con đường sống ấy có
nghĩa là con đường giải thoát. Không tham, không sân là không chấp thủ,
không vướng mắc ngoại cảnh, là ý nghĩa đích thực của Thiền. Nhìn đời như
thế quả là cái nhìn "chánh niệm tỉnh giác" đích thực của Phật giáo Nguyên
thủy.
Sắc thái Thiền đặc biệt Việt
Nam ở đây là thể hiện "chánh niệm tỉnh giác" rất linh hoạt đi vào xã hội
cứu đời, mà không nghiêng nặng về thái độ trầm tư mặc tưởng hành Thiền
định ởi nơi tịch mịch xa cách đời như có một số quan điểm chủ trương.
Phương cách ứng dụng tu tập này của Điều Ngự vừa phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước ta, vừa khế hợp với lời dạy của Thế Tôn về Thiền định Tứ Niệm Xứ,
rằng có thể hành "chánh niệm tỉnh giác" và Thiền quán trong bốn oai nghi
(đi, đứng, nằm, ngồi).
Điều Ngự thường cảnh tỉnh môn
đồ về vô thường của cuộc sống để khiến họ nỗ lực tinh tấn thực hiện giải
thoát ngay trong hiện tại, bằng chính con người Năm uẩn giới hạn này.
Thiền quán về vô thường là sắc thái giáo lý rất truyền thống mà ta thường
gặp ở các kinh Nikàya và A hàm. Pháp Thiền quán của Thiền định của Điều
Ngự cũng như giáo lý của Nguyên thủy, có thể thực hiện bất cứ ở đâu và bất
cứ lúc nào: đối tượng để nhình, quan sát và phân tích có thể là hơi thở,
có thể là mây trời, là cơm, là cháo, là cái chén, cái thìa... như lời dạy
của Điều Ngự dưới đây:
"Nầy quý vị, thời gian qua đi
mau chóng, mạng sống con người trôi chảy không ngừng, tại sao hằng ngày
biết ăn cháo, ăn cơm mà lại không biết tham khảo ngay về vấn đề cái chén,
cái thìa?" (Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang, 1973, tr. 317).
Và:
Thân như hơi thở
qua buồng phổi
Kiếp tợ mây luồn
đỉnh núi xa
Chim quyên kêu
rã bao ngày tháng
Đâu phải mùa
xuân dễ luống qua
(Thân như hô hấp
tỵ trung khí
Thế tợ phong
hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn
nguyệt như trú
Bất thị tầm
thường không quá xuân). (Ibid. tr. 317)
Đúng như giáo lý Phật giáo
truyền thống, thấy vô thường là thấy vô ngã, thấy vô thường là thấy khổ
đau. Thấy tính vô thường, khổ đau là vô ngã, của sự vật là thấy pháp; thấy
pháp là thấy Phật. Hệt như thấy Duyên khởi là thấy pháp, và thấy pháp là
thấy Phật. Thấy vô thường và khổ đau thì sẽ rời khỏi tham ái, và chấp thủ.
Do rời tham ái và chấp thủ, hành giả thoát khỏi sầu, bi, khổ, ưu, não. Đấy
là đường vào giải thoát mà hành giả có niềm tin và hy vọng thực hiện được
giữa những trách nhiệm và bổn phận ở đời.
Tự thân Điều Ngự đã thực hiện
nếp Thiền nói trên và đã đóng góp rất ý nghĩa cho lịch sử của Phật giáo
Việt Nam và lịch sử dân tộc Việt Nam. Đấy là một bài học lịch sử rất quý
giá cho hậu thế, cho những vị có trách nhiệm phát huy Phật giáo tại Việt
Nam.
Ở Tuệ Trung Thượng Sĩ, có một
nét đặc thù khác: Thượng Sĩ là một cư sĩ, sống đời sống gia đình, có tước
Vương (Hưng Ninh Vương) đã từng trấn giữ đất Hải Dương và giữ chức Tiết Độ
Sứ trấn hải đảo Thái Bình, có công hai lần ngăn giặc Bắc xâm lăng, nhưng
đã đắc đạo Thiền, và đã được vua Trần Thánh Tông tôn là Thượng Sĩ
(Bồ-tát). Đã là thầy trực tiếp dạy đạo Thiền cho vua Trần Nhân Tông. Nói
đặc thù là nghĩa đặc thù đối với xã hội Phật giáo Trung Hoa và Việt Nam.
Thực ra, ở thời đức Phật tại thế đã có nhiều nam, nữ cư sĩ đắc đạo
Tu-đà-hoàn đến A-na-hàm quả. Có một số cư sĩ đặc biệt đắc quả A-la-hán
trước khi xuất gia. Nét đặc thù thứ hai ở Thượng Sĩ, khác với Điều Ngự
Giác Hoàng, là tánh phóng khoáng tự tại bộc hiện cả đến hình thức sinh
hoạt bên ngoài. Tuệ Trung Ngữ Lục ghi lại một mẫu chuyện rằng: Lúc dùng
cơm chung với Hoàng hậu Thiên Cảm (mẹ vua Nhân Tông), Thượng Sĩ dùng luôn
cả thứ ăn mặn khiến cho Hoàng hậu kinh ngạc hỏi: "Anh tu Thiền mà ăn thịt
cá thì làm sao thành Phật được?" Thượng Sĩ đáp: "Phật là Phật, anh là anh,
anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh".
Khi vua Nhân Tông hỏi về tông
chỉ Thiền để biết chỗ giác ngộ của Thượng Sĩ, Thượng Sĩ đã ngõ:
"Hãy quay về tự thân mà tìm lấy
tông chỉ ấy, không thể đạt được từ một ai khác" (Ibid, tr. 279)
Đấy là nỗ lực của tự thân để
làm bộc hiện tuệ giác giải thoát và Thiền định, như chính đức Thế Tôn đã
dạy nhiều lần cho các vị Tỷ-kheo rằng:
"Hãy là ngọn đèn, hãy là nơi
nương tựa cho chính mình, đừng tìm một nơi nương tựa nào khác?"
hay:
"Ngươi là nơi nương tựa cho
chính ngươi, ai khác có thể là nơi nương tựa?" (Pháp Cú XII, 4)
Trường Bộ Kinh III, tr. 101,
ghi lời Thế Tôn xác định ý nghĩa "trở về chính mình, nương tựa chính mình,
dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa" chính là ý nghĩa thực
hành Thiền định Tứ Niệm Xứ.
Tông chỉ ấy đúng là việc trở về
chính mình và trú trên chánh niệm tỉnh giác đi ra khỏi các lậu hoặc tham,
sân, si...
Đọc hết tập Tuệ Trung Ngữ Lục
ta sẽ có dịp thưởng thức những tư tưởng thâm trầm của Thượng Sĩ. Những lời
lẽ bên ngoài có vẻ táo bạo nhưng bên trong thực sự là cái gì hiền dịu của
dòng sữ Pháp. Phải có một nhận thức khá sâu sắc và một thái độ tìm hiểu
đầy cẩn trọng mới có điều kiện đọc Ngữ Lục của Thượng Sĩ; bấy giờ mới có
thể rời khỏi hình thức ngôn ngữ khái niệm để đi vào thực tại mà Thượng Sĩ
muốn nói. Những lời lẽ đối đáp với các vị hỏi đạo đã có nhiều công phu tu
tập chỉ là những lời nói gián tiếp, giúp họ đi ra khỏi thế giới khái niệm
để thấy thực tại, do vậy có nhiều lời dạy nghe có vẻ là lạ, bí hiểm.
Bên cạnh các lời lẽ có vẻ là lạ
ấy, Thượng Sĩ vẫn nói đạo với ngôn ngữ thông thường, vẫn nói về vô thường
và tỉnh giác chánh niệm. Cái gọi là Thiền tâm là cái nhìn sự vật vô thường
mà giác tỉnh, dập tắt tham, sân, si trong lòng mình, như những gì Thượng
Sĩ diễn đạt trong bài ngẫu tác sau đây:
Chợt Hứng
Đoan trang ngồi
tịnh lặng không lời
Nhìn ngắm non
sông vệt khói trôi y lúc chân chồn tâm tự bặt
Cứ gì niệm xét
với Thiền soi.
(Trúc Thiên
dịch)
Ngẫu Tác
Đường trung
đoan tọa tịch vô ngôn
Nhàn khán Côn
Luân nhất lũ yên
Tự thị quyện
thời tâm tự tức
Bất quan
nhiếp nhiệm bất quan Thiền.
(Tuệ Trung
Ngữ Lục, Tu Thư Vạn Hạnh 1968)
Ở đây có nghe văng vẳng những
lời cảm hứng ngộ đạo của Trưởng Lão Tăng Kệ và Trưởng Lão Ni Kệ vọng về,
và có thấp thoáng những bóng hình giải thoát của các Thánh đệ tử củ Thế
Tôn.
Với Thượng Sĩ, đạo không phải
cái gì để hỏi, để bàn hay để tìm kiếm. mà để sống. Sống đạo có nghĩa là
sống đời mà giác tỉnh, mà xả bỏ các vọng niệm (tham, sân, si...) Nói khác
đi, đạo chính là đời được loại bỏ các phiền não.
Một vị Tăng hỏi: Thế nào là
Đạo?
Thượng Sĩ đáp: "Đạo không có
trong câu hỏi, Câu hỏi không có trong Đạo" (Ibid, tr. 23)
Hỏi và trả lời là của thế giới
khái niệm mà không phải là của Thực tại. Đạo hay Thực tại chính nó thì
khác với khái niệm.
Cái nhìn chân xác và thiết thực
này của Thượng Sĩ giúp người đời trở về với các hành động thiết thực đưa
mình và người đi ra khỏi các phiền não và vọng tưởng. Thượng Sĩ đã từng
khuyên hàng học giả thức tỉnh điều đó.
Bảo cho hàng học
giả
Mịt mù học giả
hướng nào dong?
Gạch ngói mài
chi uổng phí công
Thôi chớ cửa
người nương dựa nữaٮ
h xuân một điểm
khắp trời bông. (Ibid., tr. 155)
Thị học
Học giả phân
phân bất nại hà
Đồ tương linh
đích khổ tương ma
Báo quân hưu ỷ
tha môn hộ
Nhất điểm xuân
quan xứ xứ hoa
Thiền của Trúc Lâm Yên Tử tiêu
biểu cho Thiền Việt Nam là thế! Sống về với chính mình trong hiện tại và
tại đây trên cuộc đời này: giác tỉnh đi ra khỏi tham, sân, si trong các
công việc tích cực xây dựng, bảo vệ xứ sở và hạnh phúc của toàn dân.
Qua một số điểm vừa được trình
bày ở trên, chúng ta có thể đi đến một số nhận định:
1. Kinh điển Phật giáo dưới
triều đại Lý, Trần được phổ biến thì có giới hạn: chỉ phổ biến một ít kinh
điển Bắc tạng và Thiền Công án trong một số tầng lớp nhân dân giới hạn.
2. Vấn đề giảng dạy Kinh, Luật,
Luận cho chư Tăng và Phật tử vẫn còn giới hạn.
3. Hình thức nói Đạo (Bát-nhã
và Thiền) vẫn còn chịu ảnh hưởng của các Thiền sư Trung Hoa.
4. Thiền định được biểu hiện
như một pháp môn còn xa cách quần chúng Việt Nam.
5. Dù nằm trong các giới hạn
đó, Phật giáo Lý Trần đã nỗ lực tạo nên một sắc thái Việt Nam và tương đối
đã thành công trong nỗ lực nầy. Đó là sắc thái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
6. Qua sắc thái Việt Nam đặc
thù ấy, Phật giáo đã thực hiện đoàn kết dân tộc, đoàn kết được toàn dân và
hàng ngũ lãnh đạo.
7. Hình ảnh hương thịnh của
Phật giáo đi theo với sự hưng thịnh xứ sở dưới triều đại Lý, Trần là một
bài học lớn của lịch sử, có thể chỉ hướng cho các công cuộc chấn hưng Phật
giáo về sau.
8. Các quan vua triều Lý, Trần
là những nhà lãnh đạo giỏi, tổ chức xã hội và quốc phòng giỏi, đã thành
công rực rỡ trong việc giữ nước và dựng nước, lại là những người thiết tha
yêu chuộng đạo Phật, yêu chuộng con đường giải thoát, đã để lại một ấn
tượng sâu sắc trong lòng người dân Việt rằng: không ai còn có thể hồ nghi
về tính chất nhập thế tích cực của Phật giáo, và tính hữu hiệu trong việc
đóng góp xây dựng xứ sở hùng cường của Phật giáo, nghĩa là không ai có thể
hồ nghi về giá trị đích thực của Phật giáo trong vấn đề giải thoát cá nhân
và kiến tạo xã hội.
9. Sắc thái đặc biệt của Phật
giáo Việt Nam chính là sắc thái Thiền mà không phải Tịnh hay Mật: Đó là
con đường tu học Giới - Định - Tuệ, giác tỉnh tính vô thường, vô ngã và
khổ đau của các pháp mà rời khỏi tham ái và chấp thủ.
10. Tinh thần giáo dục đặc biệt
mà Thiền định Phật giáo đã để lại trong lịch sử là tinh thần tự chủ, tự
cường, tự tri, tự giác, không vọng ngoại, tinh thần vô chấp, phóng khoáng,
vị tha, dung hợp và trí tuệ.
Sau các nhận định ấy chúng ta
thấy rằng: với tinh thần đạo của Thiền Trúc Lâm Yên Tử cọng thêm vào sự
truyền bá giáo lý sâu rộng bằng các phương tiện hiện đại, và truyền bá
Thiền định truyền thống (Như Lai Thiền) phổ biến sâu rộng trong quần chúng
thì hẳn là Phật giáo Việt Nam sẽ tiếp tục có những đóng góp đầy ý nghĩa
cho lịch sử dân tộc.
("Tìm Vào Thực Tại", Sài Gòn, 1997)