Lịch sử Phật Giáo
Ấn Độ
Pháp sư
Thánh Nghiêm
Thích Tâm Trí
dịch
---o0o---
CHƯƠNG II. NGUỒN GỐC
THÍCH CA THẾ
TÔN
TIẾT I. BỐI CẢNH THỜI ĐẠI
THÍCH TÔN
- Áo Nghĩa Thư với
Phật Giáo
Ở tiết ba của
chương một có đề cập đến sự xuất hiện của Áo Nghĩa Thư là do xu thế theo
tư trào của thời đại. Do đó, mà nội dung Áo Nghĩa Thư như mũi nhọn đâm
ngược vào truyền thống. Đại loại mà nói, thì Phật Giáo cũng có thể gọi
là đã từng chịu sự hun đúc bởi Áo Nghĩa Thư. Chẳng hạn như khi nói về
“nghiệp”. Trong cổ Áo Nghĩa Thư, nghiệp thuộc mật giáo nên không thể
công khai. Nhưng đến thời đức Phật thì nghiệp trở thành tư tưởng được
các giáo phái thừa nhận; hoặc như thuyết “luân hồi” cũng đã manh nha từ
thời đại Phạn thư, nhưng về sau mới hoàn chỉnh và được thừa nhận. Vào
thời đại ban đầu của Áo Nghĩa Thư, thì thuyết “giải thoát” mới là mục
đích cuối cùng. Như thế đủ để suy định rằng tuy Áo Nghĩa Thư là mật giáo
thuộc về nội bộ của Bà La Môn giáo ở đây là nội bộ Ấn Độ nên có thể đức
Phật chưa đích thân thâm hiểu về nó, nhưng không thể nói vì lý do mà đức
Phật chưa từng gián tiếp chịu ảnh hưởng tư tưởng tự do của Áo Nghĩa Thư,
dù rằng thuyết về nghiệp, luân hồi, giải thoát là do chính đức Phật
thuyết giảng, cho dù nội dung không giống với Áo Nghĩa Thư. Nhưng không
thể vì thế mà nói rằng đức Phật chẳng chút tơ hào quan hệ với Áo Nghĩa
Thư.
- Điều gì tạo nên
tư trào thời đại?
Nói đến tư trào
thời đại đương thời, trước tiên nên tìm hiểu rõ sự biến thiên của xã hội
và dân tộc Ấn Độ. Người Aryan lấy địa phương Câu La làm trung tâm để
kiến lập nền văn hóa tư tưởng của Bà La Môn giáo. Giống các nước như: Tú
La Sắc Na (Suracena), đều lấy nơi này làm trung tâm.
Như vậy, đến thời
này pháp điển của Bà La Môn một nửa được coi là của người Aryan, nửa còn
lại là các chủng tộc hạ đẳng, còn man khai. Lại nữa, tại lưu vực sông
Hằng, đặc biệt là nước Ma Kiệt Đà, nơi sản sinh nền văn hóa tư tưởng
mới. Theo “Bao Đạt Da Na Pháp Điển” (Bandhayàna Dharma Sùtra), thì người
Ma Kiệt Đà dường như có sự pha trộn giữa giai cấp Phệ Xá với giai cấp
Thủ Đà La, mà tổ tiên họ là người Aryan thuộc chủng tánh Vệ Xá - Họ cũng
tranh dành phần cư trú tại địa phương Câu La của người Aryan. Họ là
những người Aryan đến Ấn Độ sớm hơn. Trải qua thời gian lâu dài, họ
thông hôn với tộc người hạ tiện Dravidian, và cũng từ đó họ trở thành
một chủng tộc mới và độc lập.
Chủng tộc độc lập
này lấy nước Ma Kiệt Đà làm trung tâm. Đến thời đại đức Phật, Ấn Độ ước
có mười sáu nước lớn. Kinh Trung A Hàm quyển năm mươi lăm, kinh 202 -
Trì Trai kinh
chép là, trong số
các nước lớn, như nước Ma Kiệt Đà lấy thành Vương Xá làm kinh đô, nước
Kiều Tát La lấy thành Xá Vệ làm kinh đô, nước Ta Di lấy Kiều Thường Di
làm kinh đô, nước Bạt Kỳ lấy Tỳ Xá Ly làm kinh đô v.v… các nước vừa nêu
là những nước cường thịnh nên được lưu danh.
Tại các “tân bang
quốc” này, tuy vẫn chịu ảnh hưởng văn hóa truyền thống Bà La Môn, nhưng
là những bang quốc trổi dậy với nền văn hóa tự do. Nền văn hóa tự do này
nhận được sự bảo hộ của các bậc vương giả. Do đó, đây là khu vực tuy
cũng có quan niệm về bốn chủng tánh, nhưng lại lấy giai cấp Sát Đế Lợi
đặt lên trên giai cấp Bà La Môn. Các bậc vương giả bảo hộ tư trào tự do
tư tưởng không hẳn là họ xuất thân từ huyết thống của giai cấp Sát Đế
Lợi, nhưng họ lại cư xử ở cương vị chủng tánh Sát Đế Lợi là để nhằm bảo
lãnh bốn chủng tánh. Nhân đó, phàm hễ là tư tưởng mới thì liền được
trọng thị, trong khi đó quan niệm “Bà La Môn chí thượng” lại phải chịu
sự khảo nghiệm hết sức gay gắt. Đó là do tư trào phản Vệ Đà được các
vương gia che chở.
- Phản Vệ Đà của
Sa Môn đoàn.
Như đã giới thiệu
danh xưng của sáu phái triết học; trong sáu phái, không phái nào là
không thừa nhận giá trị Vệ Đà, vì thế mà truyền thống học phái rất thịnh
hành. Nhưng truyền thống đó bị phái cách tân của Sa môn đoàn phủ nhận.
Thực sự mà nói,
thì thời gian trước đức Phật một trăm năm, và sau đức Phật hai trăm năm,
tư tưởng giới ở Ấn Độ là cực kỳ hỗn tạp. Qui nạp lại mà nói, đại khái có
thể phân thành bốn loại: 1. Bà La Môn giáo chính thống - 2. Tín ngưỡng
theo tập tục, hệ tín ngưỡng này lấy Sử thi làm tư tưởng trung tâm, đó là
Phạm thiên, Duy Tu Nô, và Thấp Bà là ba vị thần chính của Bà La Môn giáo
được thông tục hóa - 3. Triết học, chẳng hạn như đại bộ phận của sáu
phái triết học đã thành lập - 4. Phản Vệ Đà của Sa môn đoàn.
Các phái phản Vệ
Đà đều có chủ nghĩa “đặc chủng” và có tổ chức giáo đoàn. Các giáo đoàn
dưa ra kiến giải khu biệt với Bà La Môn, và họ mệnh danh là Sa Môn
(S’ramana - cần tức). Do đó, mà vào thời đức Phật, có ý kiến rằng mỗi
khi giới thiệu các phái, người ta gọi hoặc là Sa Môn hoặc Bà La Môn,
ngược lại các phái cũng gọi đức Phật là Đại Sa Môn, hoặc có khi thêm cả
họ của đức Phật vào, và gọi là Sa Môn Cù Đàm.
Đương thời tại Ấn
Độ có rất nhiều đoàn Sa Môn; kinh Phật chép có chín mươi sáu thứ ngoại
đạo, trong đó có nhiều ngoại đạo cũng xưng là Sa Môn; như lục sư ngoại
đạo chẳng hạn.
- Lục Sư Ngọai Đạo
Lục sư ngoại đạo
được nói đến rất nhiều trong các kinh, luật tiểu thừa. Xin lấy kinh thứ
hai mươi bảy - kinh Sa Môn Quả - trong kinh Trường A Hàm để giới thiệu
về tên gọi của Lục sư ngoại đạo;
1. Bất Lan Ca Diếp
(Pùrana - Kàssapa):
Nhóm ngoại đạo này
hoài nghi về Luân lý, phủ định cả nghiệp thiện nghiệp ác, cho rằng thiện
ác nên căn cứ vào sự tương ứng. Do đó, họ đề xướng Vô tác dụng Luận.
2. Mạc Già Lê Cù
Xá Lợi
(Makkali Gosàla):
Đó là tên vị tổ
của tà mệnh ngoại đạo. Nhóm ngoại đạo này đề xướng “Vô nhân nhi hữu
luận” (Có là có chứ không có nguyên nhân). Nhóm này là một phái của Kỳ
Na giáo. Ngoài Kỳ Na giáo, đây là nhóm ngoại đạo mạnh nhất so với năm
nhóm còn lại.
3. A Kỳ Đa Si Khâm
Bà La
(Ajita
Kes’akambala):
Nhóm này phủ định
thuyết linh hồn, và đề xướng “Duy vật luận”. Chủ trương lấy khoái lạc
làm mục đích, bài xích tất cả mọi quan niệm nghiêm túc về luân lý. Nên
được gọi là Thuận thế ngoại đạo.
4. Ba Phù Đà Ca
Chiên Na
(Pakudha Kacàyana):
Nhóm này chủ
trương “Tâm vật vĩnh bất tiêu diệt”, và đề xướng “Thế gian thường tồn
luận”.
5. Tán Nhã Di Tì
La Lê Phí
(Sãnjaya
Belathiputta):
Là phái ngụy biện,
hoặc còn có tên là Bộ Nang Luận Giả; ngài Xá Lợi Phất (Sàriputta) và
ngài Mục Kiền Liên (Mahàmaudgalyàyana). Cả hai đều xuất thân từ phái
này, sau mới qui y Phật.
6. Ni Kiền Đà Nhã
Đề Tử
(Nigantha
Nataputta):
Thỉ tổ của Kỳ Na
giáo là Ma Ha Tỳ Lô (Mahà - Vira), ông ra đời trước đức Phật, và cũng
xuất thân là vị vương tử. Phái này dùng “mệnh” (Jiva) và “phi mệnh”
(Ajiva) tạo thành nhị nguyên luận để thuyết minh tất cả mọi vấn đề. Do
đó, họ đề xướng “Vô thần luận”, phủ định quan niệm Thượng đế là đấng tạo
vật. Điểm đặc sắc của phái này là giữ giới bất sát sinh rất nghiêm mật,
và tu khổ hạnh một cách cực đoan. Ấn Độ là đất nước rộng truyền hạnh tu
khổ hạnh cấm dục. Do đó, khi Phật Giáo bị chìm vào tả đạo của Mật giáo,
và tiến hành việc ”nam nữ đại lạc” nên sau đó bị diệt vong. Trong khi Kỳ
Na giáo trải qua hơn hai nghìn năm trăm năm và hiện nay vẫn còn lưu hành
tại Ấn Độ.
Cứ theo kinh Phật
mà xét, thì Lục sư ngoại đạo có thể nói là không có gì tốt lành. Thực tế
khi khảo sát tư tưởng của họ, cố nhiên họ không theo kịp tính hợp lý của
Phật Giáo, và cũng chưa kết tập kinh điển của họ như Phật Giáo đã kết
tập. Điều đó phản ánh được rằng thời ấy giữa Phật Giáo và Lục sư ngoại
đạo có xung đột nhau như tường vách khó nhìn thấy nhau. Người Phật tử có
chánh tín không thể dung chấp ý thức hương quyện mang tính hàng hai.
- Sáu Mươi Hai
Kiến.
Tư tưởng của hàng
ngoại đạo đương thời, tổng quát là gồm các đoàn Sa Môn, và học thuyết Bà
La Môn. Chỉnh lý và phân loại, có cả thảy sáu mươi hai kiến giải. Xin
đọc kinh Trường A Hàm, quyển mười bốn, kinh thứ hai mươi mốt “Phạm Động
Kinh”. Trong
kinh có xâu kết sáu mươi hai kiến giải, và chia thành hai thuyết với
mười sáu loại:
I. NÓI VỀ ĐỜI QUÁ
KHỨ, HOẶC CÒN GỌI LÀ “BẢN KIẾP BẢN KIẾN”. GỒM NĂM LOẠI VỚI MƯỜI KIẾN.
1. Thế gian thường
trụ luận, thường kiến luận, có bốn thứ.
2. Thế gian thường
bán vô thường luận, có bốn thứ.
3. Thế gian hữu
biên vô biên luận, có bốn thứ.
4. Dị vấn dị đáp
luận, có bốn thứ.
5. Vô nhân nhi hữu
luận, tức Vô nhân luận, có 2 thứ.
II. NÓI VỀ ĐỜI VỊ
LAI, HOẶC CÒN GỌI LÀ “VỊ THẾ VỊ KIẾP” CÓ NĂM LOẠI VÀ BỐN MƯƠI KIẾN.
1. Thế gian hữu
tưởng luận, có mười sáu kiến giải.
2. Thế gian vô
tưởng luận, có tám kiến giải.
3. Thế gian phi
hữu tướng phi vô tướng luận, có tám kiến giải.
4. Chúng sinh đoạn
diệt vô dư luận, tức Đoạn kiến luận, có bảy kiến giải.
5. Hiện pháp Niết
bàn luận, tức không luận là ở trạng thái nào, chỉ nhằm vào đời hiện tại,
lấy đó làm cảnh giới tối cao. Có năm kiến giải.
Thời ấy tư tưởng
của Bà La Môn thì quá cố hữu khiến người đời phải phản đối. Tư tưởng của
các đoàn Sa Môn tuy mới, như quá cấp tiến, khiến người ta có xu hướng
thiên kiến một cách cực đoan. Với nhân tâm thế đạo, thì thái quá cũng
như bất cập, cả hai đều không nên. Do vậy mới xuất hiện sự tích đấng
Thích Tôn ứng hóa ở cõi nhân gian. Đặc biệt là đức Phật với trí tuệ vô
hạn, và bi tâm vô lượng đã khởi xướng chánh giáo trung đạo một cách vững
chắc. Lấy đó bài trừ mọi thiên kiến của các phái ngoại đạo. Do đó, trong
thời gian dài ngoại đạo bị tổn hại (dẹp tan), và Phật pháp đã đem đến
cho nhân loại khí tượng mới, như ánh sáng chiếu xa vạn dặm!
TIẾT
II. SỰ GIÁNG SINH VÀ THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC THÍCH TÔN.
Từ thời cổ đại, Ấn
Độ là một nước tuy có nền văn hóa vĩ đại, nhưng lại không có quan niệm
về lịch sử biên niên. Chính nguyên nhân này nên dù Đức Thích Tôn đã lưu
lại nhân gian một di sản văn hóa vô cùng trân quí, nhưng về mặt lịch sử
chúng ta lại không biết một cách chính xác về niên đại của Ngài.
Mãi đến thời gian
gần đây, dựa vào các tư liệu cũng như ở góc độ khảo cứu mà suy luận
những gì có liên quan đến niên đại của đức Phật, thì có đến bảy mươi nhà
đưa ra nhiều thuyết khác nhau. Trong khi các bậc cổ đức ở Trung Quốc lại
dựa vào hiện tượng tinh tú cũng như sự chuyển vận của địa cầu được ghi
trong cổ sử mà ức đoàn rằng đức Phật đản sinh năm Giáp Dần, đời Chu
Chiêu Vương thứ hai mươi sáu (trước tây lịch 1027 năm), và Ngài nhập
diệt vào đời Chu Mục Vương, thứ năm mươi ba (năm Nhâm Thân - trước tây
lịch 949 năm). Thuyết này xin đọc “Lịch Đại Tam Bảo Ký” quyển một hoặc
trong “Phật Tổ Thông Ký” quyển hai, ở
phần chữ nhỏ và chú giải cuối. Tuy nhiên chứng cứ của thuyết này có vẻ
mù mờ khó tin. Do đó, thuyết này không được các học giả cận kim quan
tâm. Có người dùng thuyết của Thiện Kiến Luật, trong Chúng Thánh Điển
Ký; thuyết này khác với thuyết của Nam truyền của Thượng Tọa Bộ, và cho
rằng đức Phật đản sinh trước Thiên Chúa 480 năm. Vọng Nguyệt - người
Nhật Bản thì tin vào năm được ghi trong Phật Giáo Đại Niên Biểu, tức sử
dụng thuyết của Chúng Thánh Điển Kyù.
Nhưng lại
lấy năm 485 trước Tây lịch là năm Phật nhập diệt làm kỷ nguyên Phật
Giáo nguyên niên. Phất Lợi Thoát Thị (J.F.Fleet) thì căn cứ theo sử liệu
của Hy Lạp để đoán định kỷ nguyên Phật nhập diệt là trước
Tây lịch
483 năm. Thuyết này có phần giống với thuyết của Chúng Thánh Điển ký.
Theo truyền thuyết
của Tích Lan, thì kỷ nguyên Phật nhập diệt là trước
Tây lịch 543 đến
544 năm. Hiện nay tại đại hội Thế Giới Phật Giáo Đồ Hữu Nghị lần thứ ba
đã thông qua kỷ nguyên Phật nhập diệt là năm 544 trước
Tây lịch, và
lấy đó làm nguyên niên. Điều này được căn cứ vào văn bia hiện còn lưu
giữ tại Ưu Đàm Da Kỳ Lợi (Udayagiri) của một vị vua nước Yết Lăng Già
(kakinga) thuộc nam Ấn có tên là Ca La Tỳ La (siriKharavela Maha
Meghavàhana) để suy đoán ra, và nhà sử học V.A. Smith cũng đồng ý với
thuyết này.
Tiểu Dã Huyền Diệu
người Nhật Bản lại căn cứ theo Thập Bát Bộ Luận được truyền bởi Nhất
Thiết Hữu Bộ, theo đó thì vua A Dục lên ngôi sau Phật nhập diệt 116 năm,
và cho rằng như vậy là vua A Dục tức vị trước
Tây lịch 269 năm, lấy
năm này mà suy, thì đức Phật nhập diệt trước Công nguyên 384 năm.
Vũ Tỉnh Bá Thọ
cũng người Nhật Bản thì dựa vào tư liệu của họ Tiểu Dã mà suy đoán, khảo
sát và nhất trí năm vua A Dục lên ngôi là năm 271 trước
Tây lịch,
cộng vơi tám mươi năm đức Phật thọ thế thành ra 466 năm đến 386 trước
tây lịch, học
trò của Tỉnh Bá, bác sĩ Trung Thôn Nguyên, gần đây cũng đồng ý với tư
liệu của Tỉnh Bá, đồng thời có thêm sử liệu mới của Hy Lạp. Sau khi khảo
chứng ông đính chính lại niên đại của Phật là trước tây lịch từ 463 năm
đến 383 năm.
Pháp sư Thời Hiển và Ấn Thuận của Trung Quốc cũng dùng thuyết của Thập
Bát Bộ Luận và của Bộ chấp Dị Luận, theo đó thì năm vua A Dục lên ngôi
nhằm vào đời Chu Noản Vương năm thứ bốn mươi ba ở Trung Quốc. Trước tây
lịch 272 năm. Do đó, năm Đức Thích Tôn nhập diệt ứng với năm thứ mười
bốn đời Chu An Vương (trước tây lịch 388 năm), và dùng năm đức Phật nhập
diệt trước tây lịch 387 năm làm kỷ nguyên niên.
Trước đó, khi
Trung Thôn Nguyên chưa dưa ra thuyết vừa nêu, đa số học giả Nhật Bản đều
sử dụng thuyết của họ Vũ Tỉnh, nên họ suy luận năm Phật nhập diệt là
trước Thiên Chúa giáng sinh hơn 380 năm, và được đa số chấp nhận.
- Gia Hệ Đức Phật.
Đức Thích Tôn
giáng sinh dưới chân núi Hy Mã Lạp Nhã thuộc đông bắc Ấn Độ. Đó là một
tiểu quốc, tộc Thích Ca (Sàkya) là chủ nhân của tiểu quốc này. đây là
giòng dõi quí tộc còn sót lại của một nước Cộng hòa ngụ cư tại vùng đông
bắc sông La Bạt Đề (Ràpti) có diện tích ước độ 320 dặm vuông Anh, và
được chia làm mười thành bang nhỏ. Trong mười thành đó xuất hiện một vị
thánh chủ rất có thế lực, và là vua cho cả mười thành. Thành Ca Tỳ la Vệ
(Kapila Vastu) của vua Tịnh Phạn (Suddhodana). Thời ấy là lãnh tụ của
nước Cộng hòa này. Thích Tôn Tất Đạt Đa (Siddhartha - Nhất Thiết Nghĩa
Thành) là thái tử con vua Tịnh Phạn.
Theo truyền thuyết
xưa, thì tộc Thích Ca thuộc chủng tánh Sát Đế Lợi của giống người Aryan.
Xuất tích vốn là hậu duệ của vua Cam Giá - một vị quân vương danh tiếng
lẫy lừng. Cam Giá vương tộc xuất tích tại Cù Đàm về sau gọi là Kiều Đáp
ma (Gautama) tiên nhân. Do đó, mà lấy họ là Cù Đàm.
Nhưng các sử gia
cận đại như Địch Nguyên Vân Lai, Đằng Điền Phong Bát, người Nhật Bản,
Pháp sư Ấn Thuận của Trung Quốc v.v… tất cả đều chủ trương tộc Thích Ca
không phải là giống người Aryan da trắng, mà là giống người Mông Cổ da
vàng.
Y cứ luật bộ để
khảo sát, thì tộc Thích Ca tương cận với tộc Bạt Kỳ. Nhưng Tộc Thích Ca
thông hôn với tộc người Aryan; cả hai tộc người này được coi là tộc
thuộc tộc loại của Trung Quốc. Tỳ kheo xuất thân từ tộc Thích Ca và tộc
Bạt kỳ. Cũng có người khoa trương rằng tộc của đức Phật thuộc về tộc của
mình.
Lại nữa, theo ghi
chép của Huyền Trang trong Đại Đường Tây Vực Ký, thì trạng huống phân bố
nhân chủng tại Ấn Độ lúc Ngài du học tại đây, thì địa khu nơi tộc Thích
Ca cùng các tộc khác cư ngụ đều là giống dân da vàng, đó là địa khu mà
nay là Ni Bạc Nhĩ (Nepal).
Đương nhiên Huyền
Trang không cho giống dân da vàng ấy là người Mông Cổ. Đây làm một phát
hiện rất có giá trị. Tuy vậy, nhưng lúc Huyền Trang lưu học tại Ấn Độ,
thì trạng huống phân bố nhân chủng cũng đã cách thời đức Phật hơn nghìn
năm. Nếu căn cứ việc các ngoại tộc cứ lần lượt xâm nhập Ấn Độ, thì tộc
người da vàng đến được Ấn Độ sớm nhất dường như là tộc Đại Nguyệt Thị,
Đại Nguyệt Thị còn gọi là Cơ tộc (Seythian). Vùng đất mà Cơ tộc cư ngụ
là Thích Ca. nhưng việc xâm nhập Ấn Độ của Đại Nguyệt Thị có sử để khảo
cứu, đó là vương triều Quí Sương; thời đại trước khi đức Phật xuất thế
dường như chưa có giống dân da vàng xâm nhập Ấn Độ. Duy có điều tộc
Thích Ca không phải là huyết thống thuần chủng chánh thống của giống
người Aryan; Điều đó không có gì phải nghi vẫn. Do đó, về mặt tình cảm
giữa tộc Thích Ca và tộc Aryan luôn có sự kỳ thị nhau. Đấy không phải là
ngẫu nhiên.
Địa chỉ Ca Tỳ La
Vệ nay thuộc địa phương Tất Bách La Bà (Pìpràva) trong nội địa nước
Nepal. Trải qua thời kỳ phát triển, đến nay cổ tích đã được chứng thực.
Nó ở vào 28 độ bắc tuyến, 38 độ bách phân và 83 độ kinh đông, 8 độ bách
phân.
Ma Da (Mahàmàya)
phu nhân - thân mẫu của Đức Thích Tôn - là em gái vị thành chủ thành
Thiên Tý (Devadaha), thành này tọa lạc phía đông bắc sông Lô Ni (nay là
sông Kohanà). Đây là một trong số mười thành thuộc về tộc Thích Ca, cho
nên giữa hai thành luôn gìn giữ mối quan hệ “hôn thân” có tính truyền
thống với nhau.
Ma Ha phu nhân lúc
sắp đến thai kỳ sinh con, theo tập tục thời ấy bà phải về lại nhà cha mẹ
để sinh con. Trên đường về biệt cung của phụ vương, đi được nửa đường,
bà tạm nghĩ chân tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) dưới gốc cây Vô Ưu
(Ásoka), cũng vừa lúc ấy Đức Thích Tôn đến với nhân gian.
- Là Bồ Tát trước
lúc xuất gia.
Đức Thích Tôn
trước khi chưa thành Phật, chiếu theo lệ Ngài được gọi là Bồ Tát.
Đức Thích Tôn là
người mà thường nhân không thể sánh. Đương khi Ngài vừa đến cõi nhân
gian tự Ngài đi bảy bước, tay phải giơ lên, giọng như sư tử hống: “Ngã ư
thiên nhân chi trung, tối tôn tối thắng”. (Trong cõi trời, người Ta là
đấng tối tôn tối thắng). Dứt lời, Ngài bình thường trở lại như các trẻ
sơ sinh, tức không tự đi và nói năng được gì.
Bồ Tát giáng sinh
được bảy ngày thì thân mẫu Ngài ngã bệnh và tạ thế. Từ đó về sau người
đảm nhận nuôi dưỡng Ngài là di mẫu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahaprajapati).
Khi được bảy, tám tuổi Đức Thích Tôn đã thọ học mười sáu loại sách Phạn
thư với Bà la môn Bạt Đà La Ni. Cạnh đó Ngài cùng học với các ban võ
nghệ. Năm lên mười bốn tuổi Ngài mới được ra khỏi hoàng thành để giao
du, nhân đó Ngài đã tận mắt chứng kiến cảnh sinh, già, bệnh chết của con
người và kiếp người. Ngài cũng đã đối diện với các vị Sa Môn, để rồi
Ngài cảm nhận ra sự vô thường của thế gian, và sau đó Ngài nuôi tâm niệm
xin vua cha cho Ngài xuất gia tu đạo. Năm Ngài mười sáu tuổi, phụ vương
Ngài luôn ưu lự Thái tử sẽ xuất gia. Do đó, nhà vua cho thiết lập “điện
Tam Thời” (Ba mùa vui sướng) và qui tụ nhiều thể nữ. Mục đích là dùng ngũ dục
để lung lạc Thái tử từ bỏ tâm niệm xuất gia. Năm mười chín tuổi, Ngài
kết hôn với người con gái của chủ thành Thiên Tý là Sa Thâu Đà La
(Yasùodhara), và sinh hạ một người con trai tên là La Hầu La (Ràhula).
Lại nữa theo “Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Phá Tăng Sự”,
quyển ba,
có đề cập đến việc thái tử Tất Đạt Đa cưới ba người phi tử: một là bà Da
Thâu Đà La, hai là bà Kiều Tỳ Ca và ba là bà Lộc Vương. Cùng sách trên,
quyển bốn nói: “Bấy giờ Bồ Tát ở trong nội cung là nơi vui chơi mà tự
nghĩ rằng: Ta nay có ba phu nhân và sáu vạn thể nữ, nếu không cùng họ
hưởng dục lạc, thì ngoại nhân sẽ cho ta không phải là đấng trượng phu;
vậy giờ đây ta cùng Da Thâu Đà La vui thú. Nhân đấy bà Da Thâu Đà La
mang thai”. Còn có truyền thuyết nói rằng Đức Thích Tôn dùng tay chỉ vào
bụng của Da Thâu Đà La, sau đó bà sinh con. Đứng về tín ngưỡng dân gian
mà nói, thì người ta dễ dàng tin vào truyền thuyết trên là có vẻ hợp lý.
- Xuất gia tu
hành.
Dù vua Tịnh Phạn
có vận dụng đủ mọi phương pháp mang phong cách hào hoa chốn cung đình
nhằm làm cho Thái tử say đắm thú vui ngũ dục đi nữa, cuối cùng tất cả
những thứ ấy cũng không thể chiếm được tâm hồn của Ngài. Và rồi trong
một đêm khi mọi người còn đang chìm sâu trong giấc mộng, từ nơi hoàng
cung Thái tử lặng nhìn vợ quí, con yêu lần cuối, rồi đánh thức Sa Nặc
(Chandaka) - kẻ
giữ ngựa - tra yên cương và cùng lên lưng ngựa âm thầm rời khỏi hoàng
cung, bỏ lại phía sau thành Ca Tỳ la Vệ! Lúc trời mờ sáng, Ngài cùng Sa
Nặc đến được thôn La Ma (Ràmagràma), rồi Ngài tự tay cắt tóc và khoác
lên mình chiếc áo Ca Sa (Kasàya). Tiếp đến, Ngài bảo Sa Nặc quay về
hoàng thành, thay Ngài báo tin lên phụ vương là Ngài đã xuất gia.
Đầu tiên Ngài đi
đến rừng khổ hạnh của tiên nhân Bạt Già Bà (Bhàrgava) ở ngoại thành Tỳ
Xá Ly (Vaisàli), thứ nữa Ngài tìm đến nơi tu hành của tiên nhân A La Lu
Già Lam (Àràda. KàLàma) ở ngoài thành Vương Xá, cùng tu với tiên nhân
Uất Đà Ca La Ma Tử (Udraka Rama Putra) để cầu đạo giải thoát. Tại đây,
Ngài nhận ra lối tu của các tiên nhân là hoặc tu khổ hạnh, hoặc tu thiền
định để cầu sinh thiên đường làm mục đích. Do đó, sau khi lãnh giáo, Đức
Thích Tôn không mấy tâm phục, nên Ngài đi đến thôn Ưu Lâu Tần La
(Uruvilvà) ở ngoại thành Già Da (Gayà) nằm về hướng nam. Thực thì hai
tiên nhân ở ngoại thành Vương Xá, đương thời là người nổi danh của phái
Số Luận. Cả hai đều tu theo định phi phi tưởng, và lấy đó làm cảnh giới
giải thoát. Sau này Phật giáo thấy rằng định “phi tưởng phi phi tưởng
xứ” là định cao nhất thế gian. Như vậy, cho thấy hai vị tiên nhân trên
phần nào cũng có ảnh hưởng đến Phật giáo.
Lúc ấy đức Thích
Tôn chưa khởi sự tu khổ hạnh, Ngài ngụ tại thôn Bàn Trà thuộc ngoài
thành Vương Xá. Nhân khi Ngài vào thành Vương Xá khất thực, Ngài được
vua Tần bà Sa La của nước Ma Kiệt Đà nhìn thấy, và nhà vua gắng sức
khuyên Ngài trở về lại với thế tục. Nếu Ngài ưng thuận, nhà vua sẽ
nhường cho Ngài một nửa giang sơn để cùng nhau trị vì. Lời đề nghị đó bị
đức Thích Tôn từ tạ. Khi bị từ chối, nhà vua liền đưa ra lời yêu cầu với
đức Thích Tôn, là nếu Ngài tu hành thành Phật đạo, thì đầu tiên xin Ngài
hãy đến Vương Xá độ ông. Tiếp đó, đức Thích Tôn cùng với năm người do
phụ vương Ngài phái đến để hầu hạ cùng đi vào rừng khổ hạnh, và để cùng
tu khổ hạnh với các Sa Môn ngoại đạo. Tại đây đức Thích Tôn được các Sa
Môn ngoại đạo gọi Ngài là Sa Môn Cù Đàm.
Trai qua sáu năm
sinh hoạt khổ hạnh, chỉ dùng lúa mạch và gạo sống làm thực phẩm. Mỗi
ngày hạn định được dùng một hạt lúa mạch và một hạt gạo sống, để nhằm
kéo dài mạng sống. Kết quả, thân hình Ngài khô đét lại như que củi.
Trong khi Ngài vẫn chưa thấy tăm hơi gì về việc tu thành đạo quả nên
Ngài quyết định từ chối bỏ lối tu khổ hạnh, do Ngài thấu hiểu tu khổ
hạnh không phải là phương pháp rốt ráo để thành đạo. Rồi Ngài đi đến
sông Ni Liên Thiền (Nairãnjanà) để tắm gội. Tại đây Ngài nhận bát cháo
sữa do một mục nữ dâng cúng. Ngài điều dưỡng thân thể khang kiện trở
lại, rồi Ngài đi đến cây đại thụ Tất Bát La (Pippala) lấy cỏ Kiết Tường
lót làm tòa Kim Cang, và Ngài ngồi trong tư thế kiết già, mặt hướng về
đông, đoan thân chánh niệm phát đại thệ nguyện: “Ngã kim nhược bất chứng
vô thượng đại Bồ đề, ninh khả toái thử thân, chung bất khởi thử tọa”.
(Nay ta nếu không chứng quả vô thượng đại Bồ đề, thân này thà nát, dứt
khoát không đứng lên đi khỏi nơi này). Ngài tĩnh tâm điểm chiếu, tư duy
trừ sạch cái khổ của nhân gian. Chứng đắc đạo quả.
Như vậy là đức
Thích Tôn từ bỏ quan niệm rằng phương pháp tu khổ hạnh mới đem lại lợi
ích, và lúc này Ngài chuyển sang lập trường cầu xuất thế gian, đạt giải
thoát đạo, vượt lên trên tất cả mọi khái niệm và thái độ để quán sát
tường tận nguyên lý sinh diệt của vạn pháp. Trong sáu năm ròng, năm
người bạn cùng tu với Ngài, mục đích là để trợ giúp với hy vọng Ngài sẽ
từ bỏ tâm niệm tu hành để quay về thế tục, thì lúc này họ thấy Ngài
chuyển đổi phương pháp tu nên họ cũng bỏ Ngài ra đi.
- Thành Đẳng Chánh
Giác.
Việc đức Thích Tôn
xuất gia và trải qua sáu năm tu khổ hạnh nhiên hậu mới thành đạo quả. Đó
là điều mà ai cũng thừa nhận. Duy có điều Ngài xuất gia và thành đạo vào
năm Ngài bao nhiêu tuổi? Vấn đề này có nhiều thuyết khác nhau. Đa phần
các vị cổ đức đều cho rằng Ngài xuất gia năm Ngài mười chín tuổi, và
thành đạo năm Ngài hai mươi tám tuổi. Ngày nay có người cho rằng Ngài
xuất gia năm hai mươi chín tuổi, và thành đạo năm Ngài ba mươi lăm tuổi.
Nguyên nhân dẫn
đến các thuyết khác là vì; vào thời sơ kỳ, Phật giáo không dùng văn tự
để ghi chép, mà dùng phương pháp “sư sư tương thừa, dĩ khẩu truyền khẩu”
trong một thời gian dài, tiếp đó có thêm sự phân chia nhiều bộ phái, do
đó có sự truyền nhầm là điều khó tránh khỏi. Đặc biệt là dân tộc Ấn Độ
luôn thiên về tư duy siêu hình, không bận tâm đến việc ghi chép năm
tháng rõ ràng, chính xác. Kỳ thực việc này cũng không có gì lạ. Ngay
những vị cổ đức nổi danh trong lịch sử Trung Quốc như Khổng Tử, Lão Tử,
Trang Tử mà năm tháng của quí Ngài vẫn không rõ ràng chính xác. Người
Tây phương cũng thế, đối với năm sinh tháng đẻ của Chúa Jésus cũng chưa
thể xác định. Đây quả không phải là ngẫu nhiên của Đông phương hay Tây
phương!
Đức Thích Tôn với
bản hoài đại bi, đại trí, nên suốt bốn mươi chín ngày, Ngài đoan tọa
dưới gốc cây bằng một tinh thần dõng mãnh, với ý chí khắc phục nội ma
ngoại chướng, bỗng nhiên vào ngày mùng tám tháng chạp, vừa lúc sao mai
ló dạng Ngài thấu ngộ rằng, tất cả các pháp không một pháp nào không có
duyên khởi. Sự rốt ráo của tất cả các pháp duyên khởi ấy là đạo lý vô
ngã. Ấy là “Sinh tri sinh kiến, định đạo phẩm pháp, sinh dĩ tận, phạm
hạnh dĩ lập, sở tác dĩ biện, tất cánh thọ hữu, tri như chơn"
(đã sinh
tri, đã sinh kiến, định đạo phẩm pháp, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã
vững, việc cần đã làm xong, không còn tái sinh nữa, biết đúng như vậy).
Khuyếch nhiên viên
ngộ, thành đẳng Chánh giác, tự giác, giác tha, giác viên, vì vậy Ngài tự
xưng là vô thượng Phật đà (Buddha), và chúng đệ tử qui y Phật thì gọi
Ngài là Thế Tôn (Bhagavat), là Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni). Mâu Ni
(Muni) có nghĩa là bậc thánh. Bậc thánh chứng đắc pháp tịnh mặc - thoát
lý tất cả mọi phiền não thì gọi là tịnh mặc. Ở Ấn Độ, vốn từ xa xưa đối
với các vị tiên nhân bất luận là nội, ngoại đạo mà họ ẩn vào trong núi
rừng để tu tâm học đạo lâu năm thì họ được mọi người xưng tụng là Mâu
Ni. Đức Thích Tôn là bậc thánh xuất thân từ dòng tộc Thích Ca; do đó
xưng là Thích Ca Mâu Ni.
Sau khi thành đạo,
đức Thích Tôn luôn ở trong trạng thái hỷ duyệt vô lượng, và kéo dài
trong suốt thời gian hai mươi tám ngày kế tiếp. Ngài vẫn tĩnh tọa dưới
gốc cây, tự Ngài thọ dụng niềm vui giải thoát trong bảy ngày đầu tiên.
Cây Bồ Đề (Bodhivikasa) là cây Tất Bát La, nhân đức Phật thành đạo dưới
gốc cây này nên gọi là cây Bồ Đề. Sang bảy ngày lần thứ hai, Ngài tĩnh
tọa dưới tán cây A Du Ba La (Ajabàla). Đây là thời gian Ma Vương Ba Tuần
(Marà- Pàpìman) đến thỉnh Phật nhập diệt nhưng không kết quả.
Bảy ngày lần thứ
ba, Ngài tĩnh tọa dưới tán cây Mục Châu Liên Đà (Mucilinda), và gặp phải
mưa to gió lớn. Thấy vậy, rồng Mục Chân Liên Đà liền dùng thân mình hộ
che Phật, và cầu qui y Phật, trở thành loài bàng sinh đệ tử Phật đầu
tiên.
Bảy ngày lần thứ
tư, Ngài đến tĩnh tọa dưới tán cây La Xà Da Hằng Na (Rajavatana), thì có
hai vị thương chủ; một tên là Đề Vị, một tên là Bà Lê Ca, đi ngang qua
nơi đức Phật đang tĩnh tọa, họ lấy một ít mật cúng Phật và câu xin qui y
Phật Pháp rồi tiếp tục lên đường. Đây là hai đệ tử Ưu Bà Tắc (Upàsaka)
đầu tiên của đức Phật (Ưu Bà Tắc là người đàn ông có đức tin trong sáng,
và thân cận phụng sự Tam Bảo).
TIẾT III: CHUYỂN PHÁP LUÂN.
- Đức Phật đi đến
Vườn Nai.
Sau khi đức Thích
Tôn tự thọ dụng pháp duyệt mà Ngài vừa chứng ngộ dưới cội Bồ Đề. Ngài
quyết ý giáo hóa chúng sinh, trước tiên Ngài đến Vườn Nai.
- Lộc Dã Uyển
(Mrgadàva) tên Vườn Nai hiện nay là Tát Nhĩ Nại Đức (Sarnath) ở ngoài
thành Ba La Nại (Vàràmasì): do vì Ngài nhớ năm người bạn trước kia cùng
tu hầu hạ Ngài, sau họ bỏ Ngài mà đi. Nay Ngài đến là để báo đáp công
đức của họ trước kia. Đây cũng là năm vị Thị giả đầu tiên có danh xưng
là Tỳ kheo. Năm người họ là: A Nhã Kiều Trần Như (Àjnàta - Kundinya),
Bạt Đề (Bahadrika), Bà Ba (Vàspa) Ma Ha Nam (Mahanàna), A Thuyết Thị
(Asvajit). Năm vị Tỳ kheo này cũng là thính chúng đầu tiên đức Phật nhắm
đến để thuyết giảng diệu pháp mà Ngài đã thân chứng. Đời sau gọi đây là
sơ chuyển pháp luân. Nghe xong thời thuyết pháp tất cả năm vị đều chứng
thánh quả A la hán (quả giải thoát của Tiểu thừa).
Pháp luân - Dharma
- Sakra: có thể dịch là chuyển vận chánh pháp (theo cách dịch của Hán
văn). Tức là lấy Phật pháp sánh với Luân Bảo của vị Chuyển Luân Thánh
Vương. Lúc vị Luân Vương xuất thế thì Luân Bảo cũng tự ứng hiện. Luân
Bao dẫn đạo Luân Vương chuyển hướng tứ thiên hạ, khiến các tiểu quốc
vương không ai là không thành kính cảm phục Chuyển Luân Thánh Vương,
Luân Vương không dụng đến đao binh mà thiên hạ thống nhất, bởi Luân
Vương thực hành nền chính trị nhân trị, khiến mọi người trong thiên hạ
đều an hưởng thái bình. Đấy là truyền thuyết mà cũng là ước mơ của người
dân Ấn Độ về sự trị vì của bậc Luân Vương đem thái bình an lạc đến cho
mọi người. Đầu tiên, Luân là một thứ binh khí lấy việc phá địch làm
chính, để ẩn dụ việc đức Phật dùng chánh pháp mà Ngài chứng được làm
“Luân”. Ngài công bố chánh pháp khắp thiên hạ nhằm mang lại lợi lạc cho
quần sinh, và phá đổ các tà thuyết, dị luận. Lấy đó dụ cho chánh pháp
nên gọi là Pháp Luân.
- Nội dung Pháp
Luân.
Nội dung Pháp luân
là thành quả do đức Thích Tôn chứng đắc khi Ngài thành bậc Chánh Đẳng
Chánh Giác. Và rộng truyền chánh pháp do Ngài thân chứng, gọi đấy là
chuyển Pháp Luân.
Thế nào là chánh
pháp (Saddharma)? Căn cứ theo Thánh điển Nguyên thỉ - kinh A Hàm mà nói,
thì lần đầu tiên đức Phật thuyết pháp, đó là thuyết về Tứ Thánh đế và
Bát Chánh Đạo. Về sau nội dung kinh, luật, luận của Đại, Tiểu thừa đều
do từ Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo mà khai triển.
Để giới thiệu nội
dung Chánh Pháp, trước tiên cần nêu rõ mục đích thuyết Pháp của đức
Phật. Mục đích giáo hóa của đức Thích Tôn là nhằm tạo thuận duyên giúp
tất cả mọi người để ai cũng có thể đạt đến giải thoát như Ngài. Sự giáo
hóa của đức Phật không nhằm làm gia tăng lý luận đối với thế giới, nhân
sinh, cũng chẳng phải để giúp giới khoa học và triết học có thêm hứng
thú. Điều này xin đọc thêm ở kinh Tiễn Dụ, trong kinh Trường A Hàm. Như
vậy, đức Phật không yêu cầu chúng ta nhắm mắt sùng bái Ngài, coi Ngài
như một thứ ma túy tín ngưỡng để ủy thác đức tin. Đức Phật là nhà tôn
giáo thực tế, là nhà tư tưởng giàu tinh thần phê phán. Ngài tôn trọng
luận lý một cách thực tế, và phản đối những “không đàm huyền lý”. Phàm
cái gì không hữu ích cho việc tu chứng giải thoát, thì Ngài không chú
tâm. Đối tượng được đức Phật khảo sát không là sửa đổi lại vũ trụ, mà
bằng nỗ lực lớn nhất, đức Phật thuyết minh những hoạt động mà con người
nên tạo thành. Theo đức Phật, nếu khảo sát thế giới mà bỏ qua sự sống cơ
bản của con người thì đó không phải là bản hoài của Phật. Xin đọc
“Nguyên Thỉ Phật Giáo Tư Tưởng Luận” của Mộc Thôn Thái Hiền, ở thiên thứ
I chương 3.
Như vậy, tôn chỉ
mà đức Phật giáo hóa thế gian là nguyện vọng muốn cho hữu tình chúng
sinh đạt thành giải thoát. Nói cách khác, Phật pháp lấy hữu tình chúng
sinh, chủ yếu là lấy con người làm trung tâm. Nếu khảo sát Phật pháp mà
trước mắt không nhìn thấy hữu tình chúng sinh, thì đó quả là sự sai lầm.
Tứ Thánh Đế và Bát Chánh Đạo mà đức Phật chứng ngộ và thuyết giảng, đó
là con đường giúp con người đạt đến giải thoát.
I. TỨ THÁNH ĐẾ.
Bài thuyết pháp
đầu tiên của đức Phật được gọi là “Tam Chuyển Tứ Đế Pháp Luân”. Nay xin
phân thuật như sau:
1. Khổ đế: nhân
sinh như khổ hải! Nội dung của khổ, đại loại có ba, đó là khổ khổ, hoại
khổ và hành khổ. Trong khổ khổ có tám thứ khổ đó là: sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bắt đắc khổ, ngũ
ấm xí thạnh khổ.
2. Tập đế: nguyên
nhân của Khổ là Tập. Do phiền não mà tạo nghiệp, do tạo nghiệp mà chiêu
cảm quả báo khổ.
3. Diệt đế: diệt
là khả năng giải thoát khổ quả, là thấu triệt “lý” của Tập đế, là đoạn
trừ nghiệp phiền não, tức là khả thể giải thoát mọi chúng khổ.
4. Đạo đế: đạo là
phương pháp diệt khổ. Tu trì Bát Chánh Đạo có khả năng diệt trừ tất cả
các khổ, chứng đắc quả Niết bàn giải thoát.
II. CHUYỂN TỨ ĐẾ.
1. Thị chuyển:
thuyết minh tường tận đây là khổ, đây là tập, đây là diệt, đây là đạo.
2. Cần chuyển:
thuyết minh khổ nên biết, tập nên đoạn, diệt nên chứng, đạo nên tu.
3. Chứng chuyển:
thuyết minh khổ ta đã biết, tập ta đã đoạn, diệt ta đã chứng, và đạo ta
đã tu.
Trên đây là cương
yếu về lần đầu tiên Phật chuyển pháp luân. Giải thích rõ Khổ đế và Tập
đế đó là do duyên sinh pháp, từ đó giải rõ pháp Thập nhị nhân duyên.
- Thập Nhị Nhân
Duyên.
Thập nhị nhân
duyên đích thực là một “sáng tạo luận” được lưu lộ một cách đặc biệt độc
đáo từ đại bi trí hải của Đấng giác ngộ. Các tín ngưỡng Thần quyền;
không một tôn giáo Thần quyền nào mà không cho rằng vũ trụ này là do
Thượng đế sáng tạo. Đức Phật dùng mười hai nhân duyên để thuyết minh về
căn nguyên của vũ trụ.
Nay xin giới thiệu
và giải thích mười hai nhân duyên:
1. Vô minh: tức
không có trí tuệ, do vì các phiền não như tham dục, sân hận, ngu si v.v…
che lấp, lại cũng do tâm lý xuẩn động là nguyên do làm cho bị mê hoặc.
2. Hành: tức các
nghiệp thiện, ác được gây tạo nên từ kiếp trước - gồm cả hành vi của
thân và tâm.
3. Thức: tức do
nghiệp lực ở đời quá khứ mà cảm thọ quả báo, nên lại khởi vọng nghiệp
ngay từ lúc ban sơ khi vừa nhập thai mẹ, và thành thần thức ở đời hiện
tại.
4. Danh sắc: tức
thân tâm của thai nhi sau khi đã nhập thai.
5. Lục nhập: tức
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu cơ quan này được trưởng thành
trong thai mẹ - còn gọi là lục căn.
6. Xúc: tức sau
khi ra khỏi thai mẹ. Khi ấy sáu căn tiếp xúc tương đối với sáu trần là:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
7. Thọ: tức do
tiếp xúc ngoại cảnh mà có được tri cảm khổ, vui nơi thân, tâm.
8. Ái: tức hoạt
động tâm lý, trong đó có nhàm chán sự khổ, ưa thích sướng vui như tài,
sắc, danh, thực, thùy - Ngũ dục lạc.
9. Thủ: tức nhân
vào ái dục thịnh vượng nên đối với cảnh có sự tham nhiễm, và khởi niệm
lưu giữ.
10. Hữu: tức do
đời hiện tại tạo tác nhân hữu lậu dẫn đến cảm thọ quả sinh tử đời sau.
11. Sinh: tức nhân
vào các nghiệp chủng được tạo tác ở đời hiện tại dẫn đến cảm thọ sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp của thân ngũ uẩn đời sau.
12. Lão tử: khi đã
có thân ngũ uẩn giả hợp, được sinh ra, tất nhiên thân ấy sẽ suy yếu, già
nua và cuối cùng là chết.
Mười hai nhân
duyên là chuỗi mắc xích được dùng để thuyết minh sinh mệnh con người mà
vốn từ nghìn đời nay luôn lưu chuyển từ tiền sinh đến kim sinh và rồi
hậu sinh, tạo thành mối quan hệ giữa nhân và quả. Mối quan hệ này được
gọi là “tam thế lưỡng trùng nhân quả”. Nhưng về phương diện hồi hoàn,
thì mười hai nhân duyên có thể dùng vòng xoay hoặc - nghiệp - khổ để
thuyết minh.
- Hoặc - Nghiệp -
Khổ.
Từ vô thỉ đến nay
do sự xuẩn động của “vô minh hoặc” mà tạo tác các nghiệp thiện ác ở đời
quá khứ, nhân đấy dẫn đến việc cảm thọ quả khổ ở đời hiện tại, và cũng ở
đời hiện tại, lại tiếp tục chạy theo cái nhân mê mờ (Hoặc) tạo ra các ác
nghiệp, các ác nghiệp này đưa đẩy đến quả khổ sinh tử ở kiếp sau. Đấy
chính là phương cách xoay vòng của mười hai nhân duyên.
1. Hoặc: là Vô
minh ở đời quá khứ dẫn đến Ái, và Thủ ở đời hiện tại.
2. Nghiệp: ấy là
Hành ở đời quá khứ đưa đến Hữu của đời hiện tại.
3. Khổ: ấy là
Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ ở đời hiện tại dẫn đến sinh và lão tử
ở đời vị lai.
Thuyết minh mười
hai Nhân duyên, mục đích là giúp con người hiểu rõ nội dung của Khổ và
Tập trong Tứ Thánh Đế. Nhân sinh là bể khổ! Vậy, khổ này là do đâu? Do
nhân quả trong ba đời. Khởi đi từ vô minh mà mức đến là quả khổ sinh tử.
Để tiện ghi nhớ,
xin lập biểu về mối quan hệ giữa mười hai nhân duyên.
Khi đã biết nguyên
nhân của khổ là do tập. Để đoạn tuyệt tận gốc căn nguyên của khổ, là tu
theo phương pháp Bát chánh đạo.
- Bát Chánh Đạo.
Bát Chánh Đạo là
Đạo đế trong Tứ thánh đế. Nội dung Bát Chánh Đạo như sau:
1. Chánh kiến: ấy
là sự hiểu biết, sự kiến giải chính xác. Thế nào là Chính kiến? Hãy dùng
Tam pháp ấn để giám định. Tam pháp ấn là gì, sẽ giới thiệu ở phần sau.
2. Chánh tư duy:
ấy là dùng Chánh kiến làm cơ sở, để tư tưởng chín chắn về nội dung của
Chánh kiến này.
Đây là công phu
thực tiễn của ý nghiệp.
3. Chánh ngữ: đặt
nền móng trên ý niệm chánh xác, để biểu đạt công phu thực tiễn của
nghiệp “khẩu”. Đối với người không nói đảo, nói dối, không dùng ỷ ngữ,
đâm thọc, không dùng ác khẩu mạ lỵ làm nhục người khác, nên dùng thiện
ngôn để khuyến khích người, dùng ái ngữ để an úy.
4. Chánh nghiệp:
là thân nghiệp chánh đáng. Muốn vậy, thân không phạm ác nghiệp sát sinh,
trộm cướp, dâm loạn, và không dùng các chất tạo say mê, ngây ngật. Cần
phối hợp với ý và ngữ nghiệp, sao cho ba nghiệp: thân, ngữ, ý trở nên
thanh tịnh.
5. Chánh mệnh: tức
phương pháp mưu sinh phải chân chính. Loại bỏ các nghiệp ác, nên theo
những chức nghiệp chánh đáng để hành xử trong các nhu cầu của đời sống.
Không dùng sự tài khéo về thuật số giang hồ để thâu tóm tài vật bất
nghĩa.
6. Chánh tinh tấn:
ấy là đối với đạo nghiệp, tự mình nỗ lực gắng sức, điều ác chưa đoạn,
lập tức đoạn ngay, điều thiện chưa tu, thì hãy gắng tu. Điều ác chưa
khởi, thì ngăn không cho khởi, điều thiện chưa lớn mạnh hãy cố làm cho
tăng trưởng.
7. Chánh niệm: khi
tự tâm đã gắng gỏi tinh tấn, thì nên dùng phương pháp bất tịnh quán để
nhiếp tâm, chế tâm, khiến tâm trụ “nhất cảnh”, và không khởi tư niệm vật
ngã.
8. Chánh định: tu
trì theo bảy giai đoạn vừa nêu, ắt sẽ đi vào tứ thiền, bát định. Sau rốt
dùng “không huệ lực” để nhập vào định Diệt thọ tưởng. Đấy chính là cảnh
giới giải thoát Niết bàn.
Nhân vào Bát chánh
đạo mà khai diễn ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lại qui nạp và diễn hóa thành
sáu Ba La Mật Đa (lục độ), tất cả đều thuộc phạm vi tam vô lậu học Giới
- Định - Tuệ.
- Giới Định Tuệ.
Chúng ta căn cứ
kinh Tạp A Hàm để hiểu về Bát Chánh đạo, dựa vào kinh Trường A Hàm để
hiểu rõ ba mươi bảy phẩm trợ đạo, và nhờ kinh Tăng Nhất A Hàm để biết
được Lục độ. Đấy là lịch trình được phát triển theo thứ lớp. Hiện nay
tại Trung Quốc bộ kinh Tăng Nhất A Hàm bản Hán văn được dịch từ Đại
Chúng Bộ; Đại Chúng Bộ lại truyền xuất thành tư tưởng Đại thừa. Vì thế,
nội dung tu đạo giải thoát phải tùy vào thời đại mà lần lượt khai triển.
Tuy nhiên, nguyên tắc cơ bản trong tu trì không thể tách rời yêu cầu
thiết yếu là Giới Định Huệ.
Xin nêu hai biểu
đồ làm tư liệu thuyết minh.
Nhờ biểu đồ trên
cho thấy Bát chánh đạo bao hàm ba mươi bảy đạo phẩm. Chia ba mươi bảy
đạo phẩm ra 7 thành bảy loại để giải thích. Có thể tra cứu Phật Học Đại
Từ Điển
Vòng tròn Hoặc -
Nghiệp - Khổ là định luật của sinh tử môn. Giới - Định - Tuệ thuộc tam
vô lậu học là định luật của giải thoát môn. Sự quan hệ hỗ tương giữa
giới định huệ cũng là một vòng quay tròn, hoặc còn gọi là “Loa toàn
hình” (hình tròn trôn ốc). Việc tu giới có thanh tịnh, thì tu thiền mới
có khả năng chánh định. Nhờ định lực chánh định mới phát sinh huệ lực vô
lậu; lại do huệ lực chỉ đạo trì giới. Duy chỉ có Không huệ, hoặc Chánh
kiến của vô lậu huệ chỉ đạo, thì việc trì giới mới phù hợp và tu thiền
mới không bị lạc vào ma cảnh.
Trước nhất cần xác
lập Chánh kiến, để làm điều đó, phải dựa vào Tam pháp ấn do đức Phật chỉ
dạy.
- Tam Pháp Ấn
Tam pháp ấn là
dùng “tam cú thoại” làm tiêu chuẩn để ấn chứng các pháp, pháp nào phù
hợp với Tam pháp ấn, pháp đó hợp với Chánh kiến của Phật Đà. Pháp nào
không phù hợp với Tam pháp ấn, đó là tà kiến của ngoại ma và nghiêng
ngả. Kinh Tạp A Hàm
ghi lại
cuộc đối thoại giữa đức Phật với các đệ tử Tỳ kheo: “Đức Phật hỏi các Tỳ
kheo: Ngũ uẩn v.v… là vô thường chăng?
Các Tỳ kheo đáp:
bạch Thế Tôn, vô thường.
Đức Phật: vô
thường là khổ, phải không?
Chư Tỳ kheo: bạch
Thế Tôn là khổ.
Đức Phật: nếu vô
thường, khổ, và pháp dễ biến đổi. Vậy, pháp ấy là ngã hay ngã sở?
Chư Tỳ kheo: bạch
Thế Tôn, không phải là ngã, cũng không phải là ngã sở?
Đức Phật tùy căn
cơ (trình độ) của đệ tử mà khai thị. Cứ theo cuộc đối thoại trên mà quán
sát năm uẩn (hữu lậu pháp), sẽ thấy các pháp là vô thường, vô ngã, sau
đó mới là giải thoát (Niết bàn). Dùng tam cú thoại làm chuẩn, nhờ đó mà
sáng rõ, ấy là:
1.
Chư hành vô
thường; 2. Chư pháp vô ngã; 3. Niết bàn tịch tịnh.
Thế nào là ngũ
uẩn? Thế nào là các pháp?
Muốn làm rõ hai
vấn nạn vừa nêu, phải dùng Tam pháp ấn để giải thích. Hữu lậu pháp thuộc
sinh tử môn, để dễ phân biệt nên dùng danh từ ngũ ẩn để thuyết minh.
- Ngũ uẩn.
Phàm là người, ai
cũng nghĩ rằng thế gian là thường trụ vĩnh hằng. Thân tâm này là ta và
của ta (ngã, ngã sở), do vậy nên cần bảo vệ. Đã chấp thế gian là thường,
chấp thân tâm (ngũ uẩn) là Ta, thì đương nhiên Ta cần truy tầm khoái lạc
và danh lợi để làm thỏa mãn cái “Ta”. Đồng thời chạy trốn sự hao tổn hủy
hoại của tự nhiên. Trên thực tế, trong từng sát na, mọi vật trên đời này
không vật nào là không bị biến dị (đổi khác). Vì tất cả đều là vô
thường.
Dù là đại hoan
lạc, và danh lợi cực lớn đi nữa, thì thế gian này vẫn không có cái
trường cửu và không tan rã. Bởi chẳng có đóa hoa nào mà không có lúc
tàn! Không có con người nào mà lại không chết! Vì thế, dù có vui chơi
hoan lạc cho thỏa thích, thì kết cục vẫn là rã rời, là khổ. Đã là vô
thường, là khổ thì tìm đâu ra cái “Ngã” chân thực, cái ngã vĩnh hằng, để
mà sở hữu cả về tinh thần lẫn vật chất? Phật Giáo tạm dùng thuật ngữ ngũ
uẩn để phân tích tinh thần và vật chất. Ngũ uẩn gồm:
1. Sắc Uẩn:
Bao gồm sinh lý
con người và vật lý ngoại tại: Ấy là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân của con
người, và đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc.
Sắc uẩn hàm nhiếp
tất cả vật chất như, hình sắc, thái sắc, cực vi, (điện tử và nguyên tử),
và hồi - viễn sắc (như tinh cầu ở rất xa).
2. Thọ Uẩn:
Lấy sự lãnh nạp
làm công dụng, gần với trạng thái cảm giác.
3. Tưởng Uẩn:
Lấy việc lưu giữ
hình tướng làm công dụng, gần với tác dụng của tri giác và tưởng tượng.
4. Hành uẩn:
Có công dụng thiên
lưu (dời đổi), và tạo tác. Gồm cả thời gian, không gian, tư tưởng. Trạng
thái của Hành là đối với ngoại cảnh sinh khởi tham sân, thiện ác v.v...
là công năng của hoạt động tâm lý.
5. Thức Uẩn:
Lấy phân biệt làm
công dụng, gần với nghĩa của tri thức; Thức uẩn lấy nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý làm sở y nên gọi là lục thức thân. Đối với vật, cảnh nó
phụ trách việc hiểu rõ, phân biệt và ghi nhớ v.v… lấy đó làm tác dụng.
Thức uẩn cũng là tên gọi khác về bản thể của tâm.
Ngũ uẩn là sự phối
hợp giữa tâm và vật, cảnh. Sắc uẩn thứ nhất phân tích về vật lý và sinh
lý, bốn uẩn còn lại phân tích về tâm lý. Phân tích vật lý, sinh lý và
tâm lý, nhằm thuyết minh tường tận tất cả mọi hiện tượng thuộc nhân sinh
giới và vũ trụ giới, rằng tất cả chúng không có thứ gì là không vô
thường tất cả là vô ngã, là khổ. Nếu năng chứng được đạo lý này, thì
ngay lúc quan sát chính xác như vậy thì đó là cảnh giới Niết bàn.
Chúng sinh lưu
chuyển trong sinh tử là do nhân duyên của mười hai nhân duyên tạo thành.
Thế giới thân tâm của chúng sinh là do sự giả hợp giữa ngũ uẩn và nhân
duyên. Lìa khỏi mười hai nhân duyên sẽ không có sự lưu chuyển sinh tử,
ly khai sự giả hợp do ngũ uẩn, sẽ không có thân tâm và thế giới. Sinh tử
là vậy, thân tâm là vậy. Không cái nào là không phát sinh từ nhân và
duyên. Các pháp hư vọng tạm thời có nhưng chỉ là sự huyễn hiện. Vậy,
khám phá thế giới thân tâm bằng cách nào? Ấy là dùng tam Pháp ấn. Muốn
đoạn tuyệt thân ngũ uẩn khổ thì làm sao? Hãy tu Bát chánh đạo.
TIẾT IV. SỰ HÀNH HÓA CỦA ĐỨC THÍCH TÔN VÀ GIÁO ĐOÀN LA HÁN ĐỆ TỬ.
Tại Lộc Dã Uyển
Đức Thích Tôn độ năm vị Tỳ kheo - năm anh em Kiều Trần Như. Nhân đấy mới
có giáo chủ, giáo pháp và giáo đoàn (Phật - Pháp - Tăng). Tiếp đó đức
Phật độ ngài Da Xá (Yasá) và thân hữu của ông cả thảy mười người. Sau đó
Phật độ ngài Mãn Từ Tử, Đại Ca Chiên Diên, Bà Tỳ Da v.v… các vị này từ
bỏ ngoại đạo, qui y Phật pháp, và đều chứng quả A la hán ly dục.
Đức Thích Tôn trải
qua mùa mưa tại Vườn Nai bằng sinh hoạt an cứ đầu tiên. Sau mùa An cư,
Ngài khuyến khích các La hán đệ tử mỗi người nên đi du hóa mỗi phương để
rộng truyền giáo nghĩa Phật pháp. Ngài yêu cầu các La hán đệ tử không
nên du hóa hai người trên cùng một địa xứ. Riêng đức Phật, Ngài đơn độc
đi đến làng Ưu Lâu Tần Loa, tại đây Ngài hóa độ ngoại đạo thờ lửa là Ưu
Lâu Tần La Ca Diếp (Urivilvà - Kàsyapa) và hai người em của ông này là
Na Đề Ca Diếp (Nadì Kàsyapa) và Già Da Ca Diếp (Giayà - Kàspa), cùng
chúng đệ tử của ba vị nầy cả thảy một nghìn người.
Đức Thích Tôn nhớ
lời hẹn trước đây với vua Tần Bà Sa La nên Ngài cùng ba anh em nhà Ca
Diếp và chúng đệ tử đi đến thành Vương Xá. Tại đây, đức Phật được quốc
vương đích thân thống lãnh thần dân ra tận ngoại thành nghênh đón. Bấy
lâu vua Tần Bà Sa La đã từng nghe danh của ba anh em nhà Ca Diếp, nay
mới được hội kiến, nhưng lúc này cả ba đã trở thành đệ tử Phật, điều đó
khiến cho tín tâm của vua và thần dân thêm phần khẩn thiết. Do đó, sau
thời thuyết pháp do đức Phật thuyết giảng, nhà vua liền đắc pháp nhãn
tịnh (Kiến Địa vị). Còn có trưởng giả Ca Lan Đà (Kalanda) đem vườn Trúc
của ông ở ngoại thành Vương Xá cúng dường đức Phật, trong khi đó vua Tần
Bà Sa La kiến tạo tịnh xá tại vườn Trúc để cúng Phật và chúng thánh đệ
tử; và từ đó vườn Trúc trở thành đạo tràng qui mô to lớn của Phật giáo.
Bốn năm sau Phật thành đạo, một trong sáu lục sư ngoại đạo thuộc phái
Ngụy Biện là Tượng Xá Lợi Phất, khi ông đang trên đường đi, bỗng nhiên
có tiếng nói lớn hướng về ông mà nói: “Các pháp do nhân duyên sinh, các
pháp cũng do nhân duyên diệt. Chư hành vô thường, vì là pháp sinh diệt,
diệt hết sinh diệt, tịch diệt là vui”. Khi lời vừa dứt ông liền đắc pháp
Nhãn tịnh; vì đó là giáo nghĩa căn bản của Phật pháp nên không có gì lạ.
Xá Lợi Phất lòng cảm thấy bồn chồn vì chưa từng được nghe diệu pháp này.
Ông đem diệu pháp vừa nghe thuật lại với người bạn đồng môn là Đại Mục
Kiền Liên, và rồi cả hai cùng đưa hai trăm năm mươi đệ tử của mình đi
đến bái kiến đức Phật, và cùng xin xuất gia theo Phật. Sau khi xuất gia,
tất cả đều chứng đắc A la hán quả.
Lại nữa, có ngài
Ma Ha Ca Diếp (Maha Kàsyapa), ông là người sớm xuất gia tu hạnh yểm ly,
và được quốc dân Ma Kiệt Đà kính ngưỡng. Có lần Ngài tự nói: “Nếu không
gặp Phật ra đời, thì ta là vị Độc Giác”. Nhân khi ông đang ở tại thành
Vương Xá, và nghe nhiều người nói là đã gặp đức Phật trước thành, lúc
ông nhìn thấy hình tướng đức Phật, ông tự giác ngộ thiểu phần, và liền
hồi tâm đi vào pháp hải của Phật.
Như thường thấy
trong kinh Phật có đoạn viết: “thiên nhị bá ngũ thập nhân câu, giai thị
đại A la hán” (Hai nghìn năm trăm người câu hội, họ đều là bậc đại A la
hán), đây là nói lúc giáo đoàn đã hình thành.
Năm năm sau khi
thành đạo, đức Phật nhận lời thỉnh mời của dân thành Xá Vệ (Sràvast)
thuộc nước Kiều Tát La (Kosala)ä, để đi đến thành này, tại đây có ông
trưởng giả Tu Đạt (Sudatta - còn gọi là Tu Đạt Ta). Bỏ tiền mua một tòa
“Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên” vô cùng giá trị để cúng dường đức Phật. Tức thì
nơi đây trở thành trung tâm hoằng pháp đương thời. Cùng năm đó, Đức
Thích Tôn nhận được lời triệu vời của vua Tịnh Phạn. Ngài liền lên đường
hồi qui cố quốc để thăm lại phụ vương. Vua Tịnh Phạn cho kiến lập tịnh
xá tại vườn Ni Câu Luật để làm nơi tiếp đãi đức Phật. Lần trở về cố
hương này rất là trang nghiêm, bởi tất cả chúng Thánh đệ tử cùng đi với
đức Phật. Đức Thích Tôn vì phụ vương mà thuyết pháp. Đang khi nghe Phật
thuyết pháp Tịnh Phạn vương liền đắc “Pháp nhãn tịnh”. Cũng trong dịp
này, có rất nhiều người trong hoàng cung cầu xin thọ giới pháp; đồng
thời đức Phật độ người em dị bào là A Nan
xuất gia.
Thân tử Ngài là La Hầu La cũng cầu Phật xin xuất gia. Chuyến hồi hương
này, đức Phật và chúng Thánh đệ tử lưu lại quê nhà trong bảy ngày; Ngài
từ biệt phụ vương để trở lại thành Vương Xá. Những người trong Thích Ca
vương tộc xin theo Phật xuất gia làm đệ tử, trong đó có nhiều vị nổi
danh như ngài A Na Luật (Aniruddha), A Nan (Ànanda), Kim Tỳ La
(Kumbalùra) Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) v.v… những vị này đặc biệt xin đức
Phật “ưu ngộ”, nghe xong lời đề nghị, đức Phật liền quở trách các vương
tử; vì đức Phật muốn biểu lộ sự bình đẳng trong Phật pháp; mặt khác,
Ngài muốn ức chế tính khí kiêu ngạo của các vương tử.
Hậu thế truyền
tụng mười vị đại để tử của Phật, trong đó ngoại trừ ngài Tu Bồ Đề
(Subhùti) xuất gia hơi muộn, còn chín vị kia đều đã xuất gia.
- Đức Phật với
Tăng Đoàn.
Tăng đoàn được gọi
là Tăng Già (Sangha). Khi lần đầu tiên đức Phật độ năm vị Tỳ kheo, thì
đó là lúc Tăng Già được hình thành.
Tăng Già trong
Phật Giáo lấy Tỳ kheo làm trung tâm. Nhưng nội dung Tăng Già gồm có bảy
chúng.
Việc vua Tần Bà Sa
La qui y Phật, nhân đấy mà số nam, nữ tín đồ tại gia ngày càng tăng. Do
vị thiếu niên xuất gia là La Hầu La, mà trong Tăng đoàn có vị Sa di. Do
bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng năm trăm người nữ trong dòng họ Thích xuất
gia, mà trong Tăng đoàn có Tỳ kheo ni; trong số những người nữ xuất gia,
có người còn ở tuổi vị thành niên, nên Tăng đoàn có nhiều vị Sa di ni.
Lại nữa, có hạng người nữ đã từng có chồng, nhưng không rõ là họ có thai
hay không (hoặc vì chồng chết, hoặc đã ly dị, ly thân) nay xin xuất gia.
Ngại rằng chẳng lâu sau họ lại sinh con, khiến thế nhân phỉ báng, vì vậy
tạm cho mỗi người thời gian là hai năm ở vị trí Thức xoa ma ni, sau hai
năm nghiệm thấy họ không mang thai mới cho thọ giới Tỳ kheo ni.
Theo thứ tự và vị
trí, Tăng đoàn đệ tử Phật có bảy chúng: 1. Tỳ kheo (Bhiksu),
2. Tỳ kheo ni (Bhiksun), 3. Thức xoa ma ni (Siksamànà), 4.
Sa di (Sràma), 5. Sa di ni (Sràmanerikà), 6. Ưu bà tắc
(Upàsaka), 7. Ưu bà di (Upàrikà).
Đến thời điểm này
Đức Thích Tôn đã hoàn thành việc chế định giới luật cho bảy chúng đệ tử.
Thông thường Tỳ kheo thọ, giữ hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ni năm
trăm giới. Thức xoa ma ni có sáu giới. Sa di và Sa di ni, giữ mười giới.
Ưu bà tắc và Ưu bà di, tức nam nữ đệ tử tại gia thọ năm giới và phải thọ
pháp qui y Tam Bảo. Sự khác biệt về giới tính, cần căn cứ theo giới pháp
mà họ thọ trì để phân định. Nội dung giới luật, xin tham cứu “Giới Luật
Cương Yếu”.
- Đức Phật và sự
Truyền Ký.
Tính từ khi đức
Phật thành đạo đến năm thứ sáu, tuy không có năm tháng rõ ràng, địa điểm
hoạt động của Ngài để có thể khảo cứu. Chỉ biết sinh hoạt của đức Phật
và chúng đệ tử vào mùa mưa, và được chép trong các tư liệu rất ít ỏi.
Đấy là nhân vào các Truyền Ký trong văn học ghi chép về đức Phật. Như
kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, kinh Phật Bản Hạnh Tập, Phật Sở Hành
Tán, kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, kinh Bản Sinh v.v… Đại loại các
kinh vừa nêu tự thuật lại những năm hoạt động sau khi Phật thành đạo. Do
đó, chưa thể dùng những tự thuật này để quán xuyến các Truyện Ký về
những sự tích trong quá trình hoạt động của Ngài để có thể lưu hậu.
Hiện tại căn cứ
vào kinh Tăng Già La Sát Sở Tập,
quyển hạ có liệt kê những nơi đức Phật và chúng đệ tử an cư vào các mùa
mưa như sau:
Năm thứ nhất tại
nước Ba La Nại, năm thứ hai, thứ ba tại đỉnh núi Linh Thứu, gần ngoại
thành Vương Xá, năm thứ năm tại Tỳ Thư Ly (Tỳ Xá Ly), năm thứ sáu tại
núi Ma Câu La (là núi Pandava cũng ở ngoại thành Vương Xá), năm thứ bảy
ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên (tức cõi trời Đao Lợi, tại đây đức Phật vì
thân mẫu mà thuyết pháp). Năm thứ tám, thứ mười một, thứ mười hai, thứ
mười ba, tại Quỉ Thần Giới (một bộ tộc của nước Kiều Thưởng Di, tức rừng
Khủng Bố của nước Ba Kỳ), năm thứ chín tại nước Câu Khổ Tỳ (Kiều Thưởng
Di), năm thứ mười trong núi Chi Đề (vị trí núi này chưa biết được). Năm
thứ mười hai tại Ma Già Đà (Ma Kiệt Đà) thuộc xứ Nhàn Cư, năm thứ mười
bốn tại Kỳ Thụ Cấp Cô Độc Viên tại nước Xá Vệ, năm thứ mười lăm, mười
sáu tại nước Ca Duy La Vệ, năm thứ mười bảy, mười tám và hai mươi tại
thành La Duyệt (thành Vương Xá), năm thứ mười chín và hai mươi mốt tại
núi Gia Lê (núi Calya phụ cận thành Vương Xá), về sau đức Phật và chúng
đệ tử an cư tại Quỉ Thần Giới bốn lần, thành Xá Vệ mười chín lần. Năm
thứ bốn lăm, đức Phật lần cuối an cư cùng Thánh chúng đệ tử tại thôn Tỳ
Tướng thuộc nội cảnh nước Bạt Kỳ (Vriji).
Đức Thích Tôn lúc
tuổi về già có nhiều việc Ngài không thuận ý. Tại thành Vương Xá, ông Đề
Bà Đạt Đa yêu cầu đức Phật trao quyền lãnh đạo Tăng đoàn lại cho ông. Do
không thỏa nguyện, Đề Bà Đạt Đa nuôi ý dấy lên phong trào phản Phật, hại
Phật. Ông dùng thần thông biến hóa và hiệu triệu giới tu khổ hạnh cực
đoan, tranh thủ vua A Xà Thế (Ajasatru) để tất cả đều ủng hộ ý đồ của
ông. Vì thế, mười năm cuối đời Đức Thích Tôn không còn lưu lại thành
Vương Xá, và cũng không trở lại thành Vương Xá.
Tại thành Xá Vệ
sau cùng không được an ninh, ở phía nam, vua A Xà Thế vì ám muội mà giết
chết vua cha là Tần Bà Sa La để lên làm vua - đời thứ sáu của nước Ma
Kiệt Đà. Ở mạn phía bắc, nước Kiều Tát La, thì vương tử Lưu Ly
(Virùdhaka) của thành Xá Vệ, trước Phật nhập diệt vài năm cũng nổi lên
xua đuổi vua cha là Ba Tư Nặc (Prasenajit) để đoạt lấy vương vị, đồng
thời cử đại quân đánh úp thành Ca Tỳ la Vệ, quê quán của đức Phật. Đấy
là lần diệt thành quách, diệt tộc họ - một cuộc đại thảm sát. Tộc Thích
Ca cơ hồ bị tuyệt chủng trong cuộc binh biến này.
Tuy nhiên, sau lần
giáo đoàn bị phân chia, và tổ quốc bị diệt vong, và Đề Bà Đạt Đa cũng đã
chết, vua Lưu Ly bị vua A Xà Thế đánh bại, nước Kiều Tát La qui về bản
đồ nước Ma Kiệt Đà, và rồi sau cùng vua A Xà Thế cầu qui y Phật. Vậy là
Đức Thích Tôn sau mười năm khổ hạnh, phong sương, Ngài vẫn đi lại nhiều
nơi để giáo hóa, sau rốt sắc thân ngũ uẩn của Ngài cũng dần dà lão suy.
- Sự giáo hóa sau
cùng.
Qua bốn mươi lăm
năm giáo hóa, cuối cùng đức Phật tự biết thân đã đến thời gian Ngài
quyết định xả thân ngũ uẩn. Tuy vậy, nhưng Ngài vẫn cân nhắc thời gian
thích hợp trước khi xả bỏ báo thân. Đầu tiên Ngài triệu tập toàn thể các
Tỳ kheo đang có mặt tại Tỳ Xá Ly về tụ hội tại tịnh xá Trúc Lâm, đây là
lần giáo hóa sau cùng vô cùng trọng yếu. Tiếp đó, Ngài đi về hướng thành
Câu Thi Na La (Kusinagara). Thành này xưa tên là Câu Thi Na, cứ mỗi
chặng đường đi qua, cảm thấy mệt thì Ngài nghỉ, nhất là khi đi qua các
thôn ấp, đức Phật đều đừng lại nghỉ chân, và trong thời gian nghỉ ngơi,
Ngài hướng về dân làng mà thuyết pháp. Sau cùng Ngài đến rừng cây Ta La
(Sàla) ở ngoài thành Câu Thi Na La; đức Thích Tôn chọn khu rừng hoang
của một tiểu quốc ít người biết đến làm nơi nhập diệt.
Đức Thích Tôn kiết
tọa trên chiếc tăng Già Lê (Đại y) mà ngài A Nan vừa trải ra, rồi đức
Phật nghiêng người nằm xuống nghỉ hướng về phía hữu. Trong lúc cơn suy
kiệt không thể chịu đựng được nữa, thì có người ngoại đạo tên là Tu Bạt
Đà La (Subhadra) đến khẩn cầu ngài A Nan cho phép ông bái kiến đức Phật.
Nghe vậy, đức Phật gắng sức tiếp ông ta và Tu Bạt Đà La trở thành người
đệ tử cuối cùng được đức Phật độ thoát.
Trước lúc đức Phật
xả thọ, Ngài hướng về chúng Tỳ kheo đệ tử mà giáo giới: “Thế này các Tỳ
kheo, vô vi và phóng dật, ta chọn không phóng dật, ta tự thành chánh
giác. Vô lượng chúng thiện, cũng do không phóng dật mà có. Tất cả vạn
vật, không vật nào là thường tồn. Đây là lời dạy sau cùng được Như Lai
nói ra. Trong kinh Phật Di Giáo,
đức Phật
dạy: “Này các Tỳ kheo, thường nên nhất tâm, siêng năng cầu đạo xuất ly.
Tất cả các pháp động và bất động của thế gian, đều là tướng tán hoại và
bất an là lời dạy cuối cùng của ta.” Đấy là biểu lộ lòng thương người
tối hậu của đức Phật trong tình cảnh cuối cùng. Đức Phật sánh như người
mẹ hiền vĩ đại! Trước lúc sắp đi xa, lòng cứ xót xa lo lắng cho những
đứa con gái thơ dại của mình, chúng không biết tự lo những việc như ăn
mặc, đi đứng, vì thế Ngài căn dặn đi, căn dặn lại, và rồi dặn đi dặn
lại.
Từ khi đức Phật
thành đạo đến lúc Ngài sắp nhập diệt, đức Phật luôn hết lòng cứu giúp và
giáo hóa chúng sinh. Bất luận ở hoàn cảnh nào, Ngài cũng đều xử sự một
cách ôn hòa, khoan đại, giữ lấy trung đạo mà hành xử. Ngài chưa từng bao
giờ thốt ra một câu nói ngạo mạn, khinh người. Ngài cũng chưa bao giờ có
động thái biểu lộ sự bất bình dù là trong nội tâm.
Nơi tự thân Ngài,
đức Phật luôn ôm lòng bi mẫn giáo hóa chúng sinh. Trí huệ quang minh, vô
hạn và sâu kín của Ngài là hoàn toàn sung mãn. Vì thế bất luận là vấn đề
gì, khi xử lý Ngài cân nhắc cả về lý, tình của nó, không nghiêng ngả chủ
quan. Quả thực Ngài là đấng cha lành của thế gian, là đấng đạo sư của
Trời, người. Đức Phật là Phật ở chính những gì Ngài đem lại cho nhân
loại.
---o0o---
Vi tính: Nguyên Trang- Trình bày: Anna
Cập nhật: 01-11-2008