CHƯƠNG IV
A
DỤC VƯƠNG VÀ ÐẠI THIÊN
TIẾT I. CÔNG
SỰ CỦA VUA A DỤC.
- Sự phân biệt của Phật giáo và vua A Dục.
Phật giáo sau khi trải qua lần kết tập thứ hai, về thái
độ đối với giới luật, tuy đã phân thành Thượng Tọa Bộ và
Ðại Chúng Bộ, nhưng về giáo nghĩa và giáo đoàn vẫn chưa
xảy ra hiện tượng đối lập nổi bật. Nhưng đến thời vua A
Dục, thì tự việc Luật chế mà phát triển thành tranh
chấp, và đều thông qua việc dùng lý nghĩa để luận biện.
Kết quả, Ðại Chúng Bộ chiếm ưu thế tại trung Ấn Ðộ, nhờ
thái độ tự do tiến bộ.
Theo ghi chép của luận Ðại Tỳ Bà Sa (quyển 99) của
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ,
lấy việc vua A Dục yêu sách phải tiến bộ, và cho là vua
A Dục kết phe nhóm với “tặc trú Tỳ kheo”, một phái của
Ðại Thiên, và không chú ý đến ý kiến của những vị Thượng
tọa trưởng lão. Vì vậy, mới có chuyện bức áp chư vị
Thượng tọa phải đi đến Ca Thấp Di La để cùng với phái
tiến bộ của Trung Ấn chia thành cương thổ để giáo hóa.
Tuy ở đây chỉ nói về Hữu Bộ Thượng Tọa. Nhưng phải khảo
sát sâu hơn, khi thấy địa phương Ma Kiệt Ðà thỉ chung
vẫn là môi trường thích hợp đối với vấn đề tự do tư
tưởng, nên có khả năng phái bảo thủ không được nhiều
người hoan nghênh tại Ma Kiệt Ðà. Ðấy cũng là việc thông
thường về mặt tình lý.
- Vương Thống của Ấn Ðộ.
Vua A Dục, tức vua A Luân Ca (Asoka), ông là vị quân
vương thứ ba của vương triều Khổng Tước (Maurya
Bynasty). Từ rất sớm Ấn Ðộ đã là một nước văn minh. Ấn
Ðộ có những niên đại khả tín và có thể khảo cứu được,
chẳng hạn như việc mở đầu vương triều Khổng Tước của vua
A Dục. Nhân giới thiệu về vua A Dục, trước hết xin giới
thiệu về lịch đại vương thống của đất nước Ấn Ðộ, dù chỉ
là cái nhìn lướt qua các sự kiện và diễn biến của lịch
sử Ấn Ðộ.
1. Vương thống Ma Ha Tam Ma Ða:
Ðây là vương triều sớm nhất của Ấn Ðộ, vương triều này
được đọc thấy trong chín bộ Kinh, Luật của Phật giáo
như: Hữu Bộ Luật, Phá Tăng Sự, Tứ Phần Luật, Phật Bản
Hạnh Tập Kinh, Chúng Hứa Ma Ha Ðế Kinh, Khởi Thế Kinh,
Trường A Hàm Kinh, Chương Sở Tri Luận v.v... Duy có điều
danh hiệu của các vị vua kế truyền có tính bất nhất, vì
không ghi rõ thời gian.
2. Vương Thống Nguyệt Thống (Candravasal):
Xem Tứ Thư trong thần thoại Ấn Ðộ.
3. Vương Thống Nhật Thống (Suryavansa):
Xem Tứ Thư trong thần thoại Ấn Ðộ.
4. Vương Thống Tô Tu Na Già (Saisunnàga
Dynasty):
Vương triều này liền trước vương triều Khổng Tước, nơi
đây là nước Ma Kiệt Ðà, cũng được đưa vào “Khải Mông
Chánh Sử”, khoảng sáu, bảy trăm năm, hoặc bốn, năm trăm
năm trước Công nguyên. Ðiều đó tìm thấy trong kinh Phật
với mười sáu nước lớn đều thuộc về thời đại này, riêng
có điều niên đại của mỗi vị vua khó có thể biết hết.
5. Vương triều Khổng Tước (Maurya Danasty):
Khoảng từ thế kỷ thứ tư đến thế kỷ thứ hai trước tây
lịch. Ðây là thời kỳ Phật giáo đại định.
6. Vương thống Huân - Gia (Sanga Dynasty):
Trước Công nguyên ước khoảng 180 năm đến 80 năm, vào năm
đầu của vị vua thứ tư của vương triều này là vua Bồ Sa
Ðà La, Phật giáo tại trung Ấn Ðộ bị pháp nạn, nhưng tại
bắc và nam Ấn Ðộ, Phật giáo chuyển sang thời thịnh.
7. Vương thống Ca Nạp Bà (Kanva Dynasty):
Còn có tên là vương thống Khương Ngõa, vương thống Ca Ân
Bà, vương triều chỉ tồn tại có bốn mươi năm.
8.Vương thống Án Ðạt La (Andhrabhritya
Dynasty):
Trước Công nguyên hai mươi bảy năm, cho đến sau Công
nguyên hai trăm ba mươi sáu (236) năm.
9. Vương thống Quí Sương (Kusam - Dynasty):
Vào thời này ở nam Ấn Ðộ thuộc vương triều Án Ðạt La.
Vương thống Quí Sương là một bộ tộc của tộc Ðại Nguyệt
Thị. Tộc này có vị vua rất nổi danh về đường lối cai trị
nhân hậu, đó là vua Ca Nị Sắc Ca. Những bậc danh đức của
Phật giáo như Mã Minh, Long Thọ, Ðề Bà, Ðạt Ma Ða La, Ha
Lê Bạt Ma, Di Lặc v.v... tất cả đều xuất hiện ở thời đại
này. Vương triều Quí Sương được kiến lập trước Công
nguyên mười năm và kéo dài sự tồn tại đến cuối thế kỷ
thứ ba sau công nguyên.
10. Vương thống Cấp Ða (Gupta Dynasty):
Vương triều Cấp Ða hưng khởi từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ
thứ VI tây lịch. Những vị như: Vô Trước, Thế Thân, La
Thập, Giới Hiền, Kiên Huệ, Giác Âm v.v... đều thuộc về
thời kỳ này. Chùa Na Lan Ðà cũng được tạo dựng vào thời
kỳ này. Ðây là thời đại Phật giáo Mật tông bắt đầu tiến
đến hưng thịnh. Ngài Pháp Hiển của Tung Quốc đến Ấn Ðộ
cũng ở thời kỳ này. Ðây cũng là giai đoạn xuất hiện
những vị như An Huệ, Trần Na, Thanh Biện, Hộ Pháp v.v...
11. Vương thống Giới Nhật (Vardhana Dynasty,
dịch âm Hán ngữ là Phạt Ðàn Na):
Vương thống này ước vào khoảng đầu thế kỷ thứ VI cho đến
hậu bán thế kỷ thứ VIII tây lịch. Thời này có ngài Long
Trí làm hưng vương Mật giáo. Ở trung Ấn Ðộ có ngài
Nguyệt Xứng hoằng truyền “Không tông”. Ðường Huyền Trang
của Tung Quốc tây du Ấn Ðộ cũng ở thời này, và một lần
nữa, ngài Pháp Xứng chấn hưng Nhân Minh học.
12. Vương thống Ba La (Pala Dynasty):
Vương triều Ba La không phải là trực tiếp kế thừa vương
triều Giới Nhật, nhưng cũng là vương triều có phần tín
ngưỡng Phật giáo. Mật giáo đặc biệt thịnh hành ở thời
này.
Các vương thống vừa nêu, phần lớn đều lấy Ma Kiệt Ðà làm
trung tâm để giới thiệu về vương triều của mình.
Vì rằng các vương thống của Ấn Ðộ rất ư là phồn tạp, bởi
vậy ở đây chỉ nêu lên những nét chính.
Từ sau vương triều Giới Nhật, Ấn Ðộ qui tụ lại thành lập
vương bang, và có nhiều vương triều hưng khởi. Ðến thế
kỷ XII tây lịch, Hồi giáo xâm nhập Ấn Ðộ và tiêu diệt
các vương triều Ấn Ðộ. Phật giáo tại Ấn Ðộ nhân đấy cũng
bị Hồi giáo tuyệt diệt. Sự kiện này diễn ra tương đương
với thời nam Tống của Tung Quốc - năm Tống Ninh Tông,
Phật giáo khởi nguyên tại Ấn Ðộ, và tồn tại được một
nghìn sáu, nghìn bảy trăm năm thì bị diệt vong. Nguyên
nhân vì sao? Xin sẽ trình bày ở chương XII của tập sách
này.
- Con người của vua A Dục.
Hệ thống các đời trước thuộc vương triều Khổng Tước
không được rõ lắm; nhưng chẳng có gì phải ngờ khi nói
rằng vương triều này không hoàn toàn là giống người
Aryan thuần chủng. Có người cho rằng tổ mẫu của vua A
Dục xuất thân từ giai cấp tiện dân. Vua Chiên Ðà La Quật
Ða (Candrogupa) là tổ phụ của vua A Dục và là người khai
sáng vương triều Khổng Tước, đời thứ hai của vương triều
là vua Tần Ðầu Sa la (Bindusàra), đời thứ ba là vua A
Dục, ông lên ngôi vào năm 268 trước công nguyên. Ðiều
này là căn cứ theo ghi chép của Nam truyền, qua các bộ
kinh, sử như: luật Thiện Kiến, Ðảo Sử, Ðại Sử và tuyền
thuyết từ Phật giáo Miến Ðiện. Duy có điều mãi đến nay,
niên đại lên nôi của vua A Dục, các học giả vẫn còn nỗ
lực khảo đính. Truyền thuyết kể rằng, lúc vừa sinh ra
đời vua A Dục vốn có hình dạng rất xấu xí, tính cách thì
ngu dốt, kém cỏi nên chẳng mấy khi được vua cha yêu mến,
khi trưởng thành cũng là lúc ở địa phương Ðức Xoa Thi La
(Takkasilà) ở bắc Ấn Ðộ có xảy ra biến loạn; vua cha là
Tần Ðầu Sa La liền phái ông đến đó bình loạn. Chủ ý của
phụ vương ông là nhân đấy mà tống ông đến chỗ chết, do
đó mà trang bị vũ khí cho đoàn quân của ông rất sơ sài.
Cứ ngỡ bấy giờ vua A Dục chưa lớn đủ, cũng chẳng có trí
dũng gì. Nhưng nào ngờ ông lại hoàn thành nhiệm vụ, và
được cử làm tổng đốc tại đấy, kế tiếp ông nhận được sự
ủng hộ của triều thần. Ðến khi phụ hoàng ông băng hà,
ông liền giết chết nhiều anh em ruột thịt, và tự tay nắm
chính quyền. Ðại khái vì lúc bấy giờ tình hình nội bộ
không mấy ổn định; và tình hình đó kéo dài đến bốn năm
sau cái chết của vua Tần Ðầu Sa La. Ðồng thời, lúc này
vua A Dục cũng tròn hai mươi lăm tuổi, và ông chính thức
cử hành lễ đăng quang. Truyền thuyết kể là vua A Dục có
đến một trăm lẽ một người anh em cùng cha khác mẹ. Trong
số đó bị ông giết đến chín mươi chín người, chỉ còn mình
ông Ðế Tu là chưa bị giết. Nhưng theo lời răn dạy dân
của vua A Dục được khắc vào bia đá của thời ông đương
tại vị, thì không thấy nói gì đến tình hình giữa anh em
nhà ông. Như vậy cho thấy truyền thuyết không hẳn là
đúng và đáng tin.
Truyền thuyết còn chép là phụ vương ông bị ông bức hiếp
mà chết, và khi lên chấp chính ông mới tiến hành cuộc
tận diệt những người anh em. Ông còn tạo tội hình địa
ngục để xử trí người dân. Ðồng thời ông cũng xua quân
chính phạt nước Yết Lăng Già (Kalinga) nay là tỉnh A Lý
Sa (Orìssa) thuộc Ấn Ðộ. Tại đây ông tàn sát vô số
người, vì thế ông có xú danh là “bạo ác A Dục vương”.
Theo nghiên cứu, thì việc vua A Dục qui y Phật giáo cách
đó một năm, tức sau khi chinh phạt nước Yết Lăng Già,
ông tận mắt chứng kiến thảm trạng sát hại sinh linh do
chính cuộc chinh phạt của ông gây ra, và ông sinh lòng
“đại hối”. Nên chỉ lúc hồi triều ông thân cận Tăng Già,
qui y và tu trì theo Phật pháp. Ông tự hứa sẽ dùng đường
lối cai trị theo lý tưởng Luân Vương. Ðó là dùng chánh
sách hòa bình để kiến thiết quốc gia, đem lại phồn vinh
an lạc cho xã hội. Gần đây nhờ phát hiện được “Ðại Ma
Nhai Pháp”, chương mười ba là chương được dùng để dạy
răn người dân. Trong đó chép rõ việc vua A Dục “y thắng
pháp, thị vi tối thắng” (phép trị dân tốt nhất, ấy là
nương theo chánh pháp của đức Phật).
- Vua A Dục với Phật giáo.
Từ khi vua A Dục qui y Tam Bảo, thì mọi ngôn hành của
ông đều có liên quan đến Phật giáo. Nghiên cứu tư liệu
viết về vua A Dục, ngoài cuốn “A Dục Vương Thí Dụ” được
viết bằng Phạn Văn (Asokavadàna), và cuốn “A Dục Vương
Kinh” bản Hán dịch, cùng những truyện tích về ông, gần
đây các học giả còn chú trọng đến:
1. “Ðại Ma Pháp Sắc”
Thất xứ”. Và chia thành giáp thiên có mười bốn chương,
ất thiên có hai chương.
2. Thạch Trụ Pháp Sắc Lục Xứ, giáp có sáu chương, ất có
một chương, bính có hai chương.
3. Tiểu Thạch Trụ Pháp Sắc Tứ Xứ, có bốn thứ.
4. Tiểu Ma Nhai Pháp Sắc, giáp có bảy xứ ba thứ, ất có
một xứ một thứ, bính có một xứ một thứ.
5. Thạch bản.
Từ sau năm 1356 (tây lịch), những cổ vật lần lượt được
phát hiện, đến năm 1837 trở lui, được ông J. Prinsep
liên tục phát hiện, căn cứ ngữ nguyên học và sự hiệp sức
của các học giả Phạn ngữ để dịch tất cả sang Anh văn.
Căn cứ Ðại Ma Nhai Pháp Sắc, từ chương một đến chương
bốn, chương mười một, và Thạch Trụ Pháp Sắc chương thứ
năm, chương thứ bảy chép rằng. Sau khi lên ngôi, vua A
Dục đã từng có hai mươi lăm lần đặc xá tù nhân, mỗi năm
mở Vô Giá hội thí một lần. Ngoài các việc trên, vua A
Dục còn cấm sát sinh, khuyến khích hạnh bố thí, trồng
cây xanh, đào giếng, tu sửa đường xá, tạo Phật tự, kiến
lập tháp Phật. Những việc như vậy được thực hiện trên
khắp cả nước. Vua A Dục cho thiết lập “Chánh pháp Ðại
Quan” (Dharma - Màhamtras), có nhiệm vụ đi đến các địa
phương để tuyên dương chánh pháp, rộng thi hành chánh
sách nhân trị, thương yêu và giúp đỡ người dân, không
phân biệt thân sơ, giàu nghèo. Vua A Dục cũng tự thân
hành thăm viếng và đảnh lễ các Phật tích, tại mỗi Phật
tích, ông đều cho dựng trụ đá, trên mỗi trụ đá đều có
khắc ghi lại sự tích để kỷ niệm. Những trụ đá này hiện
vẫn còn, tuy có bộ phận nào đó bị hư hoại. Hiện nay
chính phủ Ấn Ðộ coi những trụ đá này là trân bảo của nền
văn vật cổ của quốc gia, và cho qui tập về viện bảo tàng
để lưu giữ. Vua A Dục rất yêu thương và bảo vệ động vật
do đời trước lưu lại, nhờ đó những động vật này hiện nay
tại Ấn Ðộ vẫn còn.
Lại nữa, theo sắc lệnh thành văn được khắc trên đá chứng
thực rằng, vua A Dục đã từng sai phái Chánh Pháp Ðại
Quan đi đến các nước ngoài để hoằng hóa Phật pháp, điều
này được đọc thấy ttr sắc lệnh đề cập đến năm vương quốc
Hy Lạp, đó là: Tự Lợi Á, Ai Cập, Mã Kỳ Ðốn, Khắc Lai
Nại, Ái Tỳ Lao Tư. Ðây là các khu vực mà sau này Gia Tô
giáo và Hồi giáo phát triển rất mạnh. Phật giáo bị ảnh
hưởng hai tôn giáo này như thế nào, có thể suy nghiệm
được. Về phía đông, vua A Dục cũng phái Chánh Pháp Ðại
Quan đến tận Giản Bộ Trai để hoằng pháp. Việc rộng
truyền bá Phật giáo của vua A Dục chủ yếu là đem giáo
nghĩa của đức Phật tuyên dương một cách hòa bình, nhằm
thăng tiến tính thân thiện quốc tế.
Việc làm trên của vua A Dục được các nhà sử học sau này
đem sánh với việc vua Constatinhe của La Mã ủng hộ Cơ
Ðốc giáo, và cho là tương tự. So sánh như thế có phần
nào đúng, nhưng hoàn toàn bất xứng. Bởi việc vua
Constatine ủng hộ Thiên chúa giáo vừa là một thủ đoạn
chính trị, vua không dung nạp các tôn giáo khác. Trong
khi sắc lệnh của vua A Dục được khắc nơi bia đá có ghi
rõ cho dân biết là “không được bài xích và chê cười tín
ngưỡng của người khác”. Thời vua A Dục, Ấn Ðộ có bộ “Ma
na Pháp Ðiển” rất nổi tiếng được thành lập. Theo đó, thì
sự độ lượng, bao dung được coi là đương nhiên phải có
của tôn giáo. Việc hoằng dương Phật pháp của vua A Dục
chỉ thuần bày tỏ lòng kính tin những điều Phật dạy, thực
hiện việc phụng hành chánh pháp bằng cách yêu thương mọi
người và các loài động vật.
Dưới thời vua A Dục, bản đồ nước Ấn Ðộ là rất lớn, có
thể nói trên thế giới không nước nào lớn bằng. Biên giới
ở đông bộ Ấn Ðộ giáp vứi Mãnh Gia Lạp Ô, bắc Ấn Ðộ bao
gồm cả hai tiểu vương quốc là Ni Bạc Nhĩ và Khách Thập
Mễ Nhĩ, cương giới ở nam bộ Ấn Ðộ kéo dài đến sông Ba Na
(Panna River), nay là sông Cát Tư Ðặc na, thuộc phía nam
tỉnh Hải Ðức Lạp Ba, tây Ấn Ðộ giáp với A Lạp Bá, tây
bắc Ấn Ðộ đến tận Ðể Ðạt, nay là một bộ phận thuộc nội
cảnh của Afghanistan.
Theo luật Thiện Kiến quyển hai,
thì vua A Dục lên ngôi được mười bảy năm. Ông thỉnh ngài
Mục Kiền Liên Tử Ðế Ta làm Thượng tọa, và nhờ ngài đứng
ra triệu tập một nghìn vị trưởng lão vân tập về tại
thành Hoa Thị. Chính nhờ sự kiện này mới diễn ra cuộc
kết tập lần thứ ba, và kéo dài đến chín tháng. Nhưng
theo thuyết của “Luận Sự” (Katthàvatthu) thuộc tạng Ba
Lị của Nam truyền thì nói đấy là thành quả cụ thể của
cuộc kết tập tại thành Hoa Thị.
Sau cuộc kết tập, vua A Dục phái nhiều đoàn truyên giáo
nối tiếp nhau chia ra để đến nhiều địa phương hoằng
truyền Phật pháp, luật Thiên Kiến quyển hai,
có liệt kê danh tánh của các vị lãnh đạo các đoàn truyền
giáo, cũng như tên các địa phương mà đoàn đi đến.
1. Ngài Mạt Xiển Ðề (Mejjhàntika) được phái đến Kế Tân,
và Kiền Ðà La Tra (Ikasmìra Gandhara)¸, nay thuộc các
địa phương ở Khách Thập Mễ Nhĩ ở bắc Ấn Ðộ.
2. Ngài Ma Ha Ðề Bà (Mahàdeva - tức ngài Ðại Thiên) được
phái đến Ma Ê Bà Mạt Ðà La (Mahisaka Mandala), nay là
các địa phương thuộc Mai Sách Nhĩ ở vùng nam Ấn Ðộ.
3. Ngài Lặc Khí Ða (Rakkhita) được phái đến Bà Na Bà Tư
(Vanavàsi), tên vùng đất này hiện nay không rõ ở đâu,
hoặc có thể là ở nam Ấn Ðộ.
4. Ngài Ðàm Vô Ðức (Yonaka - Dhammarakkhita), được phái
đến A Ba Kan Ða Ca(Apurantaka), nay là vùng đất phía bắc
Tô Khố Nhĩ ở tây Ấn Ðộ.
5. Ngài Ma Ha Ðàm Vô Ðức (Mahadhammarkkhita) được phái
đến nước Ma Ha Lặc Tra (Mahàrattha) nay là địa khu Mãnh
Mãi ở nam Ấn Ðộ.
6. Ngài Ma Ha Lặc Khí Ða (Mahàrakkta) được phái đến Du
Na Thế Giới (Yonakaloka), nay là địa vực thuộc phía tây
A Phú Hãn (Afghanistan).
7. Ngài Mat Thị Ma (Majjhima), ngài Ca Diếp Ba (Kasyapa
- còn có tên là Ca Diếp Suy), được phái đến vùng biên
của núi Tuyết Sơn (Himavantapadesa) nay là dọc theo dải
Nepali - Ni Bạc Nhĩ.
8. Ngài Tu na Ca (Sonaka) ngài Uất Ða La (Utttra) được
phái đến nước Kim Ðịa (Suvanabhùmi), nay là nước Miến
Ðiện.
9. Ngài Ma Sẫn Ðà cùng nhiều vị khác được phái đến nước
Sư Tử (Tambapannidìpa) nay là nước Tích Lan Sri-Lanka.
Như những gì vừa nêu cho thấy dưới thời vua A Dục, Phật
Giáo đã trở thành tôn giáo mang tính quốc tế. Vua A Dục
chủ tâm dùng giới luật của đức Phật để giáo hóa khắp
vùng châu Á, châu Phi, và giáp biên giới châu Âu. Ðây
được coi như vua Dục đảm nhiệm sứ mệnh mang lại hòa bình
thế giới. Thậm chí có người dựa vào “Lịch Ðại Tam Bảo
Ký”
cho rằng dưới thời Tần Thỉ Hoàng có Sa môn Thích Lợi
Phồng cả thảy mười tám người từ Tây Vực đến được Trung
Quốc. Tuy truyền thuyết trên không đủ chứng cứ, nhưng
thời đại vua A Dục tương đương với thời Tần Thỉ Hoàng,
cũng có khả năng đây là một nhánh truyền giáo do vua A
Dục phái đi và bị đi lạc vào Trung Quốc
cũng nên.
Ðối với việc rộng truyền bá Phật Giáo, thì công đức của
vua A Dục là cực kỳ to lớn, đối với lịch sử Ấn Ðộ, thì
sự cống hiến của vua A Dục là vô cùng vĩ đại. Do đó, ông
được người đời xưng tụng với mỹ danh là “Chánh pháp A
Dục Vương” (Dharma Asoka). Ðiều đáng tiếc là những ngôi
tự viện do lứon do ông kiến lập hiện nay không tìm thấy.
Những Phật tháp được kiến tạo dưới thời vua A Dục, khi
ngài Huyền Trang đến Ấn Ðộ - thế kỷ thứ VII tây lịch -
ông trông thấy được là không dưới năm trăm tháp. Nhưng
hiện tại chỉ mới phát hiện được có hai nơi; một là nhóm
tháp Tang Khư (Sãnchi), và hai là tháp Bà Nhĩ Hô Ðặc
(Bharhut). Còn thạch trụ và thạch tràng do vua A Dục
kiến lập khi Huyền Trang đến Ấn Ðộ, ông ghi nhận là có
mười sáu nơi, nhưng hiện chỉ còn có chín.
- Hai vua A Dục.
Theo sự truyền thừa của Nam truyền thì sau Phật diệt độ
khoảng trăm năm, tại thành Tỳ Xá Ly diễn ra cuộc Thất
Bách kết tập vào thời vua Ca La A Dục (Kàtasoka), và từ
cuộc kết tập này mới đưa đến việc phân chia Thượng Tọa
Bộ và Ðại Chúng Bộ. Còn lần kết tập thứ ba diễn ra sau
Phật Niết bàn khoảng hai trăm hai mươi năm dưới thời
Chánh Pháp A Dục Vương. Nguyên do của lần kết tập này là
để giải quyết cuộc khởi tranh của hàng tặc trú Tỳ kheo.
Cũng từ sau cuộc kết tập này dẫn đến việc Ðại Chúng Bộ
lại chia ra thành sáu bộ, như Ðông Sớn Bộ v.v...
Nhưng theo sự ghi chép của Bắc truyền, thì lần Thất Bách
kết tập xảy ra sau Phật nhập diệt ước khoảng trăm năm,
nhưng vị quốc vương ủng hộ lần kết tập này là ai không
rõ. Sau Phật diệt độ một trăm mười sáu năm.
Vua A Dục thống lãnh vùng đất Diêm Phù Lợi, nhân việc
khởi tranh luận của Ðại Thiên về “Ngũ Sự”, từ đó mới đi
đến phân chia thành Thượng Tọa Bộ và Ðại Chúng Bộ. Và
cũng dưới thời vua A Dục; sau Phật diệt độ hai trăm năm,
nhân việc tranh cãi về “Ngũ Sự” của Ðại Thiên mà Ðại
Chúng Bộ chia thành ba bộ, như Bộ Ðông Sơn v.v.. Do sự
kiện trên mà Nam truyền nói là có hai vua A Dục, trong
khi Bắc truyền chỉ có một vua A Dục. Niên đại vua Ca La
A Dục của Bắc truyền được nói đến trong “Thập Bát Bộ
Luận”. Vua A Dục thứ hai của Nam truyền là nhân vật
trung tâm của lần kết tập thứ ba. Lần kết tập thứ ba
cũng xuất phát từ sự ghi chép của Nam truyền, thì vua A
Dục này là nhân vật trung tâm, so ra vua A Dục này của
Nam truyền sau vua A Dục của Bắc truyền cả trăm năm.”Ðại
Tỳ Bà Sa Luận” quyển 99,
cũng nói rất rõ: vào thời quốc vương A Luân Ca (tức vua
A Dục), do vua nghe theo Ðại Thiên (Mahàdeva) nên muốn
sát hại các Thánh tăng của Thượng Tọa Bộ, do đó các
Thánh tăng mới đến ngụ tại nước Ca Thấp Di La. “Ðại
Ðường Tây Vực Ký” quyển ba
của Huyền Trang cũng ghi tương tự về vấn đề trên. Cả hai
thuyết vừa nói đều cho rằng sự việc trên xảy ra sau Phật
nhập diệt một trăm năm. Do đó, sự thật về sự kiện trên,
đứng về mặt lịch sử Phật Giáo quả là vấn đề rất khó
thanh lý.
Cũng từ vấn đề trên nếu gia tâm khảo sát tường tận, thì
thật sự dưới thời vua A Dục có xảy ra cuộc tranh luận về
“Ngũ Sự”, nhưng không hẳn vua A Dục nghiêng về Ðại Thiên
- một phái có tư tưởng tiến bộ. Theo ghi chép của luật
Thiện Kiến,
thì bấy giờ vua A Dục thỉnh mời ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế
Tu làm Thượng tọa đứng ra tuyển chọn nghìn vị Tỳ kheo có
đủ tư cách nhất tham gia bình nghị xem trong cuộc tranh
luận nay ai đúng ai sai. Ngài Ðế Tu được đón từ trung
tâm núi A Kiệt hà, ông thuộc đông hệ Ba Lị - nhân vật
phân chi của Thượng Tọa Bộ. Ông đứng trên lập trường
Thượng Tọa Bộ, nhưng lại đồng tình với tư tưởng cực đoan
của Thượng Tọa Bộ. Ðấy chính là cái đích được nhắm tới
của cuộc bình nghị này. Ðối với tư tưởng của Ðại Chúng
Bộ, ông có phần chấp nhận, tất nhiên đấy là sự thật. Lần
kết tập này kéo dài đến chín tháng, thiết nghĩ về mặt
giáo nghĩa cần nên có các cuộc thảo luận về những dư
thiếu. Nhưng về niên đại của lần kết tập này không được
tỏ rõ, nhưng thuyết của Nam truyền ghi chép là diễn ra
khoảng hai trăm hai mươi năm sau Phật diệt độ. Nhưng do
đâu có sự ghi chép như vậy? Theo Bắc truyền là do sau
Phật diệt độ hai trăm năm, trong Tăng đoàn có xảy ra
cuộc tranh luận “Ngũ Sự”.
Còn như việc Nam truyền chia vua A Dục thành hai, một là
vua Ca La A Dục, nghĩa là “Hắc A Dục vương” chữ “Hắc”
được dùng trong Phật Giáo là chỉ cho “ác tác” (làm điều
xấu, nghĩ suy xấu), giống như nói hắc nghiệp và bạch
nghiệp. Do đó, Nam truyền dùng Ca La A Dục vương, ngụ ý
nói một ông vua A Dục bạo ác khi ông chưa qui y Tam Bảo
(điều này trong “A Dục Vương Kinh” của Bắc truyền gọi là
Chiên Ðà A Dục Vương), đấy là nói một ông vua A Dục đại
biểu cho tính thực tiễn sau khi ông đã qui hóa thành
chánh pháp A Dục Vương. Nếu thuyết này khả tín, thì đúng
là vì cách nhau cả trăm năm nên có sự nhầm lẫn giữa hai
vua A Dục. Xét thấy cần nêu vấn đề này ra ở đây để tiện
khảo chứng.
Cách kiến giải trên là của Ðịch Nguyên Văn Lai Thị,
người Nhật Bản, và pháp sư Ấn Thuận của Trung Quốc có
đọc đến, nhưng vấn đề có khả tín hai không cần có thêm
sự nghiên cứu.
TIẾT
II. BỘ PHÁI PHẬT GIÁO VÀ ÐẠI THIÊN.
- Sao gọi là Bộ Phái?
Danh từ Bộ phái ở đây không như danh từ Tông phái của
Trung Quốc vậy. Nguyên nhân là do cố thủ quan điểm luận
mà xảy ra bất đồng nên có sự phân lập riêng biệt. Sự
phân lập này dẫn đến những tính cách tương đồng, tương
dị rất thú vị, ấy là tự nhiên mà hình tành nên đạo nghĩa
kết hợp, hoặc đối lập. Từ đấy mà Bộ phái Phật Giáo thành
hình. Ðiều đó diễn ra sau Phật nhập diệt khoảng trăm
năm. Thực thì nguyên nhân xa của phân phái cũng đã xảy
ra khi đức Phật còn tại thế. Ðiều đó được chép rõ trong
kinh Tạp A Hàm quyển mười sáu. Kinh 447
đơn cử mười ba vị đại đệ tử của đức Phật. Nhưng vị này
mỗi người đều có nhiều Tỳ kheo thân cận kinh hành. Những
Thượng tọa nghe nhiều, thường thân cận ngài A Nhã Kiều
Trần Như, những Tỳ kheo tịnh tu khổ hạnh đầu đà thường
thân cận ngài Ðại Ca Diếp; những vị đại trí biện tài,
thường thân cận ngài Xá Lợi Phất; những vị có sức mạnh
thần thông, thường thân cận ngài Mục Kiền Liên, những vì
có thiên nhãn minh triết, thường thân cận ngài A Na
Luật, những vị tinh tấn dũng mãnh, thường thân cận ngài
Nhị Thập Ức Nhĩ (Scronakotivimsa), những vị vì đại chúng
mà tu sửa cúng cụ, thường thân cận ngài Ða Phiêu, những
vị hành trì thông đạt Luật nghi, thường thân cận ngài
Phú Lâu Na, những vị đa văn tổng trì, thường thân cận
ngài A Nan, những vị giỏi phân biệt các kinh, khéo
thuyết giảng pháp tướng, thường thân cận ngài Ca Chiên
Diên, những vị mật hạnh nghiêm cẩn hành trì giới luật,
thường thân cận ngài La Hầu La, những vị thường tụ tập
tăng chúng để nói và làm những điều sai quấy, thường
thân cận ngài Ðề Bà Ðạt Ða. Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển
46, (Phóng Ngưu Phẩm) kinh thứ ba, phẩm 49
cũng nói: “Nên biết căn nguyên của chúng sinh đều là “tự
tương loại”, những kẻ ác hành thường theo với nhau;
những người thiện hạnh cũng thế”. Chỉ có điều, lúc đức
Phật còn tại thế, cửa với nhà chưa bị đứng riêng. Ðến
lần tập kết thứ nhất, mới bắt đầu thấy cửa là cửa, nhà
là nhà; và sau lần Thất Bách kết tập mới lộ rõ việc phần
thành hai Bộ. Mãi đến thời vua A Dục, và sau đó Ðại
Chúng Bộ một lần nữa bị chia cắt. Sự chia cắt lần này về
mặt niên đại, thì tư liệu của Nam truyền và Bắc truyền
sai khác nhau cả trăm năm. Ðại Chúng Bộ tuy bị chia cắt,
nhưng lại tương đồng, nhưng thuyết về sự khởi tranh của
tặc trú Tỳ kheo là giống nhau, trong đó có liên quan đến
sự kiện Ðại Thiên.
- Hai vị Ðại Thiên.
Ðại Thiên tên tiếng Phạn là Ma Ha Ðề Bà (Mahàdeva). Sự
tích nói về Ðại Thiên, xin đọc “Dị Bộ Tông Luận”, “Thập
Bát Bộ Luận”, “Bộ Chấp Dị Luận”, tất cả các bộ nêu trên
đều nói đến sự việc sau Phật diệt dộ hai trăm năm, có
ngoại đạo tên là Ðại Thiên xin xuất gia với Ðại Chúng
Bộ. Người này sống ở núi Chi Ðề (Caityagiri), còn có tên
là núi Chế Ða. Trong bộ Ma Ha Tăng Kỳ, ông lại là người
kiến lập thêm ba Bộ nữa. Lại nữa, Ðại Ðường Tây Vực Ký,
quyển ba
chép: Sau Phật diệt độ khoảng trăm năm, có xuất hiện
nhân vật tên Ðại Thiên, ông là người khoát đạt đa trí,
ngẫm muốn có thực danh, nên suy nghĩ sâu xa và sáng tác
luận nghĩa trái nghịch với Thánh giáo, khiến vua Vô Ưu
(tức vua A Dục) không rõ đâu là phàm, đâu là thánh, nên
đồng tình với luận điểm của Ðại Thiên, cho Ðại Thiên
được thân cận, nương cậy ông; đồng thời vua A Dục lại có
ý muốn giết các Thượng tọa thánh tăng. Thánh Tăng là
những vị đã đắc quả A la hán nên quí ngài nhận biết ý
sát của vua A Dục, bèn vận dụng thần thông đi đến nước
Ca Tháp Di La. Cạnh dó luận Ðại Tỳ Ba Sa - quyển 99 của
Hữu Bộ,
còn công kích Ðại Thiên dữ dội hơn, cho rằng Ðại Thiên
là người dâm dục vơí mẹ đẻ, giết A la hán, rồi giết luôn
mẹ đẻ; và ông phạm cả ba tội Vô gián. Ðồng thời luận này
còn chỉ trích Ðại Thiên là người gây ra cuộc tranh cãi
“Ngũ Sự” đầy vọng ngôn.
Tất cả các việc nêu trên đều xuất phát từ truyền thuyết
của Thượng Tọa Bộ; sự thực không hẳn như vậy, bởi hai
người cùng có tên Ðại Thiên cách xa nhau cả trăm năm.
Tiếc là về sử liệu, Ðại Chúng Bộ không còn lưu lại điều
gì để có thể dựa vào tham khảo. Quả như các việc trên là
thực, thì người có tên là Ðại Thiên đã phạm ba ba tội Vô
gián, và đời sau gọi ông là Ðại Thiên ngoại đạo xin xuất
gia với Ðại Chúng Bộ. Nhưng cả Hữu Bộ và Ðại Chúng Bộ
lại đứng trên lập trường lưỡng cước khi nói về Ðại
Thiên. Do đó, đối với việc Ðại Thiên phạm ba tội Vô gián
chỉ là vu khống. Trên thực tế, thời đại đương thời Ðại
Thiên là người đi trước về tư tưởng tiến bộ. Tuy ông bị
các vị Kỳ túc Thượng tọa công kích, nhưng ông được đa số
đại chúng ủng hộ. Lúc con vua A Dục là Ma Sẩn Ðà xuất
gia, ông này thỉnh ngài Ðế Tu của hệ Phân Biệt Thuyết
làm Hòa thượng, mời ngài Mạt Lan Ðề của Hữu Bộ làm cụ
túc giới A Xà Lê, và ngài Ðại Thiên của Ðại Chúng Bộ làm
thập giới A Xà Lê.
Như thế đủ thấy vua A Dục không thiên vị bên nào, và Ðại
Thiên cũng không phạm ba tội Vô Gián như truyền thuyết
của Hữu Bộ. Lại càng không đúng với truyền thuyết nói
rằng: Vào thời vua A Dục, Phật pháp long thịnh và tứ sự
cúng dường rất nồng hậu. Do đó, đa số ngoại đạo vì miếng
ăn cái mặc mà xin xuất gia theo Phật Giáo, nên gọi số
này là “tặc tu”. Ðồng thời họ cũng khởi sự phân tranh
khiến vua A Dục phải triệu tập chúng lại để kiểm nghiệm.
Trong số đó có ba trăm người thuộc loại ngoại đạo thông
minh. Họ thông đạt cả Tam tạng thánh điển, nên không còn
cách nào khác, vua A Dục đành cho họ ở riêng một trú xứ,
trong số này có một vị tên là Ðại Thiên, sống ở núi Chế
Ða. Ông này lại cùng với Ðại Chúng Bộ nghị luận Ngũ Sự.
Nhân đây Ðại Chúng Bộ bị chia thành ba Bộ.
Tất cả chỉ là truyền thuyết nên rất khó phân biệt được
chân, ngụy. Nhưng ngày nay chúng ta có thể xác tín rằng;
Ðại Thiên không phải là tặc trú Tỳ kheo, cũng không phải
ông bị vua A Dục là Ma Sẩn Ðà thỉnh mời làm A Xà Lê.
Trước đó ông cũng đã theo tăng chúng đến tu ở núi Chế
Ða. Ông cũng từng phụng mệnh vua A Dục đi đến Ma Ê Bà
Mạt Ðà La (nay là Mại Sách Nhĩ), và ông cũng đã cùng các
vị như Mạt Lan Ðề cả thảy tám vị đại đức được phái đến
các địa phương để hoằng hóa Phật pháp. Như vậy, ông
không phải là người trái nghịch thánh giáo.
- Ðại Thiên Ngũ Sự.
Ðại Thiên Ngũ Sự là trọng điểm mà Ðại Chúng Bộ và Thượng
Tọa Bộ công khai tranh luận một cách quyết liệt. Ngay
vào thời vua A Dục nó được tranh luận một cách minh xác.
Ðại khái, Ðại Thiên là nhân vật ra đời sau Phật nhập
diệt khoảng từ trăm năm đến hai trăm năm, thì xảy ra
chuyện Ðại Chúng Bộ tôn trọng “Ngũ Sự”. Do vì Ngũ Sự có
liên quan đến Ðại Thiên, nhưng không hẳn Ðại Thiên là
chủ sự. Nhân vấn đề tranh luận “Ðại Thiên Ngũ Sự” rồi
cho rằng Ðại Thiên xuất hiện sau Phật nhập diệt hai trăm
năm. Thiết tưởng điều trên chỉ là truyền nhầm.
- Sao gọi là Ðại Thiên Ngũ Sự?
Ðó là năm việc liên quan đến thánh cảnh của thân tâm A
la hán. Luận Ðại Tỳ Bà Sa quyển 99
của Hữu Bộ nói: “Ðại Thiên tự mình chưa chứng quả A la
hán, nhưng nói là mình đã chứng A la hán quả. A la hán
là người đã ly dục, nhưng Ðại Thiên đêm ngủ vẫn còn bị
mộng tinh, đệ tử được ông ký biệt là đã chứng quả, nhưng
bản thân đệ tử chưa từng tự biết chứng quả gì, nên vẫn
cứ nghi hoặc Lý đán, A la hán và vị luôn sống an vui
giải thoát, nhưng Ðại Thiên khi đêm đến thường hô lớn
khổ quá, khổ quá. Ðem năm việc trên ra lượng định, biết
là Ðại Thiên vọng ngôn”.
Theo Hữu Bộ, thì năm việc ấy là:
1. Ðại Thiên vì tư duy bất chính nên mới thoát thất bất
tịnh (mộng tinh).
2. Ðại Thiên vì muốn nâng đỡ đệ tử mình mà loạn tác ký
biệt, nói là đệ tử đã chứng bốn thánh quả Sa Môn.
3. La hán là người đã chứng đắc vô lậu, dứt đoạn tất cả
mọi nghi hoặc. Vậy sao lại nói quả vị La Hán còn nghi
hoặc?
4. La hán là người đã chứng đắc thánh huệ; tại sao lại
nói tự mình không biết là đã chứng quả La hán hay chưa?
5. Thánh đạo vô lâu, vậy lý đáng phải y vào gia hạnh vị
mà hiển hiện, sao lai còn than khổ quá, khổ quá, như thế
làm sao sinh khởi được nhân của thánh đạo giải thoát?
Như vậy đủ thấy những điều vừa nêu nói lên sự vọng ngữ
của Ðại Thiên.
Ðã vậy, Ðại Thiên còn đem ngũ sự do ông xướng xuất biên
thành một bài, và hướng về chúng đệ tử tuyên dương một
cách sâu rộng: “Dư sở dục, vô tri, do dự tha linh nhập,
đạo nhân thinh cố khởi, Thị danh chơn Phật Giáo”.
- Ngũ sự không là vọng ngôn.
- Lý do việc được Ðại Thiên đề ra Ngũ Sự:
1. “Dự sở dụ”, bậc A la hán tuy không còn bị phiền não
về dâm dục, nhưng vẫn bị “lậu thất bất tịnh”, tức có ác
ma lấy vật bất tịnh định đặt vào y của La hán.
2. “Vô Tri”, vô tri là không biết có nhiễm ô và không
nhiễm ô. Bậc La hán mà chưa đoạn tận được bất nhiễm ô,
thì đó là vô tri.
3. “Do dự”, nghi có hai thứ là xứ và phi xứ sẽ trình bày
riêng. Bậc La hán chưa đoạn tận (dứt sạch) được nghi
hoặc về xứ và phi xứ, thì tuy là bậc thánh Ðộc giác
nhưng vẫn có cái “hoặc” này.
4. “Tha linh nhập”, bậc La hán cũng phải dựa vào ký biệt
của người khác, mới biết được mình là La hán, chẳng hạn
như ngài Xá Lợi Phất là người có trí tuệ bậc nhất, ngài
Mục Kiền Liên có thần thông bậc nhất, nhưng cũng hpải
dựa vào sự thọ ký của đức Phật mới biết được mình đã
giải thoát.
5. “Ðạo nhân thinh cố khởi”, chí thành xướng niệm khổ
quá, thì thánh đạo mới hiện khởi, “khổ” được nói ở đây
với”khổ” trong tứ thánh đế có liên quan với nhau. Quán
khổ, không, vô thường, vô ngã, thì đó là thánh đạo.
Về bản chất của “Ngũ Sự” mà nói, thì ngũ sự khó mà luận
rằng đó là vọng ngôn để có thể loại bỏ. Bởi khi nói La
hán là bậc ly dục, đó là nói về tâm lý. Nhưng về mặt
sinh lý chưa hẳn là khác với người phàm, huống nữa là
vấn đề di thất bất tịnh. Vì có lúc là mộng di, có lúc
không mộng vẫn cứ “di” ; hoặc có vị do thân bệnh mà
“di”. Việc di tinh của người nam giống như chuyện nguyệt
tín của người nữ mà thôi.
Thời Phật tại thế có vị nam La hán nhân mắc bệnh phong
khiến “dương cử”, phải tìm đến dâm nữ giải quyết (trị
bệnh). Cũng có vị La hán ni vẫn còn nguyệt tín nên phải
đến hồ nước dùng vải bố mà rửa. Nếu căn cứ theo giới
luật nguyên thỉ để suy luận, thì năm việc được Ðại Thiên
đưa ra, không có việ nào là không lập thành. Chi do các
vị luận sư của Hữu bộ không nghiên cứu một cách thực tế
nên sinh ra việc lấy người bỏ lời (dĩ nhân phế ngôn).
Chuộng cái giống mình, công kích cái khác mình, và như
vậy mà kết luận Ngũ Sự là voïng ngôn e không mấy thuyết
phục.
Vả lại, “Ðại Thiên Ngũ Sự” cũng không hẳn là do Ðại
Thiên sáng tác một cách độc lập, trong bộ “Luận Sư” của
Nam truyền
cũng có truyền về Ngũ Sự. Trong luận thuyết của ngài Tam
Tạng Chơn Ðế của Bắc truyền và của Tây Tạng cũng có nói
đến Ngũ Sự, nhưng chú thích không giống nhau. Thời gian
gần đây các nhà học giả thấy rằng Ngũ Sự nói chung, các
bộ thuộc Ðại Chúng Bộ đều có nói đến; Ðại Thiên chẳng
qua chỉ là người đem Ngũ Sự kết tập lại thành một loại,
rồi dùng kệ tụng để trình bày.
Nghiên cứu kỹ, thì quả vị La hán quả dúng là người phi
thường mới có thể vượt qua (chứng đắc). Nhưng đời sau
lấy cảnh giới lý tưởng của La hán biến thành vấn đề cao
siêu không dễ gì mong đạt tới được; tương tự như việc
dương cao Bộ phái trong lúc hình thành, thẩm sát các vị
La hán thời Phật tại thế, chưa hẳn quí ngài đạt đến
trình độ cao siêu như vậy.