(04)
Luận giải về pháp Thiền Quán Dzogchen
Tác
giả : Gyatrul Rinpoche
Việt dịch : Nguyễn Hòa
Chính là qua
việc thể nghiệm tuệ giác mà Trí Tuệ ban sơ của tâm được thực
hiện bằng hành động. Có bốn giai đoạn cho sự phát triển này.
Thứ nhất là có tín tâm về tri kiến đó. Thứ hai là thực
nghiệm việc thiền quán. Thiền quán phải được thực nghiệm; nó
không thể chỉ là sự tìm hiểu bằng tri thức. Bằng không, nó sẽ
giống như một mảnh giấy đặt lên cái lỗ để giúp che đậy. Một
lúc nào đó, mảnh giấy sẽ rớt ra. Sự hiểu biết bằng tri thức
là vô thường và sẽ phải thay đổị Sự thực hiện đạt được
qua thiền quán là thường hằng. Giai đoạn thứ ba là giữ sự liên
tục trong các sinh hoạt của đời sống hằng ngày. Giai đoạn thứ tư
là thực hiện được cái kết quả rốt ráo.
Trước
hết, thực hiện tín tâm về tri kiến có ba phần. Đầu tiên là
lập dựng bản chất của những vật thể được nhận biết là
ở bên ngoài tâm (cái được biết). Thứ hai là xây dựng ý
thức về bản chất của tâm là khả năng nhận biết bên trong (cái
biết). Thứ ba là hiểu biết vững chắc tri kiến vềbản chất của
thực tại. Phần đầu tiên lập dựng bản chất của các vật
thể được nhận biết thuộc ngoại giới liên hệ đến cái ý thức
về việc tâm đã nắm giữ như thế nào những ngoại vật đó và
coi chúng như thực sự hiện hữu. Điều này muốn nói về các
pháp hiển hiện khách quan được nhận thức là ở bên ngoài cái
ngã. Tất cả sự hiển lộ đó được cái tâm chủ thể nắm
bắt như là có thật. Do đó, nhiều học giả đã chia cắt vật thể
khách quan thành những hạt nguyên tử rất nhỏ, rồi thành cái
không còn gì hết, như vậy để đi tới chỗ hiểu biết bản chất
của vật thể là không có hiện hữu thật sự. Theo cái hệ thống
nhận thức đó, những hiện tượng khách quan khởi lên trong tâm,
và hiện hữu trong tâm của người nhận biết. Mặc dù bạn nghĩ
những hiển hiện khách quan là có thật, cái thế giới vô tri
giác và hữu tình sẽ không hiện hữu , nếu như nó không hiện
hữu cho cái tâm. Khi không nhận biết được bản chất của tâm và
cho phép tâm cứ nằm mãi trong những cảm nhận hư ảo, bạn sẽ thật
sự tin những hiển hiện khách quan là có thật như chúng được
cảm nhận. Rồi sau đó sẽ rất khó khăn để chấp nhận những hiển
hiện khách quan là không thật, không vốn có, mà đều do tâm
tạo ra.
Vấn đề
đầu tiên là tâm của bạn đang trong kinh nghiệm về những cảm nhận
hư ảo. Kế đó là chân lý về vô thường, là không có gì mà
cái tâm cảm nhận được, kể cả chính nó, là thường hằng và
đáng coi như là chân, là có thật. Vì mọi vật đều đổi
thay, đều này được hiểu là không có sự hiện hữu vốn có
thật, vì bản chất của mọi hiện tượng là vô thường. Giấc mơ
bạn có tối hôm qua không còn là thật
cho ngày hôm nay.Vào lúc bạn nằm mơ, nó dường như là rất thật,
có thật. Bây giờ nó ở đâu? Đã xảy ra điều gì? Tất cả các
vật hiển hiện khách quan đều không có gì khác hơn là những nhãn
hiệu của tâm trí. Bạn có thể nói :" Đây là cái bàn. Đây
là cái nhà." Mỗi vật có cái tên vì nó hiện ra với bạn
là cái vật đó. Do đó bạn có một nhãn hiệu dành cho nó. Thật
ra, bản chất của nó là hư ảo, và nó không thực sự hiện hữu
gì khác hơn là những trò hư ảo của nhà ảo thuật. Do đó, bạn
phải tin vào thức giác của trí tuệ về bản chất hư ảo của
mọi vật hiển hiện .Qua đó bạn có thể lập nên bản chất của vật
thể được nhận biết ở bên ngoài tâm. Điều này dẫn bạn đến
bước thứ hai trong việc thực tập để phát sinh tuệ giác , nó đang
xây dựng bản chất của tâm như là chủ thể nhận biết ở bên
trong. Kẻ sáng tạo ra vật thể khách quan là chủ thể, là chính cái
tâm. Nếu bạn thử đi tìm chỗ ở của tâm, bạn có thể định
được vị trí của nó không ? Bạn có thể xác định được những
đặc tính của tâm không ? Phải là nó có thực chất và sờ mó
được không? Theo nhiều trường phái trong tư tưởng Phật giáo, có
vô số phương thức có thể được dùng vào sự phát hiện
nguồn gốc của tâm để xác định là nó có hiện hữu hay không.
Để làm theo cách
thực tập chánh thức, trước hết bạn nên ngồi theo tư thế tham
thiền đúng đắn. Hãy làm cho ngôn ngữ im lặng và thở tự nhiên.
Đừng ép bắt tâm phải quá căng thẳng hay quá trì trệ; chỉ giữ
sự thư giãn trong chính tính giác tinh tuyền của bạn. Đôi khi lúc
bạn ngồi, có thể xảy ra cho bạn hai diễn tiến: là cái nhận biết
của tâm và cái nhận biết của người nhận biết. Nếu bạn lưu
ý đến điều này, thì bạn hãy để cho người nhận biết nhìn vào
cái tâm đang nhận biết, giống như một người đang quan sát mặt mũi
thật của mình mà ở giữa hai bên không có gì khác ngăn cách . Khi
bạn có ý thức được bằng cách như vậy, bạn sẽ bắt đầu nhận
thức người nhận biết và tâm đang nhận biết là không phải hai
(bất nhị). Kế đó, bạn sẽ nhận thức là vật thể được nhận
biết bởi người nhận biết và tâm đang nhận biết là không thể
phân cách, có cùng một kinh nghiệm. Do đó, bạn đi đến chỗ nhận
thấy đối tượng (vật thể) và chủ thể,
sự nắm giữ và bám chắc, không còn là nhị nguyện
nữa. Đó là một kinh nghiệm, thuộc bản chất của tâm, thoát khỏi
những giới hạn của hoạt động suy tưởng của tâm. Cái gì xảy ra
lúc đó khi không còn có chủ thể và đối tượng ? Kế đó bạn
có được điều gì? Tất cả bạn đạt được là kinh nghiệm về
Phật tính hằng có của bạn. Trong giai đoạn khởi đầu của việc
thực tập, bạn sẽ có kinh nghiệm về trạng thái không còn nhị
nguyên trong một khoảnh khắc ngắn. Vào lúc thứ hai, sự nắm giữ
và bám chắc nhị nguyên sẽ khởi sự. Bây giờ có nhiều người
bỏ ra một thời gian đáng kể ngồi lặng yên thiền quán. Nếu
bạn biết cách thực tập làm phát sinh hay hoàn thiện giai đoạn này,
và thật sự lập dựng được cái tri kiến với tự tin để
có thể biết rõ tánh Không, thì việc tĩnh toạ trong một thời
gian kéo dài có thể soi sáng được rất nhiềụ Tuy nhiên, nếu bạn
không được huấn luyện hay không có kinh nghiệm, và chỉ ngồi đó im
lặng với những vọng tưởng khuấy phá và các niệm làm tâm
xao lãng nổi lên, thì đó chỉ là một việc làm tốn mất thì giờ.
Trong lúc
kinh nghiệm tính bất nhị, hãy cho phép bạn duy trì sự tươi mới của
kinh nghiệm , đừng có toan tính thay đổi nào. Một hành giả với
sự thông minh vượt bậc sẽ có thể duy trì kinh nghiệm này về sự
tỉnh giác chân chính trong một thời gian vô hạn. Lúc bắt đầu, rất
khó mà giữ được lâu.Tuy nhiên, kinh nghiệm này cũng giống với
kinh nghiệm mà bạn có giữa hai cái niệm. Khi niệm đầu tiên vừa
chấm dứt và trước khi niệm thứ hai bắt đầu, cái tươi mới ở
khoảng giữa đó cũng giống với kinh nghiệm về tính giác chân
chính. Lý do mà bây giờ bạn không có ý thức về nó là bởi vì
bạn có quá nhiều niệm khởi lên nhanh quá đến nỗi cái khoảnh
khắc nằm ở giữa các niệm không được nhận thấy. Có thể bạn
sẽ nghĩ cái khoảnh khắc nằm ở
giữa các niệm là tình trạng trì trệ, tương tợ với kinh nghiệm
về sự tĩnh lặng bất tịnh. Trong kinh nghiệm về khoảnh khắc giữa
các niệm, tất cả bát thức (gồm năm thức của ngũ quan, ý thứ
c, mạt na và a lại da thức) đều hoạt động bình thường. Cái tâm
trở nên sáng tỏ, và có khả năng nhận biết mọi sự việc, tuy
nhiên hoàn toàn thoát khỏi tính nhị nguyên bởi vì không có sự
taọ thành ra niệm hay hoạt động phát sinh ra vọng tưởng. Nếu
bạn hiểu được điều này, có nghĩa là bạn có được cái nhìn
thoáng qua kinh nghiệm tổng quát về tính giác chân chính.
Tại sao lúc
đó, là con người bình thường bạn lại gặp khó khăn khi nhận
thức kinh nghiệm tổng quát về cái trí tuệ ban sơ ? Đây chủ yếu
là do thói quen mạnh mẽ về (suy tưởng) nhị nguyên và những vọng
niệm tản mạn. Do điều đó mà thỉnh thoảng bạn lại bị đánh
bại bởi khả năng tạo thành khái niệm của chính bạn. Thêm
vào đó, trong quá khứ bạn đã nghe những lời giảng dạy về bản
tánh của tâm, nhưng không chịu thực tập. Vậy thì, bạn có thể
dùng phương pháp nào khi bạn bị chính cái tâm của mình làm cho phân
tâm đến như thế? Phương pháp phải dùng là cố gắng tìm kiếm
nguồn gốc của tâm, là kẻ sáng tạo ra các vọng niệm , là gốc rễ
gây ra các vấn đề phiền phức cho bạn.
-- o0o --
Thiền Quán Dzogchen
01 | 02 | 03 | 04 | 05 |
-- o0o --
| Mục lục tác giả|
Vi tính : Diệu Nga
Cập nhật ngày: 01-10-2001