Thuyết
Bốn
Ðế
GS
MINH
CHI
Chủ
nhiệm
bộ
môn
Tôn
giáo
học
và
Phật
giáo
sử
Việt
Nam
Trường
Phật
học
cao
cấp
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh
1996
---o0o---
[1]
BỐN
ÐẾ
Ðức
Phật
sau
khi
thành
đạo
vài
tuần
dưới
gốc
cây
Bồ
Ðề,
bèn
lên
đường
đến
vườn
Nai,
ngoại
thành
Bénarès
(Ba
la
Nại),
thuyết
pháp
cho
năm
người
bạn
đồng
tu
cũ,
là
các
ông
Kiều
trần
Như...
được
Phật
lựa
chọn
như
là
những
người
có
khả
năng
nhứt
để
tiếp
thu
giáo
lý
đạo
Phật.
Chủ
đề
của
bài
thuyết
pháp
đầu
tiên
của
Phật
là
Bốn
đế,
tức
là
bốn
chân
lý.
NỘI
DUNG
BÀI
THUYẾT
PHÁP
ÐẦU
TIÊN
:
Trong
kinh
"Chuyến
pháp
Luân"
có
ghi
lại
bài
thuyết
pháp
đầu
tiên
của
Phật
về
Bốn
đế.
Ðại
khái
như
sau
:
"Này
các
Tỷ
kheo,
sanh
là
khổ,
già
cũng
là
khổ,
bịnh
cũng
khổ,
chết
cũng
khổ,
gần
kẻ
mình
không
ưa
là
khổ;
xa
người
mình
yêu
cũng
khổ,
cầu
không
được
là
khổ,
chấp
chặt
năm
uẩn
là
khổ.
Như
vậy
khổ
là
một
chân
lý
thánh
(Khổ
Thánh
đế).
Lại
nữa,
này
các
Tỷ
kheo
!
Dẫn
tới
luân
hồi
và
tái
sanh
là
lòng
ham
thích
và
thèm
khát,
nơi
nào
ham
thích
đều
thèm
khát
mong
cầu,
đó
là
chơn
lý
thánh
về
nguyên
nhân
của
sự
khổ
(Khổ
tập
thánh
đế).
Lại
nữa,
này
các
Tỷ
kheo
!
Xa
lìa,
đoạn
trừ
lòng
ham
thích,
thèm
khát
nói
trên,
giải
thoát
không
còn
vưóng
mắc,
đó
là
chơn
lý
thánh
diệt
khổ
(Khổ
diệt
Thánh
đế).
Lại
nữa,
này
các
Tỷ
kheo
!
Tám
con
đường
đạo
chánh
kiến,
chánh
tư
duy,
chánh
ngữ,
chánh
nghiệp,
chánh
mạng,
chánh
tinh
tấn,
chánh
niệm,
chánh
định
là
con
dường
diệt
Khổ
(Khổ
diệt
dạo
thánh
đế)
BA
GIAI
ÐOẠN
NHẬN
THỨC
VÀ
THỰC
HÀNH
THUYẾT
BỐN
ÐẾ
:
Ðối
Với
thuyết
Bốn
đế,
giai
doạn
đầu
tiên
của
người
tu
học
là
:
(1).
Thông
suốt
về
mặt
lý
luận,
nhận
thức
bốn
đế
là
chơn
lý
không
sai.
(2).
Giai
đoạn
hai
là
căn
cứ
vào
nhận
thức
lý
luận
đó,
mà
có
hành
động
thực
tiễn
hằng
ngày,
về
ý
nghĩ,
cũng
như
về
lời
nói
và
hành
động,
không
bao
giờ
sai
chệch.
(3).
Trên
cơ
sở
thực
hành
được
sự
nhứt
trí
giữa
lý
luận
và
thực
tiễn,
con
người
đạt
tới
chỗ
hoàn
thiện
về
nhân
cách.
Sách
Phât
gọi
đó
là
ba
lần
chuyển.
Lần
chuyển
thứ
nhứt
là
khai
thị
cho
người
nghe
thấy
được
đạo
lý
(sau
này,
luận
A
Tỳ
Ðàm
gọi
là
kiến
đạo),
lần
chuyển
thứ
hai
gọi
là
khuyến
khích
người
nghe
sống
và
ứng
xử
theo
đúng
đạo
lý
đã
được
nghe
(Luận
A
Tỳ
Ðàm
gọi
là
tu
đạo)
và
giai
đoạn
ba
là
người
tu
đạo
đạt
tới
thánh
quả
Vô
lậu
và
được
giải
thoát.
Luận
A
Tỳ
Ðàm
gọi
là
chứng
đạo,
người
tu
hành
chứng
đạo
trở
thành
bậc
Thánh
vô
lậu
tức
A
La
Hán.
Vô
lậu
nghĩa
là
không
còn
khuyết
điểm
sai
sót
gì
nữa.
THUYẾT
BỐN
ÐẾ
VÀ
LÝ
DUYÊN
KHỞI
:
Trong
bốn
đế
thì
hai
đế
khổ
và
tập
nói
về
sự
khổ
và
nguyên
nhân
của
sự
khổ,
giải
thích
quá
trình
lưu
chuyển
sinh
tử
của
con
người
từ
đời
này
sang
đời
khác.
Gọi
chung
là
duyên
khởi
của
sự
lưu
chuyển
hay
luân
hồi.
Còn
hai
đế
diệt
và
đạo,
nói
về
cảnh
giới
lý
tưởng
đoạn
trừ
mọi
nỗi
khổ
(tức
Niết
bàn)
và
nguyên
nhân
dẫn
tới
cảnh
giới
lý
tưởng
đó.
Gọi
chung
là
duyên
khởi
của
sự
hoàn
diệt.
Khổ
đế
:
thuyết
minh
thế
giới
hiện
thực
đầy
đau
khổ.
Tập
đế
:
căn
nguyên
của
thế
giới
hiện
tưọng
dầy
đau
khổ.
Diệt
đế
:
Thế
giới
lý
tưởng
giác
ngộ
và
giải
thoát,
tức
Niết
bàn.
Ðạo
đế
:
con
đường
đạo
dẫn
tới
cảnh
giới
Niết
Bàn.
BỐN
ÐẾ
VÀ
NGUYÊN
LÝ
TRỊ
BỊNH
:
Phàm
phu
là
người
bịnh.
Bịnh
ấy
là
khổ,
Phật
là
thầy
thuốc.
Thầy
thuốc
trước
hết
chẩn
đoán
bịnh
và
tìm
ra
nguyên
nhân
của
bịnh.
Nguyên
nhân
của
bịnh
là
lòng
thèm
khát,
chấp
thủ.
Phật
chỉ
cho
thấy
cảnh
giới
lý
tưởng
không
bịnh
là
Niết
bàn,
đồng
thời
cũng
chỉ
bày
phương
thuốc
chữa
trị,
là
con
đường
đạo
(Bát
chánh
đạo),
dẫn
tới
đoạn
trừ
mọi
khổ
não
và
chứng
đạt
cảnh
giới
lý
tưởng
Niết
bàn.
Về
thuyết
Bốn
đế,
Tập
A
Hà
m
quyển
15
viết
:
"Thời
ấy,
Ðức
Thế
Tôn
bảo
các
Tỳ
kheo
!
Có
bốn
thánh
đế.
Bốn
Thánh
đế
là
gì
?
Khổ
thánh
đế,
Khổ
tập
thánh
đế,
Khổ
diệt
thánh
đế,
Khổ
diệt
đạo
tích
thánh
đế.
Này
các
Tỷ
kheo,
ở
Khổ
thánh
đế,
nên
biết,
nên
hiểu.
Ở
tập
Thánh
đế
nên
biết
nên
đoạn.
Ở
khổ
diệt
thánh
đế,
nên
biết
nên
chứng.
Ở
khổ
diệt
đạo
tích
thánh
đế,
nên
biết
nên
tu
!"
Một
câu
hỏi
:
sao
lại
viết
"Khổ
diệt
đạo
tích
thánh
đế"
?
-
Tích
là
dấu
vết.
Thánh
đế
về
dấu
vết
của
đạo
diệt
khổ”.
Trong
kinh
Niết
bàn,
Thánh
đế
được
gọi
là
chân
đế.
Trong
phẩm
"Phạm
hạnh"
viết
:
"Phật
nói
với
các
Tỷ
kheo
!
Xưa,
ta
và
các
người,
ngu
si
không
có
trí
tuệ,
không
có
thể
hiểu
biết
được
như
thực
về
bốn
chân
đế,
do
đó
mà
trôi
dạt
mãi
trong
vòng
sanh
tử,
chìm
nơi
biển
khổ
lớn.
Bốn
chân
đế
ấy
là
gì
?
Khổ,
tập,
diệt,
đạo".
Nghĩa
chữ
đế
:
Ðế
là
chơn
thực,
không
hư
vọng.
Sách
Nghĩa
Lâm
Chương
viết
:
đế
có
nghĩa
là
thực.
Sự
là
sự
thực.
Lý
là
lý
thực.
Cả
lý
và
sự
đều
không
sai.
Cho
nên
gọi
là
đế...
Các
Thánh
dế
là
các
chơn
lý,
các
nguyên
lý
chơn
thực
mà
các
bậc
Thánh
đã
chứng
ngộ,
là
các
chơn
lý
giúp
chúng
ta
vượt
qua
địa
vị
phàm
phu,
tiến
lên
hàng
bậc
thánh.
Các
tên
gọi
khác
là
bốn
chân
đế,
hay
bốn
đế
pháp.
I.
KHỔ
ÐẾ
:
Chân
lý
về
sự
khổ
:
Phương
pháp
nhận
thức
của
Phật
là
thực
tiễn,
tuyệt
đối
không
có
gì
là
siêu
hình
hay
thần
thoại.
Phật
nói
thẳng
đời
người
khổ
như
thế
nào
:
già
khổ,
ốm
khổ,
sanh
khổ,
chết
khổ,
xa
người
mình
yêu
là
khổ,
gần
người
mình
không
ưa
là
khổ,
cầu
không
được
là
khổ...
Ðấy
là
những
nỗi
khổ
rất
thực
tế
mà
ai
cũng
cảm
nhận
được,
miễn
là
có
chút
lương
tri.
Cách
phân
tích
khổ
theo
Phật
giáo
Nam
Tông
:
Cuốn
"Thanh
tịnh
đạo
luận"
phân
tích
chi
tiết
thành
12
loại
khổ
:
1/
Sanh
là
khổ
2/
Già
là
khổ.
3/
Bịnh
là
khổ
4/
Buồn
rầu
(sorrow)
là
khổ
5/
Rên
la
là
khổ
(lamentation)
6/
Ðau
đớn
là
khổ
(pain)
7/
Ưu
tư
là
khổ
(grief)
8/
Thất
vọng
là
khổ
(despair)
9/
Gần
gũi
người
mình
ghét
là
khổ
10/
Xa
người
mình
thương
là
khổ
11/
Không
có
được
cái
mình
mong
muốn
là
khổ
12/
Nói
tóm
lại,
tức
năm
thủ
uẩn
là
khổ.
Ðiểm
khác
giữa
sự
phân
tích
của
Phật
giáo
Nam
Tông
với
Phật
giáo
Bắc
Tông
là
ở
các
điểm
từ
4
đến
8,
và
cuối
cùng
là
điểm
12,
mà
Bắc
Tông
thường
gọi
là
ngũ
ấm
xí
thịnh
khổ.
Chúng
ta
sẽ
bắt
đầu
từ
điểm
4
buồn
rầu
là
khổ.
(4)
Buồn
rầu,
bản
dịch
Anh
ngữ
của
Thanh
tịnh
đạo
luận
gọi
là
sorrow
và
Buddhaghosa
(Hán
dịch
âm
là
Phật
Âm)
giải
thích
là
nỗi
buồn
hun
cháy
trong
tâm
người,
thí
dụ
khi
có
người
thân
qua
đời,
một
nỗi
buồn
liên
tục
và
kéo
dài.
(5)
Rên
la
là
khổ.
Bản
dịch
Anh
ngữ
cuốn
"Thanh
tịnh
dạo
luận"
gọi
là
Lamentation,
dịch
là
rên
la,
gào
thét,
tức
một
nỗi
buồn
bộc
lộ
ồn
ào.
Buồn
rầu
đã
là
khổ
rồi,
buồn
rầu
thêm
kêu
gào,
rên
la
lại
càng
khổ
hơn.
(6)
Ðau
đớn
là
khổ.
Bản
Anh
ngữ
cuốn
"Thanh
tịnh
đạo
luận"
dịch
là
pain.
Phật
âm
giải
thích
là
sụ
đau
đớn
trong
thân.
(7)
Ưu
tư
là
khổ.
Bản
Anh
ngữ
cuốn
"Thanh
tịnh
đạo
luận"
dịch
là
grief,
và
Phật
âm
giải
thích
là
nỗi
buồn
trong
tâm.
Tâm
bị
o
ép
nặng
nề.
Người
ưu
tư,
tuy
đau
trong
tâm,
nhưng
nhiều
khi
bộc
lộ
nỗi
ưu
tư
của
mình
bằng
nhiều
hành
động
như
đấm
ngực,
ngồi
rũ
lưng,
thậm
chí
tự
tử.
(8)
Thất
vọng
là
khổ.
Bản
Anh
ngữ
dùng
từ
despair.
Là
một
tâm
trạng
suy
sụp
tinh
thần
do
một
sự
mất
mát
nghiêm
trọng
nào
đó
đem
lại,
trên
con
đường
tình
yêu
danh
vọng,
làm
giàu.
Phật
Âm
đưa
ra
ảnh
dụ
sau
đây
để
phân
biệt
:
buồn
rầu
giống
như
nấu
nước
trên
một
ngọn
lửa
cháy
âm
ỉ.
Rên
la
giống
như
nước
sôi
reo
trong
bình.
Thất
vọng
giống
như
nước
đã
đun
lên
sôi
rồi,
và
sôi
cho
đến
khi
cạn.
Mục
12
:
Năm
thủ
uẩn
là
khổ
:
Thủ
là
chấp
thủ,
nắm
bắt
làm
của
mình
không
chịu
buông
tha.
Năm
thủ
uẩn
là
chấp
thủ
năm
uẩn
cho
nên
khổ.
Trong
"Thanh
tịnh
đạo
luận"
dưới
mục
này,
viết
:
"Nói
tóm
lại,
năm
thủ
uẩn
là
đối
tượng
chấp
thủ
là
khổ".
Bắc
tông
dùng
khái
niệm
:
Ngũ
ấm
xí
thịnh
khổ
ý
tứ
là
năm
ấm,
tức
năm
uẩn
lớn
mạnh
chi
phối,
đem
lại
khổ
não.
Lại
có
nghĩa,
do
con
người
có
năm
ấm
mà
chịu
nhiều
nỗi
khổ
(cũng
có
sách
viết
là
ngũ
ấm
thịnh
khổ).
Khái
niệm
ngũ
ấm
xí
thịnh
khổ
có
trong
các
kinh
Trung
A
Hàm
quyển
7
,
Tăng
nhứt
A
Hàm
quyển
17,
Du
Già
sư
địa
luận
quyển
66,
Ðại
Trí
Ðộ
Luận
quyến
23,
Hiến
dương
Thánh
giáo
luận
quyển
15...
Khổ
ở
cõi
ác
:
Bàn
về
cái
khổ
ở
các
cõi
khổ,
cõi
ác,
sách
nói
tới
địa
ngục,
nơi
khổ
cùng
cực,
một
ngày
một
đêm
có
tới
vạn
lần
chết,
vạn
lần
sanh
:
có
tám
địa
ngục
nóng,
tám
địa
ngục
lạnh,
ở
đấy
có
cái
khổ
núi
tua
tủa
giáo,
lá
cây
là
kiếm.
Cõi
quỷ
đói
thì
bụng
thường
bị
đói
vì
bụng
to
như
cái
trống,
cuống
họng
thì
bé
như
cái
kim,
bị
đao
chém
gậy
đánh.
Cõi
súc
sanh
thì
có
cái
khổ
ăn
thịt,
cấu
xé
nhau,
con
thú
mạnh
ăn
tươi
nuốt
sống
con
thú
yếu.
Cõi
Tu
la
có
cái
khổ
hay
nóng
giận
và
đánh
nhau.
Khổ
ở
cõi
nguời
và
cõi
Trời
:
Cõi
người
có
tám
khổ,
có
cái
khổ
thiên
tai,
đói
kém,
ôn
dịch...
đao
bịnh.
Ở
cõi
Trời
Dục
giới
có
cái
khổ,
khi
hưởng
hết
phúc
phải
đọa
xuống
các
cõi
sống
thấp
hơn,
khổ
hơn.
Ở
cõi
Ðịa
cư
thiên
có
cái
khổ
phải
chiến
tranh
với
A
tu
La;
ở
cái
cõi
Trời
Vô
sắc,
vẫn
còn
"hành
khổ"
tuy
có
thọ
mạng
lâu
6
vạn
kiếp,
nhưng
rồi
cũng
trở
lại
luân
hồi
trong
các
cõi.
II.
TẬP
ÐẾ
Nội
dung
của
Tập
đế,
chân
lý
về
nguyê
n
nhân
của
Khổ
là
phiền
não
và
nghiệp.
Từ
sanskrit
Samudaya
có
tiền
tố
sam
nghĩa
là
tập,
tích
tập.
Do
các
phiền
não
tích
tập
khởi
lên
dẫn
tới
tạo
nghiệp
chồng
chất.
A.
PHIỀN
NÃO
GIẢI
THÍCH
TỪ
NGỮ
:
S.
Klesa
P.Kilesa,
Hán
dịch
nghĩa
là
Hoặc,
Trần
lao
(bụi
trần
làm
cho
con
người
khổ
sở).
Nhiễm
:
làm
dơ
bẩn.
Công
năng
của
phiền
nã
o
là
làm
rối
loạn
thân
tâm
của
chúng
sinh,
gây
trở
ngại
cho
việc
tu
hành
chứng
đạo,
thoát
khỏi
sanh
tử,
thể
nhập
Niết
bàn.
CÁC
TỪ
ÐỒNG
NGHĨA
VỚI
PHIỀN
NÃO
Tùy
miên
:
Anusaya,
ý
tứ
là
phiền
não
có
sẵn,
nhưng
dưới
dạng
tiềm
ẩn
ở
trong
tâm
người,
chờ
có
nhơn
duyên
mới
biểu
hiện.
Miên
có
nghĩa
đen
là
ngủ,
nằm
ngủ.
Tùy
có
nghĩa
là
đeo
đuổi,
không
tách
rời.
Các
phiền
não
nằm
phục
sẵn
trong
tâm
chúng
ta
và
luôn
đeo
đuổi
chúng
ta.
Khi
phiền
não
biểu
hiện
thì
sách
Phật
gọi
là
triền,
với
nghĩa
trói
buộc
chi
phối
S.parijavasthana
P.pariyutthana.
Kết
S.samyojana
:
Chia
thành
3
kết,
5
thượng
phần
kết
,
5
hạ
phần
kết
,
7
kết,
9
kết,
10
kết...
a/Ba
kết
:
là
thân
kiến,
tức
chấp
cái
thân
này
là
Ta
hay
của
Ta.
Nghi
(không
có
niềm
tin
ở
chân
lý,
lẻ
phải)
tướng
của
nghi
là
do
dự,
phân
vân.
Giới
cấm
thủ,
thủ
là
chấp,
bám
lấy,
không
chịu
buông
ra.
Có
một
số
giới
cấm
vô
ích,
phi
lý
có
hại
cho
sức
khỏe
của
thân,
và
sự
lành
mạnh
của
tâm,
nhưng
có
người
vẫn
cho
là
đúng,
bám
chặt
vào
không
chịu
buông
tha,
thí
dụ
tin
rằng
ép
xác
làm
khổ
thân
xác,
như
bò
không
đi
thẳng
người,
cả
đời
đứng
1
chân,
còn
chân
kia
treo
lên...
Sống
như
vậy
lầm
tưởng
sẽ
được
giải
thoát
và
khi
chết
sẽ
được
sanh
lên
cõi
Trời.
b/
Năm
thượng
phần
kết
:
1)Sắc
tham
;
2)
Vô
sắc
tham
;
3)
Trạo
cử
;
4)
Mạn
;
5)
Vô
minh
1)
Sắc
tham
:
là
thèm
muốn
cuộc
sống
ở
cõi
Trời
sắc
giới.
2)
Vô
sắc
tham
:
thèm
muốn
cuộc
sống
ở
cõi
Trời
Vô
sắc.
Ở
đây
cần
phải
chú
ý
là,
theo
đạo
Phật
cuộc
sống
ở
hai
cõi
Trời
Sắc
giới
và
Vô
Sắc
giới
tuy
sung
sưóng
hơn
rất
nhiều
so
với
cõi
Người
,
nhưng
vẫn
chưa
phải
là
ra
khỏi
được
vòng
luân
hồi
sanh
tử,
chưa
được
giải
thoát,
chưa
phải
là
cảnh
giới
Niết
bàn.
3)
Trạo
cử
:
thân
tâm
lăng
xăng,
không
yên.
4)
Mạn
:
kiêu
ngạo.
5)
Vô
minh
:
tức
là
si.
Năm
kết
sử
nà
y,
vừa
nặng
nề
vừa
nhỏ
nhiệm,
nên
khó
đoạn
phải
chứng
quả
A
La
Hán
mới
được
trừ
hết
(cho
nên
gọi
là
Thượng
phần
Kết,
tức
là
loại
kết
sử
cao
cấp)
cũng
gọi
là
5
độn
sử.
Theo
Hữu
bộ,
tham,
sân,
si,
mạn,
nghi
là
5
độn
sử.
c)
Năm
hạ
phần
kết
(Kết
sử
hạ
cấp,
vì
thô
cho
nên
dễ
đoạn
trừ
hơn,
so
với
thượng
phần
kiết
sử)
1)
Dục
tham
2)
Sân
giận
3)
Thân
kiến
(chấp
thân
5
uẩn
này
là
Ta
hay
của
Ta).
Vì
vậy
cũng
gọi
là
hữu
thân
kiến,
hay
ngã
kiến.
4)
Nghi
5)
Giới
cấm
thủ.
Chứng
được
quả
A
Na
Hàm
(quả
Thánh
thứ
ba)
thì
đoạn
hết
5
hạ
phần
kết
sử
này
(cũng
gọi
là
5
lợi
sử).Theo
hữu
bộ,
thân
kiến,
biên
kiến,
tà
kiến,
kiến
thủ,
giới
cấm
thủ
là
5
lợi
sử.
d/
Bảy
kết
:
1)
Dục
tham
2)
Sân
giận
3)
Tà
kiến
4)
Nghi
5)
Mạn
6)
Hữu
tham
(tham
muốn
tồn
tại)
7)
Vô
minh.
e/
Chín
kết
:
1)
Ái
;
2)
Sân
giận
;
3)
Mạn
;
4)
Vô
minh
;
5)
Kiến
(tà
kiến);
6)
Giới
cấm
thủ
;
7)
Nghi
;
8)
Tật
(ghen
ghét)
;
9)
Xan
(keo
kiệt).
f/
Mười
kết
:
(Trong
chín
kết
nói
trên,
chia
Ái
làm
hai:
Dục
tham
và
Hữu
tham).
Cái:
S.Nivarana.
Cái
ngăn
che.
Năm
cái
:
Dục
tham,
sân
giận,
hôn
trầm
thụy
miên
(viết
tắt
là
hôn
miên),
trạo
hối
(cũng
gọi
là
trạo
cử)
và
nghi.
Nhập
sơ
thiền
thì
bỏ
được
5
cái
nói
trên.
Ách
:
cái
ách
bò,
tròng
vào
cổ
con
bò,
phiền
não
cũng
như
ách
bò,
nhưng
tròng
vào
cổ
người
(S.
Yoga)
ách
=
Dục
hữu,
kiến,
vô
minh.
Lậu
:
S.Asrava,
Rasava
(sai
sót,
khuyết
điểm)
có
ba
lậu
:
Dục
lậu
:
sai
sót
vì
đam
mê
dục
vọng;
Hữu
lậu,
sai
sót
vì
đam
mê
tồn
tại
ở
2
cõi
trời
sắc
và
vô
sắc;
Vô
minh
lậu,
sai
sót
vì
ngu
si.
Bộc
lưu
:
S.Ogha
:
giòng
chảy
xiết.
Có
bốn
Bộc
lưn
là
:
dục
tham,
hữu
tham,
kiến
(tà
kiến,
vọng
kiến),
vô
minh.
Hệ
:
trói
buộc,
S.grantha
P.gantha,
các
từ
có
nghĩa
tưong
tự
là
Hệ
phược,
kết
phược.
Có
bốn
hệ
:
Dục,
hữu,
kiến,
vô
minh.
Ngoài
ra,
có
các
từ
Tam
hỏa
(3
ngọn
lửa),
Tam
cấu
(ba
cái
nhơ
bẩn),
Tam
độc
(ba
độc).
Cụ
thể
tức
là
tham
dục,
sân
giận
và
ngu
si.
Tiễn
:
mũi
tên.
Phiền
não
ví
như
mũi
tên.
Trù
lâm
:
rừng
rậm.
Phiền
não
nhiều
như
rừng
rậm.
Kết
phược
:
phiền
não
kết
liền
lại,
kết
tụ
lại
để
trói
buộc
chúng
sanh.
S.jata.
Tăng
thịnh
:
S.Utsada,
Ussada;
phiền
não
và
dục
vọng,
càng
tìm
cách
thỏa
mãn
chúng,
thì
chúng
càng
tăng
trưỏng.
Người
tu
hành,
khi
chứng
quả
Tu
đà
hoàn
(tức
là
quả
Dự
lưu
hay
Sơ
quả)
thì
đoạn
trừ
đuợc
ba
phiền
não
là
thân
kiến,
nghi
và
giới
cấm
thủ.
Khi
chứng
quả
A
Na
Hàm
tức
là
quả
Bất
Lai
thì
đã
đoạn
hết
mọi
phiền
não
thuộc
Dục
giới,
tức
đoạn
hết
năm
hạ
phần
kiết
sử,
đến
quả
A
La
Hán
thì
đoạn
luôn
năm
thượng
phần
kiết
sử,
(tức
là
mọi
phiền
não
của
Sắc
giới
và
Vô
sắc
giới).
Các
bậc
Thánh
gọi
là
4
đôi,
8
chúng
theo
kinh
nguyên
thủy.
Bốn
đôi
đồng
nghĩa
với
tám
chúng
:
1.
Hướng
tới
Tu
Ðà
Hoàn
(Sơ
quả,
1
đôi,
cũng
gọi
là
Dự
Lưu)
2.
Ðã
chứng
Tu
Ðà
Hoàn–
2
đôi.
3.
Hướng
tới
Tu
Ðà
Hàm
(Nhất
lai)
4.
Ðã
chứng
Tư
Ðà
Hàm–3
đôi
5.
Hướng
tới
A
Na
Hàm.
6.
Ðã
chứng
A
Na
Hàm–
4
đôi
7.
Hướng
tới
A
La
Hán.
8.
Ðã
chứng
A
La
Hán.
Quá
trình
tu
chứng
bốn
quả
Thánh
:
Tu
đà
Hoàn,
Tư
đà
Hàm,
A
Na
Hàm,
A
la
Hán
chia
làm
ba
giai
đoạn:
Kiến
đạo
vị
-
Tu
đạo
vị
-
và
Cứu
kính
vị.
Vị
là
quả
vị.
Quả
vị
cứu
kính
là
quả
A
La
Hán.
Trong
giai
đoạn
Kiến
đạo
thì
đoạn
trừ
kiến
hoặc,
tức
là
mọi
mê
lầm,
mê
hoặc
trong
kiến
giải,
nhận
thức,
đồng
thời
đoạn
trừ
mọi
phiền
não,
gắn
với
kiến
hoặc.
Trong
giai
đoạn
tu
đạo,
thì
đoạn
trừ
mọi
tu
hoặc.
Ðoạn
hết
kiến
hoặc
và
tư
hoặc
thì
sẽ
chứng
quả
A
La
Hán.
Tư
hoặc
cũng
gọi
1à
Tu
hoặc
là
những
mê
lầm
chỉ
có
hành
trì
tu
trì
mới
đoạn
trừ
được.
Phân
biệt
kiến
hoặc
và
tư
hoặc
:
Kiến
hoặc
là
mê
lầm
về
lý
luận,
về
kiến
giải.
Những
mê
lầm
này
không
phải
bẩm
sinh,
mà
do
học
tập
sai
lầm,
học
không
đến
nơi
đến
chốn
mà
có.
Nếu
được
nghe
chánh
pháp,
gần
bạn
lành,
thì
sẽ
đoạn
trừ
được
kiến
hoặc.
(Vì
vậy
mà
cũng
gọi
là
Lợi
sử,
Sử
là
hoặc,
phiền
não).
Tư
hoặc
là
phiền
não
bẩm
sinh,
rất
khó
doạn
trừ,
mặc
dù
biết
chúng
là
sai
lầm
đưa
đến
khổ
não.
Vì
đó
là
sai
lầm
đã
thành
thói
quen
phải
tu
hành
lâu
dài,
kiên
trì,
mới
trừ
bỏ
được,
cho
nên
cũng
gọi
chúng
là
độn
sử,
tức
kiết
sử
trì
trệ,
khó
đoạn.
Thân
kiến,
biên
kiến,
tà
kiến,
kiến
thủ,
giới
cấm
thủ
là
năm
lợi
sử
(5
hạ
phần
kiết).
Tham,
sân,
vô
minh
(si),
mạn,
nghi
là
năm
độn
sử
(năm
thượng
phần
kiết).
Sáu
loại,
mười
loại
phiền
não
căn
bổn
:
Trong
kiến
hoặc
và
tư
hoặc,
cái
chủ
yếu
là
các
phiền
não
căn
bổn.
Các
sách
phân
biệt
có
sáu
loại
và
10
loại
phiền
não
căn
bổn.
Trong
số
này,
tham,
sân,
si
là
ba
loại
nổi
bật
nhứt,
đứng
hàng
đầu,
và
trong
ba
loại
này,
thì
si
cũng
gọi
là
vô
minh
là
căn
bản
nhứt.
Ví
dụ,
trong
12
nhơn
duyên,
vô
minh
được
xếp
hàng
đầu.
Sáu
loại
phiền
não
căn
bổn
sắp
xếp
như
sau
:
1/
Tham
;
2/
Sân
;
3/
Si
(vô
minh)
;
4/
Mạn
;
5/
Nghi
;
6/
Kiến
giải
sai
lầm
(gọi
tắt
là
kiến).
Kiến
giải
sai
lầm
thường
gọi
tắt
là
kiến
và
phân
tích
thành
năm
mục
:
-
Thân
kiến
-
Biên
kiến,
-
Tà
kiến,
-
Kiến
thủ,
-
Giới
cấm
thủ
Tổng
hợp
lại
thành
10
phiền
não
căn
bổn
(do
kiến
tách
thành
năm
loại
kiến).
Trong
10
phiền
não
căn
bổn
liệt
kê
trên
đây
thì
tham,
sân,
si,
mạn
là
tư
hoặc.
Nghi
và
kiến
là
kiến
hoặc.
Tư
hoặc
cũng
có
10
loại
:
4
loại
ở
Dục
giới,
3
loại
ở
sắc
giới
và
3
loại
ở
vô
sắc
giới.
Ở
Sắc
giới
và
Vô
sắc
giới
không
còn
có
sân,
chỉ
có
tham,
si,
mạn,
tống
cộng
là
10
tư
hoặc:
Tham,
sân,
si,
mạn
ở
Dục
giới
Tham,
si,
mạn
ở
Sắc
giới,
Tham,
si,
mạn
ở
Vô
sắc
giới.
Tám
mươi
tám
kiến
hoặc
:
là
tổng
số
kiến
hoặc
ở
ba
giới.
Ðây
là
cách
phân
chia
của
A
Tỳ
Ðàm,
chi
ly
và
phức
tạp
cho
nên
không
thể
bàn
ở
đây.
Tám
mươi
mốt
tư
hoặc
:
đem
sắc
giới
chia
làm
bốn
cấp,
ứng
với
bốn
cấp
thiền
sắc
giới.
Ðem
Vô
sắc
giới
chia
làm
bốn
cấp,
ứng
với
bốn
cấp
thiền
của
vô
sắc.
Và
mỗi
cấp
như
vậy
lại
chia
thành
ba
cấp
vị
:
thượng,
trung,
hạ
:
chín
cấp.
Mỗi
cấp
có
chín
vị.
Tổng
cộng
thành
81
Tư
hoặc.
Các
cách
xếp
loại
phiền
não:
Về
xếp
loại
phiền
não,
môn
Duy
thức
học
có
sự
xếp
loại
hoàn
chỉnh
hơn,
lập
thành
biểu
như
sau:
Phiền
não
căn
bổn
(6)
:
1.Tham;
2.
Sân;
3.
Si;
4.
Mạn
;
5.
Nghi
;
6.
Kiến.
Tùy
phiền
não
(20)
:
chia
làm
:
Tiểu
tùy
phiền
não
(10).
1.Phẫn;
2.
Hận;
3.
Phú;
4.
Não;
5.
Tật;
6.
Xan;
7.
Cuống;
8.
Siểm
;
9.
Kiêu
;
10.
Hại
;
Trung
tùy
phiền
não
(2)
:
11.
Vô
tàm;
12.
Vô
quý.
Ðại
tùy
phiền
não
:
(8)
13.
Hôn
trầm;
14.
Trạo
cử;
15.
Bất
tín;
16.
Giải
đãi
(lười);
17.
Phóng
dật
(buông
thả,
phóng
túng);
18.
Thất
niệm
(hay
quên,
không
nhớ
điều
thiện,
điều
phải);
19.
Tán
loạn;
20.
bất
chánh
tri.
Dưới
dây
sơ
lược
giải
thích
từng
món
phiền
não
:
Căn
bổn
phiền
nã
o
:
1.
Tham
:
(S.Lobha,
raga,
abhidhya.
P.abhijjha)
cũng
gọi
là
ái,
S.trsna,
P.tanha).
Lòng
tham
ở
cõi
Trời
Sắc
giới
gọi
là
Sắc
tham.
Lòng
tham
ở
cõi
Trời
vô
sắc
gọi
là
Vô
sắc
tham.
2.
Sân
:
S.dvesa,
dosa,
pratigha.
P.patigha,
vyapada,
tức
là
tỏ
thái
độ
cự
tuyệt,
phản
kháng
đối
với
điều
mình
không
hoan
hỷ,
thích
thú.
Các
tùy
phiền
não
phẫn,
hận,
hại,
đều
thuộc
phạm
vi
của
sân.
Phẫn
S.Krodha
P.Kodha
là
giận
dữ
đến
mức
độ
kịch
liệt.
Hận
Upanaha,
là
giận
ôm
ấp
trong
lòng,
như
nói
oán
hận.
Hại,
vihimasa
do
giận
mà
có
hành
vi
hại
người,
hại
vật.
3.
Mạn
:
Mana,
tức
là
đề
cao
mình,
hạ
thấp
người
khác
xuống,
xem
mình
là
trung
tâm
của
tất
cả.
Sách
Phật
phân
biệt
ba
mạn
:
Ngã
thắng
mạn,
Alimana.
Là
tự
cho
mình
hơn
người.
Ngã
đẵngmạn,
tự
cho
mình
bằng
người,
Mana.
Ngã
liệt
mạn,
tự
cho
mình
kém
người
(một
cách
không
thực),
avamna,
cũng
gọi
là
ty
mạn
hay
ty
hạ
mạn.
Có
sách
phân
biệt
7
mạn
:
1/
Mạn,
2/
Quá
mạn,
3/
Mạn
quá
mạn,
maha-timaha
4/
Ty
mạn
5/
Tăng
thượng
mạn,
Manatimana,
adhimana.
6/
Ngã
mạn
asmimana.
7/
Tà
mạn,
mithymana,
micchamana.
Trong
tùy
phiền
não,
có
kiêu,
mada
thường
dùng
trong
hợp
từ
kiêu
mạn.
Tuy
nhiên,
mạn
khác
với
kiêu
là
so
với
người,
cho
rằng
mình
hơn
gọi
là
mạn.
Còn
kiêu
là
một
sự
tự
hào,
không
có
so
sánh
với
người
khác.
4.
Vô
minh
:
S.Avidya,
P.Avijja.
Cũng
gọi
là
ngu
si,
moha,
là
không
hiểu
biết
hay
là
hiểu
biết
sai
sự
lý
của
duyên
khởi,
của
bốn
đế.
5.
Kiến
:
S.Drsti
P.ditthi,
tức
là
mọi
kiến
giải
sai
lầm.
Hữu
bộ
phân
biệt
có
năm
loại
kiến
:
a/Thân
kiến
:
S.satkaya
drsti,
P.sakkayaditthi.
Tức
là
thấy
có
thân
của
ta,
cũng
dịch
âm
là
Tất
cả
gia
kiến.
Chấp
năm
uẩn
là
Ta,
là
của
Ta.
b/
Biên
kiến:
Antagraha
drsti.
Pantaggaha
ditthi.
Cũng
gọi
là
biên
chấp
kiến.
Nghĩa
là
có
thái
độ
cực
đoan,
tuyệt
đối
chấp
vào
một
bên,
như
chấp
thế
gian
là
thường
còn
hay
đoạn
diệt,
vũ
trụ
là
hữu
biên
hay
vô
biên...
c/
Tà
kiến
:
S.mithya
drsti
P.Miccha
ditthi,
nghĩa
rộng
là
mọi
kiến
giải
tà
ác,
sai
lầm.
Nhưng
ở
đây
chỉ
cho
10
tà
kiến
là
không
bố
thí,
không
cúng
dường,
không
tế
tự,
không
thiện
ác,
và
quả
báo,
không
đời
này,
không
đời
sau,
không
cha,
không
mẹ,
không
có
hữu
tình,
không
có
hóa
sinh,
không
có
người
tu
hành
chứng
quả.
Không
chấp
nhận
lý
nhơn
quả
là
tà
kiến
tệ
hại
nhứt,
ngoài
ra
còn
có
các
tà
kiến
khác
như
không
chấp
nhận
có
Tam
bảo.
d/
Kiến
thủ
:
S.arsti
-
paramasa,
P.ditthi
paramana,
cũng
gọi
là
kiến
thủ
kiến.
Tức
là
tự
cho
ý
kiến
của
mình
là
đúng
hơn
tất
cả,
ý
kiến
của
các
người
khác
đều
là
sai
lầm,
rồi
chấp
chặt
vào
ý
kiến
đó.
e/
Giới
cấm
thủ
kiến
:
S.Silata
-
paramana,
P.Silabbata
paramana.
Chỉ
cho
1
số
giới
luật
của
ngoại
dạo,
như
giới
con
chó,
giới
con
voi
(giới
ngồi
chồm
như
chó,
giới
đi
như
voi...)
Ngoại
đạo
cho
rằng
sống
khổ
hạnh
theo
những
giới
đó
thì
sẽ
được
giải
thoát
hoặc
sanh
thiên.
Hữu
bộ
phân
biệt
có
hai
loại
giới
cấm
thủ
là
:
(1)
:
Phi
đạo
kế
đạo
:
không
phải
là
đạo
giải
thoát
mà
chấp
là
đạo
giải
thoát.
(2)
Phi
nhân
kế
nhân
:
Không
phải
là
nhân
sanh
thiên
mà
chấp
nhân
là
nhân
sanh
thiên.
6/
Nghi
:
S.
Vicikitsà
;
P.Vickiccha,
chỉ
cho
lòng
hoài
nghi
Tam
bảo,
nghi
nghiệp
báo
thiện
ác,
nghi
nhân
quả
ba
đời,
nghi
thuyết
bốn
đế...
Tùy
phiền
não
(giới
thiệu
những
món
chính).
Xan
:
là
keo
kiệt.
Có
năm
loại
keo
kiệt
là
:
Trú
xứ
xan
:
keo
kiệt
về
nơi
ở.
Gia
lan
:
keo
kiệt
thu
vén
cho
gia
đình.
Lợi
dưỡng
xan
:
keo
kiệt
về
lợi
dưõng.
Xưng
thán
xan
:
chỉ
muốn
một
mình
mình
được
khen
ngợi.
Pháp
xan
:
không
muốn
nói
pháp
cho
người
khác
được
nghe.
11.
Vô
tàm
:
Nội
tâm
không
biết
thẹn.
12.
Vô
quý
:
Ðối
với
người
không
biết
thẹn.
13.
Hôn
trầm
:
tâm
nặng
nề,
mê
muội.
14.
Trạo
cử
:
tâm
căng
thẳng,
không
định
tỉnh,
lăng
xăng,
không
yên.
15.
Giải
đãi
:
lười
nhác,
không
siêng
năng,
tinh
tấn.
16.
Phóng
dật
:
buông
thả,
phóng
túng.
Quan
hệ
giữa
trí
tuệ
và
phiền
não
:
Phiền
não
gây
chướng
ngại
đối
với
đạo
Thánh,
đối
với
trí
tuệ.
Do
dó,
dùng
trí
tuệ
có
thể
đoạn
trừ
phiền
não,
đoạn
trừ
hết
phiền
não
tức
là
giải
thoát,
là
Niết
bàn
là
Bồ
Ðề
(giác
ngộ).
Dàn
bài
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5
|
6
_____
| Mục lục tác giả|
---o0o---
Vi
tính : Mỹ Hồ
Trình bày : Nhị
Tường