THÊNH THANG BA-LA-MẬT
Huệ Trân
Bạn chưa từng ghé thăm mà
không gọi trước. Vậy mà lần này, mở cửa, chưa nhìn thấy người đã thấy
hoa và trái. Mấy bó cúc đại đóa vàng tươi che kín mặt, chưa đủ, tay kia
còn chĩu nặng một giỏ, vừa hồng dòn, vừa soài xanh, mận chín. Tôi toan
đỡ một thứ, bạn đã bước nhanh qua cửa, đi thẳng vào bếp, đặt quà xuống,
và líu lo:
- Hên ghê, mình
vừa đến tiệm là xe chở hoa và trái cây phân phối các chợ cũng vừa tới.
Xem này, thiệt là tươi. Mình mua ngay. Khách hàng đầu tiên đấy!
Tôi trách nhẹ:
- Tươi thì tươi
chứ mua chi dữ vậy? Định mang cho những đâu mà khiêng lắm thế?
Bạn bỗng dừng tay
sắp xếp, cất tiếng như chim:
- A! Á! Đừng có
hỏi mang đi đâu, và cho ai nhé! Bố thí Ba La Mật là chi? Của cho, người
cho, kẻ nhận, chẳng cần biết nhau, phải không? Mà này, hôm nay có rảnh
không? Có thì giờ uống trà không? Mình nói chuyện lai rai về Ba La Mật
đi!
Tôi cũng “bắt
chước tiếng chim”:
- A! Á! Nói tới
nơi tới chốn thì nói, chứ không nói lai rai! Còn ai đa đoan tới mức
không có thì giờ uống trà thì … sống làm chi nhỉ?
Rồi “bình trà Ba
La Mật” thơm ngát, được có mặt, do lần bạn ghé thăm không báo trước như
thế.
Chỉ xin xác định,
đây như buổi mạn đàm ngẫu hứng của bạn đạo, tung tăng dắt nhau vào khu
rừng mênh mông vì bỗng cùng muốn tìm một loài dược thảo đã được nghe là
thần dược. Tìm thấy thế nào thì nói như thế ấy, theo cái biết, cái thấy
của riêng cá nhân mà thôi. Chư vị nào thấy không phù hợp ý mình, xin mời
nâng tách trà và … hỷ xả ba-la-mật!
Ba La Mật Đa là
dịch âm từ Pàramità, nếu dịch theo chữ, là Đáo Bỉ Ngạn, có nghĩa là qua
bờ bên kia.
Người học Phật
thường nghe nói đến Lục Độ Ba La Mật là sáu hạnh, mà nếu hành giả nương
theo một cách chính xác, miên mật thì có thể đạt tới những quả vị như
Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán hoặc cao hơn. Như vậy đủ thấy
sự vi diệu và thù thắng cùa sáu hạnh này như thế nào.
Lục Độ Ba La Mật gồm: Bố thí,
Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.
Cả hai phái, Phật Giáo
Nguyên Thủy (PGNT) và Phật Giáo Đại Thừa (PGĐT) đều dựa trên căn bản này,
bổ túc thêm bốn hạnh, tùy theo mục đích và quan điểm của phái tu mà sắp
xếp thành một danh xưng chung là Thập Ba La Mật hay còn gọi đơn giản là
Mười Pháp Ba La Mật.
Trước hết, để dễ nhận diện,
chúng ta sẽ đi từng bước qua bảng đối chiếu Thập Ba La Mật sau đây, của
hai phái PGNT và PGĐT:
PG NGUYÊN THỦY(PGNT):
PG ĐẠI THỪA (PGĐT):
1- Bố thí (Dàna)
1-Thí ba la mật
2- Trì giới (Silà)
2- Giới ba la mật
3- Xuất gia (Nekkhamma)
3- Nhẫn ba la mật
4- Trí tuệ (Pãnnà)
4- Tinh tấn ba la mật
5- Tinh tấn (Viriya)
5- Thiền ba la mật
6- Nhẫn nại (Khanti)
6- Bát-nhã ba la mật
7- Chân thật (Sacca)
7- Phương tiện ba la mật
8- Quyết định (Adhithàna)
8- Nguyện ba la mật
9- Tâm Từ (Mettà)
9- Lực ba la mật
10- Tâm Xả (Upekkhà)
10- Trí ba la mật
Trước hết, chúng
ta nhận thấy cả hai phái, Phật Giáo Nguyên Thủy (PGNT) và Phật Giáo Đại
Thừa (PGĐT) đều sắp xếp hai hạnh, Bố-thí và Trì-giới lên trên, chứng tỏ
tầm quan trọng của hai hạnh này.
1- BỐ THÍ (PGNT) –
THÍ BA LA MẬT (PGĐT):
Gồm Tài-thí (Dravyadàna),
Pháp-thí (Dharmadàna) và Vô-úy-thí (Abhayadàna) Khi nói tới “cho”
là ta phải hình dung ra ba yếu tố: người cho, người nhận và vật cho.
Tài-thí gồm hai loại là
Ngoại-thí và Nội-thí. Trong hai loại này, Ngoại-thí dễ cho hơn vì đó là
những vật bên ngoài như tiền bạc, áo quần, đồ đạc, lương thực v…v… Còn
Nội-thí là những bộ phận trong thân thể con người nên người muốn cho
Nội-thí phải là người phát tâm đại bi dõng mãnh, như khi Đức Phật còn
làm Bồ Tát, Ngài đã từng bố thí đầu, mắt, tay, chân cho kẻ cầu xin. Ngày
nay, với kỹ thuật y học tân tiến, chúng ta cũng có thể chia xẻ bộ phận
cho nhau để cứu sống lẫn nhau, nhưng vẫn đòi hỏi người cho phải có lòng
mẫn cảm phi thường.
Pháp-thí không chỉ
là chia xẻ cho nhau những lời giảng dạy chánh pháp của Chư Phật, mà dùng
lời chân thật đem lại hòa khí, an lạc cho nhau cũng có thể gọi là
Pháp-thí vì Chư Phật há chẳng khuyên dạy chúng ta rằng ái ngữ có thể
mang đến niềm vui và hạnh phúc ư?
Theo kinh tạng
Nguyên Thủy (Anguttara, Itivuttaka) thì chỉ có hai loại Bố-thí, là
Tài-thí và Pháp-thí, nhưng theo tinh thần giáo lý Đại Thừa thì ngoài hai
loại bố thí căn bản trên, còn một loại bố thí nữa không kém phần quan
trong. Đó là Vô-úy-thí, tức là giúp đem sự bình an tới cho người đang
quay cuồng, sợ hãi.
Theo đúng nghĩa
cao cả từ lời Phật dạy thì bố là khắp, thí là cho. Bố thí là xả bỏ lòng
tham lam vị kỷ, có thể cho tất cả những gì ta có, tới tất cả những ai
thực sự đang cần. Khi cho, người cho phải hoan hỷ, đại lượng, cho đúng
lúc, không so đo, không chần chừ. Chỉ biết, kia là kẻ đang cần, đây là
vật ta đang có, lòng rộn rã lời nhắc nhở khôn nguôi của Chư Phật trong
Kim Cương Chân Kinh: “Hãy cho. Hãy cho đi. Hãy cho mà không chờ nhận
lại, dù là một lời cám ơn. Hãy cho và quên ngay những gì vừa cho
và cho ai. Ấy là đã liễu nghĩa tam-không, đã làm nên hạnh bố thí vô
tướng”. Đây cũng là thành quả của Bồ Tát bậc Sơ-địa
(Hoan-hỷ-địa)
2- TRÌ GIỚI (PGNT)
– GIỚI BA LA MẬT (PGĐT):
Theo Phạn ngữ,
giới có nghĩa là luật, là nội quy đặt ra những kỷ cương buộc những ai
trong cùng môi trường phải tuân theo để giữ được sự tốt đẹp, an lạc và
trật tự chung.
Tỷ như trên phố xá
đông đúc phải có luật giao thông, khi nào xe bên trái ngừng, khi nào xe
bên phải đi, nơi nào được chạy nhanh, nơi nào phải chạy chậm. Những
người đi trên phố xá đó phải cùng nghiêm chỉnh tuân hành để tránh tai
nạn, tránh phiền não khổ đau cho nhau, đưa đến mất hòa khí, sân hận.
Trong đạo,
giới là chuẩn mực của đạo đức được Đức Phật đặt ra làm thành trì bảo vệ,
che chở chúng ta khỏi phạm điều trái ngang, bất thiện. Nhìn tổng quát,
chúng ta thấy Đức Phật phân ra hai loại giới là Biệt-giải-thoát-giới và
Bồ-tát-giới.
Biệt-giải-thoát-giới hay gọi
cho dễ hiểu là Tùy-thuận-giải-thoát là chỉ dạy cho biết, không buộc
người phải tuân theo; tức là, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ
giới ít thì giải thoát ít.
Nghiêm túc hơn là
Bồ-tát-giới, theo tinh thần Đại-thừa lại phân định ra ba loại là
Nhiếp-luật-nghi-giới, Nhiếp-thiện-pháp-giới và Nhiêu-ích-hữu-tình-giới
mà giới đầu là những giới điều rất căn bản cho cả hai hàng Phật tử tại
gia và xuất gia.
Nhiếp-luật-nghi-giới, Phật
tử tại gia đã quy y Phật, tùy sự phát nguyện mà phải tuân theo Ngũ-giới,
Bát-quan-trai-giới, Thập-thiện v…v… Hàng xuất gia thì tùy theo giới đã
thọ mà phải tuân trì mười giới, mười sáu giới, hai trăm năm mươi giới
hay ba trăm bốn mươi tám giới.
Trong kho tàng kinh điển lưu
truyền cho hậu học, Đức Phật luôn nhắc nhở về Giới, Định, Tuệ là pháp
môn căn bản của người học đạo; trong đó, Giới đứng đầu vì giữ được Giới
mới sanh Định, rồi an trú được trong Định mới phát triển Tuệ.
Phác họa vài nét đơn sơ của
người biết tự chế theo giới luật thì điển hình, tuân theo ngũ giới, ta
tránh được sự sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và say sưa nhảm nhí.
Tuân theo mười giới, ta có thêm nét đẹp của sự giản dị, sự trong sáng,
biết thiểu dục tri túc, biết giữ gìn sức khỏe qua sự thọ nhận thức ăn và
xả bỏ lòng tham tích lũy tài sản vật chất. Rồi tuân theo mười giới trọng,
bốn mươi tám giới khinh, hai trăm năm mươi giới, ba trăm bốn mươi tám
giới v…v… chúng ta sẽ tạo biết bao nhân lành trong kiếp hiện tiền. Hành
trì giới luật giúp hành giả thường xuyên tự tỉnh giác, rốt ráo cũng là
đạt tới thành quả của bậc Nhị-địa (Ly-cấu-địa)
Ngoài đời, theo
PGNT, giới còn được hiểu là những trách nhiệm, bổn phận chung của những
người liên hệ với nhau. Đó là trách nhiệm và bổn phận giữa cha mẹ và con
cái, giữa vợ và chồng, giữa vua và tôi, giữa chủ và tớ, giữa thầy và trò
v…v… Nếu mọi người đều chu toàn được giới hạnh với nhau thì niềm vui và
hạnh phúc không thể vắng mặt.
3- XUẤT GIA (PGNT)
– NHẪN BA LA MẬT (PGĐT):
Tới đây, sự sắp
xếp giữa PGNT và PGĐT đã bắt đầu có khác biệt. Hành giả tu theo PGNT,
sau khi đã phát tâm từ bi, bố thí quảng đại, đã nương theo giới để trau
giồi phẩm hạnh thì điều thứ ba có thể tiến tới là xuất gia, sống đời tu
sỹ, thực sự cắt ái ly gia mới có nhiều hoàn cảnh thuận lợi cho sự tu tập
hầu phát triển được phẩm giá và nhân cách của những người đang đi trên
đường trung đạo, tự độ để đạt quả vị A La Hán.
Trong khi đó, bên
PGĐT, hạnh thứ ba chưa phải là xuất gia, mà Nhẫn- ba-la-mật mới cần kế
tiếp; vì với cái nhìn dõng mãnh hơn, khi bố thí (cho Nội-thí), và sâu sa
hơn (Vô-úy-thí) thì hành giả đã phát bồ-đề-tâm, không chỉ tự độ mà còn
độ tha. Khi ấy, hành giả đã hành bồ-tát-hạnh, đã đi trên bồ-tát-đạo nên
sự nhẫn nhục cần theo sát để yểm trợ cho những nghịch duyên mà Bồ Tát sẽ
gặp.
Như thí dụ về Bồ
Tát Thường Bất Kinh, nhận biết bao lời mắng chửi của thế nhân, nhận sự
ruồng rẫy như đuổi xua một kẻ mất trí, điên rồ, khi gặp ai Bồ Tát cũng
chắp tay cung kính “Tôi không dám khinh ngài vì ngài là Phật
sẽ thành.”
Giữ được hạnh
Nhẫn-ba-la-mật này, hành giả đạt tới thành quả của bậc Tam-địa
(Phát-quang-địa)
4- TRÍ TUỆ (PGNT)
- TINH TẤN BA LA MẬT (PGĐT):
Sự sắp xếp này tương đối dễ
hiểu, vì với PGNT, sau khi xuất gia, vị tu sỹ cần nỗ lực phát triển trí
tuệ, để khi học hỏi giáo pháp, hiểu được tận tường, hầu không sai lạc
khi hành trì. Theo nghĩa đơn giản, trí tuệ là sự hiểu biết trong sáng từ
những suy tư chính xác, miên mật, lột dần vỏ vô minh, mở con mắt tuệ
nhìn ra thật tướng của vạn pháp.
Với PGĐT, sau hạnh
Nhẫn là Tinh-tấn-Ba-la-mật vì sự tinh cần tu tập cực kỳ quan trọng khi
thường xuyên phải giữ tâm Nhẫn để không hủy nhục chúng sinh, phản kháng
nghịch duyên, sinh lòng sân hận.
Duy trì được Tinh-
tấn-ba-la-mật là đạt thành quả của bậc Tứ-địa (Diệm-huệ-địa)
5- TINH TẤN (PGNT)
– THIỀN BA LA MẬT (PGĐT):
Với PGNT thì Tinh-tấn
là phối hợp của Trí-tuệ và Quyết-tâm nên Tinh-tấn góp phần không nhỏ
trong sự thăng tiến của hành giả. Đó là năng lượng tinh thần có thể giúp
ta chuyển thất bại sang thành công.
Trong khi, với
PGĐT, Thiền ở đây được hiểu là Thiền-định, nằm trong Tam-vô-lậu-học, là
pháp môn căn bản dẫn hành giả tới cửa Bát-nhã. Cho nên, tới giai đoạn
này, PGĐT chú tâm vào thiền định, cẩn trọng không rời sự yểm trợ của
Bát-chánh-đạo nên đã giữ được chánh niệm cho tâm an định mà đạt thành
quả của bậc Ngũ-địa (Nan-thắng-địa)
6- NHẪN NẠI (PGNT)
– BÁT NHÃ BA LA MẬT (PGĐT):
Hạnh Nhẫn-nại không chỉ là
chịu đựng những thiệt thòi, oan trái, như tinh thần PGNT chỉ dạy, mà đối
chiếu là Bát-nhã-ba-la-mật mang tinh thần Đại thừa, dùng trí tuệ quán
chiếu nên thấy rõ mọi thực tướng của các pháp. Bất khả thuyết, bất khả
nghị, bất khả ngôn mới là chân thực. Thấu suốt diệu lý bình đẳng nơi đây
là đạt thành quả của bậc Lục-địa (Hiện-tiền-địa)
7- CHÂN THẬT (PGNT)
– PHƯƠNG TIỆN BA LA MẬT (PGĐT):
Lời chỉ dạy trong
tất cả các kinh điển không bao giờ thiếu sự nhắc nhở phải nói lời chân
thật. Sự thật luôn đi đôi với tàm qúy. Tàm là biết hổ thẹn với mình. Quý
là biết hổ thẹn với người. Tàm quý là lòng tự trọng giúp ta không nói
lời dối trá hại người. Trái lại, nếu nói lên sự thật nào đem lợi ích cho
người thì dẫu có bị thiệt thòi, hành giả vẫn sẵn sàng hiến tặng.
Đây là trí tuệ
quyền biến của Phương-tiện-ba-la-mật, là tự-tánh-thiện, là bản chất của
đạo đức đưa đến thành quả của bậc Thất-địa (Viễn-hành-địa)
8- QUYẾT ĐỊNH (PGNT)
– NGUYỆN BA LA MẬT (PGĐT):
Như hồ nước càng
trong, càng nhìn thấy sâu, thì người tu tập càng lắng tâm, càng thấy rõ
hỷ lạc. Đã thấy rõ, biết rõ đường đi, hành giả sẽ loại bỏ mọi đắn đo,
lưỡng lự, chỉ một lòng vững tin và quyết định cho mục tiêu tối hậu. Đó
cũng là chặng đường Văn, Tư, Tu mà PGĐT trải qua, để kết thành
Nguyện-ba-la-mật. Văn là huệ, do học mà biết. Tư, do chiêm nghiệm, quán
sát mà rõ. Và Tu là phát triển sự nhận biết để tự độ rồi độ tha, đạt
thành quả của bậc Bát-địa (Bất- động-địa)
9- TÂM TỪ (PGNT)–
LỰC BA LA MẬT (PGĐT):
Tâm từ đứng đầu Tứ
vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả) có năng lượng cực kỳ mạnh mẽ vì Tâm-Từ,
theo tinh thần Đạo Phật là lòng thương yêu rộng lớn không giới hạn,
không phân biệt, hướng tới muôn loài.
Khi ta có thể yêu
người như yêu ta thì năng lượng của Tâm Từ sẽ tự động tỏa sáng, mang
hạnh phúc đến cho người, để người lại trở thành hạnh phúc của ta.
Khi Đức Phật về
thăm nhà lần đầu, La Hầu La mới bẩy tuổi mà đã đến bên Phật, chắp tay
cung kính thưa rằng: “Bạch Đức Sa-Môn, chỉ cái bóng của Ngài cũng đủ
làm thân tâm con mát mẻ lạ thường”.
Lời phát biểu chân thực này
tuy rất thơ ngây nhưng đã vô tình chứng thực sức mạnh của người có
Tâm-Từ có thể rực sáng và truyền đạt sự ấm áp tới người xung quanh.
Tâm-từ ở đây được PGĐT bổ
túc Trí-huệ nhận rõ chân, ngụy, rồi theo tinh thần “như lý tác ý”
nghĩa là dựa trên lý mà diễn đạt ý, tạo thành Lực-ba-la-mật, giúp chúng
sanh dứt bỏ tà kiến (điên đảo kiến) mà hầu hết chúng sanh đều mắc phải.
Hoàn thành Lực-ba-la-mật là
thành quả của bậc Cửu-địa (Thiện-tuệ-địa)
10- TÂM XẢ (PGNT)
- TRÍ BA LA MẬT (PGĐT):
Tâm-xả đứng thứ tư
trong Tứ- vô-lượng-tâm nhưng lại là điều khó thực hiện nhất vì những cái
vô-thường đã huân tập từ khi con người lọt lòng mẹ, làm sao có thể dễ
dàng coi chúng là thường, mà xả bỏ? Mọi thứ quanh ta, từ tinh thần đến
vật chất đều vô hình chung cột ta thành sở hữu chủ. Bởi có Cái Ta, Cái
Của Ta, mới không kham nhẫn nổi những thóa mạ, những oan trái nào đụng
chạm đến. Làm sao mà xả? Làm sao mà bỏ?
Chỉ có Trí Tuệ Bát
Nhã “Sắc tức thị không. Không tức thị sắc”, thấy rõ chân tướng
vạn pháp để nhìn lại kiếp nhân sinh mới có thể không sợ sinh tử, cũng
chẳng mong Niết Bàn, như thiền-sư thõng tay vào chợ mà chẳng lụy xôn xao
phố chợ.
Bồ Tát giữa bao la
trời đất, cho không chờ nhận, xả chẳng vương mang, mới đạt tới thành quả
của bậc Thập-địa (Pháp-vân- địa).
THẬP BA LA MẬT TRONG THẾ
GIỚI NHÂN LOẠI
Giới thiệu đơn
giản về Thập ba-la-mật như trên tạm cho chúng ta cái nhìn đại cương về
cuộc hành trình tu tập của những ai muốn tìm sự giải thoát, giác ngộ.
Tuy nhiên, đồng hành với đoàn người đang đốt đuốc cùng đi, thì ánh đuốc
của họ cũng vô hình chung, soi sáng xung quanh. Đó là những giao tiếp
liên hệ trong xã hội.
Từ khoảng nửa thế
kỷ gần đây, giới trí thức, học giả Tây phương đã không ngừng nghiên cứu
về Đạo Phật và họ kinh ngạc nhận ra rằng hình thức thành lập tăng đoàn
cũng như cách sinh hoạt nương theo giới luật Đức Phật đặt ra cách nay
hơn hai mươi lăm thế kỷ cũng chính là những mô hình căn bản mà thế giới
nhân loại hiện tiền đang áp dụng. Một xã hội lý tưởng là một xã hội bình
đẳng, nơi đó, mọi người đều được chấp nhận để phát triển tài năng và trí
tuệ rồi từ đó, nhận trách nhiệm tùy theo căn cơ mình.
Xã hội đó sẽ không
thiếu an lạc và hạnh phúc nếu những thành viên trong đó biết tương kính
nhau, từ bi, ôn hòa với nhau, dùng ái ngữ và vị tha mà cư xử với nhau,
bỏ lòng tham lam ích kỷ để không xâm phạm nhau …
Chúng ta có thể
thấy môi trường đẹp đẽ này, theo bản đồ Thập-ba-la-mật dẫn tới.
Nào, chúng ta thử
cùng đi xem! Mình khởi hành từ Bố Thí Ba La Mật nhé!
Ai cũng có thể
hiểu định nghĩa căn bản về bố-thí nên không ai nghèo đến nỗi không có
tặng vật để cho, vì theo tinh thần pháp-thí của Bố-thí-ba-la-mật thì
không chỉ chia xẻ về giáo pháp mới là cho, mà một nụ cười, một lời an ủi
đúng lúc cũng là tặng phẩm.
Dù thế giới ngày
nay được thẩm định là thời kỳ băng hoại khá trầm trọng về đời sống tâm
linh nhưng xét chung, chúng ta vẫn thường ít nhiều hành trì hạnh bố thí
mà vô tình không nhận biết.
Thực tiễn hơn, về
tài-thí, hãy nhìn những nhà tỷ phú trên thế giới với những hội từ thiện
mà họ lập ra để thấy rằng mối tương quan giữa người với người vẫn được
ràng buộc thân ái qua hạnh bố thí.
Nhìn những nhà tù
đông đảo phạm nhân, ngoài sự ưu tư về sự phạm pháp, thì ở chiều hướng
khác, kẻ phạm tội đang bị trừng trị có nghĩa là luật pháp vẫn đang được
thi hành nghiêm minh. Chính giới luật này đang bảo vệ người lương thiện,
đồng thời chuyển hóa kẻ bất thiện. Thử hỏi, trong quốc gia nào, xã hội
nào mà không có trì giới?
Lịch sử nhân loại
từng chứng minh không có sự giải quyết xung đột nào bằng bạo lực mà có
thể tồn tại lâu dài. Chẳng phải chỉ thời xưa có vua A Xà Thế tỉnh ngộ,
buông gươm, tuân lời Phật dạy giữ nước trị dân bằng tâm từ mới có thể
bình thiên hạ; mà thời nay, dũng tướng chinh đông kích tây dọc ngang
khắp cõi là Đại Đế Nã Phá Luân của Pháp-quốc cũng tới lúc phải thốt lên:
“Ở đời có hai sức mạnh là sức mạnh của thanh gươm và sức mạnh của
lòng từ bi. Nhưng cuối cùng thì lòng từ đã đánh bại thanh gươm”.
Tâm-Từ, khi được
hiển lộ có thể chấm dứt binh đao, nhưng tiến trình đạt tới may mắn này
không thể thiếu Nhẫn-ba-la-mật.
Thủ tướng Mohandas
Karamachand Ganhdi của Ấn Độ là biểu hiện toàn vẹn sự phối hợp giữa
Nhẫn-nhục (Ksànti) và Trí tuệ (Parajna) mới đưa quốc gia và dân tộc Ấn
qua cơn nguy khốn bằng sự tranh đấu bất bạo động. Sự tranh đấu bằng nhẫn
nhục và trí tuệ này dựa trên nền tảng “chấp trì chân lý”, tiếng Phạn là
Satyagraha, không đi ngoài lời dạy của Đức Phật về Thập Ba-la-mật.
Sự thành công mầu nhiệm của
cuộc cách mạng lớn lao không tốn máu xương trong lịch sử nhân loại đã
khiến dân Ấn - nói riêng, và thế giới - nói chung- tôn vinh ngài Ganhdi
là bậc Thánh, qua danh xưng Mahatma Ganhdi, chứ không là tên nguyên thủy
đầy đủ của ngài nữa.
Nhìn xa rồi nhìn gần, Điều
Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông của Việt Nam chúng ta là hiện thân vị Đạo
Sư đã nghiêm túc hành trì Thập-ba-la-mật từ thời thơ ấu vì được ông nội
là vua Trần Thái Tông và cậu là Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung hướng dẫn
tư tưởng Thiền Tông nên Ngài chí thiết tôn sùng Đạo Phật.
Suốt mười bốn năm trên ngôi
vua, Ngài đã mang tâm Bồ Tát mà trị nước an dân. Hạnh thứ tám trong
Thập-ba-la-mật của PGNT cũng là hạnh thứ chín của PGĐT đã giúp Ngài
buông xả (Upekkhà) đời sống vật chất thế gian, truyền ngôi cho Thái Tử
Trần Thuyên để thực hành hạnh Xuất Gia (Nekkhamma) rồi không ngừng sống
chánh niệm, rốt ráo hướng tới hạnh thứ mười là Trí-ba-la-mật.
Người nắm giữ vận mạng dân
chúng thế nào thì ảnh hưởng tới dân chúng thế ấy. Tuy nhiên, mỗi thời
đại, mỗi dân tộc còn cần có phước báu của Tổ Tiên vun bồi nhiều đời
nhiều kiếp để vượt qua những khổ nạn hiện tiền.
Hơn hai mươi lăm thế kỷ
trước, giáo pháp Đức Phật dạy chẳng những vẫn tồn tại mà còn đang lan
rộng từ đông sang tây. Những khám phá mới mẻ của khoa học ngày nay lại
chỉ là những điều Đức Phật đã thuyết giảng một cách bình thường từ xưa.
Câu chuyện về giáo sư Rhys
Davids, người Anh, vẫn còn được kể lại như sự công nhận những chính xác
và lợi ích về giáo pháp của Đức Phật với những diễn biến trên thế giới
ngày nay.
Rhys Davids là con trai của
một mục sư Cơ Đốc Giáo. Ông đã bỏ ra nhiều năm học tiếng Pali và nghiên
cứu các kinh điển Phật giáo cả Nguyên Thủy và Đại Thừa, chỉ với mục đích
muốn chứng minh là giáo lý Đạo Phật thua xa giáo lý Cơ Đốc.
Nhưng ông đã thất bại với
công việc này vì sau nhiều năm khổ công nghiên cứu, Rhys Davids đã trở
thành một Phật tử, hết lòng ca ngợi Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế, là
những pháp môn mà ông trân trọng và hoan hỷ áp dụng cho chính bản thân
và gia đình.
Đã là con Phật, chúng ta
phải quyết tâm tinh tấn và tin tưởng rằng:
“Tụng kinh giả, minh Phật
chi lý,
Niệm Phật giả, minh Phật chi
cảnh”
Nghĩa là:
Người tụng kinh lâu ngày sẽ
hiểu ý kinh,
Người niệm Phật lâu ngày sẽ
thấy cảnh Phật.
NAM MÔ
THƯỜNG TINH TẤN BỒ TÁT.
NAM MÔ
HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT.
Huệ Trân
(Mùa hoàng-cúc, 2011)
(cùng một tác giả)
----o0o----
Cập nhật: 01-11-2011