CHƯƠNG MỘT
NHỮNG LỢI LẠC CỦA TÂM BỒ-ĐỀ
Kính lễ chư Phật
Bồ-tát,
1- Chư Phật và
Bồ-tát, các đấng đã được Pháp thân, cùng những bậc hiền nhân đáng kính,
con xin đê đầu đảnh lễ. Nay con y cứ những lời Phật dạy trong Kinh để
lược thuật phương pháp đi vào Luật nghi của hàng con Phật.
2- Luận này vốn
không phải là sáng kiến mới mẻ, về thi ca vần điệu tôi cũng không rành.
Bởi thế tôi không dám nói mình có ý định làm lợi lạc cho ai, chỉ cốt vì
sự tu tập của bản thân mà tạo Luận.
3- Nhờ nương theo
những kệ tụng để tu hành các thiện pháp mà tôi sẽ tăng trưởng tín tâm.
Những ai cùng tin tưởng như tôi sau khi xem Luận này cũng sẽ được lợi
ích.
4- Có được thân
người toàn vẹn (không bị các dị tật bẩm sinh như thiếu trí, đui,
điếc…) và nhàn hạ (đủ ăn, không phải làm lụng quá vất vả để kiếm
sống) là điều hết sức khó khăn. Nay ta đã có được cơ hội làm cho đời
mình thực sự có lợi ích (nghĩa là làm cho đời mình có ý nghĩa bằng
cách tu tâm, một việc mà loài thú không làm được) mà không lợi dụng
cuộc đời này để mang lại tự lợi, lợi tha, thì về sau làm sao còn có được
thân người toàn vẹn ?
5- Như trong đêm
tối đầy mây đen kịt, bỗng có một làn chớp xẹt qua, cũng thế, nhờ năng
lực uy đức của Phật, mà người đời bỗng tạm nảy sinh ý định tu phước.
6- Vì năng lực
thiện hành nơi người ta thường nhỏ nhoi yếu ớt nên khó địch nổi năng lực
tội ác vô cùng lớn lao. Nếu bỏ tâm Bồ-đề viên mãn này, thì đâu còn pháp
lành nào khác để thắng lướt tội lỗi ?
7- Trải qua nhiều
đời tư duy sâu sắc, chư Phật thấy tâm Bồ-đề có lợi ích lớn lao. Vô lượng
chúng sanh nhờ tâm ấy mà dễ dàng được sự vui thù thắng.
8- Muốn trừ diệt vô
lượng khổ đau trong ba cõi (cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc), và
trừ những nỗi bất an cho hữu tình, muốn hưởng được trăm thứ khoái lạc
thì đừng bao giờ xả bỏ tâm Bồ-đề (lòng mong cầu giác ngộ để lợi lạc
cho mình và người).
9- Những hữu tình
đang bị trói buộc trong ngục sinh tử mà khởi tâm Bồ-đề chốc lát cũng
được gọi là con của chư Phật, đáng được trời người kính lễ.
10- Như hóa chất
luyện vàng, cái thân phàm tục ô uế sẽ được tâm Bồ-đề chuyển hóa thành
thân Phật, bảo châu vô giá. Bởi thế, hãy giữ vững tâm Bồ-đề.
11- Bằng con mắt
tuệ, đấng Đạo sư của chúng sanh thấy rõ tâm Bồ-đề hết sức quý báu. Bởi
vậy, ai muốn ra khỏi ba cõi hãy khéo giữ vững tâm Bồ-đề.
12- Những điều lành
khác chỉ như cây chuối, sinh quả xong thì chết khô. Nhưng tâm Bồ-đề ví
như đại thụ luôn sinh quả, đã không khô héo mà còn thêm tươi tốt.
13- Kẻ phạm tội
nặng nhờ nương một người thế lực nên khỏi lo sợ. Người sợ quả báo tội
lỗi, muốn mau giải thoát, tại sao không tìm chỗ tựa nương ?
14- Như đóm lửa nhỏ
vào thời hoại kiếp, tâm Bồ-đề trong giây lát có thể tiêu hủy các tội
nặng. Trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Di Lặc bậc trí đã dạy đồng tử Thiện
Tài rằng tâm Bồ-đề có lợi ích vô biên.
15- Nói tóm, Bồ-đề
tâm bao gồm hai loại, là tâm nguyện Bồ-đề (trong tâm cầu mong được
giác ngộ để lợi lạc hữu tình) và tâm hạnh Bồ-đề (hướng về hành
động thực sự để làm lợi ích hữu tình)
16- Như mọi người
đều biết sự khác nhau giữa muốn đi và đang đi, bậc trí nên biết sự khác
nhau này giữa hai loại tâm Bồ-đề.
17- Mặc dù tâm
nguyện Bồ-đề cũng đủ sinh quả báo vĩ đại, nhưng không thấm gì so với tâm
hạnh Bồ-đề, vì tâm này liên tục phát sinh phước đức.
18- Bất cứ lúc nào
một người khởi sự lập chí nguyện không lùi bước, thọ trì (nhận và gìn
giữ) tâm hạnh Bồ-đề, vì muốn cứu độ cho hết vô số hữu tình.
19- Thì lúc ấy trở
đi, người ấy dù lúc ngủ hoặc xả hơi, phước đức vẫn liên tục phát triển
rộng lớn như hư không.
20- Vì muốn cho
những người tin cỗ xe Nhỏ hướng về Đại thừa, trong kinh Diệu Lý
Thưa Hỏi đức Như Lai đã dạy : Tâm Bồ-đề có lợi ích vô biên, điều
này rất hợp lý.
21- Nếu có người lo
nghĩ cách chữa một bệnh nhức đầu cho hữu tình mà thôi, cái tâm mong muốn
lợi lạc ấy đủ khiến cho người kia được vô lượng phước đức.
22- Huống gì mong
trừ khử vô lượng bất an cho hữu tình, muốn hữu tình được vô số điều
lành.
23- Dù cha hay mẹ,
hay bất cứ ai, đã có được tâm Bồ-đề ấy chưa ? Chư thiên cõi Dục, các vị
tu tiên, các Phạm thiên (cõi mà một người được hóa sinh vào nhờ tu
bốn vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Xả) có được tâm ấy không ?
24- Những người kia
vì lợi ích riêng còn chưa mơ tưởng đến tâm Bồ-đề, huống vì kẻ khác mà
phát tâm làm lợi ích ?
25- Người ta vì tự
lợi còn chưa thể phát tâm, bởi thế phát được cái tâm lợi tha quý báu này
quả là điều hết sức hiếm có.
26- Tâm Bồ-đề quý
báu là cái nhân của sự an vui cho chúng sanh, là cam lồ vi diệu để trừ
thống khổ. Phước đức hàm chứa trong tâm ấy làm sao đo lường ?
27- Suy nghĩ làm
lợi ích chúng sanh có phước hơn cúng dường chư Phật, huống gì nỗ lực làm
lợi lạc tất cả hữu tình.
28- Ai cũng muốn
hết khổ, mà sao thống khổ cứ tăng ? Mặc dù đi tìm an vui, kẻ ngu tự làm
hỏng niềm vui của mình không khác gì bị kẻ thù phá hoại.
29- Đối với chúng
sanh thiếu niềm vui, chịu nhiều đau khổ, tâm hạnh Bồ-đề có thể đem lại
an vui, trừ tất cả khổ.
30- Chẳng những
thế, tâm Bồ-đề còn có thể diệt trừ sự ngu si của chúng sanh. Còn bạn
lành nào sánh bằng, còn phước nào lớn bằng ?
31- Nếu có người
biết đền đáp cái ân bố thí, người ấy còn đáng được ca ngợi, huống gì
Bồ-tát vui vẻ giúp đỡ người khác, dù người ấy chưa nhờ, thì lại càng
đáng ca tụng biết chừng nào.
32- Dù có kẻ tình
cờ chuẩn bị một ít thực phẩm mang cho một số chúng sanh đang đói, khiến
họ no được nửa ngày, người ta còn kính trọng, xem như một thiện sĩ.
33- Huống chi
Bồ-tát thường xuyên ban cho vô số chúng sanh niềm vui Chánh giác tối
thượng, và thỏa mãn tất cả nguyện vọng của hữu tình.
34- Phật dạy : kẻ
nào sinh tâm xấu đối với những Bồ-tát cứu độ khắp mọi người như thế, kẻ
ấy sẽ sa địa ngục nhiều kiếp số, như số lượng tâm xấu họ đã nghĩ.
35- Ngược lại, ai
phát khởi niềm tin thanh tịnh đối với Bồ-tát thì sẽ được quả báo phước
đức vượt xa cái nhân đã gieo. Bồ-tát dù có gặp gian nan lớn vẫn không
làm ác, mà còn tăng trưởng thiện hành.
36- Có ai phát sinh
tâm Bồ-đề quý báu ấy không, tôi xin kính lễ dưới chân người ấy. Có ai
đem lại an vui ngay cả cho kẻ làm hại mình, tôi xin quay về kính lạy
người ấy, suối nguồn của an vui.
CHƯƠNG HAI
SÁM HỐI TỘI NGHIỆP
1- Để có thể giữ
gìn tâm Bồ-đề tôn quý nhất, con xin cúng dường chư Phật, cúng dường Pháp
bảo vô cấu và cúng dường biển công đức vô lượng của chư Bồ-tát (con
Phật).
2- Có bao nhiêu hoa
tươi quả quý cùng các thực phẩm tối thượng, những vật quý báu trên đời,
bao nhiêu nước trong sạch khiến người ta ưa thích ;
3- Những núi châu
báu nguy nga như vậy, cùng các khu rừng an tịnh làm tâm người thư thái,
những cây báu trang sức bằng hoa kỳ diệu, những cây ăn trái thòng rũ
những cành trĩu quả báu ;
4- Nhưng hương thơm
vi diệu nhất trên đời, ngang với hương cõi trời, hương đốt, các Cây Ước
quý báu, những mùa màng tự sinh không cần cày cấy, cùng các đồ trang
sức quý báu đáng cúng dường khác ;
5- Những hồ ao đầy
dẫy hoa sen và những con thiên nga hót êm tai ; tóm lại tất cả những vật
vô chủ trong khắp phạm vi hư không rộng lớn ;
6- Bằng tâm ý, con
xin dâng hiến lên đấng Tối tôn của loài người và các con của ngài. Kính
thỉnh Ruộng phước tối thắng đầy bi mẫn lớn lao, xin chư vị thương xót
nhận cúng phẩm này.
7- Con không có
phước đức nên hết sức nghèo khó, chẳng có một chút tài sản gì để dâng
cúng ngài. Kính xin đấng Chúa tể lợi tha đầy lòng thương xót, xin hãy
nhận đồ cúng này vì lợi ích cho con.
8- Con muốn đem cả
thân tâm vĩnh viễn phụng hiến lên chư Phật và chư Bồ-tát, xin các ngài
thương xót nhận cho. Con xin cung kính làm kẻ nô bộc của các ngài.
9- Khi đã được các
ngài hoàn toàn thâu nhận, con chỉ sống vì lợi ích hữu tình, không còn lo
sợ, thân tâm được thanh tịnh, hoàn toàn siêu thoát các tội lỗi quá khứ.
Từ nay trở đi, con sẽ không bao giờ làm các ác nghiệp.
10- Với nền bằng
thủy tinh sáng bóng, cột trụ dát đầy bảo châu sáng ngời đẹp mắt, trên
cao thòng rũ những dù lọng bằng ngọc quý long lanh, đây là nhà tắm mỹ lệ
thơm tho ;
11- Trong đó đã
trần thiết nhiều bình báu đẹp đẽ đựng đầy nước thơm khiến người ưa
thích, vang lên đủ điệu ca nhạc êm tai. Xin chư Phật và Bồ-tát hãy đến
tắm.
12- (Tắm xong)
Có những khăn tắm sạch sẽ ướp những thứ hương vi diệu để lau ngọc
thể của các ngài. Lau xong, con lại dâng lên những y phục thơm tho đủ
màu tốt đẹp nhất.
13- Lại lấy đủ loại
áo mềm mại và trăm thứ trang sức tối thắng để trang nghiêm thân thể của
chư Bồ-tát Phổ Hiền, Văn Thù, Quán Thế Âm và Thánh chúng.
14- Có những hương
bột thơm khắp ba ngàn thế giới, con dùng thoa lên ngọc thể của chư Phật
phát ra ánh sáng vi diệu như vàng ròng tinh khiết.
15- Hướng lên chư
Phật, đối tượng cúng dường thù thắng, con xin dâng những hoa sen thơm
ngát, hoa mạn-đà-la, hoa sen xanh và các tràng hoa tuyệt đẹp.
16- Xin cúng dường
các ngài những vầng mây hương tối thắng, mà mùi thơm làm người ta mê
mẩn. Con xin cúng dường những thực phẩm cõi trời và đủ thức ăn uống đẹp
ngon.
17- Con xin dâng
lên những đèn báu mà chân đèn làm bằng những đóa sen vàng. Và trên nền
nhà ngát hương, con rải đầy những hoa đẹp ý.
18- Hướng lên đấng
Chúa tể tâm đại bi, con xin cúng dường những lâu đài trong đó vang dội
những tiếng ca du dương, với bao chuỗi châu báu mỹ lệ thòng xuống la
liệt khắp hư không.
19- Con xin dâng
hiến chư Phật những lọng che bằng châu báu, cán bằng vàng ròng, viền
quanh bằng đủ thứ trang sức đẹp đẽ.
20- Ngoài ra còn có
những cúng phẩm nhiều như mây tụ lại, diễn tấu âm nhạc du dương làm lắng
dịu những thống khổ của hữu tình. Mong sao những đám mây cúng dường này
sẽ còn mãi.
21- Mong sao mưa
hoa và mưa châu ngọc luôn rơi trên tất cả những pháp bảo vi diệu, trên
linh tháp và trên thân Phật.
22- Như xưa Bồ-tát
Văn Thù và chư Bồ-tát đã cúng dường chư Phật thế nào, thì nay con cũng
xin cúng dường chư Phật và các con của ngài như vậy.
23- Con xin dùng âm
thanh của tiếng hải triều mà xưng tán biển công đức của chư Phật. Nguyện
cho những lời xưng tán vi diệu này luôn luôn vang đến các ngài.
24- Con nguyện hóa
thân này nhiều như cát bụi để mỗi phân thân ấy sẽ đảnh lễ chư Phật ba
đời, đảnh lễ Chánh pháp và Thánh tăng.
25- Con cũng cin
đảnh lễ tất cả tháp thờ Phật, lễ nguồn gốc tâm Bồ-đề, lễ các bậc trì
giới đệ nhất và các vị trú trì, giáo thọ sư.
26- Từ nay cho đến
khi được Vô thượng Bồ-đề, con nguyện quay về nương tựa Phật, Pháp và
toàn thể chư Bồ-tát.
27- Trước chư Phật
ở khắp mười phương và chư Thánh chúng sẵn tâm đại bi và tâm Bồ-đề, con
xin chắp tay thành khẩn khấn nguyện như sau :
28- Trong đời này
hoặc các đời khác, kể từ vô thỉ luân hồi cho đến nay, bao nhiêu tội ác
mà con vì không biết đã tự làm hoặc khuyên người khác làm ;
29- Hoặc do ngu si
dẫn dắt mà con đã tán đồng việc ác của kẻ khác. Nay con đã thấy tội lỗi,
đối trước chư Phật con xin thành tâm sám hối.
30- Do phiền não
quấy động ba nghiệp, con đã gây ra những tổn hại đối với cha mẹ, với ba
ngôi báu, với Thầy, Tổ và những người khác.
31- Vì trong quá
khứ con đã phạm nhiều tội lỗi, nên nay con đã thành kẻ có tội. Tất cả
những tội lỗi khó dung thứ ấy, nay đối trước chư Phật con đều xin sám
hối.
32- Nếu lỡ khi sám
hối chưa sạch tội mà thân con đã chết mất, thì làm sao con thoát khỏi
tội lỗi đây ? Thế nên con khẩn thiết xin ngài hãy mau cứu giúp con.
33- Thần chết không
đáng tin cậy gì cả, không chờ tội của ta sạch hay chưa, bất kể có bệnh
không bệnh, tử thần đều có thể đoạt mạng. Cho nên thật không thể ỷ vào
sự sống của mình.
34- Vì không biết
rằng khi chết phải bỏ lại tất cả, nên chúng ta đã vì những người thân và
kẻ thù mà tạo ra đủ thứ tội lỗi.
35- Đời người quả
thật như mộng huyễn, bất cứ chuyện gì ta đã trải nghiệm cũng chỉ là ký
ức trong tâm. Việc qua rồi là không bao giờ thấy lại.
36- Kẻ thù hóa
thành hư vô, người thân cũng tan đi như mây khói. Thân ta chắc chắn phải
chết, tất cả rốt cùng đều trở về không.
37- Lại nữa, trong
đời này, một số kẻ thù và bạn hữu ta cũng chết. Nhưng những tội ác mà vì
họ ta đã tạo ra thì vẫn còn rành rành trước mắt.
38- Vì không ý thức
được mình có thể chết bất ngờ, ta đã tạo bao nhiêu tội nghiệp do tham
lam, sân hận và ngu si.
39- Mạng sống tiếp
tục suy giảm từng ngày đêm không bao giờ ngừng, không thể nào tăng lên,
thì làm sao một kẻ như ta lại không chết ?
40- Khi lâm chung,
dù có nhiều người thân vây quanh, nhưng những thống khổ lúc hấp hối chỉ
có một mình ta phải chịu.
41- Khi sứ giả Diêm
vương đã đến bắt hồn, thì thân quyến, bằng hữu đâu ích gì ? Duy chỉ
phước đức mới có thể cứu mình, nhưng khốn nỗi ta lại chưa từng tu tập.
42- Hỡi đấng cứu hộ
che chở, do buông lung nên con không biết chết là đáng sợ như thế này.
Con đã vì cuộc sống mong manh mà tự tạo biết bao tội lỗi.
43- Như một kẻ tội
phạm bị dẫn ra pháp trường thì kinh hãi, miệng khô, hai mắt lồi ra, hình
hài đổi khác ;
44- Nói gì đến nỗi
kinh hoàng, ưu khổ nơi ta lúc bị sứ giả Diêm vương với thân hình đáng sợ
đến bắt ?
45- Ai có thể cứu
tôi ra khỉ cơn hãi sợ lớn lao này ? Lúc đó ta sẽ trợn dọc hai con mắt
hốt hoảng nhìn khắp bốn phương để cầu cứu.
46- Tìm khắp bốn
phía không thấy nơi nương tựa, ta càng sợ hãi. Không có nơi nào trú ẩn,
ta phải làm sao bây giờ ?
47- Phật là đấng
Chúa tể đầy từ bi chuyên phù hộ, che chở chúng sanh. Ngài có năng lực
giải trừ các khiếp sợ, nên nay con xin quay về nương tựa nơi Ngài.
48- Cũng thế, con
xin quay về nương tựa Thánh pháp mà chư Phật đã chứng ngộ, có thể trừ
khử được nỗi sợ hãi trong cõi sinh tử luân hồi, và quay về nương tựa chư
Bồ-tát Thánh chúng.
49- Trong cơn hãi
sợ tơi bời này, con xin đem cả thân mạng dâng lên đức Bồ-tát Phổ Hiền.
Con cũng đem thân này phụng hiến lên đức Văn Thù Bồ-tát.
50- Con cũng đem
hết sức bình sinh la lên cầu cứu với đức Bồ-tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát
không quên hạnh đại bi. Xin ngài cứu con, một kẻ mê lầm !
51- Con cũng cầu
cứu với ngài Hư Không Tạng Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát cùng chư Bồ-tát
sẵn lòng đại bi.
52- Con xin nương
tựa Kim Cương Trì Bồ-tát, người mà các sứ giả dữ tợn của Diêm Vương
trông thấy phải khiếp vía bỏ chạy.
53- Từ xưa con đã
làm trái lời chư Phật, nên phải rơi vào nỗi lo sợ lớn lao này. Nay con
đã quay về nương tựa chư tôn, xin hãy mau cứu con ra khỏi cơn khiếp hãi
!
54- Với một cơn
bệnh tầm thường, người ta còn lo sợ, tuân theo lời y sĩ, huống gì bệnh
tham sân si từ lâu đời lâu kiếp đã trói buộc tâm mình ?
55- Chỉ một căn
bệnh tham sân si này cũng có thể tiêu hủy tất cả người trong châu Thiệm
Bộ phương Nam. Tìm khắp nơi cũng không gặp được phương thuốc nào để trị
chứng bệnh ấy.
56- Giáo lý do đấng
Nhất thiết trí, bậc đại Y vương tuyên thuyết có thể nhổ tận gốc các khổ
đau. Ai đã biết được giáo lý ấy mà không thực hành theo, thì thực là rất
ngu si đáng trách.
57- Khi gặp một
nguy hiểm nhỏ ta còn phải đề phòng cẩn thận, huống chi (địa ngục) một
chỗ hiểm sâu cả ngàn do tuần, kéo dài nhiều đời kiếp mà không cẩn thận
hay sao ?
58- Nghĩ rằng “Hôm
nay chưa chết đâu” để nhàn hạ qua ngày thì thực là phi lý, vì sớm muộn
gì ta cũng chết. Cái chết chắc chắn sẽ đến thôi.
59- Ai sẽ đem lại
cho ta sự không sợ hãi ? Làm sao ta có thể thoát khỏi nỗi kinh khiếp này
? Nếu ta nhất định sẽ phải chết, thì làm sao có thể yên tâm hưởng nhàn
được ?
60- Những kinh
nghiệm ta đã trải qua nay còn lại gì đâu ngoài ra những hoài niệm về
chúng ? Thế mà do bám víu vào những thứ ấy, ta thường làm trái những
giáo huấn của bậc thầy !
61- Nếu khi chết ta
phải bỏ lại sinh mạng này cũng như tất cả người thân để ra đi một mình
đến nơi vô định, thì kết bạn kết thù có ích lợi gì đâu ?
62- Do tạo những
nghiệp bất thiện đời trước mà có ra những thống khổ đời nay, vậy làm sao
để thoát ly khỏi vòng nghiệp nhân khổ quả ? Ta chỉ nên ngày đêm tư duy
như vậy.
63- Vì ngu si con
đã phạm các tánh tội (những điều ai cũng cho là quấy, bất kể có tôn
giáo hay không), hoặc phạm các giới tội do Phật chế và những tội lỗi
khác ;
64- Nay đối trước
chư Phật, với lòng sợ hãi những khổ báo do tội lỗi gây ra, con xin chắp
tay đảnh lễ chư Phật ba lần để sám trừ tất cả tội.
65- Xin các ngài
khoan dung tha thứ cho những tội lỗi con đã tạo từ xưa, quả thực đấy là
hành vi bất thiện, từ nay về sau con thề vĩnh viễn không dám làm.
CHƯƠNG BA
PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM
(Bồ-đề tâm nguyện)
1- Con sung sướng
tùy hỷ tất cả các thiện hành dứt khổ mang vui cho chúng sanh.
2- Con xin tùy hỷ
tất cả những việc tốt mà chúng sanh tích tụ được, vì đấy là nhân cho
giác ngộ (của bậc A-la-hán). Xin vui theo những hữu tình còn thân
dư báo nhưng sẽ vĩnh viễn giải thoát khỏi khổ luân hồi.
3- Con xin tùy hỷ
sự giác ngộ của chư Phật và chư Bồ-tát ở mười địa vị. Con cũng hân hoan
tùy hỷ biển phước khiến hữu tình an vui, cùng các hành vi của chư Bồ-tát
để lợi lạc hữu tình.
4- Khi biết Phật
muốn nhập Niết-bàn, con sẽ vội vàng thỉnh cầu các ngài trụ thế vô lượng
kiếp để thế gian thoát khỏi mê ngu.
5- Đối trước mười
phương chư Phật, con xin chắp tay chí thành cầu khẩn các ngài hãy vì
chúng sanh đau khổ mê mờ mà đốt lên ngọn đuốc chánh pháp.
6- Bao nhiêu thiện
hành như trên mà con đã tích tụ được, con nguyện dùng để tiêu trừ thống
khổ cho tất cả hữu tình.
7- Đối với chúng
sanh bị bệnh, con nguyện hóa làm thuốc hay, làm thầy giỏi, hoặc làm y tá
điều dưỡng.
8- Nguyện có nhiều
thực phẩm như mưa tuôn để giải trừ nạn đói khát cho chúng sanh. Vào thời
tai ách đói kém, con nguyện làm thức uống ăn cho tất cả chúng sanh đỡ
đói.
9- Đối với người
khốn cùng, con nguyện hóa thành kho vô tận. Nguyện cho các nhu yếu của
đời sống đều hiện ra trước mắt họ.
10- Vì muốn lợi ích
cho hữu tình, con xin xả bỏ tất cả không tiếc thứ gì : thân mạng, tài
sản, cùng các thiện hành tích lũy trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị
lai.
11- Xả bỏ hết thì
sẽ thoát khổ, tâm con được Niết-bàn an tịnh. Trước sau gì cũng phải xả
bỏ, sao bằng bố thí trước cho tất cả chúng sanh.
12- Con đã đem thân
này hoan hỷ bố thí cho chúng sanh, nên để cho họ tha hồ đánh chửi, giết
hại.
13- Dù họ có đem
thân con ra làm trò cười, xúc phạm, chê bai, con cũng coi như không. Đã
thí xả thân này thì đâu còn gì để quý tiếc ?
14- Tất cả những
việc làm vô hại mà lợi ích cho hữu tình, con đều sai khiến thân này làm
hết. Nguyện cho ai trông thấy con đều được nhiều lợi lạc.
15- Do có người do
thấy con mà khởi lòng tin, hoặc do thấy con mà căm ghét, con nguyện cả
hai thái độ ấy rốt cùng đều mang lại cho họ lợi ích.
16- Nguyện cho
những người lăng nhục, làm hại hay chế riễu con, đều nhân đấy trở thành
cơ hội cho họ chứng Bồ-đề.
17- Với kẻ lữ hành
không ai giúp đỡ, con nguyện làm người chỉ lối đưa đường. Nguyện làm
chiếc thuyền bè hay cây cầu cho người muốn qua sông.
18- Nguyện hóa làm
hòn đảo cho kẻ cần ốc đảo, hóa làm đèn đuốc cho kẻ cần đèn đuốc, hóa làm
chỗ nghỉ cho kẻ cần chỗ nghỉ. Người cần tôi tớ để sai sử, con nguyện làm
tôi tớ cho họ.
19- Nguyện hóa làm
bò báu, ngọc như ý, lu thần, bùa linh, thuốc tiên, cây ước… cho tất cả
chúng sanh.
20- Con nguyện hóa
làm những nhu yếu căn bản cho sự sống của vô lượng hữu tình như đất,
nước, lửa và không khí.
21- Con nguyện làm
cái nhân duy trì sinh mạng cho chúng sanh như vậy, cho đến khi tất cả
chúng sanh đủ loại trong cùng tận biên giới hư không đều Niết-bàn cả mới
thôi.
22- Như xưa kia chư
Phật sau khi phát tâm Bồ-đề, đều tuần tự tu tập các học giới Bồ-tát ;
23- Thì nay con
cũng vậy, sau khi phát tâm vì lợi ích cho muôn loài, con cũng tuần tự
siêng tu hành các học giới Bồ-tát.
24- Bậc trí sau khi
phát tâm Bồ-đề thanh tịnh như thế rồi, lại vì muốn cho tâm ấy tăng
trưởng nên ca tụng nó như sau :
25- Phúc thay cho
ta nay được mang thân người, lại được sinh vào gia đình Phật, làm con
của chư Phật.
26- Từ đây trở đi
ta chỉ nên làm những việc thích hợp với gia tộc ấy, phải cẩn thận chớ để
ô danh dòng giống tối tôn này.
27- Như một kẻ đui
mù sờ soạng mò ngay được ngọc báu trong thùng rác, ta may sao phát được
tâm Bồ-đề này cũng vậy.
28- Bồ-đề tâm là
cam lộ thù thắng mang lại bất tử, là kho vô tận trừ khử khó nghèo,
29- Là cây thuốc
tốt nhất trừ bệnh chết, là tàng đại thụ che mát cho chúng sanh lưu lạc
trong ba đường ác đến nghỉ ngơi,
30- Là cây cầu cho
chúng sanh đi qua để ra khỏi ác đạo,
31- Là vầng trăng
mát dịu trừ khử phiền não nóng bức trong tâm, là vầng nhật chói lọi xua
tan mây mù vô trí. Bồ-đề tâm ví như tinh chất đề hồ được rút ra từ sữa
Diệu pháp của Thế Tôn.
32- Đối với những
khách hữu tình đang phiêu bạt với những người muốn an hưởng hạnh phúc,
thì tâm Bồ-đề có thể khiến cho họ được an vui, như một lữ quán có thể
làm mãn nguyện khách đường dài.
33- Ngày hôm nay,
trước sự chứng giám của chư Phật, Bồ-tát, con ân cần mời chúng sanh làm
tân khách đến đây để hưởng cái vui thành Phật và những vui khác. Mong
chư thiên chúng và mọi người hãy vui mừng lên.
CHƯƠNG BỐN
THỰC HÀNH BỒ-ĐỀ TÂM
(Bồ-đề tâm hạnh)
1- Sau khi mạnh mẽ
phát Bồ-đề tâm, Bồ-tát con Phật phải thường tinh tấn tu tập không được
biếng nhác, nhất là không được làm trái học giới Bồ-tát.
2- Một việc làm nếu
ta không suy nghĩ cẩn thận, hoặc do ngẫu hứng mà làm thì dù đã hứa, ta
cũng có thể xét lại xem nên theo hay nên bỏ.
3- Nhưng làm sao có
thể từ bỏ Giới, mà với trí tuệ bao la chư Phật Bồ-tát đã xét thấy có vô
lượng công đức, và chính ta cũng đã từng suy nghĩ trước khi lãnh thọ ?
4- Đã phát nguyện
làm lợi lạc hữu tình mà không làm như lời hứa, thì hóa ra lừa dối tất cả
chúng sanh ? Như vậy số phận ta sẽ ra sao ?
5- Kinh dạy, kẻ nào
đã định cho người khác một vật tầm thường mà cuối cùng không cho, cũng
sẽ đọa làm quỷ đói.
6- Thế mà ta đã mời
chúng sanh đến dự yến tiệc vô thượng an lạc rồi lại dối gạt chúng, thì
làm sao sinh đến cõi tốt lành ?
7- Trường hợp
A-a-hán xả tâm Bồ-đề mà vẫn được quả giải thoát là việc khó nghĩ bàn,
chỉ bậc Nhất thiết trí (Phật) mới hoàn toàn thấu rõ nguyên nhân.
8- Trong các tội
đọa thuộc Bồ-tát giới, cái tội xả tâm Bồ-đề là nặng nhất, vì nếu khởi
cái tâm này thì làm cho tất cả chúng sanh mất lợi lạc.
9- Kẻ nào gây trở
ngại cho thiện hành của Bồ-tát, dù chỉ một sát-na, thì vì tổn hại cả hữu
tình nên sẽ bị quả báo đọa ác đạo không cùng tận.
10- Phá hoại an lạc
của một chúng sanh mà còn gặp khốn đốn, huống gì hủy hoại an lạc của vô
biên hữu tình đầy khắp biên giới hư không ?
11- Bởi thế, người
vừa có sức mạnh dám phát tâm Bồ-đề, lại vừa có khả năng phạm tội đọa,
thì vẫn quanh quẩn mãi trong vòng luân hồi, khó có ngày bước lên các địa
vị Bồ-tát.
12- Vậy nên ta phải
cung kính thực hành những gì đã thệ nguyện. Từ nay về sau nếu không tinh
tấn, chắc chắn ta sẽ đọa vào những nơi thấp hèn.
13- Vô lượng chư
Phật đã ra đời để làm lợi ích chúng sanh, nhưng do tội lỗi quá khứ mà ta
đã không gặp được sự cứu độ của các ngài.
14- Nếu nay ta cũng
lại phạm tội như trước, chắc chắn sẽ không thoát khỏi cảnh bị bệnh, bị
trói, bị xẻ cưa trong các ác đạo.
15- Được gặp Phật
xuất thế, được làm người có lòng tin Phật thích hợp để tu thiện hành,
đấy là những điều kiện hiếm có, biết bao giờ ta mới được lại ?
16- Dù hiện nay ta
khỏe mạnh, đủ ăn, không bị tổn thương, nhưng mạng sống trôi qua từng
giây phút, cái thân này chỉ như vật tạm.
17- Cứ theo cách
hành xử của ta hiện nay, thì được lại thân người cũng khó. Mà nếu không
được thân người thì chỉ có thể làm ác, không thể tạo thiện hành.
18- Khi đã đủ cơ
hội để làm điều lành mà không chịu làm, đến lúc bị đọa vào ác đạo, bị
các thống khổ bức bách, ta liệu làm được gì ?
19- Nếu không làm
lành, chỉ tạo toàn nghiệp ác thì dù trải qua một ức kiếp, ta cũng không
được nghe đến cái tên của cõi tốt lành.
20- Đó là lý do đức
Thế Tôn dạy : thân người vô cùng khó được, như con rùa mù từ dưới biển
mới ngoi lên mà cổ nó chui ngay được vào lỗ hổng nơi một tấm ván trôi
bềnh bồng.
21- Phạm tội nặng
chỉ trong sát-na cũng bị một kiếp đoạ vào địa ngục Vô gián, huống chi từ
vô thủy luân hồi đến nay ta đã tạo tội, thì làm sao có thể sinh vào nẻo
lành ?
22- Chờ trả cho
xong những ác báo ấy để được giải thoát đã là việc khó, huống chi trong
lúc thọ quả báo ta lại còn tạo thêm nhiều tội lỗi.
23- Đã được thân
người nhàn rỗi mà không lo tu hành, thì thật không gì điên cuồng ngu
xuẩn hơn.
24- Nếu biết vậy mà
vẫn ngu si làm biếng, thì khi lâm chung, ta sẽ hết sức đau khổ.
25- Lửa địa ngục
thiêu đốt thân thể trong nhiều kiếp đã khó chịu nổi, mà ngọn lửa ăn năn
hối hận còn làm cho tim ta đau đớn vô vàn.
26- Điều lợi lạc
khó được mà ta may mắn đã được, lại có đủ khôn ngoan, vậy mà vẫn đoạ vào
địa ngục ;
27- Có khác gì ta
đã vướng phải bùa chú làm cho mất hồn. Không biết ta đã bị cái gì làm
cho hôn ám, con ma nào ẩn nấp trong tâm ta ?
28- Tham, sân,
những kẻ thù ấy không có tay chân, mặt mũi, cũng không dũng cảm, thông
minh gì, sao chúng có thể sai sử ta như sai đầy tớ ?
29- Phiền não trong
tâm tự tung tự tác làm tổn thương ta, vậy mà ta vẫn chịu đựng không giận
tức chúng, sự nhẫn chịu vô lối ấy thực là đáng trách.
30- Dù cho chư
thiên và các loài khác nhất tề tấn công ta, cũng không thể đẩy ta vào
địa ngục Vô gián được.
31- Nhưng năng lực
của kẻ thù phiền não tham dục lại rất lớn, có thể ném ta vào ngọn lửa
địa ngục mà ngay cả núi Tu Di gặp phải cũng cháy ra tro.
32- Kẻ thù phiền
não trong tâm ta sống dai vô thủy vô chung. Những địch thù trên đời
không có kẻ nào sống lâu đến thế.
33- Nếu thuận theo
kẻ địch ở đời, ta còn có được lợi lạc. Nhưng nếu chiều theo phiền não
trong tâm thì ta chỉ có gặp toàn những khổ hại mà thôi.
34- Kẻ thù địch
sống dai ấy, cái nhân duy nhất tăng trưởng tai họa ấy, nếu cứ để cho nó
ở trong tâm mình, thì làm sao ta sống an vui không lo sợ cho được ?
35- Phiền não là
ngục tốt bảo vệ ngục sinh tử, là kẻ hành quyết tội nhân trong địa ngục.
Nếu nó còn ở trong tâm ta thì làm sao ta có được an vui ?
36- Đừi này nếu
chưa đích thân tiêu diệt được kẻ thù phiền não thì ta không nên xả bỏ
tinh tấn. Người đời khi bị kẻ khác làm hại chút xíu cũng còn nổi giận,
tráng sĩ khi chưa diệt xong kẻ thù thì ngủ không yên giấc.
37- Trong khi đánh
nhau kịch liệt giữa chiến trường, người ta còn nỗ lực tiêu diệt kẻ thù,
mặc dù những kẻ thù địch ấy rốt cuộc tự nhiên cũng sẽ chết. Nhưng vì
những thù địch ấy gây cho họ khổ não, nên bất kể thân mình trúng phải
tên đao, khi chưa đạt mục đích tiêu diệt kẻ thù, họvẫn không đào tẩu
thối lui.
38- Huống ta nay
tinh tấn quyết tiêu diệt kẻ thù tự nhiên (là si mê phiền não),
cái nhân của thống khổ, thì thật không nên biếng nhác thối chí, dù có
gặp trăm ngàn gian khổ.
39- Khi vì mưu cầu
chút danh lợi mà thân bị trúng thương của kẻ thù, người ta còn lấy đó
làm vinh. Nay ta vì lợi ích lớn lao mà siêng năng tinh tấn, thì đau khổ
sao có thể làm ta chùn bước ?
40- Những kẻ chài
lưới, đồ tể, nông phu…v.v… chỉ vì sinh kế mà phải chịu nóng chịu rét
cùng bao nhiêu gian nan cay đắng. Nay ta vì an lạc chúng sanh, sao lại
không nhẫn chịu khó khăn ?
41- Ta đã phát
nguyện cứu độ chúng sanh khắp mười phương ra khỏi phiền não ái dục, thế
mà chính ta thì lại chưa lìa xa phiền não.
42- Thốt lời không
tự lượng sức, có phải là điên cuồng không ? Bởi thế từ nay ta không bao
giờ nên khiếp nhược thối lui trong lúc triệt tiêu phiền não.
43- Ta hãy yêu mến
phương pháp đối trị phiền não, hãy ôm hận quyết chiến đấu với nó. Chỉ
nhờ phát một cái tâm mãnh liệt ngang với tham sân phiền não mới mong
diệt được não phiền.
44- Ta thà bị
thiêu, bị giết, bị chặt đầu, quyết không khuất phục giặc phiền não.
45- Kẻ địch thông
thường khi bị đánh đuổi ra khỏi một nơi nào, lại rút đi nơi khác ẩn náu
dưỡng sức, chờ khi phục hồi lực lượng sẽ trở lui đánh tiếp, nhưng kẻ thù
phiền não thì không thế.
46- Khi con mắt tuệ
xuyên suốt để tống khứ phiền não ra khỏi tâm thì phiền não đi đâu ? Nó
không thể ẩn trú chỗ nào để về sau trở lại. Thế thì sao ta lại nhu
nhược, không chịu tinh tấn tiêu diệt nó.
47- Phiền não không
ở ngoại cảnh, không ở nội thân, cũng không ở giữa thân và cảnh. Ngoài ba
chỗ đó chẳng có chỗ nào cho nó trú. Vậy nó trú chỗ nào để hại ta ? Vậy
nên biết phiền não chỉ là tâm huyễn, không đáng sợ. Hãy nên vì sự nghiệp
trí tuệ mà siêng tu, sao ta vẫn cứ ở trong địa ngục để bị tổn hại một
cách vô nghĩa ?
48- Tư duy như vậy,
ta nên tận lực tu hành viên mãn các học giới Bồ-tát. Bệnh nhân cần
thuốc, nếu không tuân theo lời dặn lương y thì làm sao khỏi bệnh ?
CHƯƠNG NĂM
CHÁNH NIỆM, TỈNH GIÁC
1- Người
muốn giữ giới hãy nên chuyên chú giữ tâm mình, vì nếu không giữ tâm thì
không thể giữ giới.
2- Nếu thả cái tâm
như voi điên này ra, ta sẽ chịu nạn địa ngục Vô gián (ngục A Tỳ, nơi
tội nhân liên tục chịu cực hình ngày đêm). Trên đời, dù một con voi
lớn chưa thuần cũng không gây tai họa bằng tâm này.
3- Nếu luôn luôn
dùng sợi thừng Chánh niệm để trói vào, cột cái tâm như voi điên này, thì
không còn lo sợ gì nữa, mà lại có được tất cả phước lành.
4- Cọp, sư tử, voi,
gấu, rắn, hết thảy kẻ thù địch và lính canh giữ địa ngục trong loài hữu
tình, cho đến các hung thần, quỷ la-sát ;
5- Chỉ nhờ buộc cái
tâm này là ta có thể trói tất cả những thứ trên. Điều phục được tâm là
điều phục tất cả.
6- Phật, đấng luôn
luôn nói sự thật đã dạy rằng tất cả những nỗi lo sợ cùng vô lượng thống
khổ đều từ tâm mà sinh ra.
7- Các binh khí để
hành phạt hữu tình trong các địa ngục do ai đã cố ý tạo ra ? Ai tạo nền
sắt nóng ở hỏa ngục, những nữ nhân địa ngục từ đâu sinh ? (ảo giác
khủng khiếp của những kẻ đa dâm bị cực hình ở địa ngục).
8- Phật dạy tất cả
những thứ đó đều do ác tâm tạo ra. Bởi thế trong cả ba cõi, không có gì
đáng sợ bằng tâm này.
9- Nếu cần phải
diệt trừ nghèo khổ cho tất cả chúng sanh mới thành tựu được hạnh bố thí
cao cả (để thành Phật), thế thì ngày xưa làm sao Phật viên mãn
thí độ được khi mà đến nay ta vẫn còn thấy những kẻ cơ bầøn ?
10- Nhưng nhờ vui
vẻ đem cho chúng sanh tất cả tài vật cùng thành quả công đức mình, mà
thí độ (hạnh bố thí rốt ráo) được viên mãn. Như vậy, bố thí chỉ y
cứ nơi tâm.
11- Biết lùa các
loại tôm cá và tất cả động vật hoang dã đến một nơi nào cho chúng khỏi
bị giết hại ? Nhưng khi vĩnh viễn chấm dứt ác tâm, thì gọi là thành tựu
giới độ (giữ giới toàn vẹn).
12- Kẻ ngoan cố sân
si trên thế giới đầy dẫy khắp không gian, làm sao điều phục cho hết ?
Nhưng nếu chấm dứt tâm sân nơi chính mình, thì cũng như diệt được tất cả
địch thù.
13- Làm sao có đủ
số lượng da thuộc để trải khắp đại địa ? Nhưng chỉ cần lót một mảnh da
dưới gót giày, thì cũng như đã trải da toàn mặt đất.
14- Cũng vậy, ta
không cần phải khắc phục tất cả những kẻ thù bên ngoài. Chỉ cần chấm dứt
tâm giận dữ nơi chính mính thì khỏi nhọc công khắc phục cái gì khác.
15- Khi cái tâm
sáng suốt vắng lặng sinh khởi thì được quả báo sinh lên cõi trời Phạm
thiên (cõi trời cao nhất trong sáu tầng trời cõi Dục). Dù làm các
việc tốt lành bằng thân và miệng, nhưng tâm hành (động lực từ nội tâm
thúc đẩy) yếu ớt thì khó thành tựu phước đức.
16- Phật dạy, dù
tụng niệm và tu các thứ khổ hạnh lâu năm, mà tâm cứ tán loạn để ở chỗ
khác, thì cũng vô ích.
17- Nếu không biết
tâm này, bí yếu của tất cả Phật pháp, thì dù có mong muốn thoát khổ và
được an vui, rốt cuộc vẫn phiêu bạt trong ba cõi một cách vô nghĩa.
18- Bởi thế ta nên
khéo gìn giữ đạo tâm. Trừ giới gìn giữ tâm này ra, còn cần gì giữ các
giới khác ?
19- Như thân thể bị
thương mà ở giữa một đám đông hỗn loạn thì cần phải cẩn thận giữ gìn ;
cũng thế, ở giữa đời người hung ác, ta phải giữ vết thương là tâm mình.
20- Đối với vết
thương nhỏ trên thân, ta còn sợ bị hại mà phải cẩn thận giữ gìn, thì tại
sao người sợ cái khổ ở địa ngục Núi ép không giữ vết thương là cái tâm
mình ?
21- Nếu hành xử
được vậy, thì dù ở giữa ác nhân hay nữ sắc cũng tinh tấn giữ giới không
thối lui.
22- Ta thà mất lợi
dưỡng, tài sản, thân xác và các sinh kế khác, thà mất những thiện hành
khác, quyết không tổn hại tâm này.
23- Tôi chắp tay
thành khẩn khuyên những người muốn giữ tâm, hãy nỗ lực giữ chánh niệm và
chánh tri (chánh niệm tỉnh giác).
24- Những người bị
bệnh khổ thì không có sức để làm gì ích lợi ; cũng thế, kẻ mà tâm bị
phiền não quấy nhiễu cũng không thể làm các việc lành.
25- Người mà tâm
không tỉnh giác (chánh trí, biết đúng) thì những gì nghe, tư duy,
tu tập được sẽ không ở lại trong trí nhớ (chánh niệm), như cái
bình rỉ.
26- Dù có tín, đa
văn, tinh tấn, mà không tỉnh giác thì cuối cùng cũng phạm vào ô uế tội
lỗi.
27- Tên giặc không
chánh tri ấy đi theo sau đuôi sự mất chánh niệm (thất niệm) mà
trộm hết phước đức đã tích lũy được từ trước, khiến người sa đọa đường
ác.
28- Bọn giặc phiền
não ấy đang rình cơ hội cướp đoạt gia tài thiện pháp của ta, hủy hoại
pháp thân tuệ mạng của ta và đường đến cõi tốt lành.
29- Bởi vậy tuyệt
đối đừng rời chánh niệm khỏi cửa ý, nếu rời thì phải liền nhớ đến những
tai hại của việc này, tức liền an trú lại chánh niệm.
30- Nhờ theo bậc
thầy, nhờ sợ đọa lạc, nhờ giáo huấn của thầy phương trượng trú trì, mà
người thiện tín dễ phát sinh chánh niệm.
31- Chư Phật Bồ-tát
với cái thấy không chướng ngại, thấy rõ tất cả hành vi ngôn ngữ ta.
32- Tư duy như vậy
sẽ sinh hổ thẹn, kinh sợ và dễ dàng phát sinh chánh niệm nghĩ đến Phật.
33- Do giữ gìn cửa
ý, đứng vững trong chánh niệm rồi, thì chánh tri (biết đúng) sẽ
xuất hiện, những gì đã quên mất cũng sẽ trở lại.
34- Khi một ý xấu
vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây
bám chặt vào đất.
35- Không bao giờ
nên nhìn dáo dác mông lung, quyết chí thường để mắt nhìn xuống.
36- Khi cần nhìn
bốn phương để con mắt nghỉ ngơi chốc lát, nếu thấy có người nào xuất
hiện trước tầm mắt thì hãy nhìn thẳng họ mà chào hỏi.
37- Khi quan sát có
gì nguy hiểm trên đường đi, nên nhìn bốn phương, và lúc nghỉ ngơi hãy
quay nhìn sau lưng xem xét.
38- Quan sát kỹ
trước sau xong rồi mới tiếp tục đi tới hay quay về. Vào mọi lúc nên nhận
rõ nhu yếu phải hành động (tỉnh giác) như vậy.
39- Khi muốn thân
thể ở trong tư thế nào, sau khi an trú hãy luôn quan sát : thân này đang
được giữ trong tư thế nào ?
40- Thường nỗ lực
quán sát cái tâm như voi điên to lớn này, buộc nó vào cột trụ chánh
pháp, không để cho nó sổng chạy.
41- Người tinh tấn
tu tập thiền định thì trong một sát-na cũng không để cho tâm phân tán ra
ngoài, thường quán sát như sau : tâm ý mình hiện đi đâu ?
42- Nếu gặp lúc
nguy cấp hay vui vẻ, không thể chú tâm thì nên xả cho nó an nghỉ. Kinh
Vô Tận Ý có dạy rằng : lúc hành bố thí, ta có thể xả những giới nhỏ
nhiệm.
43- Khi đã suy nghĩ
một việc mà muốn làm thì không nên nghĩ đến việc gì khác. Tâm chí phải
chuyên chú làm cho xong việc ấy đã.
44- Được vậy việc
mới thành, nếu không thì không xong việc nào cả. Sự mất tỉnh giác, con
mắt bất chánh tri luôn rình rập, nhờ vậy cũng sẽ không lớn mạnh.
45- Khi đi vào
những đám đông đang nói chuyện phiếm hoặc xem kịch, hãy đoạn trừ tâm
tham đắm các việc ấy.
46- Khi vô cớ làm
những việc cuốc đất dẫy cỏ, vẽ vời trên mặt đất, thì hãy nhớ di giáo của
Phật nên sợ tội lỗi mà từ bỏ ngay hành vi ấy.
47- Khi thân muốn
di động, miệng muốn ra lời, trước hãy xem tâm mình rồi mới làm hay nói
một cách an ổn và hợp lý.
48- Khi ý khởi lên
tham hoặc sắp nổi giận, hãy tạm đình chỉ nói làm, như cây đứng vững.
49- Khi tâm nghĩ
lăng xăng (trạo cử), coi thường kẻ khác, hoặc sinh kiêu căng ngã
mạn, muốn phê bình người, muốn nói lời không thực để lừa dối người,
50- Hoặc muốn khen
mình chê người, nói lời thô ác, ly gián… thì hãy ở yên như cây đứng.
51- Hoặc nghĩ đến
danh lợi, cung kính, muốn sai sử người khác, muốn được kẻ khác hầu hạ,
hãy ở yên như cây đứng.
52- Khi muốn nói gì
làm cho kẻ khác mất lợi giảm ích, để mưu cầu tự lợi, hãy ở yên như cây
đứng.
53- Khi mất kiên
nhẫn, làm biếng, sợ sệt, nói lời vô nghĩa, không biết thẹn, khi sinh tâm
thiên vị, hãy ở yên như cây đứng.
54- Quán sát những
tâm lý ô nhiễm, ưa làm chuyện vô nghĩa ấy rồi, Bồ-tát hãy dùng phương
pháp đối trị để giữ tâm kiên cố.
55- Bồ-tát có đức
tin sâu xa, rất cương quyết, vững vàng, cung kính, lễ độ, biết xấu hổ,
sợ quả báo, an tịnh, siêng năng, mong đem lại an vui cho người.
56- Những ngu muội
ấu trĩ thường không hợp ý nhau, tâm Bồ-tát cũng đừng sinh chán ghét,
phải thấy chúng bị mê lầm mà ra như thế, nghĩ vậy rồi hãy trải tâm từ.
57- Vì lợi ích cho
bản thân và hữu tình, ta không nên phạm tội, hãy thường xuyên chánh quán
như huyễn vô ngã.
58- Hãy nên tư duy
nhiều lần rằng trải qua nhiều kiếp ta mới có được nhàn cảnh thân người,
vậy cần giữ gìn tâm này bất động như núi.
59- Này tâm ý, lúc
bầy chim kên kên háu đói tranh nhau gặm thi thể, ngươi cũng bỏ qua, thì
sao bây giờ ngươi lại để ý đến thân này ?
60- Sao còn ôm giữ
cái thân xem nó là tôi ? Ngươi với nó khác nhau, nó có ích gì cho ngươi
đâu ?
61- Này tâm ý ngu
si kia, sao ngươi không giữ một cái thân như cây sạch sẽ, mà giữ chi cái
khí cụ hư hoại ô uế này ?
62- Trước hãy dùng
ý phân tách da khỏi thịt, rồi dùng trí tuệ sắc bén mà tách thịt ra khỏi
bộ xương.
63- Lại chẻ xương
ra mà quan sát sâu vào tủy để tự hỏi, có cái gì sạch và đẹp không ?
64- Tìm kỹ cũng
không thấy được cái sạch đẹp, thì sao ngươi còn tham luyến, mến giữ cái
thân này ?
65- Ngươi cần gì
thân này khi ngươi không thể ăn dơ uế trong thân, uống máu trong thân,
hút gan ruột trong thân ?
66- Cái lý do duy
nhất để tham thân, là nó làm thự phẩm cho chồn và kên kên, vậy thân
người chỉ đáng nên chịu sự sai khiến để làm việc thiện.
67- Nếu ngươi cứ
bám giữ nó, thì thần chết cũng không buông tha, sẽ đoạt nó để cho chó và
kên kên ăn, khi ấy ngươi làm gì được ?
68- Khi tớ không
kham việc thì chủ không cho cơm áo, ngươi cưng dưỡng cái thân mà nó bỏ
ngươi đi mất thì sao còn chăm sóc nó chu đáo làm gì ?
69- Đã trả lương
cho nó thì phải làm lợi cho mình, nếu nó không lợi ích gì thì không cho
nó xu nào cả.
70- Nên xem thân
như con thuyền đưa ta qua lại làm lợi lạc hữu tình, chuyển nó thành thân
Phật như ý.
71- Hãy tự làm chủ
lấy thân tâm, thường lộ vẻ mặt vui tươi, đình chỉ sự giận dữ và những
cái cau mày, trở thành người bạn tốt của chúng sanh.
72- Khi dời chỗ ghế
giường, đừng tùy tiện gây tiếng động lớn. Khi mở cửa cũng phải nhẹ nhàng
chớ thô bạo. Thường ưa nói lời hiền dịu nhu hòa.
73- Con vịt nước,
con mèo và kẻ trộm lúc nào cũng làm việc một cách lặng lẽ trong bí mật,
nên mới thành tựu được những việc chúng muốn làm. Đức Phật cũng thường
làm việc cách đó.
74- Ở chung nên
khéo khuyên răn người bỏ ác làm lành, khi người khác cho những lời
khuyên lợi ích mà mình không yêu cầu thì phải cung kính mà đón nhận, hãy
là đồ đệ học hỏi từ tất cả chúng sanh.
75- Hãy khen ngợi
tất cả những lời Pháp khéo thuyết, và thấy ai làm việc phước thì nên ca
tụng và sinh tâm vui mừng.
76- Hãy thầm khen
công lao kẻ khác và cùng người nói về thiện đức kẻ khác Nghe ai nói đến
công đức của mình thì hãy tự xét xem mình có thật như vậy hay không.
77- Tất cả việc làm
đều cốt mang lại nguồn vui khó mua được bằng tiền bạc, bởi thế ta hãy
nhân thiện hành của mọi người mà hưởng thú vui tùy hỷ.
78- Làm vậy thì
chẳng những đời này không hại gì mà đời sau được vui lớn. Ngược lại, nếu
vì ganh ghét mà sầu khổ thì đời sau thống khổ càng tăng.
79- Nói năng phải
từ đáy lòng mình, lời và nghĩa minh bạch khiến người nghe vui vẻ, không
nói vì tham sân thúc đẩy mà phải nói lời nhu hòa thích đáng.
80- Khi nhìn hữu
tình, hãy nhìn với từ tâm và thành thực, nghĩ rằng nay tôi nhờ họ mà có
thể thành Phật.
81- Hãy thường khởi
tâm hành thiện, hoặc khởi tâm đối trị (bất thiện), như cúng thí
vào ba ruộng phước là kỉnh điền (cúng dường Tam bảo), ân điền
(cha mẹ) và bi điền (kẻ nghèo) thì sẽ được phúc lớn.
82- Khi đã có được
trí thiện xảo và đức tin, thì ta nên thường hành thiện. Những việc lành
hãy tự mình làm, không ỷ lại vào kẻ khác.
83- Các pháp
Ba-la-mật như bố thí, trì giới,… cần phải càng ngày càng tăng tiến, đừng
vì việc nhỏ mà mất lợi ích lớn. Hãy thường nghĩ làm sao lợi ích cho tất
cả mọi người.
84- Đã rõ đạo lý
kinh dạy như trên, thì hãy thường phát tâm siêng làm lợi người. Đức Phật
thấy xa, đầy đủ bi mẫn đã mở cho Bồ-tát những giới cấm đối với kẻ khác.
85- Thực phẩm nên
chia sớt cho những chúng sanh bị đọa, cho người không nơi nương tựa và
cho những người giữ giới. Chỉ nên ăn vừa đủ mà thôi. Y phục chỉ nên giữ
ba bộ, ngoài ra nên thí xả.
86- Thân này cốt để
tu hành chánh pháp, không nên vì lợi nhỏ mà làm cho nó bị tổn thương.
Được thế thì ước nguyện của chúng sanh sẽ mau thành tựu.
87- Không có một
tâm đại bi hoàn toàn thanh tịnh thì không nên thí xả thân này, mà đời
này cũng như các đời khác chỉ nên xả thân vì lợi lạc lớn lao cho hữu
tình.
88- Không thuyết
pháp cho nười có thái độ như kẻ bị bệnh, không cung kính, người cầm dù,
gậy, binh khí, người trùm đầu.
89- Không thuyết
pháp cho người khác phái chỉ có một mình ; không nói pháp rộng rãi sâu
xa cho người thiếu trí ; nhưng phải cung kính tu tập bình đẳng tất cả
pháp sâu cạn.
90- Không nên nói
pháp nhỏ cho người có khả năng lớn, không nên xả luật hạnh Bồ-tát, không
dùng chú thuật dối gạt người.
91- Khi nhổ nước
bọt và vứt tăm xỉa răng phải lấy đất che lấp, không đổ phế thải lên đất
sạch và nước trong.
92- Khi ăn chớ độn
đầy miệng, nhai ra tiếng, há lớn miệng. Khi ngồi không duỗi chân ra,
không xoa hai tay vào nhau.
93- Ở những nơi như
trên xe, trên giường, không nên ngồi chung với người khác phái. Tóm
lại là những gì khiến người đời mất niềm tin thì hãy theo đó mà tránh sự
ghét hiềm.
94- Đừng ra hiệu
hay chỉ đường bằng cách búng ngón tay, mà nên cung kính duỗi cả bàn tay
phải.
95- Để bày tỏ ý
mình không nên lắc mạnh cánh tay, mà chỉ cử động nhẹ, hoặc nói ra lời,
hoặc khảy móng tay ; nếu không sẽ mất uy nghi.
96- Như khi Phật
Niết-bàn, lúc ngủ hãy xoay đầu về hướng đáng hy vọng. Khi ngủ hãy giữ
gìn chánh niệm tỉnh giác nghĩ đến lúc thức dậy.
97- Phật dạy vô số
luật nghi Bồ-tát (không thể nào nói cho hết), nhưng những pháp
hành để thanh lọc tâm trên đây hãy nên tận lực tu trì.
98- Ngày ba lần,
đêm ba lần, hãy tụng đọc Kinh Ba Tụ và y cứ bốn năng lực là quy
y, phát tâm,.. v..v… mà sám trừ các tội nặng.
99- Lúc nào cũng
nên vì mình hay vì người mà siêng năng thực hành bất cứ hạnh gì Phật đã
dạy.
100- Không có một
giới nào mà Bồ-tát không cần học, nếu khéo sống được như vậy thì nhất
định không thiếu phước
101- Dù trực tiếp
hay gián tiếp, tất cả hành vi đều chỉ vì lợi tha, và cũng chỉ vì lợi lạc
hữu tình mà ta hồi hướng tất cả cho sự nghiệp giác ngộ.
102- Dù phải mất
tính mạng, tôi thề không từ bỏ bậc Bạn lành quý báu tinh thông giáo
nghĩa Đại thừa và thực hành viên mãn giới Bồ-tát.
103- Nên tu học
những phép tắc hầu thầy nói trong truyện Cát Tường Sinh ở kinh Hoa
Nghiêm và những học giới khác đọc kinh sẽ biết.
104- Trong kinh có
giới luật, vậy nên đọc qua tạng kinh, trước tiên là kinh Thánh Xử
Hư Không Tạïng.
105- Vì sao phải tu
hành ? Trong kinh Học Xứ Tập Yếu đã nói rộng điều này, bởi
thế nên đọc bộ luận Chúng học xứ tập yếu.
106- Lại cũng nên
đọc qua Nhất thiết kinh tập yếu và hai bộ luận của Long
Thọ.
107- Hãy siêng tu
học những gì mà kinh luận không cấm, và thực hành những gì kinh dạy để
giữ gìn đức tin của thế gian.
108- Tóm lại ý
nghĩa của giữ gìn Chánh tri là : nên quán sát kỹ các trạng thái của thân
và tâm.
109- Hãy nên cung
kính thực hành chứ nói suông đâu có kết quả. Nếu chỉ đọc cái toa thuốc
thì có ích gì cho cơn bệnh ?