Tạng Luật
Vinayapitaka
Phân Tích Giới Tỷ-Kheo Ni
(Bhikkhunivibhanga)
Tỳ kheo Indacanda Nguyệt Thiên
dịch
---o0o---
II. CHƯƠNG
MƯỜI BẢY PHÁP (SATTARASAKAṆḌAṂ)
Bạch chư đại
đức ni, mười bảy điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) này được đưa ra đọc tụng.
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ NHẤT:
[31] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có người nam cư sĩ nọ sau khi dâng kho
chứa đồ đạc đến hội chúng tỷ-kheo ni đã qua đời. Người ấy có hai người con
trai: một người không có niềm tin và không mộ đạo, một người có niềm tin
và mộ đạo. Họ chia đều tài sản thuộc về người cha. Khi ấy, người không có
niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều
này:
- Cái kho
chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Được nói như
thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và
không mộ đạo ấy điều này:
- Này anh,
chớ nói như thế. cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỷ-kheo ni rồi.
Đến lần thứ
nhì, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm
tin và mộ đạo điều này:
- Cái kho
chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Được nói như
thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và
không mộ đạo ấy điều này:
- Này anh,
chớ nói như thế. cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỷ-kheo ni rồi.
Đến lần thứ
ba, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm
tin và mộ đạo điều này:
- Cái kho
chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.
Được nói như
thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy (nghĩ rằng): “Nếu thuộc về ta, ta
sẽ dâng đến hội chúng tỷ-kheo ni” rồi đã nói với người không có niềm
tin và không mộ đạo ấy điều này:
- Chúng ta
hãy chia.
Rồi trong
lúc họ phân chia, người không có niềm tin và không mộ đạo đã đạt được cái
kho chứa đồ đạc ấy. Sau đó, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã
đi đến gặp hội chúng tỷ-kheo ni và nói điều này:
- Thưa các
ni sư, xin hãy đi ra. Kho chứa đồ đạc là của chúng tôi.
Được nói như
thế, tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với người đàn ông ấy điều này:
- Này ông,
chớ nói như thế. Cha các ông đã dâng đến hội chúng tỷ-kheo ni rồi.
- Vật đã
được dâng! Vật chưa được dâng!
Họ đã hỏi
các vị quan đại thần lo việc xử án.
Các vị quan
đại thần đã nói như vầy:
- Thưa ni
sư, ai biết là đã được dâng đến hội chúng tỷ-kheo ni.
Được nói như
thế, tỷ-kheo ni Thullanandā đã nói với các viên quan đại thần ấy điều này:
- Thưa các
ngài, trong lúc vật thí đang được dâng, ngay cả các ngài cũng đã tận mắt
được thấy hoặc được nghe mà.
Khi ấy, các
vị quan đại thần ấy (nói rằng):
- Ni sư đã
nói đúng sự thật.
Rồi đã xử
hội chúng tỷ-kheo ni được kho chứa đồ đạc ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy bị
thua cuộc nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Những bà
cạo đầu khả ố này không phải là Thích nữ, tại sao các bà lại cho (người)
cướp đoạt kho chứa đồ đạc của chúng tôi?
Tỷ-kheo ni
Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại
thần đã ra lệnh đánh đòn người đàn ông ấy. Sau đó, người đàn ông bị đánh
đòn ấy đã bảo xây dựng chỗ ngụ cho các đạo sĩ lõa thể ở nơi không xa tu
viện của các tỷ-kheo ni rồi đã xúi giục các đạo sĩ lõa thể rằng:
- Hãy lăng
mạ các tỷ-kheo ni ấy.
Tỷ-kheo ni
Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại
thần đã ra lệnh giam giữ người đàn ông ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Tại sao
các tỷ-kheo ni lần đầu làm cho (người ta) bị cướp đoạt kho chứa đồ đạc,
đến lần thứ nhì làm cho bị đánh đập, đến lần thứ ba làm cho bị giam giữ,
bây giờ sẽ làm cho chết?
Các tỷ-kheo
ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị tỷ-kheo
ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai
rằng:
- Vì sao ni
sư Thullanandā lại sống làm người thưa kiện?
Sau đó, các
tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. ...(như trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā sống làm người thưa kiện, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại sống làm người thưa kiện vậy?
Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có
đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào sống làm người thưa kiện với
nam gia chủ, hoặc với con trai của nam gia chủ, hoặc với người nô tỳ, hoặc
với người làm công, hoặc ngay cả với sa-môn du sĩ, vị (ni) này phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng ra.”
[32] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Người
thưa kiện nghĩa là người gây ra vụ xử án
được đề cập đến.
Nam gia
chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong
căn nhà.
Con trai
của gia chủ nghĩa là bất cứ những người nào
là con trai hoặc anh em trai.
Người nô
tỳ nghĩa là người nô lệ được mua bằng của
cải, (hoặc) bị bắt làm tù binh.
Người làm
công nghĩa là người làm thuê, người khuân
vác.
Sa-môn du
sĩ nghĩa là bất cứ người nào thành tựu pháp
du sĩ trừ ra tỷ-kheo, tỷ-kheo ni, cô ni tu tập sự, sa-di, và sa-di ni.
Vị ni (nghĩ
rằng): “Ta sẽ thưa kiện” rồi tìm kiếm người thứ hai hoặc (đích
thân) đi thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Nói với người thứ nhất thì phạm
tội tác ác (dukkaṭa). Nói với người thứ nhì thì phạm trọng tội
(thullaccaya). Khi kết thúc vụ xử án thì tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
[33] Ngay
lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do
sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): Chỉ có hội chúng ban
cho hành phạt mānatta của tội đó, cho thực hành lại từ đầu, cho
giải tội, không phải một số vị, không phải một cá nhân; vì thế được gọi là
“tội Tăng tàng.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm
tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội Tăng tàng.”
[34] Vị ni
đi trong khi bị những người khác lôi kéo đi, vị ni yêu cầu sự bảo vệ, vị
ni nói ra không nêu rõ (người nào), vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
********
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ NHÌ:
[35] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở thành Vesālī người vợ của một người dòng
dõi Licchavi nọ ngoại tình. Khi ấy, người Licchavi ấy đã nói với người đàn
bà ấy điều này:
- Tốt hơn cô
nên chừa. Tôi sẽ làm điều thất lợi cho cô.
Mặc dầu được
nói như thế, cô ta đã không lưu tâm đến. Vào lúc bấy giờ, nhóm người
Licchavi tụ họp lại ở Vesālī vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, người
Licchavi ấy đã nói với những người Licchavi ấy điều này:
- Thưa quý
vị, quý vị hãy cho phép tôi đối với một người đàn bà.
- Cô ấy tên
là gì?
- Vợ của tôi
ngoại tình. Tôi sẽ giết cô ta.
- Ngươi tự
biết lấy.
Người đàn bà
ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói chồng có ý định giết ta” rồi đã lấy
đồ đạc quý giá đi đến thành Sāvatthi, sau đó đã đi đến gặp các tu sĩ ngoại
đạo và cầu xin sự xuất gia. Các tu sĩ ngoại đạo đã không chịu cho xuất
gia. Cô ấy đã đi đến gặp các tỷ-kheo ni và cầu xin sự xuất gia. Các
tỷ-kheo ni cũng đã không chịu cho xuất gia. Cô ấy đã đi đến gặp tỷ-kheo ni
Thullanandā đưa cho xem gói đồ đạc rồi cầu xin sự xuất gia. Tỷ-kheo ni
Thullanandā đã nhận lấy gói đồ đạc và cho xuất gia.
Khi ấy,
người Licchavi ấy trong lúc tìm kiếm người đàn bà ấy đã đi đến thành
Sāvatthi. Sau khi thấy (cô ấy) đã xuất gia nơi các tỷ-kheo ni liền đi đến
gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã nói với đức vua Pasenadi xứ
Kosala điều này:
- Tâu bệ hạ,
vợ của thần đã lấy đi đồ đạc quý giá và đã đến thành Sāvatthi. Xin bệ hạ
hãy cho phép thần đối với cô ấy.
- Này khanh,
nếu thế thì hãy tìm kiếm rồi trình báo.
- Tâu bệ hạ,
đã tìm thấy. Cô ta đã xuất gia nơi các tỷ-kheo ni.
- Này khanh,
nếu đã được xuất gia ở nơi các tỷ-kheo ni thì không được phép làm gì cô ta
cả. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để cô ta thực hành Phạm hạnh một
cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.
Khi ấy,
người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Tại sao
các tỷ-kheo ni lại cho nữ tặc xuất gia?
Các tỷ-kheo
ni đã nghe được người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia?
Sau đó, các
tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. ...(như trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā cho nữ tặc xuất gia, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia vậy? Này
các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức
tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều
học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào biết được nữ đạo tặc có tội tử hình
được loan báo mà vẫn nhận vào cho tu khi chưa xin phép đức vua, hoặc hội
chúng, hoặc nhóm, hoặc hội đoàn, hoặc phường thợ, ngoại trừ có sự được
phép; vị (ni) này cũng phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới
vi phạm, cần được tách riêng ra.”
[36] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Biết
nghĩa là vị tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho cô ấy, hoặc cô
kia thông báo.
Nữ đạo
tặc: cô nào lấy đi theo lối trộm cắp vật
không được cho trị giá năm māsaka hoặc hơn năm māsaka; cô ấy gọi là nữ đạo
tặc.
Có tội tử
hình nghĩa là cô ta đáng tội tử hình sau khi
làm việc (trộm cắp).
Được loan
báo nghĩa là những người khác biết (về cô
ta) rằng: “Cô này bị tử hình.”
Khi chưa
xin phép: chưa hỏi.
Đức vua
nghĩa là nơi nào đức vua cai quản thì nên xin phép đức vua.
Hội chúng
nghĩa là hội chúng tỷ-kheo ni được đề cập đến. Nên xin phép hội chúng
tỷ-kheo ni.
Nhóm
nghĩa là nơi nào nhóm cai quản thì nên xin phép nhóm.
Hội đoàn
nghĩa là nơi nào hội đoàn cai quản thì nên xin phép hội đoàn.
Phường
thợ nghĩa là nơi nào phường thợ cai quản thì
nên xin phép phường thợ.
Ngoại trừ
có sự được phép: trừ ra sự được phép. Sự
được phép nghĩa là có hai sự được phép: đã được xuất gia nơi các tu sĩ
ngoại đạo hoặc là đã được xuất gia nơi các tỷ-kheo ni khác. Ngoại trừ có
sự được phép, vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhận vào cho tu” rồi tìm kiếm
nhóm (tỷ-kheo ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y,
hoặc là chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với lời
đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các
trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, thầy tế độ phạm
tội Tăng tàng (saṅghādisesa), nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm
tội tác ác (dukkaṭa).
[37] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
Ngay lúc
vừa mới vi phạm: vị bị vi phạm do thực hiện
sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[38] Nữ đạo
tặc, nhận biết là nữ đạo tặc, vị nhận vào cho tu thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa) ngoại trừ có sự cho phép.
Nữ đạo tặc,
có sự hoài nghi, vị nhận vào cho tu thì phạm tội tác ác (dukkaṭa) ngoại
trừ có sự cho phép.
Nữ đạo tặc,
(lầm) tưởng không phải là nữ đạo tặc, vị nhận vào cho tu thì vô tội ngoại
trừ có sự cho phép.
Không phải
là nữ đạo tặc, (lầm) tưởng là nữ đạo tặc, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải
là nữ đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Không phải
là nữ đạo tặc, nhận biết không phải là nữ đạo tặc, thì vô tội.
[39] Vị ni
không biết rồi nhận vào cho tu, sau khi xin phép rồi nhận vào cho tu, nhận
vào cho tu người đã được cho phép, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ BA:
[40] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vị tỷ-kheo ni học trò của Bhaddā Kāpilānī
sau khi gây gỗ với các tỷ-kheo ni đã đi đến gia đình thân quyến ở trong
thôn. Bhaddā Kāpilānī không nhìn thấy tỷ-kheo ni ấy nên đã hỏi các tỷ-kheo
ni rằng:
- Ni tên
(như vầy) đâu rồi, không có thấy?
- Thưa ni
sư, sau khi gây gỗ với các tỷ-kheo ni thì không được thấy.
- Này các
cô, hãy đi đến thôn kia, gia đình thân quyến này, rồi tìm kiếm ở nơi đó.
Các tỷ-kheo
ni sau khi đi đến nơi ấy đã nhìn thấy vị tỷ-kheo ni ấy và đã nói điều này:
- Này ni sư,
sao cô lại đi mỗi một mình? Chắc hẳn cô không bị xâm phạm?
- Này các ni
sư, tôi không bị xâm phạm.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao vị
tỷ-kheo ni lại đi vào trong làng một mình?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni đi vào trong làng một mình, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni lại đi vào trong làng một mình vậy? Này các
tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học
này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi vào trong làng một mình; vị (ni) này
cũng phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được
tách riêng ra.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các
tỷ-kheo ni như thế.
[41] Vào lúc
bấy giờ, có hai tỷ-kheo ni đang đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthi.
Giữa đường đi có con sông cần phải băng qua. Khi ấy, các tỷ-kheo ni ấy đã
đi đến gặp các người chèo đò và đã nói điều này:
- Này đạo
hữu, tốt thay hãy đưa chúng tôi sang.
- Thưa các
ni sư, không thể đưa sang cả hai người cùng một lần.
Một người
(chèo đò) đã đưa một (vị tỷ-kheo ni) sang. Người đưa sang đã làm nhơ vị ni
được đưa sang. Người không đưa sang đã làm nhơ vị ni chưa được đưa sang.
Hai cô ni ấy sau khi gặp lại nhau đã hỏi rằng:
- Này ni sư,
chắc hẳn cô không bị xâm phạm?
- Này ni sư,
tôi đã bị xâm phạm. Này ni sư, còn cô chắc không bị xâm phạm?
- Này ni sư,
tôi đã bị xâm phạm.
Sau đó, các
tỷ-kheo ni ấy đã đi đến thành Sāvatthi và đã kể lại sự việc ấy cho các
tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy
phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị
tỷ-kheo ni lại đi sang bờ sông bên kia một mình?
Sau đó, các
tỷ-kheo ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỷ-kheo. Các tỷ-kheo đã trình
sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ...(như trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni đi sang bờ sông bên kia một mình, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni lại đi sang bờ sông bên kia một mình vậy?
Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có
đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi vào trong làng một mình
hoặc đi sang bờ sông bên kia một mình; vị (ni) này cũng phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng ra.” Và
điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỷ-kheo ni như thế.
[42] Vào lúc
bấy giờ, có nhiều vị tỷ-kheo ni khi đang đi đến thành Sāvatthi trong xứ
Kosala lúc tối trời đã ghé vào ngôi làng nọ. Trong số đó, có vị tỷ-kheo ni
đẹp dáng, đáng nhìn, lịch thiệp. Có người đàn ông nọ đã sanh lòng say đắm
với hình dáng của vị tỷ-kheo ni ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy trong khi sắp
xếp chỗ ngủ cho các tỷ-kheo ni ấy đã sắp xếp chỗ ngủ của vị tỷ-kheo ni ấy
ở một bên. Khi ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã xét đoán ra rằng: “Người đàn ông
này đã bị ám ảnh rồi. Nếu trong đêm hắn ta đến thì ta sẽ bị mất thể diện”
rồi không thông báo cho các tỷ-kheo ni đã đi đến một gia đình nọ rồi nằm
ngủ (ở đó). Sau đó trong đêm tối, người đàn ông ấy đã đi đến và khi đang
tìm kiếm vị tỷ-kheo ni ấy đã chạm vào các tỷ-kheo ni. Các tỷ-kheo ni trong
lúc không nhìn thấy vị tỷ-kheo ni ấy đã nói như vầy:
- Chắc chắn
là vị tỷ-kheo ni ấy đã đi ra ngoài với người đàn ông.
Khi đã trải
qua đêm ấy, vị tỷ-kheo ni ấy đã đi đến gặp các tỷ-kheo ni ấy. Các tỷ-kheo
ni đã nói với vị tỷ-kheo ni ấy điều này:
- Này ni sư,
tại sao cô lại đi ra ngoài với người đàn ông?
- Này các ni
sư, tôi đã không đi ra ngoài với người đàn ông.
Và đã kể lại
sự việc ấy cho các tỷ-kheo ni. Các vị tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như
trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:
- Vì sao vị
tỷ-kheo ni trong đêm lại trú ngụ riêng một mình?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni trong đêm trú ngụ riêng một mình, có đúng
không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni trong đêm lại trú ngụ riêng một mình vậy?
Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có
đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. ...(như
trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như
vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ sông
bên kia một mình, hoặc trong đêm trú ngụ riêng một mình; vị (ni) này cũng
phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách
riêng ra.” Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các
tỷ-kheo ni như thế.
[43] Vào lúc
bấy giờ, có nhiều tỷ-kheo ni đang đi đường xa đến thành Sāvatthi trong xứ
Kosala. Tại nơi ấy, có vị tỷ-kheo ni nọ bị khó chịu vì việc đại tiện sau
khi tách rời ra mỗi một mình rồi đi ở phía sau. Nhiều người sau khi nhìn
thấy đã làm nhơ vị tỷ-kheo ni ấy. Sau đó, vị tỷ-kheo ni ấy đã đi đến gặp
các tỷ-kheo ni ấy. Các tỷ-kheo ni đã nói với tỷ-kheo ni ấy điều này:
- Này ni sư,
vì sao cô mỗi một mình lại tách rời ra khỏi nhóm vậy? Chắc hẳn cô đã không
bị xâm phạm?
- Này các ni
sư, tôi đã bị xâm phạm.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao vị
tỷ-kheo ni mỗi một mình lại tách rời ra khỏi nhóm?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni mỗi một mình tách rời ra khỏi nhóm, có
đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni mỗi một mình lại tách rời ra khỏi nhóm vậy?
Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có
đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến
điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào đi vào trong làng một mình
hoặc đi sang bờ sông bên kia một mình, hoặc trong đêm trú ngụ riêng một
mình, hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm; vị (ni) này cũng phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng ra.”
[44] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Hoặc) đi
vào trong làng một mình: vị ni trong khi
vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại bước thứ nhất thì phạm trọng
tội (thullaccaya), trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa). Vị ni trong khi vượt qua vùng phụ cận của ngôi làng không
được rào lại bước thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya), trong khi
vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hoặc đi
sang bờ sông bên kia một mình: sông nghĩa là
bất cứ ở nơi đâu làm y nội của vị tỷ-kheo ni, khi (được quấn) che khuất cả
ba vòng,[1]
bị ướt trong lúc (vị ni ấy) lội qua nơi ấy. Vị ni trong khi vượt qua bước
thứ nhất thì phạm trọng tội (thullaccaya), trong khi vượt qua bước thứ nhì
thì phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hoặc
trong đêm trú ngụ riêng một mình: lúc mặt
trời mọc lên, trong khi lìa khỏi tầm tay của vị tỷ-kheo ni thứ hai thì
phạm trọng tội (thullaccaya), khi đã lìa khỏi thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hoặc một
mình tách rời ra khỏi nhóm: không phải ở
trong làng, ở trong rừng, vị ni trong khi lìa khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe
của vị tỷ-kheo ni thứ nhì thì phạm trọng tội (thullaccaya), khi đã lìa
khỏi thì phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
[45] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
Ngay lúc
vừa mới vi phạm: vị bị vi phạm do thực hiện
sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[46] Trong
lúc vị tỷ-kheo ni thứ nhì bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển
sang giáo phái khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, vị ni vi
phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ TƯ:
[47] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī là vị ni thường gây
nên các sự xung đột, gây nên các sự cãi cọ, gây nên các sự tranh luận, gây
nên các sự nói chuyện nhảm nhí, và gây nên các sự tranh tụng trong hội
chúng. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã phản đối trong lúc thực hiện hành sự cho
vị ni ấy. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā đã đi vào làng vì công
việc cần làm nào đó. Khi ấy, hội chúng tỷ-kheo ni (nghĩ rằng): “Tỷ-kheo
ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỷ-kheo ni Caṇḍakālī
trong việc không nhìn nhận tội. Tỷ-kheo ni Thullanandā sau khi hoàn tất
công việc cần làm ấy ở trong làng đã trở về lại thành Sāvatthi. Trong khi
tỷ-kheo ni Thullanandā đi về, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī đã không sắp xếp chỗ
ngồi, không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi
ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỷ-kheo ni Thullanandā đã
nói với tỷ-kheo ni Caṇḍakālī điều này:
- Này cô ni,
vì sao trong khi tôi đi về, cô đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại
nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát,
và đã không dâng nước uống vậy?
- Thưa ni
sư, bởi vì sự việc ấy là như vậy giống như là người không được sự quan
tâm.
- Này cô ni,
vì sao cô lại không được sự quan tâm?
- Thưa ni
sư, các tỷ-kheo ni này (nói rằng): “Cô này không được sự quan tâm lại
ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối” rồi đã phạt án
treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.
Tỷ-kheo ni
Thullanandā (nói rằng): “Những cô ấy thì ngu dốt! Những cô ấy không
kinh ngiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự
hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta mới
biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự
hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta có thể thực hiện hành sự chưa được
thực hiện hoặc có thể hủy bỏ hành sự đã được thực hiện” rồi đã triệu
tập hội chúng tỷ-kheo ni một cách vô cùng nhanh chóng và đã phục hồi cho
tỷ-kheo ni Caṇḍakālī.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan
tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỷ-kheo ni đã bị hội chúng
hợp nhất phạt án treo đúng theo Pháp đúng theo Luật đúng theo lời dạy của
bậc Đạo Sư?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực
hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị
tỷ-kheo ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo đúng theo Pháp đúng theo
Luật đúng theo lời dạy của bậc Đạo Sư, có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực
hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị
tỷ-kheo ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo
lời dạy của bậc Đạo Sư vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại
niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các
tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo
ni nào khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến
ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỷ-kheo ni đã bị hội chúng hợp nhất
phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư; vị (ni) này
cũng phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được
tách riêng ra.”
[48] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Hội chúng
hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được
thiết lập trong cùng ranh giới (sīmā).
Bị phạt
án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc
không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc
không từ bỏ tà kiến ác.
Theo
Pháp, theo Luật: theo Pháp nào đó, theo Luật
nào đó.
Theo lời
giáo huấn của bậc Đạo Sư: theo lời giáo huấn
của đức Phật, theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng.
Khi chưa
xin phép hội chúng thực hiện hành sự: khi
chưa hỏi hội chúng đã làm hành sự.
Không
quan tâm đến ước muốn của nhóm:không biết
đến ước muốn của nhóm.(Nghĩ rằng): “Ta sẽ phục hồi” rồi tìm kiếm
nhóm (tỷ-kheo ni) hoặc chỉ định ranh giới (sīmā) thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Với lời đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời
thông báo thì phạm các trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt tuyên ngôn
hành sự thì phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
[49] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
Ngay lúc
vừa mới vi phạm: vị bị vi phạm do thực hiện
sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[50] Hành sự
đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị phục hồi thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, có sự hoài nghi, vị phục hồi thì phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị phục hồi thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hành sự sai
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[51] Vị phục
hồi sau khi đã xin phép hội chúng thực hiện hành sự, vị phục hồi sau khi
đã quan tâm đến ước muốn của nhóm, vị phục hồi vị ni đang thực hành các
phận sự, vị phục hồi trong lúc hội chúng thực hiện hành sự không còn tồn
tại, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ NĂM:
[52] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng
nhìn, lịch thiệp. Nhiều người sau khi nhìn thấy tỷ-kheo ni Sundarīnandā ở
trong nhà ăn bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỷ-kheo ni Sundarīnandā nhiễm
dục vọng các thức ăn thượng hảo hạng. Tỷ-kheo ni Sundarīnandā thọ thực
được như ý thích. Các tỷ-kheo ni khác không nhận lãnh được như ý. Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại
mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận
vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai
và ăn, có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận
vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai
và ăn vậy? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những
kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni
hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào nhiễm dục vọng tự
tay thọ nhận vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của người nam nhiễm
dục vọng rồi nhai hoặc ăn; vị (ni) này cũng phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng ra.”
[53] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
(Nữ)
nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục
vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.
(Nam)
nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục
vọng, có sự khao khát, có tâm say đắm.
Người nam
nghĩa là người nam nhân loại, không phải dạ-xoa nam, không phải ma nam,
không phải thú đực, có sự hiểu biết, có khả năng bị dục chiếm ngự.
Vật thực
cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực, nước
và tăm xỉa răng; phần còn lại gọi là vật thực cứng.
Vật thực
mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm,
súp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ
nhận thì phạm trọng tội (thullaccaya). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa).
[54] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
Ngay lúc
vừa mới vi phạm: vị bị vi phạm do thực hiện
sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
Vị ni thọ
nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[55] Khi một
bên nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi
thọ nhận thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm trọng
tội (thullaccaya). Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
Đối với
dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người,
khi cả hai nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn”
rồi thọ nhận từ tay (của các hạng trên) thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi
lần nuốt xuống thì phạm trọng tội (thullaccaya). Vị ni thọ nhận nước và
tăm xỉa răng thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Khi một bên
nhiễm dục vọng, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ
nhận thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
[56] Cả hai
không nhiễm dục vọng, vị ni biết rằng: “(Người đàn ông này) không nhiễm
dục vọng” rồi thọ nhận, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì vô
tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ SÁU:
[57] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng
nhìn, lịch thiệp. Nhiều người sau khi nhìn thấy tỷ-kheo ni Sundarīnandā ở
trong nhà ăn bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỷ-kheo ni Sundarīnandā các
thức ăn thượng hảo hạng. Tỷ-kheo ni Sundarīnandā trong lúc ngần ngại nên
không thọ nhận. Vị tỷ-kheo ni đứng kế đã nói với tỷ-kheo ni Sundarīnandā
điều này:
- Này ni sư,
vì sao ni sư lại không thọ nhận?
- Này ni sư,
(người đàn ông này) nhiễm dục vọng.
- Này ni sư,
ni sư mới nhiễm dục vọng.
- Này ni sư,
tôi không nhiễm dục vọng.
- Này ni sư,
người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hoặc không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni
sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, người đàn ông ấy dâng vật
thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật
ấy rồi nhai hoặc ăn đi.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao vị
tỷ-kheo ni lại nói như vầy: “Này ni sư, người đàn ông ấy nhiễm dục vọng
hoặc không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục
vọng? Này ni sư, người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm
nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi”?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói vị tỷ-kheo ni nói như vầy: “Này ni sư, người đàn ông
ấy nhiễm dục vọng hoặc không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư
không nhiễm dục vọng? Này ni sư, người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng
hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc
ăn đi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao vị tỷ-kheo ni lại nói như vầy: “Này ni sư, người đàn
ông ấy nhiễm dục vọng hoặc không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni
sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, người đàn ông ấy dâng vật thực loại
cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai
hoặc ăn đi”? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào nói như vầy:
‘Này ni sư, người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hoặc không nhiễm dục vọng thì
sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, người đàn ông
ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay
thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi;’ vị (ni) này cũng phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa) ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng ra.”
[58] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như
vầy: Vị ni xúi giục rằng: “Này ni sư,
người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hoặc không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni
sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, người đàn ông ấy dâng vật
thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật
ấy rồi nhai hoặc ăn đi” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do lời nói của
vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ
nhận thì (vị xúi giục) phạm tội tác ác (dukkaṭa). Mỗi lần (vị kia) nuốt
xuống thì (vị xúi giục) phạm trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt bữa ăn
thì (vị xúi giục) phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
Vị (ni)
này cũng: là liên quan đến các vị ni trước
đây đã được đề cập.
Ngay lúc
vừa mới vi phạm: vị bị vi phạm do thực hiện
sự việc, không phải do sự nhắc nhở.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
Vị ni xúi
giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai,
ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị xúi giục) phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[59] Khi một
bên nhiễm dục vọng, đối với vật thực loại cứng hoặc loại mềm của dạ-xoa
nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người, vị ni
xúi giục rằng: “Hãy nhai hoặc ăn” thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Do
lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn”
rồi thọ nhận từ tay (của các hạng trên) thì (vị xúi giục) phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Mỗi lần (vị kia) nuốt xuống thì (vị xúi giục) phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Khi chấm dứt bữa ăn thì (vị xúi giục) phạm trọng tội
(thullaccaya).
Vị ni xúi
giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai,
ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị xúi giục) phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[60] Vị ni
biết rằng: “(Người đàn ông này) không nhiễm dục vọng” rồi xúi giục,
vị ni (nghĩ rằng): “Cô ta (sẽ) nổi giận và không thọ nhận” rồi xúi
giục, vị ni (nghĩ rằng): “Cô ta (sẽ) không thọ nhận vì lòng thương hại
đến gia đình” rồi xúi giục, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên thì
vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ BẢY:
[61] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī sau khi gây gỗ với
các tỷ-kheo ni đã nổi giận, bất bình rồi nói như vầy:
- Tôi lìa
bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng (Saṅgha), tôi lìa bỏ
sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có
những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học
tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình lại nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức
Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các
Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác
thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành
Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy”?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình nói như vầy:
“Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa
bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có
những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học
tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ sa-môn ấy,”
có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Caṇḍakālī khi nổi giận, bất bình lại nói như
vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng,
tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn hạng gì?
Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích
sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ
sa-môn ấy”? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho
những kẻ chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo
ni hãy phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào nổi giận, bất
bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức Pháp, tôi lìa
bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ
sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối
hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện
của các nữ sa-môn ấy.’ Vị tỷ-kheo ni ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo ni
như sau: ‘Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ
đức Phật, ...(như trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này
là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm
tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự
hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo
thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ
đau.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỷ-kheo ni mà vị tỷ-kheo ni ấy vẫn
chấp giữ y như thế, vị tỷ-kheo ni ấy nên được các tỷ-kheo ni nhắc nhở đến
lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ
việc ấy, như thế là điều tốt; nếu không dứt bỏ, vị (ni) này cũng phạm tội
(khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội Tăng tàng (saṅghādisesa), cần
được tách riêng ra.”
[62] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nổi giận,
bất bình:không được hài lòng, có tâm bực
bội, sanh khởi lòng cay cú.
Nói như
vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như
trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn
hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận,
ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các
nữ sa-môn ấy.”
[63] Vị
tỷ-kheo ni ấy: vị ni nào nói như vậy là vị tỷ-kheo ni ấy.
Bởi các
tỷ-kheo ni: bởi các tỷ-kheo ni khác. Các vị
ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư,
khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như
trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn
hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận,
ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các
nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy
thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được
nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ,
như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
Vị tỷ-kheo
ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni
sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ...(như
trên)..., tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này là các nữ sa-môn
hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm tốn, có hối hận,
ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các
nữ sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy
thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được
nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ,
như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
[64] Vị
tỷ-kheo ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như
vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
khi nổi giận, bất bình nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức
Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này
là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm
tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự
hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu
là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỷ-kheo ni
tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
khi nổi giận, bất bình nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ đức
Pháp, tôi lìa bỏ đức Tăng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các Thích nữ sa-môn này
là các nữ sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ sa-môn khác thanh tịnh, khiêm
tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự
hiện diện của các nữ sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội
chúng nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni
nào đồng ý việc nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy, vị
ni ấy nên im lặng; vị ni nào không đồng ý, có thể nói lên.
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để
dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng,
tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[65] Với lời
đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các
trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa). Đối với vị ni vi phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa)
thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo
hết hiệu lực.
[66] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
(Khi được
nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội
khi được nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do vi phạm sự việc.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[67] Hành sự
đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa).
Hành sự sai
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[68] Vị ni
chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ TÁM:
[69] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Caṇḍakālī bị xử thua trong một
cuộc tranh tụng nào đó nên đã nổi giận, bất bình rồi nói như vầy:
- Các
tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì
ghét, các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì si mê, các tỷ-kheo ni có sự thiên
vị vì sợ hãi.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Caṇḍakālī bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất
bình rồi nói như vầy: “Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như
trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi”?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Caṇḍakālī bị xử thua trong một cuộc tranh
tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỷ-kheo ni có
sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì
sợ hãi,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Caṇḍakālī bị xử thua trong một cuộc tranh tụng
nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: “Các tỷ-kheo ni có sự
thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ
hãi”? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy
phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào bị xử thua trong một
cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các
tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các tỷ-kheo ni có
sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị tỷ-kheo ni ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo ni
như sau: ‘Này ni sư, khi bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó rồi
nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì
thương, ...(như trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính
ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê,
mới thiên vị vì sợ hãi.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỷ-kheo ni mà vị
tỷ-kheo ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỷ-kheo ni ấy nên được các
tỷ-kheo ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến
lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế là điều tốt; nếu không dứt bỏ, vị
(ni) này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội Tăng
tàng (saṅghādisesa), cần được tách riêng ra.”
[70] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Trong một
cuộc tranh tụng nào đó: Tranh tụng nghĩa là
có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng
liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng
liên quan đến nhiệm vụ.
Bị xử
thua nghĩa là bị thất bại được đề cập đến.
Nổi giận,
bất bình:không được hài lòng, có tâm bực
bội, sanh khởi lòng cay cú.
Nói như
vầy: “Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì
thương, ...(như trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”
[71] Vị
tỷ-kheo ni ấy: vị ni nào nói như vậy là vị tỷ-kheo ni ấy.
Bởi các
tỷ-kheo ni: bởi các tỷ-kheo ni khác. Các vị
ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư,
khi bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ
nên nói như vầy: ‘Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như
trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên
vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì
sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba.
Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ
thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì
phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Vị tỷ-kheo
ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni
sư, khi bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình
chớ nên nói như vầy: ‘Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như
trên)..., các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên
vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì
sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba.
Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ
thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[72] Vị
tỷ-kheo ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như
vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói
như vầy: ‘Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các
tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc
ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở
tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
bị xử thua trong một cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói
như vầy: ‘Các tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì thương, ...(như trên)..., các
tỷ-kheo ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc
ấy. Hội chúng nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại
đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc
ấy, vị ni ấy nên im lặng; vị ni nào không đồng ý, có thể nói lên.
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để
dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng,
tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[73] Với lời
đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các
trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa). Đối với vị ni vi phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa),
thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo
hết hiệu lực.
[74] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
(Khi được
nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội
khi được nhắc nhở đến lần thứ ba không phải do vi phạm sự việc.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[75] Hành sự
đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa).
Hành sự sai
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[76] Vị ni
chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ CHÍN:
[77] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỷ-kheo ni học trò của tỷ-kheo ni
Thullanandā sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng đồn
xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau.
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao các
tỷ-kheo ni lại sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng
đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau?
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói các tỷ-kheo ni sống thân cận (với thế tục), có sở hành
xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn
cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau, có đúng không
vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao các tỷ-kheo ni lại sống thân cận (với thế tục), có sở hành
xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn
cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau vậy? Này các
tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin,
...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy phổ biến điều học
này như vầy: “Hơn nữa, các tỷ-kheo ni sống thân cận (với thế tục) là có
sở hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây
khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Các
tỷ-kheo ni ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo ni như sau: ‘Các sư tỷ sống
thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi
mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người
che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen
ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các
tỷ-kheo ni mà các tỷ-kheo ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, các tỷ-kheo ni ấy
nên được các tỷ-kheo ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được
nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế là điều tốt; nếu không
dứt bỏ các vị (ni) này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba,
là tội Tăng tàng (saṅghādisesa), cần được tách riêng ra.”
[78] Hơn
nữa, các tỷ-kheo ni: là các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập
đến.
Sống thân
cận (với thế tục): sống thân cận bằng (hành
động thuộc về) thân và khẩu không đúng đắn.
Có sở
hành xấu xa: đã hội đủ sở hành xấu xa.
Có tiếng
đồn xấu xa: đã đạt được lời đồn đãi xấu xa.
Có sự
nuôi mạng xấu xa: các vị duy trì sự sống
bằng tà mạng xấu xa.
Là người
gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni: các
vị phản đối trong khi hành sự đang được thực hiện cho từng vị.
Là người
che giấu tội lẫn nhau: các vị là người che
giấu tội lẫn cho nhau.
[79] Các
tỷ-kheo ni ấy: các vị tỷ-kheo ni nào sống thân cận.
Bởi các
tỷ-kheo ni: bởi các tỷ-kheo ni khác. Các vị
ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Các sư tỷ
sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự
nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là
người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội
chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần
thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế
là điều tốt; nếu (các vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa). Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
Các tỷ-kheo
ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Các sư tỷ
sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự
nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là
người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội
chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần
thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế
là điều tốt; nếu (các vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác
(dukkaṭa).
[80] Các
tỷ-kheo ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như
vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo ni có kinh nghiệm, đủ
năng lực:
“Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo ni tên (như vầy)
và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng
đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ
bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên
nhắc nhở các tỷ-kheo ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc
ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỷ-kheo ni tên (như vầy)
và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng
đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ
bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỷ-kheo ni tên (như vầy) và tên (như
vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở các tỷ-kheo
ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy, vị ni ấy nên im
lặng; vị ni nào không đồng ý, có thể nói lên.
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Các
tỷ-kheo ni tên (như vầy) và tên (như
vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự
việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi
nhận sự việc này là như vậy.”
[81] Với lời
đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các
trọng tội (thullaccaya) . Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa). Đối với vị ni vi phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa), thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do
hai lời thông báo hết hiệu lực. Hai ba vị ni nên được nhắc nhở chung (một
lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng ấy.
[82] Các
tỷ-kheo ni này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề
cập.
(Khi được
nhắc nhở) đến lần thứ ba: các vị ni vi phạm
tội khi được nhắc nhở đến lần thứ ba không phải do vi phạm sự việc.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): ...(như trên)... vì thế
được gọi là “tội Tăng tàng.”
[83] Hành sự
đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị không dứt bỏ thì phạm
tội Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, có sự hoài nghi, các vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị không dứt bỏ thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự sai
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[84] Các vị
ni chưa được nhắc nhở, các vị ni dứt bỏ, các vị ni bị điên, các vị ni có
tâm bị rối loạn, các vị ni bị thọ khổ hành hạ, các vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
*******
ĐIỀU TĂNG
TÀNG (SAṄGHĀDISESA) THỨ MƯỜI:
[85] Lúc bấy
giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông
Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỷ-kheo ni Thullanandā khi bị hội chúng
cùng nhau khiển trách nên nói với các tỷ-kheo ni như vầy:
- Này các ni
sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội
chúng cũng có những tỷ-kheo ni khác có sở hành như vậy, có tiếng đồn như
vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo
ni, và là người là người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói bất
cứ điều gì. Nhưng chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng,
với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính
chất phân hóa như vầy: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có sở
hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó
khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Này các
ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các
sư tỷ.”
Các vị
tỷ-kheo ni ít ham muốn, ...(như trên)... Các vị ni ấy phàn nàn, phê phán,
chê bai rằng:
- Vì sao ni
sư Thullanandā khi bị hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các
tỷ-kheo ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị
chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách riêng
ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ?”
...(như
trên)...
- Này các
tỷ-kheo, nghe nói tỷ-kheo ni Thullanandā khi bị hội chúng cùng nhau khiển
trách lại nói với các tỷ-kheo ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy
sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni
sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư
tỷ,” có đúng không vậy?
- Bạch Thế
Tôn, đúng vậy.
Đức Phật Thế
Tôn đã khiển trách rằng:
- Này các
tỷ-kheo, vì sao tỷ-kheo ni Thullanandā khi bị hội chúng cùng nhau khiển
trách lại nói với các tỷ-kheo ni như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy
sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni
sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư
tỷ”? Này các tỷ-kheo, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ
chưa có đức tin, ...(như trên)... Và này các tỷ-kheo, các tỷ-kheo ni hãy
phổ biến điều học này như vầy: “Vị tỷ-kheo ni nào nói như vầy: ‘Này các
ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội
chúng cũng có những tỷ-kheo ni khác có sở hành như vậy, có tiếng đồn như
vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo
ni, và là người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói bất cứ điều
gì. Nhưng chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự
xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất phân
hóa như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có
tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội
chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự
tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.’ Vị
tỷ-kheo ni ấy nên được nói bởi các tỷ-kheo ni như sau: ‘Này ni sư, chớ nói
như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách
khác. Trong hội chúng cũng có những tỷ-kheo ni khác có sở hành như vậy, có
tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là người gây khó khăn cho hội
chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không
nói bất cứ điều gì. Nhưng chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn
trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có
tính chất phân hóa như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có sở
hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó
khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Này các
ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các
sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỷ-kheo ni mà tỷ-kheo ni ấy vẫn
chấp giữ y như thế, tỷ-kheo ni ấy nên được các tỷ-kheo ni nhắc nhở đến lần
thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc
ấy, như thế là điều tốt; nếu không dứt bỏ vị (ni) này cũng phạm tội (khi
được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội Tăng tàng (saṅghādisesa), cần được
tách riêng ra.”
[86] Vị
(ni) nào: là bất cứ vị (ni) nào ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni: ...(như trên)... vị (ni) này là “vị
tỷ-kheo ni” được đề cập trong ý nghĩa này.
Nói như
vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân
cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỷ-kheo
ni khác có sở hành như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy,
là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội
lẫn nhau; hội chúng đã không nói bất cứ điều gì. Nhưng chính các cô, hội
chúng (đã nói) ...
Với sự
không tôn trọng: với sự khinh khi.
Với sự
xem thường: với sự chê bai.
Không
lòng nhẫn nại: với sự nóng giận.
Theo lối
nói tầm phào: việc nói tầm phào đã được thực
hiện.
Có tính
chất phân hóa: có tính chất không phe nhóm.
(Hội
chúng) đã nói như vầy: “Các sư tỷ sống
thân cận (với thế tục), có sở hành xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi
mạng xấu xa, là người gây khó khăn cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người
che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen
ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.”
Vị
tỷ-kheo ni ấy: vị ni nào nói như vậy là vị
tỷ-kheo ni ấy.
Bởi các
tỷ-kheo ni: bởi các tỷ-kheo ni khác. Các vị
ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư,
chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có
sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội
chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ’.” Nên được nói đến lần
thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là
điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Các
vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Tỷ-kheo ni
ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư,
chớ nói như vầy: Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có
sống cách khác. ...(như trên)... Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội
chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần
thứ nhì. Nên được nói đến lần thứ ba. Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế là
điều tốt; nếu (vị ni ấy) không dứt bỏ thì phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[87] Tỷ-kheo
ni ấy nên được nhắc nhở. Và này các tỷ-kheo, nên được nhắc nhở như vầy:
Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỷ-kheo ni có kinh nghiệm, đủ năng
lực:
“Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
khi bị hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỷ-kheo ni như vầy:
‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác.
Trong hội chúng cũng có những tỷ-kheo ni khác có sở hành như vậy, có tiếng
đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói bất
cứ điều gì. Nhưng chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng,
với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính
chất phân hóa như vầy: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), ...(như
trên)... Này các ni sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách
rời này của các sư tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời
điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như
vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.
Bạch chư
đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỷ-kheo ni này tên (như vầy)
khi bị hội chúng cùng nhau khiển trách lại nói với các tỷ-kheo ni như vầy:
‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác.
Trong hội chúng cũng có những tỷ-kheo ni khác có sở hành như vậy, có tiếng
đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là người gây khó khăn cho hội chúng
tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói bất
cứ điều gì. Nhưng chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng,
với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính
chất phân hóa như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có sở hành
xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là người gây khó khăn
cho hội chúng tỷ-kheo ni, và là người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni
sư, hãy tự tách riêng ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời này của các sư
tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc
ấy. Hội chúng nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại
đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỷ-kheo ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc
ấy, vị ni ấy nên im lặng; vị ni nào không đồng ý, có thể nói lên.
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ nhì: ...(như trên)...
Tôi xin
thông báo sự việc này lần thứ ba: ...(như trên)...
Tỷ-kheo
ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để
dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng,
tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”
[88] Với lời
đề nghị thì phạm tội tác ác (dukkaṭa). Với hai lời thông báo thì phạm các
trọng tội (thullaccaya). Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa). Đối với vị ni vi phạm tội Tăng tàng (saṅghādisesa),
thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo
hết hiệu lực.
[82] Vị
(ni) này cũng: là liên quan đến các vị ni trước đây đã được đề cập.
(Khi được
nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội
khi được nhắc nhở đến lần thứ ba không phải do vi phạm sự việc.
Cần được
tách riêng ra: bị tách riêng ra khỏi hội
chúng.
Tội Tăng
tàng (saṅghādisesa): Chỉ có hội chúng ban
cho hành phạt mānatta của tội đó, cho thực hành lại từ đầu, cho
giải tội, không phải một số vị, không phải một cá nhân; vì thế được gọi là
“tội Tăng tàng.” Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm
tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là “tội Tăng tàng.”
[90] Hành sự
đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội
Tăng tàng (saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, có sự hoài nghi, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng tàng
(saṅghādisesa).
Hành sự đúng
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị không dứt bỏ thì phạm tội Tăng
tàng (saṅghādisesa).
Hành sự sai
Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
Hành sự sai
Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội tác ác (dukkaṭa).
[91] Vị ni
chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, vị ni vi phạm đầu tiên
thì vô tội.
*******
[92] Bạch
chư đại đức ni, mười bảy điều Tăng tàng (Saṅghādisesa)[2]đã
được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, tám
điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỷ-kheo ni vi phạm điều nọ
hoặc điều kia thuộc về các điều này thì vị tỷ-kheo ni ấy nên thực hành nửa
tháng mānatta nơi có cả hai hội chúng. Vị tỷ kheo ni có hành phạt
mānatta đã được hoàn tất thì vị tỷ-kheo ni ấy nên được giải tội tại
nơi nào có hội chúng tỷ-kheo ni nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỷ-kheo ni
nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỷ-kheo ni ấy thì vị
tỷ-kheo ni ấy chưa được giải tội và các tỷ-kheo ni ấy bị khiển trách. Đây
là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.
Trong các
điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh
trong vấn đề này?
Đến lần thứ
nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Đến lần thứ
ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này?
Các đại đức
ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt chương Mười Bảy Pháp.
********
[1]
Timaṇḍalaṃ: ba vòng nghĩa
là vòng bụng ở rốn và hai vòng ở đầu gối.
[2]
Ngài Buddhaghosa giải
thích về 17 điều Tăng tàng (Saṅghādisesa) như sau: Phần phạm tội ngay
lúc vừa mới vi phạm gồm có điều 5 (mai mối), 8 và 9 (hai điều về vu
cáo) ở giới bổn của tỷ-kheo và 6 điều ở đây. Phần phạm tội (khi được
nhắc nhở) đến lần thứ ba gồm 4 điều từ 10-13 ở giới bổn của tỷ-kheo và
4 điều ở đây. Tổng cọng là 17 điều.
---o0o---
Mục lục |
01 | 02 |
03 |
04a |
04b |
04c |
04d |
04e
Phân tích Giới Tỷ-Kheo I |
Phân tích Giới Tỷ-Kheo II |
Giới thiệu