PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
H.T. THÍCH TRÍ THỦ
biên tập
---o0o---
Chương V
Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc
Tiết Thứ 1
Tánh Cách Trọng Yếu của Sự Phát Nguyện
Trong một chương trước đã nói sự quan trọng của lòng tin, nay xin giải
rõ tính cách trọng yếu của sự phát nguyện.
Ngài Ngẫu Ích Đại Sư nói: "Được
vãng sanh hay không là do Tín Nguyện có hay không; còn phẩm vị vãng sanh
cao hay thấp là tùy việc trì danh sâu hay cạn".
Ở đây, chưa bàn đến phẩm vị cao thấp sau khi vãng sanh. Vấn đề cấp thiết
cần phải giải quyết là có được vãng sanh hay không đã. Vì vậy, chưa bàn
đến vấn đề hành trì sâu hay cạn, mà chỉ nên bàn đến tín, nguyện có hay
không thôi.
Tín, Nguyện, Hạnh là ba tư lương
sanh về Tịnh độ. Nếu tư lương không đủ, quyết không được vãng sanh. Vì
thế, sự phát nguyện chiếm một địa vị tối quan trọng trong pháp môn tu
Tịnh độ.
Đức Phật A Di Đà ngày xưa phát 48 lời nguyện làm duyên khởi tạo thành
thế giới Cực lạc. Từ đó về sau, chúng sanh trong mười phương đều lấy sự
phát nguyện vãng sanh làm căn cứ tu hành của tông Tịnh độ. Một đàng,
Phật nguyện tiếp dẫn, một đàng chúng sanh nguyện vãng sanh, hai nguyện
gặp nhau, hai lực lượng tự, tha, hỗ trợ nhau mới đủ sức kết thành quả
vãng sanh. Vì thế, người tu tịnh nghiệp quyết phải phát nguyện dõng
mãnh.
Trong 48 lời đại nguyện của đức A Di Đà. Lời đại nguyện thứ 19 nói một
cách rõ ràng rằng nếu có người chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước
Ngài, lúc lâm chung nhất định Ngài sẽ đến tiếp dẫn. Cho nên, hễ có phát
nguyện là quyết định phải được vãng sanh.
Lại nữa trong kinh "Phật thuyết A Di Đà" đức Phật Thích Ca bảo Ngài Xá
Lợi Phất "Nếu có người đã phát nguyện, đương phát nguyện, sắp phát
nguyện, nguyện sanh về thế giới đức Phật A Di Đà, các người ấy tất đã
sanh, hoặc đương sanh hoặc sắp sanh tại thế giới kia, và, hết thảy đều
được quả bất thoái chuyển vô thượng Chánh đẳng Chánh giác". Đoạn trích
dẫn đây cũng thuyết minh rằng hễ có phát nguyện tức có vãng sanh vậy.
Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cũng từng dạy rằng: "Người ấy khi
gần lâm chung, trong sát na tối hậu, tất cả các căn thảy đều bại hoại,
tất cả thân thuộc đều xa rời, tất cả uy thế đều tan rã... chỉ còn nguyện
vương là hằng cùng theo dõi, hướng dẫn trước mắt; trong một khoảnh khắc,
liền được vãng sanh thế giới Cực lạc". Căn cứ vào các kinh văn trích dẫn
trên đây, ta thấy công dụng của phát nguyện là như thế nào rồi vậy.
Bây giờ, trên thực tế, đây là câu chuyện mà thầy Bạch Sa ở Qui nhơn đã
kể cho tôi nghe:
Bà Thái Xương, vợ một Hoa kiều buôn bán ở Qui nhơn, là một đàn việt chùa
Bạch Sa và đã giúp thầy ấy kiến tạo ngôi chùa Bạch Sa hiện nay. Bà
chuyên tu pháp môn niệm Phật và chỉ phát nguyện khi thọ chung được gặp
ngày vía đức A Di Đà (tức ngày 17 tháng 11 âm lịch) và được biết trước
giờ thọ chung ấy. Năm bà mất, đã 80 tuổi mà vẫn khỏe mạnh. Đầu tháng 11
năm ấy, bà đến xin thầy Bạch Sa tụng cho một bộ kinh Thủy Sám và
một bộ kinh Pháp Hoa để kịp đến ngày 17 tháng ấy bà về chầu Phật.
Thầy Bạch Sa lấy làm kinh ngạc vô cùng, nhưng vì bà là bổn đạo thuần
thành đã lâu năm nên thầy cũng phải chìu theo. Đến ngày 17, bà con và
đạo hữu mà cái tin ấy đã làm cho họ kinh ngạc, tụ tập đến nhà bà rất
đông để thỏa mãn tánh hiếu kỳ. Suốt buổi sáng hôm ấy, bà vẫn khỏe mạnh
và bình tỉnh như thường ngày, khiến thầy Bạch Sa trong thâm tâm rất e
sợ, không khéo phen nầy làm trò cười cho thiên hạ. Bỗng đâu đến khoảng
quá 10 giờ sáng, bà bảo người giúp việc in một in cơm đem lên nhờ thầy
cúng Phật rồi đem xuống cho bà, bà chắn in cơm làm hai phần, tự mình ăn
một nửa, còn một nửa bảo người giúp việc ăn mà từ tạ rằng: "Gọi là đền
đáp công ơn bà giúp đỡ tôi trong mười mấy năm trường, nay đến ngày vĩnh
biệt, xin biếu bà ăn nửa phần cơm nầy để sau nhờ Phật tiếp dẫn về Tây
phương". Nói xong, rửa mặt súc miệng và thay áo quần thì đúng 12 giờ
trưa. Bà chào tất cả mọi người, ngồi xếp bàn, hai tay chấp trước ngực mà
hóa một cách vui vẻ trước sự kinh ngạc của tất cả mọi người trong nhà.
Năm ấy ở Qui nhơn, thiên hạ xôn xao bàn tán rất nhiều về cái chết của bà
Thái Xương, tiếng bà thành Phật lan ra khắp các tỉnh.
Xem đó đủ biết sự phát nguyện vãng sanh Cực lạc là một điều tối cần
thiết cho người tu theo pháp môn Tịnh độ. Phát nguyện là một nhu kiện
không thể không có, ta không nên sơ suất để phải mất công hiệu và lợi
ích rất lớn về sau.
Từ xưa nay, người tu theo pháp môn Tịnh độ đã làm ra rất nhiều bài vãng
sanh Cực lạc. Mỗi bài đều có một ý nghĩa hoặc sâu hoặc cạn nhưng mục
đích chung vẫn là:
"Nguyện khi thân mạng gần chung, biết trước giờ chết mà thân tâm vẫn
được an vui, được thấy Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn".
Trong các bài phát nguyện, nổi tiếng nhất là bài "Khể thủ Tây phương"
của Ngài Liên Trì Đại sư, bài "Nhất tâm quy mạng" của Ngài Từ Vân Sám
chủ, bài "Thập phương tam thế Phật" của Ngài Đại Từ Bồ tát. Bài nào bài
nấy, lời văn rất hay, ý nghĩa rất đầy đủ và hàm súc. Trong quốc văn ta
thì có bài "Đệ tử chúng con từ vô thủy" và bài "Đệ tử kính lạy". Sau một
thời kinh và trì niệm danh hiệu Phật, ta nên vận hết thành tâm đọc một
trong những bài ấy, hoặc đọc tiếp hai ba lần cũng được. Đọc như thế tức
là mượn lời văn để tự mình phát lời nguyện vậy. Lúc lâm chung, nhất định
sẽ được nhờ Phật tiếp dẫn vãng sanh thế giới Cực Lạc.
Nếu không muốn lắp theo khuôn có sẵn, ta có thể tự mình viết lấy bài
phát nguyện riêng cho thích hợp cũng được. Đại cương lời phát nguyện
không ngoài việc cầu vãng sanh, cầu Phật tiếp dẫn, cầu chứng quả, để trở
lui tam giới cứu độ chúng sanh đồng sanh Lạc quốc. Còn nếu muốn thêm
những chi tiết nào thâm thiết khác, ấy là tùy hoàn cảnh và sở nguyện
riêng từng người.
Trong văn phát nguyện bao giờ cũng có câu cầu Phật và chúng Bồ tát đến
tiếp dẫn là vì lẽ gì? Xin thưa:
Người tu Tịnh độ, nếu công phu chưa được thuần thục, thường hay bị hãm
vào trong những trạng thái sau đây, nên khi lâm chung không niệm được,
hoặc lắm khi cũng không kịp mời người khác hộ niệm giùm. Các trạng thái
ấy có thể là: hoặc vì bệnh khổ bức bách nên sinh hôn mê, hoặc bị bà con
thương tiếc khó bề xả bỏ nên sinh si luyến, hoặc vì sự nghiệp của tiền
khó dứt lòng tham đắm nên sinh bi ai, hoặc vì thù hận đầy dẫy khó giải
nỗi lòng nên sinh sân hận v.v... Đó là chưa kể các trường hợp hoạnh tử,
miệng chưa kịp niệm đã vong.
Nếu lúc gần lâm chung mà không được Phật hiện đến tiếp dẫn thì không
những không được vãng sanh, lại còn vì các sự đau khổ tham sân luyến
tiếc mà bị đọa lạc ba đường dữ nữa là khác. Vì các lý do ấy nên trong
văn phát nguyện, bao giờ cũng cầu Phật đến trước để tiếp dẫn mới là chu
toàn. Sự phát nguyện hằng ngày có thể ở tại chùa vào bất luận giờ nào
cũng được, miễn là sau khi lễ Phật xong thì quỳ ngay trước điện Phật mà
đọc lời phát nguyện. Nếu ở nhà có bàn thờ Phật thì hằng ngày nên đốt
hương lạy Phật rồi phát nguyện. Hoặc giả nếu không tiện thờ Phật thì
viết câu: "Nam mô Thập phương Tam thế Phật Bồ tát" dán lên trên vách,
hằng đêm trước khi đi ngủ, đối mặt vào vách mà đốt hương phát nguyện.
Gặp khi đi đường, chưa kịp trở về thì nên xây mặt về hướng Tây chấp tay
niệm năm, mười hiệu Phật rồi lâm râm đọc lời phát nguyện. Ta lại có thể
phát nguyện mỗi khi làm được một việc thiện nào, bất luận lớn nhỏ v.v...
Trong nghi lễ phát nguyện, đều tuyệt đối cấm hẳn là không được đối trước
đền tháp thờ thần thánh ma quỷ mà phát nguyện.
Tiết Thứ 2
Giới Thiệu Vài Bài Phát Nguyện của Người Xưa
và Nghi Thức Phát Nguyện
a) Nội Dung Phát Nguyện
Bài của Ngài Từ Vân Sám Chủ:
Nguyên Văn:
Nhất tâm quy mạng!
Cực lạc Thế giới
A Di Đà Phật.
Nguyện dĩ tịnh quang chiếu ngã
Từ thệ nhiếp ngã
Ngã kim chánh niệm
Xưng Như Lai danh
Vị Bồ đề đạo
Cầu sanh Tịnh độ
Phật tích bổn thệ:
"Nhược hữu chúng sanh,
Dục sanh ngã quốc,
Chí tâm tín nhạo,
Nãi chí thập niệm,
Nhược bất sanh giả,
Bất thủ Chánh giác".
Dĩ thử niệm Phật nhân duyên
Đắc Nhập Như Lai
Đại thệ hải trung
Thừa Phật từ lực
Chúng tội tiêu diệt.
Thiện căn tăng trưởng
Nhược lâm dục mạng chung
Dự tri thời chí
Thân vô bệnh khổ
Tâm bất tham luyến
Ý Bất điên đảo
Như nhập thiền định
Phật cập Thánh chúng
Thủ chấp kim đài
Lai nghinh tiếp ngã
Ư nhất niệm khoảnh
Sanh Cực lạc quốc.
Hoa khai kiến Phật
Tức văn Phật thừa
Đốn khai Phật huệ
Quảng độ chúng sanh
Mãn Bồ đề nguyện.
Dịch:
Một lòng quy kính
Phật a Di Đà
Thế giới Cực Lạc
Nguyện lấy tịnh quang chiếu con
Từ thệ nhiếp con
Con nay chánh niệm
Xưng hiệu Như Lai
Vì đạo Bồ đề
Cầu sanh Tịnh độ.
Phật xưa có thề:
"Nếu có chúng sanh,
Muốn sanh nước ta,
Hết lòng tín niệm,
Dù chỉ mười niệm,
Mà chẳng đặng sanh,
Thề chẳng làm Phật".
Nhờ nhân duyên niệm Phật nầy
Được vào trong biển đại thệ
Của đức Như Lai
Nhờ từ lực Phật
Các tội tiêu diệt.
Căn lành tăng trưởng
Khi thân mạng gần chung
Biết trước giờ chết
Thân không bệnh khổ
Tâm không tham luyến
Ý không điên đảo
Như vào thiền định
Phật và Thánh chúng
Tay nâng kim đài
Đến nghinh đón con
Trong khoảng một niệm
Sanh về Cực lạc.
Sen nở thấy Phật
Liền nghe Phật thừa
Bừng tỏ Phật huệ
Lui về độ sanh
Tròn nguyện Bồ đề.
Bài của Ngài Đại Từ Bồ tát:
Nguyên văn:
Thập phương Tam thế Phật
A Di Đà đệ nhất
Cửu phẩm độ chúng sanh
Uy đức vô cùng cực.
Ngã kim đại quy y
Sám hối tam nghiệp tội.
Phàm hữu chư phước thiện
Chí tâm dụng hồi hướng
Nguyện đồng niệm Phật nhơn
Cảm ứng tùy thời hiện
Lâm chung Tây phương cảnh
Phân minh tại mục tiền
Kiến văn giai tinh tấn
Đồng sanh Cực lạc quốc.
Kiến Phật liễu sanh tử
Như Phật độ nhất thế.
Vô biên phiền não đoạn
Vô lượng pháp môn tu
Thệ nguyện độ chúng sanh
Tổng nguyện thành Phật đạo.
Hư không hữu tận
Ngã nguyện vô cùng
Tình dữ vô tình
Đồng viên chủng trí.
Dịch:
Trong ba đời mười phương
Phật A Di Đà thứ nhất
Chín phẩm độ chúng sanh
Uy đức cao tột bậc.
Con nay nguyện quy y
Sám hối tội ba nghiệp.
Phàm làm được phước thiện
Thảy nhất tâm hồi hướng
Nguyện cùng người niệm Phật
Tùy thời niệm cảm ứng
Khi lâm chung thấy rõ
Cảnh Tây phương trước mắt;
Thấy nghe đều tinh tấn
Đồng sanh về Cực lạc.
Thấy Phật đoạn sanh tử
Như Phật độ hết thảy.
Dứt vô biên phiền não
Tu vô lượng pháp môn
Độ hết thảy chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Hư không có hạn
Nguyện con không cùng
Hữu tình vô tình
Đều trọn trí giác.
Một bài phát nguyện khác:
Nguyên văn:
Nguyện dĩ thử công đức
Trang nghiêm ư Phật độ
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Giai phát Bồ đề tâm.
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực lạc quốc.
Dịch:
Nguyện đem công đức nầy
Trang nghiêm nơi cõi Phật
Trên đền bốn ơn sâu
Dưới độ ba đường khổ.
Nếu có kẻ thấy nghe
Đều phát lòng Bồ đề.
Khi báo thân nầy mãn
Đồng sanh về Cực lạc.
b) Nghi Thức Phát Nguyện.
Chuẩn bị: Rửa tay, súc miệng, y phục chỉnh tề.
Hành lễ: Đến trước Phật đài đốt hương cúng dường Phật.
Chấp tay trước ngực đọc:
Đại từ đại bi thương chúng sanh
Đại hỷ đại xả cứu muôn loài
Tướng tốt rực rỡ tự trang nghiêm
Đệ tử lòng thành xin đảnh lễã.
Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo
(lạy 1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Phật, là Đấng Phước Huệ vô biên. Thề
đời đời kiếp kiếp không quy y thiên thần quỷ vật.
(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Pháp, là nền Giáo lý vô thượng. Thề đời
đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
(1 lạy)
Đệ tử, pháp danh... nguyện quy y Tăng, là những bậc Thánh hiền thanh
tịnh. Thề đời đời kiếp kiếp không quy y tổn hữu ác đảng.
(1 lạy)
Nam mô Sa bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(1 lạy)
Nam mô Tây phương Cực lạc Thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật
(1 lạy)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (1
lạy)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ tát (1
lạy)
Nam mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát
(1 lạy)
Nam mô Thập phương Tam thế, Nhất thế chư Phật, vô lượng Bồ tát
(1 lạy)
Xong quỳ niệm danh hiệu Phật (càng nhiều càng tốt).
Tiếp theo, đọc lời phát nguyện (một trong các bài trên).
Đọc xong lời phát nguyện, đứng dậy, đọc Tam tự quy y và Hồi hướng:
Tam Tự Quy Y:
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh thể nhập đạo cả, phát lòng vô
thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấm nhuần giáo lý
(hay thấu rõ kinh tạng ) , trí
huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không
ngại. (1 lạy)
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức nầy
Chung cùng khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo
( vái 3 vái, lui ra)
Có thể áp dụng nghi thức nầy hằng ngày, hoặc một thời, hoặc hai thời,
trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy.
Nếu nhà không thiết được bàn Phật thì ngồi ngay ngắn trên giường hay
trước bàn viết, bàn ăn, chấp tay ngang ngực, quán tưởng như có tượng
Phật trước mặt, rồi đọc trọn cả nghi thức như trên. (Chỗ nào trong nghi
thức có ghi 1 lạy thì thay vào 1 vái). Điều cốt yếu là phải thật hành
đều đều và nhất thiết tránh cho được cái thông bệnh là "thủy cần chung
đãi". (trước siêng sau nhác).