Khái Niệm Về
Bồ Tát Quán Thế Âm
(Lý Thuyết Và Thực Hành)
Thích Viên Trí
--- o0o ---
Chương
hai
Khái Niệm Bồ Tát
Khái Niệm Bồ Tát Qua Kinh
Tạng Nikàya
Ðịnh nghĩa thuật ngữ Bồ-tát (Pàli:
Bodhisatta-Sanskri: Bodhisattva)
Nói
chúng, như người ta thường hiểu, thuật ngữ “Bodhisattva) (Bồ-tát) có hai
phần cấu thành; đó là Bodhi và Satta hay Sattva. Có rất ít bất đồng ý
kiến trong giới học giả về từ “Bodhi” với ý nghĩa là “sự chứng ngộ hay
giác ngộ”, nhưng lại quá nhiều tranh cãi liên quan đến ý nghĩa và sự ứng
dụng của từ “satta hay sattva” trong phạm trù liên hệ.
Bộ Bách
Khoa Tôn giáo nói rằng, “theo từ nguyên học, Bodhisattva (Bồ-tát)
là thuật ngữ được ghép thành từ chữ Bodhi, với ý nghĩa là “sự giác ngộ hay
chứng ngộ [của một vị Phật], và sattva, có nghĩa là “chúng sinh”. Như thế,
Bodhisattva đề cập đến hoặc một người đang mưu cầu giác ngộ (Bodhi) hoặc
“một chúng sinh giác ngộ (Bodhi being), nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn
sẽ chứng đắc quả vị Phật. Sự giải thích khác về nó như “một chúng sanh mà
tâm của người ấy đã trở nên vững chắc ở sự giác ngộ, cũng được truyền
thống công nhận”.
Trong
khi ấy, Bộ Bách Khoa Phật giáo định nghĩa từ ngữ này như sau: “Bodhisattva
(Pàli: Bodhisatta) là một chúng sinh thiết tha đối với sự giác ngộ
(Bodhi). Theo tử nguyên, thuật ngữ
này có thể tách biệt thành hai phần, đó là Bodhi và sattva. Bodhi, có gốc
từ chử Budh, tức tỉnh ngộ, nghĩa là “sự tỉnh ngộ” hay “giác ngộ”, và
sattva, bắt nguồn từ saint, hiện tại phân từ của nó với ý nghĩa là “sự
hiện hữu” hay sự tồn tại (to be or being); hay theo nghĩa đen, “sattva là
một chúng sinh”. Do vậy, từ ngữ này mang ý nghĩa là “một chúng sinh có bản
chất là giác ngộ, hoặc một vị Phật tương lai. Cũng có sự gợi ý rằng thuật
ngữ satta của Pàli có thể bắt nguồn từ Bodhi và satta (Sanskrit Sakta có
gốc từ Sanj), nghĩa là “một người gắn bó hay khao khát để đạt đến sự giác
ngộ”.
Trong
một nghiên cứu tỉ mỉ về giáo lý Bồ-tát, sau khi nêu lên một số định nghĩa
về thuật ngữ “sattva” từ một số tự điển và giải thích của các học giả,
giáo sư Har Dayal đi đến kết luận rằng “sattva (giống đực) có thể mang ý
nghĩa là chúng sinh hay hữu tình (Skt. Dicy. M. W). Từ Pàli
“satta” có thể có nghĩa là chúng sinh, hay sinh vật, hữu tình,
hay con người (Pàli, Dicy. S.v). Hầu hết các học giả chấp nhận sự
giải thích này”.
Har
Dayal tiếp tục phát biểu rằng “Người ta có cảm giác thuyết phục khi tin
rằng từ Pàli “satta” thực sự có thể biển hiện cho từ Sakta của Sanskrit,
vì giải thích trên dường như định ra phẩm chất chính của con người thiết
tha với sự giác ngộ. Nhưng cách an toàn nhất cho một học giả nghiên cứu
đối với vấn đề này là phải quay về với ngôn ngữ Pàli mà không quá gắn chặt
tầm quan trọng với các nhà từ điển học và triết gia đời sau. Như vậy, từ
Bodhisatta trong kinh điển Pàli dường như có nghĩa là “một chúng sinh giác
ngộ” (Bodhi-being). Tuy thế, satta ở đây không hàm nghĩa là một hữu tình
bình thường, và hầu như từ ngữ ấy liên hệ chắc chắn với từ của Vedic
“Krieger”, có nghĩa là “một người mãnh mẽ hay dũng cảm, tức anh hùng hay
chiến sĩ”. Trong cách này, chúng ta cũng có thể hiểu được thuật ngữ “dpah”
của tiếng Tây Tạng vốn cùng có ý nghĩa như thế. Satta trong Pàli nên phải
được giải thích là “một người anh hùng, hay một chiến sĩ tâm linh”. Từ này
gợi lên hai ý tưởng: sự hiện hữu và chiến đấu, mà không chỉ đơn thuần là ý
niệm về sự hiện hữu đơn nhất”.
Trên cơ sở của một vài ý kiến vừa đề cập ở
trên, người ta có thể phát biểu rằng thuật ngữ Bodhisatta (Bồ-tát) có
nghĩa là một chúng sinh tha thiết đạt được sự giác ngộ. Tuy nhiên, trong
chừng mực mà thông số của tác phẩm này có liên hệ, sự nhấn mạnh cần phải
cọng thêm vào đây là: tác giả quan niệm tất cả con người bình thường là
anh hùng, chiến sĩ, với sức mạnh tâm linh, tiềm tàng như Ðức Phật Gotama
trước ngày chứng ngộ, và những con người bình thường này có khả năng để
loại trừ mọi ác nghiệp và khổ đau của họ, và cũng sẽ đạt được giải thoát
tối hậu như Ðức Thế Tôn đã làm, nếu người ta nỗ lực tối đa thực hành theo
con đường mà Như Lai đã khám phá và giảng dạy.
Ý Nghĩa
Thần Thánh Và Bồ-Tát Trong Phật Giáo Nguyên Thủy
Trước khi đi vào nghiên cứu chủ đề Bồ-tát, việc quan trọng trước tiên đối
với chúng tôi là phải hiểu rõ và phân biệt rõ một số nét đặc thù khác nhau
giữa ý nghĩa Bồ-tát và các loại hình thánh thần. Một sự kiện không thể
tranh cãi là bối cảnh tôn giáo Ấn Ðộ thời tiền Phật giáo là một thế giới
quan đầy ngập các loại nam và nữ thần. Tất nhiên, Phật giáo cũng chấp nhận
sự hiện hữu của các loại thần thánh đó, vì các bằng chứng rõ ràng về họ đã
hiện hữu trong cả kinh điển Pàli của Phật giáo Nam Truyền, và văn điển
Sanskrit lẫn Trung Hoa của Phật Giáo Bắc Truyền. Tuy nhiên, trong Phật
giáo, vị trí của thánh thần quả thật không quan trọng như hầu hết các tôn
giáo khác, bởi vì đạo Phật chủ trương rằng tất cả thần và thánh ấy cũng
chỉ là chúng sinh với phẩm loại phước đức khác nhau. Mặc dù nhờ vào những
thiện nghiệp trong đời sống quá khứ, các thần thánh ấy thắng vượt loài
người trong lãnh vực uy quyền và điều kiện sống, nhưng họ thật sự chưa tự
giải thoát mình ra khỏi quy luật vô thường, vì vậy họ cũng bị luân hồi chi
phối, cũng sẽ bị sinh già, bệnh, chế. Lời dạy sau đây của Ðức Phật sẽ minh
họa cho lý luận trên:
“Thuở
xưa, này các Tỳ kheo, Thiên chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư Thiên ở
cõi trời thứ Ba mươi ba, trong khi ấy nói lên bài kệ như sau: Ngày mười
bốn, ngày rằm,… Vị ấy giống như Ta.
… Bài kệ
ấy, này các Tỳ kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, …, Vì cớ sao? Thiên
chủ Sakka, này các Tỳ kheo, chưa ly tham, chưa ly sân, chưa ly si… Ta nói
rằng Thiên chủa Sakka, này các Tỳ kheo, chưa giải thoát sanh, già, bệnh
chết, sầu, bi, khổ ưu, não…”
Trong kinh Bộ Tương Ưng, vị vua trời tên Sakka, chú tể của chư thiên, đã
tự giải thích rằng bất cứ vị thiên nào quy y Ðức Thế Tôn và thực hành lời
dạy của Ngài thì sẽ sáng chói hơn các vị thiên khác. Ðây cũng là nội dung
chính của câu chuyện dưới đây. Sau khi chứng quả giác ngộ, Ðức Phật Gotoma
trầm tư suy nghĩ rằng giáo pháp mà Ngài chứng đắc thì nghĩa lý thâm sâu,
rất khó cảm nhận, khó hiểu, khó thấy. Giáo pháp ấy an tịnh, thù thắng, tế
nhị, vượt lên trên luận lý, chỉ có người trí mới có khả năng học hiểu; và
nếu Ngài dạy giáo pháp này cho hàng chúng sinh tâm đầy khát ái và tham
dục, việc làm ấy ắt chẳng được quần chúng dễ dàng chấp nhận, mà còn làm
Ngài bực mình và phí sức. Vì vậy tâm của Ngài hướng đến Niết bàn. Sau khi
biết được tâm của Ngài hướng đến Niết bàn. Sau khi biết được tâm của Ðức
Phật bằng tâm của mình, Phạm Thiên Sahampati, vị vua trời được đạo
Bà-la-môn (Brahmanism) xem là đấng sáng thế, đi đến Ðức Phật, thỉnh cầu
Ngài giảng dạy Chánh Pháp vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và loài
người.
Hơn
thế nữa, theo giáo lý của Phật giáo, trong một khía cạnh nào đó vị trí của
thần thánh được xem là thấp hơn và là cấp dưới so với vị trí con người.
Câu chuyện được ghi lại trong Itivuttaka sutta (Phật Thuyết Như Vậy) của
Tiểu Bộ Kinh sau đây sẽ soi sáng quan điểm trên:
“Này các
Tỳ kheo, khi nào một Thiên nhân mệnh chung, từ bỏ thân chư Thiên, có năm
suy tướng xuất hiện ra trước: ‘Các vòng hoa héo úa, áo quần bị uế nhiễm,
mồ hôi chảy ra từ nách, thân sắc trở thành xấu xí, Thiên nhân không hoa hỷ
tại chỗ ngồi chư Thiên.’ Này các Tỳ kheo, chư Thiên sau khi biết Thiên tử
này sắp mệnh chung, nói ba lời để cổ vũ: ‘Từ đây, Hiền giả hãy đi đến cõi
lành! Sau khi đi đến cõi lành, hãy nhận được những gì khéo nhận được. Sau
khi nhận được những gì khéo nhận, hãy an trú…!
… Này
các Tỳ kheo, được địa vị làm người được gọi là đi đến cõi lành của chư
Thiên. Khi được địa vị làm người, được lòng tin trong Pháp và Luật do Như
Lai thuyết giảng, này các Tỳ kheo, đây được gọi là nhận được những gì khéo
nhận được của chư Thiên. Khi lòng tin được nhập vào, được an trú thành gốc
rễ, …, thì được gọi là khéo an trú của chư Thiên.”
Như vậy,
thánh thần hay chư thiên thật sự cũng có nhu cầu Phật Pháp nhằm để tu tập
và tự giải thoát mình ra khỏi nghiệp lực tương tự như loài người. Nói khác
đi, thần thánh và chư Thiên cũng chỉ là chúng sinh với những hình thái
khác nhau, nhưng nhờ kết quả của thiện nghiệp trong đời sống quá khứ nên
họ thắng vượt loài người. Hay giải thích một cách biểu tượng và thực tiễn
hơn, thánh thần và chư thiên ví như giới thượng lưu trong xã hội, có cuộc
sống với nhiều thoải mái, tốt đẹp và thuận lợi trong lãnh vực vật chất.
Trong khi ấy, loài người, có thể ví như dân nghèo, do làm các nghiệp không
tốt trong đời trước, nên phải chịu khổ sở trong đời này do thiếu thốn về
vật chất đối với hạnh phúc của cuộc sống tạm thời. Nhưng về phương diện
tâm lý cả hai loại người trên đều đang khốn khổ về chuyện sinh tử đang cận
kề.
Sau
khi thông qua sự bàn thảo ở trên, hy vọng sẽ có nhiều thích thú hơn nữa
đối với chúng ta qua việc tiếp tục nghiên cứu tầm quan trọng khác nhau
giữa khái niệm thánh thần và khái niệm Bồ-tát với một vài luận chứng sau
đây. Ðó là, thánh thần cũng chỉ là một loại chúng sinh đang hưởng thụ và
đắm chìm trong các loại dục lạc khác nhau nhờ vào thiện nghiệp mà họ đã nỗ
lực tu tập từ quá khứ; nhưng số thánh thần ấy lại không biết đến quy luật
vô thường hoặc sự đoạn diệt không thể tránh được của các loại hạnh phúc
như thế. Trong khi ấy, Bồ-tát không chỉ thấy và hiểu như thật được hoàn
cảnh của họ, mà còn cố gắng để đi theo con đường của Ðức Phật với mục đích
tự giải thoát cho chính mình, cũng như giúp chúng sinh trong thế giới khổ
đau đi theo con đường chân chánh này. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng để
lưu ý ở đây là khái niệm Bồ-tát được đề cập trong giáo lý của Phật giáo,
cả Phật giáo Nam Truyền (Theravàda) và Phật giáo Bắc Truyền (Mahàyàna) chỉ
chuyển tải cùng một nội dung và ý nghĩa như đã được thảo luận ở trên.
Nghĩa là, thuật ngữ Bồ-tát (Pàli: bodhisatta; Sanskrit: bodhisattva) chỉ
là một danh từ chung, nhằm chỉ đến một chúng sinh (con người) đang đi trên
con đường hướng đến giác ngộ, và không có bất cứ ý nghĩa bí mật hay đặc
biệt nào ẩn tàng đằng sau nó. Những lời dạy sau đây của Ðức Thế Tôn hy
vọng sẽ soi sáng lập luận vừa nêu một cách rõ ràng:
“Và này
các Tỳ kheo, thế nào là Thánh cầu? Ở đây, này các Tỳ kheo, có người tự
mình bị sinh, sau khi biết rõ sự nguy hại của sinh, tìm cầu cái vô sanh,
vô thượng an ổn khỏi các khổ cách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết
rõ sự nguy hại của già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khởi các
khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bịnh…, cái không bệnh… tự mình bị chết… cái
bất tử… tự mình bị sầu… cái không sầu… tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết rõ
sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỳ kheo, như vậy gọi là Thánh cầu.”
Và sau
đây chúng ta hãy lắng nghe Ðức Phật nói về chính Ngài:
“Này các
Tỳ kheo, Ta cũng vậy, trước khi giác ngộ, khi chưa chứng Chánh Ðẳng Giác,
khi còn là Bồ-tát, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già
lại đi tìm cầu cái bị già, tự mình bị bịnh… tự mình bị chết… tự mình bị
sầu… tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm…”
Trên cơ
sở của những điều vừa được đề cập, một vấn đề trở nên hoàn toàn rõ ràng là
chính Ðức Phật đã tuyên bố rằng không có gì khác nhau giữa Ngài trước ngày
chứng ngộ và một chúng sinh đang đi trên con đường hướng đến giải thoát,
Niết-bàn. Do vậy, nếu có điều gì đó bí mật hàm chứa trong thuật ngữ
(Bồ-tát) này, theo ý kiến của tác giả, phần bí mật ấy hẳn phải là của
riêng chúng ta, và trong phạm trù rộng lớn, bí mật ấy được tạo ra từ sự
tưởng tượng của chúng ta do bởi khát vọng, vị kỷ. Từ đó, có lẽ sẽ vô cùng
hợp lý để người ta chấp nhận sự kiện rằng nếu Phật giáo Nam Truyền hay
Theravàda đặc biệt dùng thuật ngữ ‘bodhisatta’ (Bồ-tát) để nhằm chỉ Ðức
Phật, sự thật là vì lòng tôn trọng và sự kính ngưỡng của hàng đệ tử đối
với đấng giáo chủ hay bậc đạo sư. Thái độ tương tự cũng diễn ra tương tự
đối với Phật giáo Bắc Truyền hay Mahàyàna, và điều này sẽ được minh chứng
trong các chương sau.
Trong chừng mực của sự bàn thảo chi tiết mà chúng ta đã nỗ lực thực hiện,
điều có thể nêu rõ ở đây là khái niệm Bồ-tát không chỉ là tư tưởng đặc
quyền của Phật giáo Bắc Truyền, mà thật ra, nó đã xuất hiện trong kinh
tạng Nikàya của văn điển Pàli. Nói khác đi, trong một chừng mực nào đó,
giáo lý Bồ-tát đã là một phần của toàn bộ giáo điển Theravàda hay Nam
Truyền Phật giáo. Trong thực tế, hiện nay có rất nhiều học giả công nhận
sự kiện vừa nêu. Ví dụ, mặc dù không thể trình bày được những giai đoạn
phát triển quan trọng của giáo lý Bồ-tát, giáo sư Har Dayal đã khẳng định
rằng từ ngữ Bồ-tát (mà không phải là ‘khái niệm hay giáo lý Bồ-tát) đã
xuất hiện và được sử dụng nhiều nơi trong kinh tạng Nikàya. Tuy nhiên, do
một vài nguyên nhân, hoặc ảnh hưởng học thuyết của các tôn giáo đương
thời, hoặc vì nhu cầu thực tế của con người ở một số thời điểm nhất định,
hoặc do âm mưu của ngoại đạo với mục tiêu làm suy yếu Phật giáo, khiến
Phật giáo bị chia chẻ thành nhiều bộ phái nhỏ, như Tiểu thừa (Hinàyàna) và
Ðại thừa (Mahàyàna), Mật thừa (Tantrism), v.v…, và tạo nên một số tư tưởng
gây nhiều tranh cãi liên hệ đến giáo lý Bồ-tát. Hay nói một cách cụ thể
hơn, tư tưởng Bồ-tát vẫn là một thực tế mỉa mai, đau xót đang vận hành âm
ỉ đằng sau các tổ chức Tăng đoàn Phật giáo trong hầu hết các quốc gia, như
Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc, Tây Tạng, cả đến các nước Thái
Lan, Tích Lan, Miến Ðiện, v.v… Hy vọng chúng ta sẽ có cơ hội trở lại vấn
đề trên khi thích hợp trong tác phẩm nghiên cứu này.
Các Loại Bồ-tát Trong Văn
Ðiển Pàli
Trong thực tế, thuật ngữ “Bồ-tát” (Bodhisatta) là một từ rất xưa, đã được
đề cập trong các kinh Trường Bộ, Trung Bộ, Kinh Tập (Sutta-nipata) và Bổn
Sanh (Jataka) thuộc Tiểu Bộ Kinh của Nikàya. Nhưng cho đến nay, chưa có nỗ
lực nào được đầu tư để làm ‘ý tưởng này’ được chấp nhận như là một lý
tưởng sống cho giáo lý của Phật giáo Nam Truyền giống như Phật giáo Bắc
Truyền chủ trương. Việc đó hẳn đã để lại đủ lý do bình luận về một vấn đề
có tầm quan trọng như thế.
Tuy
nhiên, trước khi bước vào thảo luận khía cạnh triết lý của sự kiện trên,
chắc chắn sẽ có giá trị và ý nghĩa nếu chúng ta dành chút thời gian tìm
hiểu lịch sử niên đại hình thành của năm bộ Nikàya.
Trong
tác phẩm “Buddhist India” của mình, T. W. Rhys Davids đã giới thiệu một
biểu đồ về niên đại của văn điển Pàli như sau:
1.“Những
lời tuyên bố giản dị của giáo lý Phật giáo được tìm thấy trước nhất trong
nhiều từ ngữ giống nhau, và trong các đoạn văn hoặc kệ được ghi lại trong
sách.
2.
Các đoạn hoặc hồi được tìm thấy trong những lời giống nhau, ở hai hoặc
nhiều sách hiện có.
3. Giới
(Sìla), Pàràyana, Octades (Khổ thơ tám đoạn), Pàtimokka
(Ba-la-đề-mộc-xoa).
4. Kinh
Trường Bộ, Kinh Trung Bộ, Kinh Tăng Chi, Kinh Tương Ưng.
5. Kinh
Tập, Trưởng Lão Tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ, Cảm Hứng Ngữ, Tiểu Tụng…”
Sự
phân loại trên dường như được phần lớn các học giả có uy tín, như Maurice
Winternitz, tác giả của bộ “Lịch sử Văn chương Ấn Ðộ”, hoặc H. Nakamura,
tác giả cuống “Phật giáo Ấn Ðộ”, v.v… chấp nhận; trong khi ấy, tiến sĩ
Bimala Churn Law lại trình bày niên đại hình thành của các Nikàya trong
một biểu đồ khác với nhiều chi tiết khác nhau. Theo ý kiến của B.C. Law,
niên đại của văn học Pàli có thể được phân loại như sau:
1.
“Những lời tuyên bố giản dị của giáo lý Phật giáo được tìm thấy nhất trong
nhiều từ ngữ giống nhau, và trong các đoạn văn hoặc kệ được ghi lại trong
sách.
2. Các
đoạn hoặc được tìm thấy trong những lời giống nhau, ở hai hoặc nhiều sách
hiện có.
3. Giới
(Sìla), Nhóm Paràyana của mười sáu bài thơ không có lời mở đầu; nhóm
Atthaka của bốn hoặc mười sáu bài thơ, và Sikkhàpadas.
4.
Trường Bộ tập I, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi, 152 giới điều của giới bổn
Pàtimakkha ban đầu.
5.
Trường Bộ tập II và III; Trưởng Lão Tăng Kệ; Trưởng Lão Ni Kệ; Tuyển tập
500 câu chuyện tiền thân (Jataka)…
Theo ý
kiến của chúng tôi, bảng phân loại chi tiết của giáo sư B.C. Law, liên
quan đến một vài biến đổi về thứ tự niên đại của Trường Bộ Kinh tập II và
III đối với Trung Bộ Kinh, dường như rất có lý và có thể chấp nhận được,
do vì nó đặc biệt liên quan đến việc phát triển về ngôn ngữ, ý nghĩa và
triết lý của các bộ Nikàya (sẽ được bàn thảo trong chương II). Sự phân
loại trên cũng gợi lên một ý tưởng quan trọng đối với chúng ta. Ðó là,
kinh Trung Bộ là những lời dạy nguyên thủy của Ðức Phật, hay ít ra cũng
gần gũi với lời dạy của Ðức Phật (Buddhavacana) hơn kinh Trường Bộ II và
III. Cũng cùng một lập luận như vậy khi chúng ta nói đến kinh Trường Bộ và
Bổn Sanh (Jataka) của kinh Tiểu Bộ. Quan điểm này có thể trở nên dễ hiểu
và dễ nắm bắt hơn khi chúng ta xem xét ý nghĩa triết lý đặc thù về Bồ-tát
qua ba loại kinh vừa nêu.
Trong
một bài kinh khác thường và đặc biệt với tên là “Bài giảng về những phẩm
chất phi thường và kỳ diệu” trong kinh Trung Bộ, trước hết từ ngữ “Bồ-tát”
phản ảnh một cách cụ thể đời sống của Ðức Phật Gotama trước ngày thành
đạo, khi Ngài còn là thái tử Siddhattha (Tất-đạt-đa) của kinh thành
Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ). Nghĩa là, Ngài cũng là một chúng sinh phải
chịu khổ đau trong vòng sinh tử như chúng ta, nhưng rồi từ bỏ cuộc sống
thế tục giàu sang để trở thành đạo sĩ lang thang tìm cầu chân lý như chính
lời dạy sau đây của Ðức Phật:
“Này
Aggivessana, sao có thể không như vậy được? Ở đây, này Aggivessana, trước
khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy
nghĩ như sau…”
“Và, này
các Tỳ kheo, trước khi giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là
Bồ-tát, tự mình bị sanh tử lại tìm cầu cái sanh…”
Tuy
nhiên, với một số yếu tố mang khoác màu sắc huyền thoại vốn không tìm thấy
ở các kinh kiết tập thời gian trước, ý nghĩa của từ ngữ ‘Bồ-tát’ như được
diễn tả trong kinh Trường Bộ đã bị biến đổi. Giờ đây thuật ngữ này nhằm
chỉ đến cuộc đời sau cùng ở cung trời Tusita (Ðâu-suất) của bảy vị Phật,
bao gồm Ðức Phật Gotama:
“Này các
Tỳ kheo, pháp nhĩ là như vậy, Bồ-tát Vipassì, sau khi giã từ cảnh giới
Ðâu-suất thiên, chánh niệm tĩnh giác nhập vào mẫu thai…”
Một
bước biến đổi quan trọng hơn nữa liên quan đến ý nghĩa triết lý của thuật
ngữ ‘Bồ-tát’ trong kinh tạng Pàli có thể được nhận thấy một cách rõ ràng
trong những bộ Nikàya kiết tập ở thời đại về sau, đặc biệt là kinh Bổn
Sanh (Jataka) thuộc Tiểu Bộ Kinh. Tầm quan trọng của nó nằm ở sự diễn đạt
vô số đời sống trước của Ðức Phật Gotama. Chuyện tiền thân này, theo ý
kiến của Hòa thượng tiến sĩ Thích Minh Châu, có thể tóm tắt trong bốn loại
khác nhau. Ðó là, (1) chuyện hiện tại của Ðức Phật liên quan đến kiếp quá
khứ (Paccuqanna-Vatthu); (2) Chuyện quá khứ nối kết với các nhân vật trong
hiện tại (Ativathu); (3) Giải thích một số kệ hoặc từ ngữ có liên hệ
chuyện quá khứ (Veyyàkaranà); và (4) Kết hợp chuyện quá khứ và hiện tại,
sau đó chỉ ra nhân vật trong quá khứ và vạch bày mối quan hệ giữa các nhân
vật giữa chuyện hiện tại và quá khứ (Samodhana). Sau đây là một vài chuyện
tiêu biểu trích từ kinh Bổn Sanh (Jataka) để minh họa cho bốn loại trên:
“Thuở
xưa, trong nước Kasi, tại thành Ba La Nại, có một vị vua tên là
Brahmadatta. Khi ấy, vị Bồ-tát được sanh trong gia đình chủ đoàn lữ hành
(thương gia)…”
Thủơ
xưa, tại nước Magadha, trong thành Ràjagaha, một vị vua Magadha đang trị
vì. Lúc ấy, Bồ-tát tái sanh trong bài thai con nai…”
Với nhận
định ngắn gọn về ý nghĩa của ba loại Bồ-tát như vừa bàn thảo ở trên, chúng
ta có thể nhận ra một sự kiện quan trọng. Ðó là không những thuật ngữ
‘Bồ-tát’ (bodhisatta) thực sự xuất hiện trong Thánh điển của Phật giáo Nam
Truyền hay Theravàda qua quá trình sưu tập và chuyển dịch của kinh tạng
Nikàya, mà triết lý của khái niệm Bồ-tát rõ ràng cũng đã được ứng dụng và
chỉnh lý với nhiều cấp độ thay đổi khác nhau để phù hợp môi trường và hoàn
cảnh trong một vài thời điểm nhất định như được thấy trong kinh Trung Bộ,
Trường Bộ và Bổn Sanh. Khuynh hướng này (sẽ được bàn thảo trong chương
III) có lẽ đã đóng vai trò mở đường cho tất cả phương pháp phân tích, giải
thích và ứng dụng lời dạy của Ðức Phật mà các bộ phái Phật giáo đã phát
triển sau này.
Hơn nữa,
theo tác phẩm nghiên cứu so sánh của Hoà Thượng tiến sĩ Thích Minh Châu,
thuật ngữ ‘bodhisatta’ (Bồ-tát) đã không xuất hiện trong các bản dịch xưa
nhất của Thánh điển Pàli, mà nó chỉ được thêm vào trong văn học Pàli ở các
thời đại về sau, do bởi sức ép của khuynh hướng mang tính bè phái thuộc
các bộ phái Phật giáo phát triển xảy ra trong chính tổ chức tăng đoàn Phật
giáo mang lại. Quan điểm vừa nêu dường như rất hợp lý và có thể được chấp
nhận vì nó phù hợp với tiến trình lịch sử của sự hình thành, sưu tập và
phát triển của văn điển Pàli. Ðiều này cũng chuyển tải một tư tưởng rất có
ý nghĩa và cho phép chúng ta đi đến một gợi ý vô cùng quan trọng. Ðó là đã
có một số chuyển động cải tiến về khía cạnh tư tưởng trong thời kỳ kiết
tập và biên soạn văn điển Pàli. Nghĩa là trong ý nghĩa sâu rộng, Theravàda
hay Nam Truyền Phật giáo có thể đã hàm ngụ những nét đặc thù của Phật giáo
Bắc Truyền hay Phật giáo Phát Triển. Hay nói một cách cụ thể hơn, Phật
giáo Nam Truyền đã là một mẫu thức nào đó của Phật giáo Phát Triển. Tại
sao vấn đề ấy được nêu lên ở đây? Lý do thật là đơn giản. Theo thói quen
xưa nay, với niềm tin khá cực đoan và sai lầm, Phật giáo Nam Truyền hay
Thượng Tọa Bộ (Theravàda) thường tự xem mình là chính thống, và giới tín
đồ của họ luôn tuyên bố rằng Thánh điển Pàli mới là lời dạy chân chính của
Ðức Phật, và phần kinh điển còn lại của các bộ phái Phật giáo là ngụy tạo
và bịa đặt. Sự suy nghĩ như thế không chỉ được giới Phật tử truyền thống
của Thượng Tọa Bộ ủng hộ, mà ngay cả một số lượng lớn học giả cũng tán
đồng. Như là kết quả tự nhiên của khuynh hướng đó, sự ngộ nhận nghiêm
trọng và sự phân hóa trong toàn bộ cơ thể Phật giáo cũng như giáo lý đạo
Phật rõ ràng đã nảy sinh, hiện hữu và tồn tại.
Tuy
nhiên, dù thế nào đi nữa ngày nay đại đa số học giả đều thừa nhận rằng
niềm tin như thế quả thực là cực đoan và sai lầm; đặc biệt khi nó được
thẩm xét bằng các minh chứng lịch sử. Nhưng một tác phẩm với sự trình bày
có hệ thống nhằm giải thích rõ ràng và hợp lý đặc tính thống nhất giáo lý
của Phật giáo nói chung, và lý tưởng Bồ-tát nói riêng từ kinh tạng Nikàya
của Thựơng Tọa Bộ sang kinh tạng Phật giáo Phát Triển quả thật là rất
hiếm. Bởi vậy, công việc khảo sát mang tính phương pháp luận về giáo lý
Bồ-tát tự thời điểm phát sinh đến giai đoạn phát triển trọn vẹn của nó sẽ
là mục tiêu chính của tác phẩm nghiên cứu này với niềm hy vọng rằng tác
giả sẽ cống hiến một điều gì đó mới mẽ cho cả lãnh vực nghiên cứu Phật học
lẫn phương diện hành trì của người Phật tử.
Hình Tượng Bồ Tát Trong Văn Ðiển Pàli-Những
phương pháp giải thích khác nhau về giáo lý Phật giáo
Bị kích
động và ảnh hưởng theo lối sống văn minh khoa học kỹ thuật, theo dòng thời
gian khuynh hướng đòi hỏi tính thực tiễn, và thực dụng, giá trị, sự thật,
tính chính xác và các loại tương tự như thế của mọi sự vật đã chiếm hữu
một vị trí siêu việt trong tâm hồn của con người khắp thế giới. Tất nhiên,
tôn giáo cũng chẳng có sự ngoại lệ trong tình huống như thế. Không có lý
do gì để phủ nhận sự thực rằng tình thức mới nhất của hầu hết mọi tôn giáo
(nếu chúng ta có thể nói) là đang cố gắng để chứng thực tính lịch sử chân
thật của mình nhằm phù hợp với nhu cầu của thế giới đương thời. Trong khả
năng có thể, bằng công việc cụ thể hóa và phổ thông hóa một vài bằng chứng
về nguồn gốc lịch sử của đấng giáo chủ mình, các tôn giáo hy vọng rằng họ
sẽ gặt hái được nhiều sự ủng hộ và nhờ vậy con người từ mọi ngõ ngách của
cuộc sống sẽ trở thành tín đồ của họ càng ngày càng đông, cho dù lịch sử
ấy là chân thật, mơ hồ hay hư ngụy. Rõ ràng Phật giáo cũng đang bị cuốn
vào trong dòng chảy này. Tuy nhiên, cũng có một vài khác biệt giữa Phật
giáo và các tôn giáo khác trong việc làm ấy; bởi vì trong thực tế, ít ra
cũng có hai huynh hướng hoàn toàn đối lập lẫn nhau đang vận hành trong
thực thể Phật giáo. Trước tiên, khuynh hướng phổ thông và thịnh hành nhất
mà Phật giáo đồ ứng dụng để truyền bá giáo lý thì cũng giống các tôn giáo
đương thời. Ðó là, giới Phật tử xem Ðức Phật Thích Ca như là một vị Phật ở
cõi trời, hay là một vị Bồ-tát siêu thế với vô số huyền thoại bí mật và
thần thông phủ đầy diện mạo cũng như lời dạy của Ngài. Cho dù như thế,
nhưng nhờ đáp ứng được nguyện vọng và nhu cầu của tín đồ, trường phái này
đang chiếm giữ vai trò quan trọng trong tổ chức Phật giáo, và có một số
lượng Phật tử rất đông. Tụng đọc và quán tưởng một số kinh điển, chú
thuật, hoặc niệm danh hiệu của chư Phật và các vị Bồ-tát thuộc thiên giới
được xem là việc tu tập chính đối với giới tín đồ của khuynh hướng vừa
nêu. Họ làm việc đó với lòng mong ước rằng Phật và Bồ-tát sẽ ban thưởng
phước đức cho họ, nhờ thế họ sẽ có một đời sống hạnh phúc trong tương lai.
Trái lại, số lượng tăng ni, Phật tử và giới học giả nghiên cứu ủng hộ
khuynh hướng thứ hai rõ ràng là không nhiều, vì
đường hướng của họ là nhắm vào việc khôi phục và làm rõ tính chân
thật về biên niên sử của Phật giáo và Bậc-đạo-sư. Mục tiêu chính của nhóm
thứ hai là nỗ lực phục hồi mọi nét đặc trưng chân chính về Ðức Phật lịch
sử và giáo lý của Ngài trong chừng mực chân thật nhất. Nói khác đi, niềm
tin của họ là như vầy, Ðức Phật Gotama (Cù Ðàm) là một con người lịch sử
chân thật như chúng ta; những gì Ngài thực hiện và thành tựu trong tư cách
con người cũng sẽ hiện hữu trong cuộc sống của bất cứ ai, nếu người ta
thực sự nghiêm túc đi theo đạo lộ của Ngài. Nói một cách cô đọng hơn, con
đường Trung Ðạo, bao gồm Giới (Sìla), Ðịnh (Samàdhi) và Tuệ (Pãnnã) có thể
được xem là các thành tố chính cho sự hiện hữu của nó. Như thế, bất cứ
điều gì cần phải làm đối với một người đi theo con đường chân chánh đó để
theo đuổi mục tiêu tối hậu của Phật giáo, tức giác ngộ (bodhi) đều được
gọi là “nhiệm vụ hay sứ mệnh của Bồ-tát”. Với cùng tư tưởng như thế, trong
Bách Khoa Phật giáo
người ta đã viết rằng nếu chúng ta mong muốn để hiểu “Bồ-tát
là ai”, trước hết chúng ta cần phải biết “Phật
là ai”. Theo Phật giáo Nam Truyền (Theravàda), Ðức Phật Gotama
(Cù-đàm) không phải là con người thuộc dòng dòi thần thánh ở cõi trời,
cũng không phải là đối tượng để tô điểm phụng thờ. Ngài không phải là một
lý thuyết gia siêu hình và càng không phải là một nhà duy vật chủ nghĩa.
Ngài không phải đấng giáo chủ tôn giáo, như Thượng Ðế, Ðấng Cứu Thế, hay
Sáng tạo, đòi hỏi lòng trung thành tuyệt đối với tín đồ. Trái lại, Ngài
chỉ là một con người đã tự hoàn thiện bản thân bằng việc nhận thức được
‘bản ngã’ chân thật của con người ở cấp độ cao nhất. Nói một cách chính
xác và nghiêm túc, Ngài chỉ được ca ngợi và tôn vinh lên địa vị Phật kể từ
thời điểm chứng ngộ ở Bồ-đề đạo tràng (Bodhagàya). Mọi sinh hoạt của Ngài
trước sự kiện này được gọi là cuộc đời của một vị Bồ-tát.
Trong phương các như thế, ý nghĩa vừa được đề cập ở trên nhằm chỉ cuộc đời
và hạnh nguyện của vị Bồ-tát trong chính Chương II ngang qua một số minh
họa về cuộc đời của Thái tử Siddhattha (Tất-đạt-đa) từ lúc xuất gia đến
thời điểm chứng ngộ chân lý như đã được ghi lại trong các kinh tạng Nikàya
của Phật giáo Nguyên Thủy. Những bước phát triển về sau phát sinh trong ý
nghĩa của thuật ngữ Bồ-tát dĩ nhiên sẽ được minh họa và giải thích trong
các chương sắp tới.
Công Hạnh Của Bồ
Tát Theo Phật Giáo Nguyên Thủy
Mahàvaga (Ðại Phẩm) của Luật Tạng Pàli và kinh Trung Bộ ghi lạI rằng Thái
tử Siddhattha (Tất-đạt-đa) là con của vua Suddhodhana (Tịnh Phạn) và hoàng
hậu Mahàmaya (Ðại Ma-da) trị vì kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ)
thuộc nước Sàkya (Thích-ca). Ngài sanh ra, lớn lên và được giáo dục trong
môi trường và hoàn cảnh vô cùng thuận lợi, cả mặt vật chất lẫn tinh thần.
Vợ của Thái tử, tức công chúa Yasodhara (Da-du-đà-la), được thừa nhận là
một trong những phụ nữ đẹp nhất vào thời điểm ấy. Rahula (La-hầu-la) là
kết tinh của cuộc hôn nhân hạnh phúc giữa hai nhân cách này. Tuy nhiên,
sau một thời gian dài tự thân hưởng thụ, thực nghiệm và trải qua mọi thức
cảm giác và khoái lạc của thế gian, Thái tử Siddhattha nhận chân được bản
chất không thật, vô thường và sự nguy hiểm của chúng. Như là hệ quả, tư
tưởng từ bỏ mọi cảm thọ tạm bợ đó thường sinh khởi trong tâm của hoàng tử,
vì:
“Làm sao
có thể vui cười được, làm sao có thể thích thú được khi cuộc đời đang bị
thiêu đốt. Mãi bị tối tăm che phủ, tại sao các ngươi không đi tìm ánh
sáng?”
Ðến năm
29 tuổi (theo truyền thống của Phật giáo Nam Truyền), quyết định phi
thường để trở thành vị Bồ-tát đi tìm cầu chân lý mới nở rộ trong tâm khảm
Thái tử khi Ngài nhận thức thấu đáo được sự ràng buộc và cảnh tù túng của
cuộc sống thế tục.
“Ở đây,
này Aggivessana, trước khi ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi
còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: ‘Ðời sống gia đình bị gò bó, con đường
đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia như sống giữa hư không. Thật rất khó
sống tại gia đình mà có thể sống hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh
đời sống phạm hạnh thuần tịnh. Ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình…”
Và,
“Trói buộc sống gia đình,
Tụ hội mọi bụi đời,
Phóng khoáng đời xuất gia,
Thấy vậy nên xuất gia”
Trong giai đoạn khởi đầu của cuộc tìm cầu chân lý, Thái tử Siddattha lang
thang khắp các làng mạc núi rừng, gặp hầu hết các vị đạo sư tôn giáo tiếng
tăm của thời bấy giờ, thực hành giáo lý của họ, và chứng đắc những mục
tiêu lý tưởng mà các bậc thầy ấy nhắm đến. Trong suốt quãng đường tâm linh
lịch sử ấy, có ba dấu ấn nổi bật cần đề cập ở đây. Trước hết, đó là cuộc
gặp gỡ đầu tiên giữa du sĩ khổ hạnh Gotama và đạo sĩ Alàra Kalama, một
trong nhiều bậc đạo sư tôn giáo lỗi lạc đương thời. Sau một thời gian ngắn
chấp nhận Alàra Kalama là thầy và tu tập dưới sự hướng dẫn của ông, du sĩ
khổ hạnh trẻ tuổi Gotama đã chứng đắc cấp độ tâm linh cao nhất, ngang bằng
cấp độ mà vị giáo chủ của giáo phái này đạt đến. Nhưng sự thành tựu phi
thường đó không làm Bồ-tát Siddattha thoả mãn bởi vì nó không phải là mục
tiêu tối hậu mà ngài nhắm đến. Do vậy sau khi từ chối lời để đề nghị cao
quý sau đây: “… Giáo pháp mà ta nhận biết chính là giáo pháp mà ngài nhận
biết. Giáo pháp mà ngài nhận biết chính là giáo pháp ta nhận biết. Tôi như
thế nào, ngài như thế ấy; ngài như thế nào tôi như thế ấy; hãy đến đây này
bậc đáng kính ngài với ta hãy trông nom pháp hội này”, con người thánh
thiện ấy đã từ giả Alàra Kalama và tiếp tục chuyến hành trình cực kỳ khó
khắn trong mục tiêu tìm cầu chân lý. Tiếp đến, Uddaka Ralama, với uy tín
và danh vọng lớn lao hơn Alàra Kamaputta, đã trở thành vị thầy tâm linh
thứ hai của du sĩ lang thang Gotama. Tuy nhiên, cũng một tiến trình tương
tự đã xảy ra trong cuộc hội ngộ kỳ diệu này như trong trường hợp của Alàra
Kalama. Thêm một lần nữa, sau khi để lại sự kính trọng tột cùng trong tâm
khảm của thầy và trò của giáo phái thứ hai, vị đạo sĩ trẻ phi thường đã từ
giã họ và đi vào rừng. Tại đó, cùng với nhóm năm anh em tôn giả Kondana
(Kiều-trần-như) Bồ-tát đã tu tập khổ hạnh ép xác để tìm cầu chân lý. Chỉ
trong một thời gian ngắn, đạo sĩ Gotama được nhóm này tôn xưng làm thầy vì
ngài là người nghiêm khắc nhất trong việc thực hành nếp sống tôn giáo đó.
Trong khoảng thời gian sáu năm, ngài tu tập, rèn luyện một cách tha thiết
và nghiêm ngặt bằng tất cả phương pháp khổ hạnh ép xác cho đến khi thân
thể ngài chỉ còn lại một bộ xương. Nhưng vào một ngày nọ, đạo sĩ Gotama
nhận thức được rằng việc kiêng cử và khổ hạnh của ngài thật sự là vô ích,
không hề đưa ngài đến bất cứ sự tiến bộ xa hơn nào về mặt trí tuệ cũng như
cái thấy đối với giải thoát tối hậu. Do vậy, ngài từ bỏ lối tu hành ấy,
bắt đầu ăn uống trở lại để phục hồi sức khỏe, và đi đến làng Uruvelà
(Ưu-lâu-tần-loa) thuộc lãnh thổ của Vương quốc Magadha (Ma-kiệt-đà). Tại
đây, ngài tìm thấy một dãi đất thoáng mát đẹp đẽ nằm cạnh khu rừng nhỏ dễ
thương dọc dài theo dòng nước trong xanh và một khu làng nhỏ tọa lạc cách
đó không xa. Du sĩ Gotama biết rằng đây chính là nơi lý tưởng để ngài tu
hành, tìm cầu giải thoát:
“Bên sông Ni-liên-thuyền,
Ta tinh cần, tinh cần,
Cố gắng Ta thiền định,
Ðại an ổn khổ ách”
Từ thời
điểm đó cho đến khoảng khắc lịch sử của sự chứng ngộ dưới gốc cây Bồ-tát
tại Bodhagaya (Bồ-đề đạo tràng), đạo sĩ Siddhattha đã liên tục nổ lực
thiền định, bằng phương pháp riêng của tự thân. Tuy nhiên, sự kiện mang
tính tâm lý sau đây đã xảy ra một cách tự nhiên đối với thân thể của ngài.
Ðó là, bản năng dục vọng của con người như sự thích thú nhục dục, khát
khao hay thèm muốn khoái lạc, lòng bất mãn, đói khát, lười biếng, mệt mõi,
sợ hãi, nghi ngờ, tính bướng bỉnh, thái độ giả dối, danh vọng tiếng tăm,
v.v…, những thứ được nhân cách hóa với danh nghĩa là Ma (Mara) đã không dễ
dàng chìu theo ý muốn thánh thiện của ngài. Như là một nhu cầu thiết yếu
và khẩn cấp đối với cái thân suy nhược, yếu ớt mà vốn là hệ quả của việc
giày vò, hành hạ xác thân lâu ngày qua lối sống khổ hạnh, các thứ chướng
ngại nói trên thường xuyên xuất hiện trong tâm trí của ngài, ngăn cản ý
chí tìm kiếm quả vị giác ngộ. Có lẽ không sai lầm khi người ta nói rằng
trong tình huống như thế hầu hết mọi người sẽ từ bỏ cuộc chiếc và quay trở
về với đời sống đầy tiện nghi vật chất. Tuy nhiên, đối với đạo sĩ
Siddhattha sự việc không phải là như vậy. Trong thực tế, từ thời điểm ấy
trở về sau cho đến thời điểm cuối cùng của hành trình tâm linh, ngài đã
kiên định đối với mục đích tìm cầu chân lý tối hậu. Ðạo sĩ Gotama đã phát
lời nguyện sau đây:
“Ôi, này Na-mu-ci,
Ðây là quân đội Ngươi,
Ðây quân đội chiến trận,
Của dòng họ Kanhà,
Kẻ nhát, không thắng Ngươi,
Ai thắng Ngươi được lạc…
Vững thay đây đời sống,
Thà ta chết chiến trận,
Tốt hơn, sống thất bại.”
Bằng
nguyện lực bất động và phi thường, từ đây Bồ-tát Gotama tập trung cao độ
để trầm tư lại toàn bộ lộ trình mà ngài đã kinh qua nhằm vào mục tiêu kiếm
tìm con đường đưa đến giải thoát hoàn toàn. Chính nhờ một số kinh nghiệm
quá khứ ngài đạt được trong thời niên thiếu mà một pháp môn diệu kỳ và
thật sự đầy hứa hẹn đã phát sinh trong tâm của ngài. Vị thánh lịch sử
Siddhattha bắt đầu nỗ lực theo lộ trình vừa chói sáng này. Nhờ vào kinh
nghiệm đã tích lũy qua sự hiểu biết riêng của tự thân và những kinh nghiệm
học hỏi được từ các bậc đạo sư tôn giáo trước đó, cả trong cuộc sống vật
chất lẫn lãnh vực tâm linh, và bằng sự phát huy mạnh mẽ năng lực trí tuệ
tiềm tang của mình, đạo sĩ Gotama phát hiện ra phương pháp thiền định mới.
Trên căn bản của loại thiền này, Bồ-tát Gotama quyết tâm đeo đuổi và nỗ
lực không ngừng nghỉ cho đến khi chứng đắc giải thoát dưới cội cây Bồ-đề
(theo truyền thống của Phật giáo Nam Truyền) lúc ngài vừa đúng 35 tuổi.
Theo Sutta-Nipata (Kinh Tập),
con đường mà ngài tu tập bao gồm giới (sìla),
thí (dana), nhẫn (ksati),
tinh tấn (virya),
thiền định (dhyana) và trí tuệ (pãnnã).
Giải thoát mà ngài chứng đắc được gồm có bốn cấp độ thiền định và ba loại
trí tuệ siêu thế.
Sau sự kiện lịch sử chứng ngộ kỳ diệu đó, Bồ-tát Siddhattha, giờ đây được
người đời tôn xưng là Phật, Bậc Giác Ngộ, Thế Tôn, Như Lai, v.v…, cũng vẫn
ở trong vị trí con người, nhưng là một con người đã giác ngộ, hay con
người toàn thiện của lịch sử nhân loại. Cuộc sống của con người này siêu
việt mọi phạm trù liên quan đến khát vọng bình thường của thế nhân. Cả
cuộc đời của người là vì lợi ích, an lạc cho toàn thể nhân loại ngang qua
sứ mệnh truyền bá giáo lý giải thoát hay còn gọi là con đường trung đạo
cho đến khi trút hơi thở cuối cùng tại thế giới Ta-bà. Con người giác ngộ
này có thể ví như một bông sen, sinh ra trong nước, lớn lên trong nước
nhưng không bị nước làm cho ô nhiễm. Thật vậy, Thái tử Siddattha sinh ra
và lớn lên trong thế giới loài người, nhưng vượt lên trên cảnh giới ấy mà
không bị nó làm nhiễm ô.
Từ khi
trở thành Bậc giác ngộ ở Bodhgàya (Bồ-đề-Ðạo-tràng) vào tuổi 35 cho đến
lúc nhập Mahàparinibbàna (Ðại Niết-bàn) tại Kusinara (Câu-thi-la) ở tuổi
80, đức Phật đã du hành liên tục từ nơi này đến nơi khác, băng qua mọi ngõ
ngách của miền Nam Trung Ấn để truyền bá giáo pháp mà Ngài đã phát hiện và
chứng ngộ vì lợi ích và hạnh phúc của quần sanh cho đến khi trút hơi thở
cuối cùng không hề khởi lên một ý niệm mệt mỏi. Bậc giác ngộ đã áp dụng
rất nhiều phương pháp trong việc giảng dạy chánh pháp ngõ hầu phù hợp với
vô số căn cơ, trình độ khác nhau của giới tín đồ. Do vậy, sau khi lắng
nghe và thu hoạch lợi ích từ giáo huấn của Ngài họ thường cảm thán rằng:
“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi
diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã
xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc
hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc.
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày,
giải thích…; từ nay trở đi cho đến mạng chung con trọn đời quy ngưỡng.”
Mặc dù
thế, sứ mệnh tôn giáo của Ngài không dễ dàng chút nào. Trải qua 45 năm
thuyết pháp độ sanh, Bậc giác ngộ thường xuyên đối diện với muôn vàn khó
khăn, gian khổ do các hệ thống tôn giáo khác nhau tạo ra tưởng chừng không
thể vượt qua; đặc biệt là các chướng duyên do lớp người không thích Ðức
Phật, giáo lý và con đường tu tập của Ngài gây nên. Do đó, tuỳ thuộc vào
bối cảnh tôn giáo, chính trị và xã hội của từng địa phương cụ thể mà Ðức
Phật áp dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau; về sau giới Phật giáo
Bắc Truyền gọi chúng là “Upàya-Kaúsalya” tức “Phương tiện thiện xảo”. Quả
thật, chính tinh thần phương tiện thiện xảo ấy đã đóng vai trò quan trọng
trong việc dẫn dắt con người hướng đến con đường giải thoát. Sau đây là ví
dụ điển hình về giáo lý trên:
“Rồi Thế
Tôn thuận thứ thuyết pháp cho gia chủ Upali, tức là thuyết về các cõi
trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô các dục lạc, những
lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết gia chủ Upali tâm đã sẳn sàng, tâm
đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ
Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao: Khổ, Tập, Diệt,
Ðạo…”
Nhưng
thật vô cùng quan trọng để lưu ý rằng, dĩ nhiên giáo lý phương tiện thiện
xảo là nhắm đến lợi ích của chúng sinh, nhưng bất cứ điều gì đi ngược lại
hay xung đột với tinh thần giải thoát của con đường trung đạo đều lập tức
bị Ðức Phật bác bỏ. Giữa vô số loại tu hành mê tín khác nhau của thời bấy
giờ, chúng ta hãy quan sát một vài lời dạy sau đây của Ðức Phật về các
việc bói tướng, tụng đọc các thần chú, mật chú, và cầu nguyện thánh
thần.v.v…”
“Chớ có dùng bùa chú,
A-thar-va Vệ-đà,
Chớ tổ chức đoán mộng,
Coi tướng và xem sao,
Mong rằng đệ tử Ta,
Không đoán tiếng thú kêu,
Không chữa bệnh không sanh,
Không hành nghề lang băm.”
Và:
“Tự mình làm điều ác,
Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình ác không làm,
Tự mình làm thanh tịnh,
Tịnh, không tịnh tự mình,
Không ai thanh tịnh ai.”
Không có
gì để nghi ngờ rằng chính quang Thánh đạo tám ngành này, không những trong
lúc còn tại thế Ðức Phật đã có thể giúp đỡ con người sống một đời sống an
lạc và hạnh phúc, mà sau ngày Ngài nhập Niết-bàn, hàng đệ tử cũng hưởng vô
số lợi lạc cho thân tâm bằng cách thực nghiệm con đường đã được trắc
nghiệm đó. Giá trị của nó vượt lên trên sự đo lường của thời gian. Di sản
trí tuệ và bức thông điệp giải thoát của Ngài có thể khiến người ta ngạc
nhiên hơn qua lời trích dẫn sau đây của một học giả rất nổi tiếng:
“Không
có người nào có sự tác động và ảnh hưởng về mặt phát triển tâm linh đối
với nhân loại to lớn hơn Siddhattha Gotama. Sinh ở Ấn Ðộ vào thế kỷ thứ
sáu trong một dân tộc khát khao cảm nghiệm tâm linh, Ngài đã thuyết minh
một loại giáo lý tôn giáo đạo đức mà cho đến tận ngày hôm nay vẫn đem đến
an lạc và giải thoải mái cho những ai thực hành nó.”
Nghiên cứu ngắn gọn và khiêm tốn trên về cuộc đời và công hạnh vị Bồ-tát
rút ra từ giáo lý của kinh tạng Nikàya có lẽ vừa đủ để cho chúng ta thấy
được ý nghĩa và tầm qua trọng của nó. Ðức Phật Gotama là một con người
lịch sử, và lịch sử cuộc đời của con người này chúng ta biết khá đầy đủ
chi tiết. Ngài không phải là người đến từ thế giới khác với nhiều bí mật
và huyền thoại. Bồ-tát Siddattha cũng sống một cuộc đời thế tục, cảm
nghiệm đầy đủ mọi niềm vui, dục lạc vốn có giữa trần gian. Sau đó, Ngài tự
thân tu tập và thực nghiệm những hình thái đời sống tôn giáo khác nhau, và
cuối cùng từ bỏ tất cả chúng; và Ngài đã làm sáng tỏ một sự kiện mà toàn
thể nhân loại mãi trăn trở và suy tư qua vô số thế hệ: “cuộc sống hiện tại
sẽ dẫn chúng ta về đâu”. Nếu so sánh với mọi tôn giáo, Phật giáo là tôn
giáo được xây dựng trên kinh nghiệm thật của con người, mà không phải là
một sản phẩm tưởng tượng mang tính phù phép và huyền thoại, hay các giả
thuyết chưa được thử nghiệm. Do vậy, bất cứ ai tìm kiếm giác ngộ (bodhi)
qua việc thực hành con đường thánh đạo này đều đầy đủ tư cách để được gọi
là Bồ-tát. Những ý kiến hay khái niệm cho rằng cho có một vị Bồ-tát trong
Phật giáo Nguyên Thủy, tức Bồ-tát Siddhattha, đều là tư tưởng một chiều,
khó có thể chấp nhận, và cần phải được duyệt xét lại.
Liên
quan đến ý kiến vừa nêu, hy vọng chúng ta sẽ không lạc đề khi trích dẫn ra
đây lời phát biểu của nhà nghiên cứu Phật học người Nhật, D.T.Suzuki, từ
tác phẩm “Ðặc Ðiểm của Phật Giáo Ðại Thừa” để suy nghiệm. D.T. Suzuki viết
rằng: “Giống như đức Sakyamuni (Thích-ca-mâu-ni) là Bồ-tát, trong tiền
kiếp đã được thọ ký sẽ thành Phật; cũng vậy chúng ta là những Bồ-tát, hay
trong ý nghĩa nào đó, thậm chí là Phật khi chúng ta nhận thức được rằng
tất cả hữu tình chúng sanh, bao gồm cả Ðức Phật, chỉ là một Pháp thân
(Dharmakaya). Pháp thân biểu hiện trong chúng ta như là sự giác ngộ
(bodhi) vì giác ngộ vốn là bản chất của chư Phật cũng như Bồ-tát.”
Dù còn nhiều giới hạn trong lãnh vực triết lý Phật giáo, tác giả vẫn cho
rằng tư tưởng trên của tiến sĩ D.T.Suzuki quả thật là khá lạ lùng và phi
lý khi chúng được đặt bên cạnh giáo lý nghiệp (karma) và tinh thần thực
tiễn của Phật giáo. Thêm vào đó, dường như chính ý tưởng đó đã làm giới
Phật tử ngộ nhận và dễ dàng xao lãng trong việc tu tập và huấn luyện theo
con đường trung đạo nhằm loại bỏ nghiệp quá khứ của mình. Ðể chứng minh
lập luận của chúng ta hợp lý, một vài thí dụ được nêu ra ở đây hy vọng là
thích đáng. Quả thật, trên bình diện lý thuyết, không ai có thể bác bỏ sự
kiện rằng tất cả mọi người đều sở hữu tiềm năng để trở thành giáo viên,
bác sĩ, hay nhà khoa học, v.v… Tuy nhiên, trong thực tế, sự thật không
phải như vậy, bởi vì sự cố gắng đúng mức, sự quyết tâm và lòng kiên nhẫn
bền bỉ cần phải có để đạt đến các mục tiêu như thế mới là yếu tố chủ đạo
đóng vai trò thành hay bại ở đây. Rõ ràng, thành quả chúng ta sẽ có thể
đạt được thì luôn luôn tùy thuộc vào sự đầu tư của chúng ta trong một loại
sứ mạng đặc thù nào đó. Chính hành động có tác ý hay nghiệp (karma) là sự
phản ánh về vị trí thực của chúng ta. Ðây là yếu tố chủ đạo trong việc mở
ra các lãnh vực khác nhau về triết lý, giáo dục, tôn giáo. Dĩ nhiên, chúng
ta sẽ có thể là Bồ-tát nếu chúng ta ước muốn như thế với điều kiện chúng
ta phải luôn luôn nuôi dưỡng lòng quyết tâm ấy và không ngừng nỗ lực hành
trì để đạt được mục tiêu trên. Từ đây, kết luận hợp lý cho tư tưởng này
phải là như vầy: Trên bình diện lý thuyết, mọi chúng sinh đều có tiềm năng
để trở thành Bồ-tát, thậm chí thành Phật, nhưng trong thực tế, quả thật
chưa mấy ai đạt đến vị trí đáng được mong ước đó.
Như vậy
là cuộc đời và hạnh nguyện vị Bồ-tát được minh họa trong ánh sáng của kinh
tạng Pàli, phản ánh được giáo lý căn bản về lý tưởng Bồ-tát ngay từ khởi
nguyên của Phật giáo. Tuy nhiên, theo dòng thời gian và với sự phát triển
của Phật giáo, triết lý Bồ-tát đã từng bước được thay đổi, bổ sung, và ứng
dụng ngõ hầu làm cho nó phù hợp với vô số căn cơ, trình độ hiểu biết, ước
muốn và nhu cầu khác nhau ở từng thời điểm lịch sử cụ thể nào đó. Khuynh
hướng mở rộng triết lý đó chắc chắn đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng
cho quá trình phát triển và truyền bá lâu dài của Phật giáo; bởi vì không
có bổ sung, thay đổi về mặt giáo lý, có lẽ Phật giáo đã đánh mất vị trí
của mình. Trong thực tế, để có thể tồn tại và phát triển cùng lịch sử mọi
tôn giáo cần phải có những bước chuyển tiếp tư tưởng nhằm đáp ứng phù hợp
nhu cầu đổi mới của nhân loại, như lời nhận xét của đại đức Edkins như
sau: “Nếu sự khởi nguyên của các tôn giáo
thế giới là những chủ đề có ý nghĩa và rất đáng được quan tâm nghiên cứu,
thì sự tiến triển và mở mang của chúng cũng không kém phần quan trọng. Vô
số nguyên nhân tác động nhằm hợp lực hỗ tương cho việc truyền bá Phật
giáo, nếu nghiên cứu cẩn thận, sẽ là một sự cống hiến có giá trị đối với
lịch sử con người.”
Tư tưởng Phật học đã được tăng trưởng và nở
hoa theo chiều dài lịch sử hơn 2500 năm của nó. Trên bình diện thiển cận
chúng ta có thể nói rằng sự mâu thuẫn trong triết học Phật giáo đã xảy ra
suốt thời kỳ lịch sử và các vùng địa lý khác nhau nào đó. Nhưng ở cốt lõi,
giáo lý Phật giáo chỉ là một sợi chỉ hồng xuyên suốt, và lý tưởng Bồ-tát
cũng là một khái niệm như thế. Cho dù giới học giả đã đưa ra nhiều lý
thuyết trái ngược và nhiều lúc xung đột lẫn nhau trong phạm trù bản chất
và phạm vi của giáo lý Bồ-tát, nhưng chúng tôi vẫn cảm thấy rằng thật ra
khái niệm này xác định được những căn cứ thống nhất đầy đủ thẩm quyền đối
với toàn bộ tư tưởng và triết học Phật giáo. Chính lý do này tạo ra cơ hội
hợp lý để chúng tiếp tục tìm hiểu xem bằng cách nào lý tưởng Bồ-tát đã
phát triển theo dòng thời gian. Chúng ta sẽ xúc tiến việc này bằng việc
nghiên cứu một cách chi tiết quá trình phát triển của nó trong chương ba.
---o0o---
[ Mục Lục]
[Chương 1]
[Chương 2] [Chương
3]
[Chương 4]
[Chương 5]
[Chương
6] [Chương 7]
---o0o---
Vi tính: Diệu Phước Nguyễn Thị Năm
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-12-2003