Ý nghĩa
Vía Phật -
Bồ Tát trong năm
---o0o---
HÀNH TRÌNH
CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
Thích An Hải
Theo Kinh Đại Viên Tịch Niết Bàn
(Mahapannibbàna Sutta) Bài Kinh Thứ 16, Trường Bộ Kinh (Dighamikaya), tạng
Pàlì.- Vào năm 80 tuổi, tâm đức Phật vẫn toả sáng, nhưng thân thể suy yếu,
ngài chưa chùn bước truyền dạy giáo Pháp hoá độ chúng sanh. Hành trình
cuối cùng của đức Phật từ núi Gijjhakùta (Linh thứu), cận thành Rajagha,
Kinh đô xứ Magadha (Ma Kiệt Đà), đức Phật cùng tôn giả Aønandà, đi bộ đến
thành Kusinàrà, rừng TaLa Song Thọ.
Mặc dù đức Phật dừng lại nhiều nơi để nghỉ ngơi và thuyết pháp. Nhưng đây
là con đường dài mệt mỏi đối với người khỏe mạnh huống chi thân ngài già
yếu. Đó cũng là sự thể hiện tác phong trì bình khất sĩ độ sanh, truyền
thống đặc biệt của một bậc thầy gương mẫu thời xưa. Rồi ngài cũng đến
thành Vesali (Tỳ xá li).
Trước khi đi, tại núi Gijjhakùta (Linh thứu), đức Phật thuyết bảy pháp bất
thối của một quốc gia và của giáo hội cho sứ giả của vua Ajàtasattu (A xà
thế) là Vassakàra và hội chứng tỳ Khưu Tăng nghe như những lời dặn bảo
cuối cùng cảm động dưới ánh sáng trí tuệ của bậc đại thánh giả, nhưng
không có vị nào hiểu ý đức Phật sắp nhập diệt. Người ta chỉ ca ngợi nội
dung hai bài pháp bất thối cho đời cho đạo. Đức Phật bao giờ cũng thế
không áp đặt ai phải tu theo, ngài vạch rõ con đường đi xuống là đau khổ,
đi lên là hạnh phúc, tuỳ người nghe chọn lựa.
Đức Phật rời Rajagha, cùng đại đức Aønandà đi đến AmpalathiKa, rồi từ đó
đến NaLanda. Nơi đây ngài ngự tại vườn xoài Bàvàrika. Trong dịp này Đại
đức Sariputta (Xá Lợi Phất) đến hầu Phật và tán dương trí tuệ xuất thế của
bậc đại giác. Thay vì chấp nhận, đức Phật nhắc đến pháp tu diệt trừ Năm
triền cái, trú tâm vào Tứ Niệm Xứ, phát triển Thất giác chi, dẫn đến quả
Chánh đẳng giác của một vị Phật.
Từ Nàlandà, đức Phật lần hồi đi đến Pàtaligàma. Nơi đây đức Phật thuyết
giảng cho chúng tăng nghe 5 điều nguy hại của sự phá giới và 5 điều lợi
ích của sự giữ giới. Tại xứ này có hai vị đại thần vương quốc Ma Kiệt Đà
là Sunìdha và Vassàkàra, đang chỉ huy dân quân xây thành đắp luỹ để phòng
thủ người Vajjan, lúc ấy rất hùng cường thịnh vượng. Đức Phật và tôn giả
Aønanda trú trong một căn nhà bỏ trống, nhận thấy Chư Thiên xuất hiện đây
đó khắp vùng, ngài nói đó là điềm Kiết tường, trú địa này sau sẽ thành một
thị trấn bậc nhất, một trung tâm thương mại lớn có tên gọi là Pàtaliputta
và sẽ bị ba nạn nước lửa và phân tranh. Hai vị đại thần Vương quốc Ma Kiệt
Đà và dân chúng thỉnh đức Phật và đại chúng tăng về nhà thọ thực. Xong rồi
đức Phật nói lên kệ tuỳ hỉ: “Dầu cư trú nơi nào, người khôn ngoan sáng
suốt luôn thận trọng, hết lòng nâng đỡ nhau, đó là những người tốt biết tự
kiểm soát, hồi hướng phước báu đến những vị trời cư ngụ trong vùng (...)
Người được Chư Thiên chiếu cố sẽ hưởng nhiều may mắn!
Hai vị đại thần thuận theo ý dân chúng đặt tên cổng thành này là cổng
Gotama để kỷ niệm và chuẩn bị một chiếc đò đưa đức Phật và chư tăng qua
sông, vì sông Hằng lúc ấy nước dâng cao, nhưng đức Phật cùng các thánh đệ
tử dùng thần thông bay qua sông.
Đức Phật ít khi dùng thần thông, tránh xáo động tâm lý hiếu kỳ, có lẽ lần
này quá gấp rút, quỹ thời gian của ngài sắp cạn.
Từ bờ sông Hằng, đức Phật đi đến Kotigàma. Tại nơi đây, đức Phật cho biết
do không thấu triệt chơn lý Tứ đế nên chúng sanh phải khổ đau. Những ai
thông hiểu và giác ngộ Tứ Đế, sẽ đoạn tận khổ căn sanh tử.
Từ Kotigàma, đức Phật đi đến Nàdika, tại đây ngài ngự trong lò gạch trống
hoang. Nhân dịp này, đại đức Aønanda, đến gần đức Phật cung kính hỏi thăm
về nơi tái sanh của những người trong làng đã quá vãng. Đức Phật kể lại số
phận từng người rồi ngài thuyết kinh Gương Chánh pháp (Dhammàdàsa), nói về
gương lành của đệ tử đặt trọn niềm tin nơi đức Phật, đặc tính của pháp và
đức hạnh hoàn hảo của Chư tăng. Suy niệm sáng tõ về Tam bảo, trau dồi phẩm
hạnh cao thượng với những giới đức đưa đến giải thoát, được bậc thiện trí
khen ngợi người thoát ly mọi dục vọng, tâm an ổn trong thiền định, chứng
đạt pháp nghĩa, do vậy vị thánh đệ tử nhận biết viễn ảnh của mình.
Từ làng Nàdika, đức Phật đi đến thành Vesàlì phồn thịnh, trú tại vườn xoài
của cô kỹ nữ Ambapàli. Người có một nhan sắc kiều diễm hấp dẫn đến độ đức
Phật thận trọng khuyên nhắc chư tăng nên chú tâm chánh niệm tỉnh giác. Đức
Phật nhận lời thỉnh cầu cúng dường trai tăng của Ambapàli, khước từ lời
thỉnh cầu đến sau của các thanh niên quyền quý Licchavì. Họ thương lượng
với cô, nếu cô nhường bữa cúng dường trai tăng cầu phúc nầy, cô sẽ được
đền bù một số tiền lớn, cô và gia nhân có thể ngồi không hưởng thụ suốt
đời. Chẳng những cô không khứng chịu còn phát tâm tịnh tín cúng dường Phật
và chư tăng khu vườn xoài rộng lớn thanh lịch để làm Tinh xá. Sau đó cô
xin Phật cho xuất gia làm nữ tu, tinh tấn tu hành chứng đệ tứ thánh quả an
lạc.
Từ thành Vesali, đức Phật đi đến làng Beluvà, một ngôi làng nhỏ bé cận
thành, đức Phật quyết định an cư mùa mưa tại đây.
Trong khi an cư, đức Phật lâm trọng bệnh, ngài khắc chế bệnh trạng bằng
thiền định hưởng thọ hạnh phúc Niết bàn. Tôn giả Aønanda biểu lộ sự quan
tâm ghi nhận lời “Di giáo” của đức Thế tôn khuyên nhủ tế nhị rất quan
trọng, bộc lộ rõ tính chất của Tam bảo, đáng lưu ý:
- Chúng Tỳ khưu, còn mong mỏi gì nữa nơi Như Lai? Như Lai đã thuyết giảng
Chánh pháp không có sự công truyền và bí truyền. Như Lai không bao giờ là
vị đạo sư còn bàn tay nắm lại. Nếu nghĩ rằng: “Như Lai sẽ là vị lãnh đạo
của chúng Tỳ khưu hay chúng Tỳ khưu chịu sự giáo huấn của Như Lai. Như Lai
sẽ có lời Di giáo cho chúng Tỳ khưu.
- Này Ànanda, tuổi 80 đủ rồi. Như cổ xe đã cũ kỹ mà còn chạy được bởi các
dây chằng chịt cột các bộ phận lại. Thân Như Lai cũng như thế đó, sự sống
được duy trì nhờ những sợi dây ràng rịt đó!
- Này Ànanda, chỉ khi nào Như Lai không suy niệm đến tất cả tướng, với sự
diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy
thần trí Như Lai được thoải mái.
- Này Ànanda, thế nào là vị Tỳ khưu biết tự mình là ngọn đèn cho chính
mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì khác; dùng chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì
khác.
- Này Ànanda, một vị Tỳ khưu sống chuyên cần tinh tấn, giác tỉnh, chánh
niệm, từ khước mọi tham ái trong thế gian, luôn phát triển tâm định với
thân-thọ-tâm-pháp.
- Này Ànanda, sau khi Như Lai viên tịch thì vị ấy là tối thượng trong hàng
Tỳ khưu, nếu vị ấy vẫn thiết tha học hỏi.
Người chỉ nương tựa chính mình không nương tựa giáo pháp Phật là bậc Độc
giác, điều này rất hiếm, phần đông rơi vào giả ngã ảo kiến. Người nương
tựa giáo pháp không nương tựa chính mình thì chỉ có hình thức, nội dung
rỗng vì tâm lý không gạn lọc. Ý của Phật là các đệ tử phải nương tựa giáo
pháp của ngài soi rọi tự tâm, hành giả giác ngộ chân tánh diệu dụng.
Một ngày kia, đức Phật vào thành Tỳ Xá ly trì bình, độ ngọ tại đền Kàpàla,
ngài nhiều lần nói cho tôn giả Ànanda nghe, người tu chứng Tứ thần túc có
thể kéo dài tuổi thọ thêm một kiếp hay hơn nữa.(Tân Đầu lư phả Tỳ Khưu tu
chứng pháp này kéo dài tuổi thọ đến 600 năm). Nhưng tôn giả Ànanda không
hiểu Phật ý, ngay lúc ấy không thỉnh Phật Chuyển pháp luân. Đức Phật thông
báo: “Ba tháng nữa Như Lai sẽ nhập diệt. Ngài nói kệ:
“Mạng sống hữu hạn hay vô hạn
Tu sĩ từ bỏ không kéo dài
Nội tâm chuyên nhất tu thiền định
Như thoát áo giáp đang mặc!”
Tức thì đại địa chấn động, sấm trời vang dội, tôn giả Ànanda nghẹn ngào
cảm xúc nói: “Đức Thế tôn, có Tứ thần túc, xin vì sự tốt đẹp, hạnh phúc
của tất cả, con thỉnh cầu ngài sống thêm một kiếp nữa!”. Đức Phật trả lời:
“Đã đủ rồi ! Nầy Ànanda không nên khẩn cầu Như Lai nữa!”... Đức Phật giảng
về tính cách vô thường của đời sống!
Tin tức được truyền đi nhanh như một cơn bão cao tốc; hàng ngàn đệ tử xuất
gia, hàng vạn đệ tử tại gia khắp mọi miền đất nước có in dấu chân giáo hoá
của đức Phật, người ta sửng sốt nhìn nhau hỏi: “- Đức Thế tôn, một bậc đạo
sư gương mẫu, thương chúng đệ tử như cha hiền thương con dại sẽ ra đi thật
sao!” - Chỉ có những vị thánh đệ tử chứng đạo hiểu rõ lý vô thường trầm tư
im lặng! Gió như ngừng thổi, cây rừng rủ lá, chim không hót!
- Đức Phật đi đến giảng đường Kùtagàsa, tại khu đại lâm, ngài bảo tôn giả
Ànanda, triệu tập chư Tỳ Khưu đang cư trú quanh thành Tỳ Xá ly, đến nghe
ngài nói những lời vô cùng quan trọng với Chư Tăng:
- Này chư Tỳ Khưu! Với 37 phẩm trợ đạo, nhân sanh quả giác ngộ, chính Như
Lai đã giác ngộ và thuyết giảng, hội chúng khéo học hỏi, thực hành, trau
dồi phát triển đầy đủ, truyền bá nếp sống phạm hạnh cao quí đem lại lợi
lạc cho chúng sanh cõi người và cõi trời. Này chư Tỳ Khưu, đây là lời ta
nhắn nhủ: “Các hành là vô thường, hãy tin tấn lên để tự giải thoát.”
Đức Phật nhìn thành Tỳ Xá ly lần cuối cùng rồi đi với đại đức Ànanda đến
làng Bhandagàma. Tại nơi đây đức Phật lại cho biết, do không thấu triệt Tứ
đế, tất cả chúng sanh phải khổ đau. Người thông hiểu và giác ngộ Tứ đế, sẽ
đoạn trừ được khổ căn sanh tử. Ngài nói kệ:
“Giới-định-tuệ là giải thoát tối thượng
Như lai đã thành tựu những điều ấy
Đã truyền dạy giáo lý cho chúng Tỳ Khưu
Bậc đạo sư đã chấm dứt phiền não khát vọng!”
Đi từ Làng này đến Làng khác; một hôm đức Phật dừng chân tại Bhoganagara,
trú vào đền Ànanda, thuyết pháp thoại Mahàpadasa, Bốn điều tham chiếu lớn.
Thật ra chỉ có một điều tham chiếu áp dụng cho 4 nơi phát sinh những pháp
ngữ của đức Phật. 1). Tỳ Khưu được nghe từ miệng đức thế tôn nói...2). Tỳ
Khưu nói tự thân được nghe và thọ lãnh từ nơi Tăng chúng lời Phật...3). Tỳ
Khưu được nghe và thọ lãnh từ nơi nhiều vị Trưởng lão tôn túc đa văn biết
giữ gìn truyền thống và thọ trì pháp luật đã nói...4). Một vị Tỳ Khưu nói
chính tự thân được nghe và thọ lãnh từ một vị Trưởng lão đa văn biết giữ
gìn truyền thống và thọ trì pháp luật đã nói... Đây là giáo lý, đây là
giới luật, đây là giáo huấn của đức bổn sư.- Những lời ấy, không nên chấp
nhận, không nên gạt bỏ ngoài tai, mà phải nghiên cứu tận tường từng chữ,
từng tiếng rồi hãy đối chiếu với kinh và luật. Nếu khi so sánh kỹ càng con
nhận thấy nó không phù hợp với kinh và luật, con có thể kết luận:- Chắc
chắn đây không phải Phật ngôn; Vị ấy hiểu sai con hãy loại bỏ những lời
ấy!- Nếu khi so sánh và đối chiếu, những lời ấy phù hợp nhất trí với kinh
và luật, con có thể kết luận: “Chắc chắn là Phật ngôn, vị ấy đã hiểu
đúng!”
Ngày nay đệ tử Phật áp dụng 4 điều tham chiếu lớn này trắc lượng từ bốn
phương tám hướng, tức muôn vạn trường hợp khẳng định xuất xứ Phật ngôn;
nếu không, sẽ bị sai lầm đáng tiếc. Vàng thau lẫn lộn, những trò ma giáo
lừa bịp đã xảy ra để thủ lợi khá nhiều rồi.
Từ Bhoganagara, đi đến Pàvà, đức Phật trú tại vườn xoài của thợ rèn
Cunda,(Thuần Đà) Cunda đã cung thỉnh đức Phật cùng hội chúng Tăng về nhà
thọ thực. Với tâm rất trong sạch, Cunda dâng lên đức Phật một vật thực đặc
biệt gọi là Sùkaramadda. Có chỗ nói, đó là thịt con heo rừng không già lắm
cũng không non tơ, không phải gia chủ cố ý giết nó để dâng lên đức Phật.
Có chỗ nói đó là tên của một loại nấm rất ngon. Theo lời chỉ dạy của đức
Phật, gia chủ chỉ cúng dường vật thực ấy, sau khi chế biến xong đến ngài,
phần còn lại đem chôn sâu xuống lòng đất, vì không ai có thể tiêu hoá được
vật thực này. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau và đặt dấu hỏi tại sao đức Thế
tôn bảo thế? Tuy nhiên lời chỉ giáo của đấng đạo sư được gia chủ nghiêm
túc thực hành.
Thọ thực xong, ngài bị ngộ độc lâm bệnh lỵ huyết rất nặng, ngài kham nhẫn
chịu đựng, dùng thiền định khắc chế cảm giác đau đớn nên thần sắc an
nhiên.
Mặc dù yếu lắm, đức Phật nhất quyết đi bộ đến Kusinàra, nơi ngài sẽ nhập
diệt, độ đường khoảng 3 do tuần (9 Km). Chư tăng định võng ngài đi, tác
phong của Như Lai không phải thế, Ngài không đồng ý. Đoạn đường cuối cùng
có kinh sách ghi chép, ngài phải ngừng nghỉ đến 25 lần. Có một lần ngài
dừng lại dưới tàng cây cổ thụ bảo đại đức Ànanda đi tìm nước uống đỡ khát.
Đại đức Ànanda, khó khăn lắm mới tìm được một dòng suối nhỏ, nơi ấy có 500
cỗ xe bò vừa đi qua. Nhưng lạ thay, khi đại đức Ànanda đến, nước đục ngầu
trở thành trong trẻo.
Nghiên cứu đến đây chúng tôi đau lòng rơi nước mắt. Đấng đạo sư vì cứu khổ
sinh tử cho chúng sinh mà khổ thế. Người đời nay nói là nối chí ngài mà
hưởng thụ vật chất phù hoa thái quá, lệch hướng không!
Lúc bấy giờ có người tên Pukkusa, thuộc dòng họ Malla. Đệ tử của
Àlàvakàlama, đang đi trên đường thấy đức Phật hào quang toả sáng ngưỡng mộ
vội đến xin đảnh lễ, tõ ý thán phục thái độ trầm lặng từ bi của ngài.- Sau
khi nghe đức Phật thuyết về thiền định thanh tịnh không xao động của người
chánh niệm tỉnh giác, Pukkusa tâm đắc, dâng lên ngài hai bộ y kim tuyến
sắc vàng óng ánh. Vâng lời đức Phật, Pukkusa cúng dường ngài một bộ và một
bộ trân trọng dâng đến đại đức Ànanda.
Sau khi đại đức Ànanda, mặc y kim tuyến cho đức Thế tôn, sửng sờ thấy màu
da của ngài sáng ánh rỡ ràng. Khoa học cho biết người thanh lọc tâm trong
sạch, máu cũng trong sạch làm cho da ánh lên màu tinh khiết. Đức Phật nói:
“Có hai trường hợp màu da của ngài rực sáng khác thường là đêm thành đạo
và đêm viên tịch!”- Tôn giả Ànanda vô cùng đau xót!”
Đức Phật cũng cho biết rằng, đêm ấy vào lúc canh ba, ngài sẽ tịch diệt
trong khu rừng Sala (Long Thọ), thuộc tiểu Vương quốc Mallà, giữa hai cây
Sàla, gần thành Kusinàra!
Đức Phật tắm lần cuối nơi dòng sông Kakuttha thật thoải mái. Sau đó, ngài
nói với đại đức Ànanda, trong đời ngài có hai bửa cơm vô cùng phúc báu là
vật thực cúng dường Bồ tát trước khi chứng quả chánh giác và vật thực cúng
dường lần cuối trước khi Như lai viên tịch.
Này Ànanda, rất có thể có người làm cho Thuần Đà hối hận. Cần phải làm
tiêu tan sự hối hận ấy. Phải nói như thế nầy:-“Hiền giả, thật lợi ích và
công đức cho ông, vì được Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ ông cúng dường
và nhập diệt. Chính tôi tự thân lãnh thọ lời nói này của đức Thế tôn (...)
Ông thật có nhiều phúc báo tốt đẹp trong tương lai như tái sanh nhàn cảnh,
tuổi thọ cao, gặt hái nhiều may mắn danh vọng trong cảnh vua chúa cõi
Trời, cõi Người.”
Lần hồi đức Phật và tôn giả Ànanda vượt qua sông Hiramàvati, đến Kusinàra,
vào giữa khu rừng Sàla, của dòng họ Mallà.- Ngài nằm nghỉ giữa hai tàng
cây Long Thọ, đầu hướng về phía bắc, với hình dáng nằm của sư tử chúa sơn
lâm và chánh niệm tỉnh giác, nhìn những hoa Long thọ trổ sai mùa rơi rơi
xuống. Từ trên cao hoa Mandàrana (Mạn đà la, một loại sen quí của cõi
trời), Chư Thiên rắc xuống quanh ngài. Những tiếng nhạc du dương của Thiên
giới trổi lên cúng dường Phật. Ngài nói: “Như thế, chưa phải thiết thực
tôn trọng, kính cẩn, sùng bái làm vẻ vang Như Lai. Chỉ có đệ tử nào hành
trì thành tựu chánh giác vô thượng, tuỳ pháp, sống thực lợi ích chúng
sanh, người ấy biết tôn trọng, kính cẩn làm vẻ vang Như Lai.”
Ngày nay, có những ông cha bà mẹ sống mòn mỏi ở một xóm nghèo, suốt đời
không biết đến nhạc cổ truyền dân tộc, nói chi đến những làn điệu cách
tân. Vừa nhắm mắt lìa đời con cháu rước nhạc Tây, nhạc Tàu đến làm rùm
beng. Hoặc có những ông sư sống hẩm hiu dưa muối nơi chùa quê, viên tịch,
các đệ tử làm đám lớn, cúng dường trai tăng, chẩn bần, hát Phật...tiền
muôn bạc vạn, thật lạ lẫm với Phật ý. Tại sao là Phật tử, người ta cứ biểu
dương các pháp hữu vi vô thường, khi vô thường đến, không hành trì thành
tựu chánh giác vô thượng dẫn dắt hương linh cha mẹ, đền ơn thầy tổ đạt đến
đỉnh cao chân thường an lạc!
Lúc bấy giờ Đại Đức Upavàna, đến đứng trước Thế tôn tõ ý buồn. Với giọng
từ bi cố hữu, ngài bảo Đại Đức Upavàna nên đứng sang một bên, Đại Đức
Ànanda thấy vậy rất ngạc nhiên vì trước kia Đại Đức Upavàna, từng là một
thị giả cung kính phục vụ đức Phật. Ngài giải thích, “Các con phải biết,
hiện giờ có nhiều vị Trời đến tề tựu chung quanh nơi đây và than phiền về
sự che áng của Đại Đức Upavàna.”
Kế tiếp, đức Thế tôn đề cặp đến 4 thánh tích ghi dấu đậm nét đến đời sống
của một đức Như Lai như sau:
-
Nơi Bồ Tát đản sanh -Vườn Lumbini (Lâm Tỳ Ni), giáp với Tây Tạng.
-
Nơi đức Phật Thành đạo - Buddha Gaya, cách nhà ga xe lửa Gaya
khoảng 10 Km.
-
Nơi đức Phật Chuyển pháp luân – Isipatana, nay là Sarnath.
-
Nơi đức Phật diệt độ - Kusinàrà, nay là Kasi, cách nhà ga Gorakhpur
40 Km.
Ngài cho biết, những ai đang đi chiêm bái một trong những thánh tích ấy
với tâm tịnh tính, nếu từ trần sẽ tái sanh vào nhàn cảnh.
Đức Thế tôn khen ngợi 4 đức tánh của tôn giả Ànanda, tương xứng một bực
Chuyển luân thánh vương như sau:
- Chúng Tỳ Khưu Tăng luôn hoan hỉ khi được yết kiến Đại Đức Ànanda; sẽ
hoan hỉ khi được nghe Đại Đức Ànanda thuyết pháp và sẽ thất vọng buồn nản
khi Đại Đức im lặng.
- Chúng Tỳ Khưu Ni và Cư sĩ tại gia luôn hoan hỉ khi được yết kiến Đại Đức
Ànanda, sẽ luôn hoan hỉ khi được nghe Đại Đức Ànanda, thuyết pháp và sẽ
thất vọng buồn rầu khi Đại Đức làm thinh.
Trong bầu không khí khẩn trương căng thẳng, lời nói Đức Thế tôn như một
luồn gió thoảng nhẹ nhàng êm mát. Ngay khi ấy bên ngoài có tiếng ồn náo,
vì một Du sĩ tên Subhadda, ( Tu Bạt Đà La). Tuổi thọ rất lớn nói:
- Lâu lắm mới có một đấng Thế tôn toàn giác xuất hiện trên thế gian. Vào
canh chót đêm nay ngài sẽ nhập diệt. Tôi có đôi điều hoài nghi muốn hỏi,
ngài sẽ giảng dạy giáo pháp để đánh tan mối hoài nghi của tôi, có thể quí
thầy cho tôi vào gặp ngài trong giây lát?
Tôn giả Ànanda nói, đạo hữu chớ nên làm rộn, Thế tôn đã mệt mỏi lắm! Tu
Bạt Đà La tiếp tục cầu xin, tôn giả Ànanda tiếp tục từ chối và đến lần thứ
ba, đức Thế tôn nghe được, bảo tôn giả Ànanda, vị đạo sĩ ấy do vì muốn
hiểu biết chớ không phải làm phiền, nên cho ông vào hỏi ngài giải đáp ông
sẽ lãnh hội mau chóng.
- Bạch đức Thế tôn, tất cả những giáo sĩ đương thời có thông suốt chơn lý
như các ngài nói hay không, hay chỉ có vài vị thông suốt, còn các vị khác
thì không?
- Hãy để yên đó Tu Bạt Đà La, không nên bận trí với những việc như thế!
Trong bất luận giáo đoàn nào nếu không có Bát thánh đạo thì cũng không có
bốn quả Sa môn. Nếu có người hành đúng giáo lý ấy, với đời sống chơn
chánh, thế gian sẽ không vắng bóng các bậc thánh ALaHán
Năm hai mươi chín tuổi, Như lai đã ra đi tìm những gì tốt đẹp nhất. 51 năm
đã trôi qua kể từ ngày đắp y mang bát, ta là một tu sĩ tịnh tâm tu đức.
Ánh sáng trí tuệ bừng lên với nhận thức chính xác, Tu Bạt Đà La quì xuống
bái bạch:
- Lành thay, đức thế tôn! Tựa hồ như có người sửa lại ngay ngắn một vật đã
lật đổ, hay khám phá một vật đã được dấu kín (...) giáo lý đức thế tôn
truyền dạy làm cho tâm con tỏ sáng. Xin phép ngài cho con thọ lễ quy y
Phật, Pháp, Tăng. - Đức Phật dạy:
- Này Tu Bạt Đà la, người xuất gia làm Tỳ Khưu phải trải qua một thời gian
thử thách. Tuy nhiên, do sự hiểu biết của con hôm nay, Như lai sẽ mở ra
một biệt lệ.
Sau đó, đức Phật bảo tôn giả Ànanda làm lễ xuất gia cho Tu Bạt Đà la, vị
lão Tỳ Kheo này đã kiên trì tinh tấn tu tập chứng ngộ chân lý trong những
ngày cuối cùng của cuộc đời sống an lạc.
Việc đức Phật giảng giải, quyết trạch cho Du sĩ Tu Bạt Đà La có ý nghĩa
trong hay ngoài đạo Phật, nơi nào không có Bát thánh đạo thì không có Tứ
quả Sa môn, đủ thấy hiệu quả của Bát thánh đạo là như thế nào. Bát thánh
đạo là Diệu đế thứ tư trong Tứ Diệu Đế. Kể từ khi Sơ chuyển pháp luân đến
nhập diệt, giáo lý ngài tuyên thuyết rất nhiều, nhưng không ngoài Bát
thánh đạo. Bát thánh đạo có ý nghĩa như luân lý, triết lý, đạo đức, giới
định tuệ, từ đây làm cho tâm lý hành giả phát sinh con đường Trung đạo đến
Bồ Đề Niết Bàn. Thế mà ngày nay có một số vị đàm huyền luận diệu uyên bác,
nhưng không thực hành Bát thánh đạo trong đời sống hằng ngày, đủ biết họ
đã đi sai đường Phật đã đi.
Xin đừng nhầm Tu sĩ Bạt Đà La quy y cuối cùng này với đức Phật và một Tu
sĩ Tu Bạt Đà La đã quy y trước cũng lớn tuổi xuất gia, sau khi đức Phật
nhập diệt đã thốt: “ Đức Phật nhập diệt không có gì đáng phiền muộn, từ
đây chư Tỳ Khưu muốn làm chi thì làm, không sợ ai khiển trách.” Câu nói ấy
làm nhân duyên cho đức Kassapa (Ca Diếp), triệu tập chư thánh tăng kết tập
Tam tạng Kinh điển, ba tháng sau khi Phật nhập diệt.
Suy cho cùng ông Tu Bạt Đà La tu hành chơn chánh và ông Tu Bạt Đà La nói
lời quấy quá đều là ân nhân cho chúng đệ tử đời sau có gương tốt để soi,
có kinh luật luận để tu học!
Đại đức Ànanda, bạch với đức Thế tôn:- Sau khi đức thế tôn diệt độ, nhục
thể phải được tôn trọng thế nào?- Đức Phật dạy những lời tối hậu:
Này Ànanda, con không nên bận tâm với việc làm vẻ vang nhục thể Như Lai.
Hãy để những người chiến sĩ sáng suốt, những vị Bà la môn và những người
cư sĩ trí tuệ tin tưởng vững chắc nơi Như Lai làm việc này.- Hãy chú tâm,
tận lực, tinh tấn, cố gắng, cần mẫn trong việc mưu tìm hạnh phúc châu toàn
của chính con là quả vị AlaHán!
Đại đức Ànanda, nghe xong lời dạy quí báu của đức thế tôn rồi bước sang
một bên đứng khóc và than vản:-“ Than ôi! Ta chỉ là một tu sĩ có pháp học
nhưng chưa hoàn toàn giải thoát, cần phải hành nữa. Nhưng sau cùng đức đạo
sư đã sắp tịch diệt. Đức thế tôn mà ta vô cùng quí mến!”
Đức Phật cho gọi ngài đến dạy:- Hỡi Ànanda, chớ có phiền muộn. Chớ có khóc
than. Như Lai đã từng dạy rằng tất cả chúng ta đều phải phân ly, cách
biệt và xa lìa những gì chúng ta ưa thích và quí mến! Nầy Ànanda, con đã
tạo nhiều phước báu. Con sẽ sớm thanh lọc mọi ô nhiễm!- Và đức Phật tán
dương công đức tôn giả Ànanda, rồi bảo tôn giả vào thành Câu Thi Na, báo
tin cho hoàng tộc Malla về sự sắp viên tịch của ngài. Tất cả những người
mến mộ Phật hay tin đều khóc than đến đãnh lễ Phật.
Quang cảnh cuối cùng rất cảm động, những lời dạy của đức Phật ngọt ngào,
vang vọng đến hôm nay:- “Này Ànanda, sau khi Như Lai viên tịch, nếu trong
chúng đệ tử có người nghĩ rằng: Lời nói của bậc đạo sư không còn nữa.
Chúng ta không có bậc đạo sư.- Chớ có những tư tưởng như vậy.- Pháp và
luật ta đã giảng dạy, sau khi ta diệt độ, chính pháp và luật ấy là đạo sư
của các con!”
- “Này Ànanda, chư vị Tỳ Kheo lão niên hãy gọi vị Tỳ Kheo niên thiếu bằng
tên họ, hay hiền giả. Vị Tỳ Kheo niên thiếu hãy gọi vị Tỳ Kheo Lão niên là
Thượng toạ hay Đại đức.”
- “Nếu chúng Tăng muốn, sau khi Như Lai diệt độ, có thể huỷ bỏ những học
giới nhỏ nhặt, chi tiết.”
- “Hành tội phạm đàn mặc tẩn đối với Tỳ Kheo Channa.- Hành tội phạm đàn
mặc tẩn là Tỳ Kheo Channa muốn nói gì thì nói, chúng Tỳ Kheo sẽ im lặng
không giáo giới”.
Vì đức Phật không nêu rõ giới nhỏ nhặt có thể bỏ, nên đại đức Ca Diếp chủ
toạ cuộc kết tập Tam Tạng đầu tiên với sự đồng ý của chúng tăng, không huỷ
bỏ một học giới nhỏ nào. Chúng ta vẫn biết nền tảng, căn bản giới luật
không bao giờ lỗi thời trong việc rèn luyện chúng sanh trở thành các vị
thánh cao quý. Nhưng thời đại hôm nay, có những giới nhỏ nhặt vị Tỳ kheo
không giữ cũng không phạm, tức học giới ấy không cần thiết, phải bỏ!
Đức Phật hỏi tiếp:- Này chư Tỳ Khưu, còn điều nào nghi ngờ phân vân về
Phật bảo, pháp bảo, hay phương pháp thì nên nói ra, chớ để hối tiếc về
sau. Đức Phật hỏi đến ba lần câu hỏi trên, nhưng tất cả Tỳ kheo hiện diện
im lặng, tỏ ý không nghi ngờ điều chi, vì 500 vị Tỳ Kheo này đều là thánh
tăng từ bậc Dự lưu đến Tứ thánh quả. Đại đức Ànanda, cung kính nói:- Bạch
đức Thế tôn, thật kỳ diệu thay (...) con tin tưởng trong chúng Tỳ Kheo
này, không còn phân vân gì nữa.- Đức Phật hài lòng nói lời tối hậu: “- Này
các Tỳ Khưu, nay Như Lai khuyên bảo các ông: Các pháp hữu vi là vô
thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật.” -Đó là lời nói cuối cùng
của đức Thế tôn.
Từ đó trở về sau, ngài không còn nói câu gì
nữa, lấy Niết bàn làm đề mục, nhập định từ Sơ thiền đến Diệt thọ tưởng
định. Không gian im lắng, đại đức Ànanda, không chịu nổi hỏi đại đức
Anuruddha (A Nậu Đàla) : “Thưa tôn giả, Thế tôn đã diệt độ?- Này hiền giả
Thế tôn chưa diệt độ, ngài mới nhập Diệt thọ tưởng định!”- Từ Diệt thọ
tưởng định trở lại Sơ thiền, từ Sơ thiền trở lên Tứ thiền, xuất khỏi Tứ
thiền - Xuất khỏi Tứ thiền, tức thì ngài viên tịch. Đại địa chấn động,
người người sửng sốt, sấm trời vang động!
Toàn dân thành câu Thi Na, long trọng thiết lễ cúng dường đức Phật suốt 6
ngày. Đến ngày thứ bảy, 8 vị tộc trưởng Malla, theo lời tôn giả Ànanda,
pháp táng kim thân đức thế tôn như pháp táng một vị Chuyển luân Thánh
Vương. Tám vị này gội đầu tắm rửa sạch sẽ, mặc y phục mới tinh tươm, định
khiên kim thân đức Thế tôn ra ngoài thành phía nam, nhưng phải theo ý Chư
Thiên là đi về phía Bắc, đi qua trung tâm thành câu Thi Na, rồi sẽ về
hướng Đông đến đền Makutabandhana và sẽ làm lễ trà tỳ hoả táng tại đây.
Sau khi hoàn tất nghi lễ, bốn vị tộc trưởng Mallà định châm lửa thiêu
giàn hoả, nhưng lửa không phát cháy. Vì Chư thiên muốn chờ Đại đức
Mahakassapa ( Ma Ha Ca Diếp) cùng với 500 vị Tỳ Khưu đến đảnh lễ Thế tôn
xong, lửa trà tỳ tự phát cháy, tất thảy đều cháy sạch, chỉ còn lại duy
nhất là xá lợi.
Kim thân đức Thế tôn vừa thiêu xong, thì có một dòng nước từ trên cao chảy
xuống và một dòng nước từ dưới đất phun lên tưới tắt giàn hoả. Người dân
Mallà dùng nước hoa thơm tưới vào giàn hoả xong rồi thu lượm xá lợi đức
thế tôn đặt nơi tôn nghiêm nhất của giảng đường. Dùng cây thương làm hàng
rào, dùng cây cung làm bức thành xung quanh, trong 7 ngày tôn trọng, cung
kính đảnh lễ, cúng dường với các điệu múa, Càpàla, nhạc, vòng hoa, hương.
Bảy vương quốc ở các vùng lân cận, hay tin đức Phật viên tịch cử sứ giả và
quân đội đến tỏ ý mong muốn có được ngọc xá lợi của Phật để tôn thờ. Trong
đó bao gồm vương quốc hùng mạnh nhất là xứ Magdana (Ma Kiệt Đà) của vua A
Xà Thế, và Tiểu vương quốc Câu Thi Na, họ đều nói một câu duy nhất: “Đức
Thế tôn là một người Sát đế lỵ (Dòng hiệp sĩ thống trị) chúng tôi cũng là
người Sát đế lỵ xứng đáng được một phần xá lợi của đức Thế tôn, để dựng
tháp và tổ chức nghi lễ thờ kính, chiêm ngưỡng”
Khi được nghe nói như vậy, người Malla, ở Câu Thi Na, tuyên bố giữa đại
chúng: “ Đức Thế tôn đã diệt độ tại vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ không
cho ai một phần Xá lợi nào của đức Thế tôn.
Giữa lúc các nhà quí tộc hiệp sĩ, tay nắm cán thương, tay cầm đốc kiếm
tranh đấu gay go thì Bà la môn Dona xuất hiện nói với mọi người:
“Các tôn giả, hãy nghe lời nói của tôi,
Đức Phật chúng ta dạy chúng ta kham nhẫn.
Thật không tốt đẹp nếu có sự tranh giành,
Khi phân chia xá lợi của bậc Thượng nhân.
Chúng ta hãy cùng nhau đoàn kết nhất tâm.
Hoan hỉ chia xá lợi làm tám phần.
Chúng ta hãy dựng tháp khắp mọi phương,
Để đại chúng mười phương tin tưởng đấng pháp nhãn.”
Không khí trở nên lắng dịu, mọi người tỏ ra hiểu biết, đồng thanh nói:
- Này tôn giả Bà la môn, ngài hãy phân chia Xá lợi làm tám phần đồng đều.-
Bà la môn Dona hoan hỉ đáp:- “Thưa vâng các tôn giả”. Sau khi Sứ giả các
nước cung kính nhận Xá lợi Phật xong. Bà la môn Dona thưa với chúng hội:
- Các tôn giả, hãy cho tôi cái bình (đựng
xá lợi nầy). Tôi sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi lễ trang trí cái bình kỷ
niệm.- Hội chúng hân hoan dâng cho Bà la môn Dona cái bình từng đựng Xá
lợi Phật ấy!
Người Moriyà ở Pipphalivana, nghe tin đức thế tôn diệt độ ở Kusinàrà,
liền gởi một Sứ giả đến người Malla xin Xá lợi. Nhưng đã trễ và nghe nói:
- Nay không còn phần xá lợi nào của đức thế tôn, vì xá lợi của đức thế tôn
đã được phân chia, các tôn giả hãy lấy tro còn lại - Rồi các vị này lấy
than tro còn lại.
Như vậy có mười nơi xây tháp thờ xá lợi, bình đựng tro hoả táng nhục thân
Phật như sau:
1. Vua nước Magadha (Ma Kiệt Đà) là Ajàtasathu, con bà Videhi, xây dựng
tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại Vương xá thành và tổ chức lễ cúng dường.
2. Những người Licchavi ở Vesàli, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn
tại Vesàli, tổ chức lễ cúng dường.
3. Những người Sakya ở Kapilavatthu, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn
tại Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường.
4. Những người Buli ở Kallkappa, xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại
Kallkappa, tổ chức lễ cúng dường.
5. Những người Koli ở Ràmagàma, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn
tại Ràmagàma, tổ chức lễ cúng dường.
6. Bà La Môn Vethadìpaka, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại
Vethadìpaka, tổ chức lễ cúng dường.
7. Những người Mallà ở Pàvà, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn tại
Pàvà, tổ chức lễ cúng dường.
8. Những người Mallà ở Kusinàrà, cũng xây dựng tháp thờ xá lợi đức thế tôn
tại Kusinàrà, tổ chức lễ cúng dường.
9. Bà La Môn Dona, cũng xây dựng tháp thờ bình đựng Xá lợi, tổ chức lễ
cúng dường.
10. Những người Moriya ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp thờ những than
tro xá lợi của Phật, tổ chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp xá lợi, tháp thứ chín thờ bình đựng xá lợi và tháp thứ
mười thờ tro xá lợi Phật.
Hành trình cuối cùng của đức Phật từ núi Linh Thứu, Vương xá thành đến
rừng Ta la song thọ, địa phận thành Câu Thi Na, chậm và dài với nhiều ý
nghĩa giáo hoá độ sanh đã dừng lại... Với bao thương tiếc của đệ tử đương
thời còn gây xúc động bồi hồi mãi đến hôm nay. PL 2547 năm trôi qua, mỗi
năm đệ tử Phật ôn lại một lần, hành trình cuối cùng của một đạo sư gương
mẫu khả kính.
Thời gian lâu xa như vậy, có thể nói nước chảy đá mòn, nhưng sự nghiệp độ
thế của đức thế tôn, tức tinh thần tu tập, chứng đạo, truyền bá Phật pháp
chưa phai nhạt trong tâm môn đồ pháp quyến nhiều thế hệ. Bởi vì đạo Phật
là đạo trí tuệ hoá giải khổ đau sinh tử, nơi nào có sinh tử thì nơi đó cần
có Phật giáo tiếp hiện độ sinh.
Nếu thế, tại sao đức Phật có sinh tử?- Thân thị hiện của đức Phật là thân
người, dù quí báu mạnh khoẻ, thì thân ấy phải có sinh tử. Còn tâm người đã
tu chứng Niết bàn, dù đang ở trong sinh tử từng phút giây đều có hoạt lực
hoá giải khổ đau. Những điều ấy thể hiện rõ nét từng chi tiết tự tại của
ngài khi đại sự sinh tử đến!
Để đạt đến hiệu quả an ổn sáng suốt như đức Phật, chúng ta phải làm sao? -
Xin nhắc lại lời cuối cùng của đức Phật: - “ Này chư Tỳ Khưu, nay Như Lai
khuyên bảo các ông: Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn chớ có
phóng dật!”
- Trong Tương ưng Bộ Kinh có nói: “Nơi mà bốn nguyên tố cấu thành vật
chất có đặc tánh dính liền, duỗi ra, đốt cháy và di động, không còn chỗ
đứng, thì ở nơi ấy có Niết bàn.”- Tức Niết bàn ở trong tâm vị nào thường
phát khởi siêu trí vô nhiễm, vô sanh, bát nhã ba la mật! Như vậy, ngoài
tâm thanh tịnh không có Niết bàn. Nếu ngoài tâm có Niết bàn là Niết bàn
của người khác, không phải của chính ta. Theo Hoà Thượng Thích Minh Châu-
Từ Điển Phật học Việt Nam. Trang 486, có 2 loại Niết Bàn:
1. “Niết bàn có dư y là Niết bàn trong ấy tham sân si được đoạn tận, nhưng
còn thân do quả báo đời trước, nên thân ấy còn phải già, bệnh, chết. Như
Đức Phật, khi ngài giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề là ngài chứng được Niết bàn
có dư y.
2. Niết bàn không dư y, là Niết bàn không còn báo thân nữa, nên thân không
bị già, bệnh, chết chi phối. Như Lai đức Phật nhập diệt ở Kusinara, khi ấy
đức Phật chứng Niết bàn không có dư y. Thường thường danh từ này được dùng
là đức Phật nhập Niết bàn hay nhập Bát Niết bàn để chỉ đức Phật khi mệnh
chung.”
Điều này sẽ làm người sơ cơ hiểu lầm:- Niết bàn là cõi chết thê lương! Có
thể nói Niết bàn có dư y là Niết bàn còn sanh y, Niết bàn không có dư y là
Niết bàn không có sanh y thiền giả tự tại giữ thân hay bỏ tuỳ thích. Người
đắc Niết bàn (Hữu dư hay Vô dư) sinh tử chỉ là bóng mây hiện tượng trong
bầu trời tâm chân như bao la.
Để kết thúc bài viết nầy, chúng tôi xin dẫn lời Tỳ Khưu Mang Đồng Tử hỏi
Phật, trong bộ Trung A Hàm, Kinh Tiển dụ, số 221, như sau:
- Bạch Thế tôn! Thế giới này thường hay vô thường. Hữu biên hay vô biên.
Tự ngã với thân khác hay là một. Như Lai sau khi diệt độ còn hay mất. Hay
cũng còn cũng mất. Hoặc chẳng phải còn chẳng phải mất?
Đức Phật đáp khẳng định quan điểm truyền giáo:
- Dù thế giới này là thường hay vô thường.
Hữu biên hay vô biên. Tự ngã với thân khác hay là một. Như Lai còn mất sau
khi nhập diệt còn hay mất thì thực tế chúng sanh vẫn đang bị luân hồi sinh
tử khổ. Và vấn đề cấp thiết nhất hiện tại là giải quyết sự luân hồi sanh
tử khổ trước (...) Đó là tu tập Tứ Diệu đế, là căn bản phạm hạnh, có thể
đưa đến trí tuệ, giải thoát và chứng nhập Niết bàn.
Lược trích Kinh Đại
Viên Tịch Niết Bàn.
Tham khảo đối chiếu Kinh sách:
- Cuộc đời Ánh đạo của đức Phật. Cư sĩ Khánh Vân. -NXB.TPHCM. 1994
- Đức Phật và Phật Pháp. Naràda Thera-NXB.TPHCM. 1998
- Đại
cương Kinh Trung A Hàm.TT.Thích Thiện Nhơn -Lưu hành nội bộ1993
- Giáo Trình Trường Bộ Kinh.TT.Thích Thiện
Tâm-Cơ bản Phật Học TPHCM 1994.
- Những Ngày
và những lời dạy
cuối cùng của đức Phật HT. Thích Minh Châu -NXB. Tôn giáo 2003
- Nghi
Lễ và Tự Viện Tỳ Khưu Thiện Minh -NXB. TPHCM 2002
- Phật và
Thánh Chúng Thích Minh Tuệ -THPG. TP HCM. PL.2538-1991
- Từ Điển Phật Học Việt Nam Thích Minh Châu-Minh Chi -NXB.Khoa
học Xã Hội Hà Nội - 1991
Chú Thích:
* Bảy Pháp bất thối của một quốc gia:
1.
Dân Vajjì thường tụ họp đông đảo với nhau.
2.
Dân Vajjì thường tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm
đoàn kết.
3.
Dân Vajjì không dám ban hành những luật lệ chưa được ban hành,
không huỷ bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống và
cổ lệ đã được ban hành.
4.
Dân Vajjì biết tôn kính, đãnh lễ, cúng dường và nghe lời dạy của
các bậc trưỡng lão trong bổn quốc.
5.
Dân Vajjì không bắt bớ và cưỡng ép những người nữ phải sống với
mình.
6.
Dân Vajjì biết tôn kính, đãnh lễ, cúng dường các tự miếu nội ngoại
thành và không xao lãng những nghi lễ cổ truyền.
7.
Dân Vajjì bảo hộ, che chở và ủng hộ nhiệt thành các vị thánh A La
Hán ở tại bổn xứ, khiến cho các vị A La Hán chưa đến sẽ đến được sống an
lạc.
---o0o---
[Mục Lục ][
01][
02][
03][
04][
05][
06][
07][
08][
09][10]
[11][12][13][14][15][16][17][18][19]
---o0o---
Source: www.chuyenphapluan.com
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-2-2005